Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tác động xấu của con người đến các hệ sinh thái ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.89 KB, 14 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Chúng ta đang sống trong một hệ sinh thái rộng lớn, ở đây tồn tại những mối quan
hệ giữa chúng ta với chung ta và giữa chúng ta với môi trường góp phần tạo nên
những chu trình sinh địa hóa và làm biến đổi
năng lượng quanh ta và trong ta.
Đó chính là hệ sinh thái con người, giới sinh vật.ở mọi mức độ thành phàn sinh vật
đều tồn tại trong một môi trường, và điều đó làm nên hệ sinh thái của sinh vật.
Có những hệ sinh thái vô cùng ,cực kỳ nghèo nàn về số lượng cá thể cũng
như thành phần đa dạng loài,nhưng cũng có những hệ sinh thái lại vô cùng ,cực kỳ
đa dạng, phong phú từ thực vật bậc thấp đến thực vật bậc cao,từ các loài động vật
nhỏ bé đến những loài có giá trị vô cùng lớn .rồi những vi sinh vật ,nấm mốc…
va à như chúng ta cũng đã biết hệ sinh thái chung quanh chúng ta đã ra đời và tồn
tại cách đây hàng trăm năm nhưng cùng với sự trưởng thành và phát triển của nó
là vấn đề dân số đã và đang là một vấn đề cần sự quan tâm đúng mức để có những
cái nhìn thận trọng đối với môi trường và con người.
Tiểu luận với đề tài: “Những tác động xấu của con người đến các hệ sinh thái ở
Việt Nam”


PHẦN NỘI DUNG
Bài tiểu luận gồm có 4 vấn đề:
Thế nào là tác động xấu?
Các hệ sinh thái ở Việt Nam
Liên hệ các tác động đến đời sống, sản xuất, chất thải.
Biện pháp giảm thiểu hoặc xử lý
Hệ sinh thái là tổ hợp của quần xã sinh vật với môi trường vật lý mà
quần xã đó tồn tại, trong đó các sinh vật tương tác với nhau và với môi
trường để tạo nên chu trình vật chất và sự chuyển hóa năng lượng. Hệ sinh
thái có thể là một cánh rừng rộng lớn hay nhỏ như bể cá cảnh trong nhà™



Thế nào là tác động xấu?

- Gây ô nhiễm môi trường
- Gây suy giảm đa dạng sinh học
- Suy giảm chất lượng sống của chính mình….
Tóm lại, những tác động của con người làm suy thoái và gây ảnh hưởng tiêu
cực đến hệ sinh thái là tác động xấu.


Các hệ sinh thái ở Việt Nam

+Tác động cả con người đến hệ sinh thái trên cạn ,động vật , thực vật
Con người sử dụng năng lượng hoá thạch, tạo thêm một lượng lớn khí CO2,
SO2 v.v.... Mỗi năm con người tạo thêm 550 tỷ tấn CO2 do đốt các loại nhiên liệu
hoá thạch đang làm thay đổi cân bằng sinh thái tự nhiên của trái đất, dẫn tới việc
thay đổi chất lượng và quan hệ của các thành phần môi trường tự nhiên. Ðồng thời,
các hoạt động của con người trên trái đất ngăn cản chu trình tuần hoàn nước, ví dụ
đắp đập, xây nhà máy thuỷ điện, phá rừng đầu nguồn v.v... Việc này có thể gây ra


úng ngập hoặc khô hạn nhiều khu vực, thay đổi điều kiện sống bình thường của các
sinh vật nước v.v...
Tác động vào các điều kiện môi trường của hệ sinh thái
Con người tác động vào các điều kiện môi trường của hệ sinh thái tự nhiên
bằng cách thay đổi hoặc cải tạo chúng như:
Chuyển đất rừng thành đất nông nghiệp làm mất đi nhiều loại động, thực vật
quý hiếm, tăng xói mòn đất, thay đổi khả năng điều hoà nước và biến đổi khí
hậu v.v...
Cải tạo đầm lầy thành đất canh tác làm mất đi các vùng đất ngập nước có
tầm quan trọng đối với môi trường sống của nhiều loài sinh vật và con

người.
Chuyển đất rừng, đất nông nghiệp thành các khu công nghiệp, khu đô thị,
tạo nên sự mất cân bằng sinh thái khu vực và ô nhiễm cục bộ.
Gây ô nhiễm môi trường ở nhiều dạng hoạt động kinh tế xã hội khác nhau.
Con người tác động vào cân bằng sinh thái thông qua việc:
Săn bắn quá mức, đánh bắt quá mức gây ra sự suy giảm một số loài và làm gia
tăng mất cân bằng sinh thái.
Săn bắt các loài động vật quý hiếm như hổ, tê giác, voi... có thể dẫn đến sự
tuyệt chủng nhiều loại động vật quý hiếm.
Chặt phá rừng tự nhiên lấy gỗ, làm mất nơi cư trú của động thực vật.
Lai tạo các loài sinh vật mới làm thay đổi cân bằng sinh thái tự nhiên. Các loài
lai tạo thường kém tính chống bụi, dễ bị suy thoái. Mặt khác, các loài lai tạo có
thể tạo ra nhu cầu thức ăn hoặc tác động khác có hại đến các loài đã có hoặc đối
với con người.
Ðưa vào các hệ sinh thái tự nhiên các hợp chất nhân tạo mà sinh vật không có
khả năng phân huỷ như các loại chất tổng hợp, dầu mỡ, thuốc trừ sâu, kim loại
độc hại v.v...
Trong 50 năm qua tổn hại mà con người g yâ ra cho sự đa dạng sinh học của
thế giới lớn hơn nhiều so với mọi thời kỳ khác trong lịch sử. ™Trong thế kỷ 20, do


hoạt động của con người mà tốc độ tuyệt chủng của các loài lớn gấp 1.000 lần so
với tỷ lệ tuyệt chủng tự nhiên. Báo cáo khoa học cho biết 12% loài chim, gần 25%
động vật có vú và khoảng 30% động vật đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng.
Bị săn bắn một cách bừa bãi
Ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Hòn Bà( Khánh Hòa) bắt quả tang đang
vận chuyển xác 5 con voọc chà vá chân đen (đã mổ bụng, moi bỏ phủ tạng) cùng 2
khẩu súng.
™ Ở Việt Nam diện tích rừng vào năm 1943 có khoảng 1 ,3 tri ệu ha chi ếm
43,8% di ệ n tích đất , ™Hiện nay, chỉ còn có 8,7 tri ệu ha chi ếm 28,3%, chất

lượng của các khu rừng bị hạ th ấp quá mức.
Việt Nam là nơi có ĐDSH cao trên thế giới, nhưng ĐDSH ở nước ta đang
giảm sút với tốc độ khá nhanh. Chính vì diện tích rừng ngày càng giảm sút nên
hằng năm số lượng các loài trong sách đỏ Việt Nam không ngừng gia tăng. Số
lượng các loài sinh vật giảm 9,5 lần so với những năm 70. Sách đỏ Việt Nam
1992-1996 có khoảng 365 loài động vật, và 356 loài thực vật, còn đến năm 2003
thì có 417 loài động vật, 450 loài thực vật.
Nguyên nhân đến chính dẫn đến một loạt sự suy thoái môi trường sinh thái,
trước hết phải kể sự phát triển của công nghiệp ồ ạt, đặc biệt là các ngành công
nghiệp gây ô nhiễm. Nguyên nhân thứ hai là tệ nạn phá rừng ngày càng nghiêm
trọng trên phạm vi toàn cầu.
Một nguyên nhân n ữ a là do s ự m t cân bằng tài nguyên và dân số. Dẫn tới
phá vỡ cân bằng, vắt kiệt tài nguyên và ô nhi ễm môi trường. ™Tình trạng chạy
đua vũ trang .Sự gia tăng dân số trang, sản x ất các loại vũ khí hạt nhân, v ũ khí
hoá Sự gia tăng dân số học cũng là nguyên nhân vừa gây ô nhiễm môi trường, vừa
tạo khả năng huỷ diệt thiên nhiên thông qua chiến tranh xung đột.
™

Thực trạng đa dạng sinh học hiện nay:
• Hiện nay mỗi ngày thế giới mất đi 150 loài trong tổng s ố 1,7 triệu loài động thực
vật. số lượng các loài động vật, cá và chim sống trong tự nhiên giảm trung bình
gần 1 / 3 (27 % ).


• WWF nhận thấy số cá thể động vật sống trên cạn giảm 25%, sinh vật biển giảm
28 %, sinh vật nước ngọt giảm 29%.
Hiện nay, trên th ế giới, mỗi năm có khoảng 50.000 - 100.000 loài động vật
biến mất. Theo các nhà khoa học, nguyên nhân chính dẫn tới sự biến động đó là do
các hoạt động của con người như Chồn sương chân đen động của con người, như
chặt phá rừng, săn bắ n động vật, lấn chiếm đất đai làm thu hẹp không gian sống

của động vật.
Cân bằng sinh thái là trạng thái ổn định tự nhiên của hệ sinh thái, hướng tới sự
thí hc nghi cao nhất với điều kiện sống.
Trong hình ảnh này, sự tiệt chủng của loài sói lại là điều kiện để loài sói đồng
cỏ phát triển sinh sôi, cũng như thế loài mèo hoang biến mất lại làm cho các loài
gậm nhấm phát triển, gây ra một sự rối loạn trong hệ sinh thái trên toàn thế giới.
Theo danh sách đỏ của IUCN 2004, Việt Nam có 289 loài động vật và thực vật
bị đe dọa toàn c ầu. ™Sách đỏ Việt Nam (2004) cũng đã liệt kê 1.056 động vật và
thực vật bị đe dọa ở mức quốc gia. ™So sánh với số liệu thống kê của lần biên soạn
sách đỏ Việt Nam lần đầu tiên (Phần Động vật 1992, ph ần thực vật 1996), vào thời
điểm hiện tại số lượng loài được các nhà khoa học đề xuất đưa vào sách cần được
bảo vệ của Việt Nam tăng lên đáng kể: 1065 loài so với 721 loài như trướ c đây
Nguyên nhân suy thoái đa dạng sinh học
1.Sự mở rộng đất nông nghiệp đa dạng sinh học
2.Khai thác gỗ, củi
3 .Khai thác các sản phẩm ngoài gỗ
4.Cháy rừng
5.Xây dựng cơ bản
6.Chiến tranh
7.Buôn bán các loài động thực vật quý hiếm
8.Ô nhiễm môi trường


9. Ô nhiễm sinh học
Mở rộng đất canh tác nông nghiệp bằng cách lấn vào đất rừng, đất ngập nước
là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất làm suy thoái đa dạng sinh học
Hàn g năm một lượng củi khoảng 21 triệu tấn được khai thác từ rừng để phục
vụ cho nhu cầu sinh hoạt trong gia đình.
Trung bình hàng năm khoảng từ 25.000 đến 100.000 ha rừng bị cháy dẫn tới có
nhiều loại động, thực vật bị thiêu trụi hoặc mất nơi sinh sống.

Việc xây dựng cơ bản như giao thông, thủy lợi, khu công nghiệp, thủy
điện,...cũng là một nguyên nhân trực tiếp làm mất đa dạng sinh học. Các hồ chứa
nước được xây dựng hàng năm ở Việt Nam đã làm mất đi khoảng 30.000 ha rừng.
Trong giai đoạn từ 1961 đến 1975, 13 triệu tấn bom và 72 triệu lít chất độc hoá
học rãi xuống chủ yếu ở phía Nam đã hủy diệt khoảng 4,5 triệu ha rừng
Tình trạng khai thác, buôn bán trái phép các loại gỗ quý hiếm, các loài động
vật hoang dã, vị phạm Pháp lệnh rừng trong thời gian qua xảy ra ở mức độ khá
nghiêm Vọoc bị bắt mang bán trọng
Một số hệ sinh thái thuỷ vực, đất ngập nước bị ô nhiễm bởi các chất thải
công nghiệp, chất thải từ khai khoáng, phân bón trong nông nghiệp, thậm chí chất
thải đô thị, trong đó đáng lưu ý là tình trạng ô nhiễm dầu đang diễn ra tại các vùng
nước cửa sông ven biển.
Sự xâm nhập các loài ể ự ngoại lai không kiểm soát được, có thể gây ảnh
hưởng trự c tiếp qua sự cạnh tranh, sự ăn mồi hoặ c gián tiếp qua ký sinh trùng, xói
mòn nguồn gen bản địa và thay đổi nơi sinh sống của các loài bản địa
+Tác động của con người đến hệ sinh thái dưới nước
thiếu bền vững, làm suy giảm nguồn tài nguyên quan trọng này, đặc biệt là việc
quy hoạch Ô nhiễm biển
Một trong những nguyên nhân gây suy thoái các hệ sinh thái biển như hệ sinh
thái san hô, làm suy giảm các loài sinh vật biển và suy giảm đa dạng sinh thái san
hô, làm suy giảm các loài sinh vật biển và suy giảm đa dạng sinh học. làm suy
giảm các loài sinh vật biển và suy giảm đa dạng sinh học biển là hiện tượng ô


nhiễm môi trường biển. Các nguyên nhân gây ra ô nhiễm biển cơ bản đều xuất phát
từ các hoạt động của con người như các hoạt động trên biển, khai thác và thăm dò
tài nguyên trên thềm lục địa và đáy đại động trên biển, khai thác và thăm dò tài
nguyên trên thềm lục địa và đáy đại Các nguồn gây ô nhiễm trên đây đang ngày
càng gia tăng và đe doạ chất lượng môi trường biển.
Các nguồn gây ô nhiễm từ lục địa theo sông ngòi mang ra biển nước thải,

thuốc bảo vệ thực vật, phân bón hoá học, chất phóng xạ,...Theo tính toán vào cuối
những năm 60 của thế kỷ 20 lượng chất thải rắn đổ ra biển hàng năm ước chừng
khoảng 50 triệu tấn gồm đất, cát, rác , phế thải và chất phóng xạ,...một số chất thải
lắng tu lại ven biển còn một số còn lại lan truyền ra khắp các đại dương.
Theo ước tính của các nhà khoa học thì gần 2/3 lượng DDT (khoảng 1 triệu
tấn) do con người đã sản xuất hiện vẫn còn tồn tại trong nước biển, chúng sẽ bị tích
luỹ dần trong cơ thể các sinh vật biển.Biển cũng là nơi tiếp nhận một lượng một
lượng chất thải lớn từ hoạt động công nghiệp. Một lượng lớn chất thải phóng xạ bị
một số quốc gia đổ ra biển. Riêng Mỹ năm 1961 có 4087 thùng và năm 1962 có
6120 thùng phóng xạ được đổ xuống biển. Một lượng lớn vũ khí bom mìn thuốc nổ
được tiêu hủy bằng cách nhấn chìm trong biển.
Hiện tượng thủy triều đỏ do ô nhiễm sinh học thường xuất hiện từ đầu tháng 6
đến trung tuần tháng 7 âm lịch hàng năm ở vùng biển Nam Trung Bộ, tạo nên
những khối nhầy màu xám, bao quanh một số loài vi tảo biển, làm cho nước biển
đặc quánh, có nơi như cháo. Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận là 3 địa phương
bị nạn thuỷ triều đỏ tàn phá nặng nề nhất.
- Hiện tượng tràn dầu
Đại dương là kho tài nguyên thiên nhiên vĩ đại. Các hoạt động thăm dò khai
thác tài nguyên thiên nhiên cũng để lại hậu quả ô nhiễm biển, đặc biệt là thăm dò
và khai thác dầu khí. Hiện tượng rò rỉ dầu từ các dàn khoan và hiện tượng tràn dầu
trên biển là những sự cố môi trường nghiêm trọng đe dọa một phạm vi không gian
rộng lớn, làm suy thoái nghiêm trọng các hệ sinh thái dưới nước. Khi một lượng
dầu lớn lam tỏa trên mặt nước nó sẽ làm giảm khả năng trao đổi các chất khí hòa
tan trong nước, giảm khả năng quang hợp và hàm
lượng õi hòa tan trong nước sẽ thấp có tác dụng tiêu cực với các loài động thực


- Hoạt động khai thác và đánh bắt quá mức hải sản
Nước ta có bờ biển trải dài suốt từ Bắc vào Nam, diện tích biển của nước ta là
rất lớn so với diện tích đất liền nên rất thuận lơi cho việc đánh bắt hải sản và phát

triển kinh tế biển. Tuy nhiên việc khai thác các nguồn lợi từ biển nếu không được
quy hoạch thì sẽ dẫn đến làm suy giảm nguồn tài nguyên quan trọng này. Những
năm gần đây chúng ta chúng ta đã phát triển nghề cá và nuôi trồng thuỷ sản một
cách ồ ạt dẫn đến việc khai thác một cách uôi tô cũng đang là một vấn đề cần được
quan tâm đúng mức vì bên cạnh đó có rất nhiều các vấn đề môi trường xảy ra.
Theo các nhà khoa học nguồn lợi thuỷ sản phá Tam Giang đang bị suy giảm một
cách nghiêm trọng. Đó là việc gia tăng khai thác một cách ồ ạt mà biểu hiện bằng
việc gia tăng các loại và số lượng ngư cụ trong khai thác từng loại, kích cỡ mắt
lưới ngày càng dày đặc, gia tăng thuyền bè, lao động khai thác thuỷ sản đầm phá.
Mặt khác do việc sử dụng các dụng cụ có tính chất huỷ diệt như xung điện, mìn đã
làm suy giảm nghiêm trọng. Qua một số dữ liệu phân tích thấy trữ lượng nguồn lợi
thuỷ sản Phá Tam Giang ngày càng giảm và trữ lượng khai thác ngày càng tăng.
Điều đó càng khẳng định nếu không có.


Liên hệ các tác động đến đời sống, sản xuất, chất thải.

Con người tác động vào các điều kiện môi trường của hệ sinh thái tự nhiên
bằng cách thay đổi hoặc cải tạo chúng như:
- Chuyển đất rừng thành đất nông nghiệp làm mất đi nhiều loại động, thực
vật quý hiếm, tăng xói mòn đất, thay đổi khả năng điều hoà nước và biến đổi khí
hậu v.v...
- Cải tạo đầm lầy thành đất canh tác làm mất đi các vùng đất ngập nước có
tầm quan trọng đối với môi trường sống của nhiều loài sinh vật và con người.
- Chuyển đất rừng, đất nông nghiệp thành các khu công nghiệp, khu đô thị,
tạo nên sự mất cân bằng sinh thái khu vực và ô nhiễm cục bộ.
- Gây ô nhiễm môi trường ở nhiều dạng hoạt động kinh tế xã hội khác nhau.
Con người tác động vào cân bằng sinh thái thông qua việc:
- Săn bắn quá mức, đánh bắt quá mức gây ra sự suy giảm một số loài và làm
gia tăng mất cân bằng sinh thái.



- Săn bắt các loài động vật quý hiếm như hổ, tê giác, voi... có thể dẫn đến sự
tuyệt chủng nhiều loại động vật quý hiếm.
- Chặt phá rừng tự nhiên lấy gỗ, làm mất nơi cư trú của động thực vật.
- Lai tạo các loài sinh vật mới làm thay đổi cân bằng sinh thái tự nhiên. Các
loài lai tạo thường kém tính chống bụi, dễ bị suy thoái. Mặt khác, các loài lai tạo có
thể tạo ra nhu cầu thức ăn hoặc tác động khác có hại đến các loài đã có hoặc đối
với con người.
- Ðưa vào các hệ sinh thái tự nhiên các hợp chất nhân tạo mà sinh vật không
có khả năng phân huỷ như các loại chất tổng hợp, dầu mỡ, thuốc trừ sâu, kim loại
độc hại v.v...
Biện pháp giảm thiểu hoặc xử lý
Cũng như nhiều nước đang phát triển khác trên thế giới, Việt Nam đang đứng
trước nhiều vấn đề cấp bách về môi trường. Tài nguyên thiên nhiên mà trước hết là
tài nguyên đất, nước, khoáng sản đang được huy động mạnh cho sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội. Tài nguyên rừng, tài nguyên sinh học bị suy giảm nhanh
chóng. Đất, nước, không khí ở nhiều đô thị, khu công nghiệp bị ô nhiễm mạnh.
Hậu quả của cuộc chiến tranh trên con người và thiên nhiên còn rất nặng nề. Chúng
ta đang đứng trước những thử thách rất lớn về phát triển kinh tế mà tính cấp bách
cũng không kém những thách thức về môi trường.
Trong thời gian tới, tốc độ của quá trình phát triển kinh tế càng cao, quá trình
đô thị hoá và công nghiệp hoá đất nước diễn ra ở cường độ và phạm vi ngày càng
lớn thì nhu cầu khai thác và sử dụng tài nguyên sẽ ngày càng gia tăng. Quá trình
mở cửa hợp tác và hội nhập với nền kinh tế thế giới cũng là những thách thức lớn
cho công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam.
Vấn đề đặt ra là chúng ta phải làm gì để bảo đảm sự phát triển bền vững của
đất nước, bảo đảm sự phát triển đồng thời kinh tế, xã hội và cải thiện các điều kiện
môi trường. Mục đích của phát triển bền vững ở nước ta đã được xác định bao
gồm:

- Thoả mãn nhu cầu về đời sống vật chất, tinh thần, văn hoá của người dân
Việt Nam không chỉ cho thế hệ này mà còn cho cả các thế hệ mai sau bằng việc
quản lí và sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên cũng như tài nguyên con người
của đất nước.
- Xác định và hình thành các chính sách, kế hoạch hành động, xây dựng các
thể chế nhằm bảo đảm việc duy trì bền lâu nguồn tài nguyên thiên nhiên gắn với
mọi mặt của quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.



Những mục tiêu cụ thể của chiến lược phát triển bền vững ở nước ta là:
+ Duy trì các quá trình sinh thái quan trọng, các hệ sinh thái làm cơ sở cho
cuộc sống và hoạt động sản xuất của con người; bảo đảm tính đa dạng sinh học, kể
cả các loài cây trồng, vật nuôi vì lợi ích trước mắt cũng như lâu dài.
+ Đảm bảo việc sử dụng lâu bền tài nguyên thiên nhiên bằng việc quản lí cả về
quy mô, cường độ và phương thức sử dụng.
+ Bảo đảm chất lượng môi trường cần thiết cho cuộc sống tốt đẹp của con
người.
+ Thực hiện kế hoạch hoá tăng trưởng và phân bố dân số cho cân bằng với một
năng suất sản xuất bền lâu cần thiết cho cuộc sống với chất lượng tốt cho con
người.
Phát triển bền vững phụ thuộc vào sự tiếp nhận kiến thức, kĩ năng khoa học công nghệ của thời đại cũng như truyền thống lâu đời trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường.
Quán triệt quan điểm phát triển bền vững và tuân theo các nguyên tắc của Rio,
Chính phủ Việt Nam đã đề ra các chủ trương, chính sách và phương châm hành
động nhằm thực hiện chương trình hành động 21, trong đó hoạt động cụ thể nhất là
đã xây dựng với 10 mục tiêu cơ bản sau:
1. Bảo vệ hệ sinh thái rừng
Chính sách của quốc gia nhằm quản lí tốt và bảo vệ diện tích rừng nguyên sinh
hiện có, phục hồi và mở rộng diện tích các khu rừng phòng hộ như các rừng đầu

nguồn, các khu rừng đặc dụng; giao đất giao rừng cho các đơn vị ngoài quốc
doanh, cộng đồng để phủ xanh đất trống đồi núi trọc, phấn đấu đưa diện tích che
phủ lên 40% và cao hơn. Từ năm 1997, trên thực tế, Việt Nam đã thực hiện chính
sách "đóng cửa rừng tự nhiên" bảo vệ các quá trình sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh
học và các nguồn gen quí hiếm.
2. Tài nguyên đất
Chính phủ chú ý khuyến khích việc đa dạng hoá nông nghiệp, tăng năng suất
trong sản suất nông nghiệp thông qua việc thực hiện đúng đắn cơ chế thị trường và
các cải cách khác trong quản lí kinh tế, bằng việc chuyển giao và khuyến kích nông
dân áp dụng tiến bộ kĩ thuật trong sản suất và hạn chế tổn thất sau khi thu hoạch,
tăng cường việc chế biến để nâng cao giá trị nông sản.
Trong quy hoạch sử dụng đất để phát triển công nghiệp, phát triển đô thị và các
cơ sở hạ tầng, cần phải chú ý đến việc sử dụng tiết kiệm và hợp lí tài nguyên đất,
hạn chế việc mất đất nông nghiệp màu mỡ.
3. Hệ sinh thái nước ngọt


Các chính sách quản lí nước được xây dựng trong khuôn khổ quản lí tổng hợp
lưu vực, thực hiện đánh giá tác động môi trường của các dự án phát triển đối với
tài nguyên nước, cân nhắc tổng thể về sinh thái đối với các phương án sử dụng tài
nguyên nước, dựa trên quản lí tổng hợp lưu vực để giải quyết các mâu thuẫn hoặc
tranh chấp trong việc sử dụng giữa các ngành hoặc địa phương.
Chính sách quản lí tổng hợp lưu vực cũng có liên quan tới việc quản lí rừng và
đất rừng, việc kiểm soát xói mòn đất, qui hoạch sử dụng đất và quản lí ô nhiễm.
Xây dựng các tiêu chuẩn để hạn chế ô nhiễm nước, kiểm soát nước thải công
nghiệp, xây dựng các hệ thống xử lí nước thải, kiểm soát việc sử dụng hoá chất
trong nông nghiệp, xây dựng các tiêu chuẩn về chất lượng cho các yêu cầu khác
nhau, như cấp nước uống, công nghiệp, giải trí,... đang là mối quan tâm hàng đầu
của các nhà hoạch định chính sách và quản lí môi trường.
4. Hệ sinh thái biển và cửa sông

Chính phủ Việt Nam đã và đang có chủ trương giải quyết hàng loạt các vấn đề
liên quan đến hệ sinh thái biển và cửa sông:
- Các hoạt động trên biển đều phải tính tới các tác động tiêu cực đối với hệ
sinh thái biển và có biện pháp phòng ngừa theo quy định của Nhà nước.
- Tăng cường năng lực quốc gia trong việc kiểm soát chặt chẽ các hoạt động
này, kể cả việc kiểm soát ô nhiễm từ đất liền.
- Việc đánh bắt hải sản tại vùng biển nông ven bờ không được vượt quá
ngưỡng năng suất lâu bền và không được dùng các phương pháp và phương tiện có
tính huỷ diệt.
- Trong những năm tới, cần phát triển năng lực và khuyến khích việc đánh bắt
ngoài khơi.
- Khôi phục, bảo vệ và sử dụng hợp lí các rừng ngập mặn, đầm phá, ngăn ngừa
sự khai thác phá hoại các rạn san hô làm vật liệu xây dựng hoặc sản phẩm thương
mại.
- Ban hành và thực hiện kế hoạch quốc gia về ứng phó sự cố dầu tràn.
- Xây dựng kế hoạch bảo vệ các vùng ven biển về phương diện địa mạo và sinh
thái, có xét tới những hoạt động như khai thác vùng đất ngập nước ven biển, khai
thác cát, xây dựng các công tŕnh pḥng hộ,...
5. Bảo vệ nguồn tài nguyên sinh học
Chương trình quốc gia về đa dạng sinh học Việt Nam nhằm thực hiện những
mục tiêu lâu dài cơ bản của Chương trình Quốc gia bảo vệ tài nguyên sinh học
phong phú và độc đáo của Việt Nam và trước mắt là thực hiện một số mục tiêu:


- Bảo vệ các hệ sinh thái đặc hữu của quốc gia, các hệ sinh thái dễ bị tổn
thương hiện đang có nguy cơ suy giảm hoặc huỷ hoại do những hoạt động của con
người.
- Bảo vệ các thành phần của sự đa dạng sinh học hiện đang bị khai thác quá
mức.
- Xúc tiến và xác định giá trị sử dụng của tất cả các thành phần của sự đa dạng

sinh học trên cơ sở của việc phát triển lâu bền tài nguyên thiên nhiên nhằm phục vụ
các mục tiêu kinh tế của đất nước.
6. Kiểm soát ô nhiễm công nghiệp ở đô thị
Chính phủ Việt Nam cố gắng tạo đà phát triển cho công nghiệp hoá nhanh
bằng cách thiết kế và thực hiện chính sách quản lí ô nhiễm công nghiệp (IPP) như
là một bộ phận cấu thành của chiến lược phát triển bền vững, bao gồm những
chính sách sau:
- Tiếp tục xây dựng năng lực thể chế để củng cố hệ thống quan trắc, cưỡng chế
thu thập số liệu về môi trường.
- Tiếp tục thiết kế các công cụ kinh tế trong quản lí, bảo vệ môi trường phù
hợp với điều kiện Việt Nam.
- Ðịnh ra các yêu cầu về đánh giá tác động môi trường cho việc quy hoạch
vùng, đặc biệt cho các tam giác kinh tế trọng điểm.
- Thực hiện dự án thí điểm phòng chống ô nhiễm công nghiệp bao gồm việc
kiểm toán công tác giảm thiểu chất thải cho một số doanh nghiệp, đào tạo về tính
hiệu quả kinh tế và áp dụng các công nghệ sản xuất sạch hơn.
7. Dân số
Chính phủ Việt Nam xác định dân số là một trong những vấn đề kinh tế, xã hội
hàng đầu, là một bộ phận cấu thành quan trọng trong chiến lược phát triển đất
nước. Chính phủ Việt Nam cũng gắn vấn đề dân số với BVMT và tăng trưởng kinh
tế.
8. Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn
Chính phủ xác định rõ tầm quan trọng của vấn đề giải quyết nước sạch và vệ
sinh môi trường cho cộng đồng ở nông thôn. Chương trình nước sạch và vệ sinh
môi trường được Chính phủ, các ngành, các cấp trực tiếp chỉ đạo, được toàn dân
tích cực tham gia. Thủ tướng Chính phủ đã thành lập ban Chỉ đạo quốc gia về nước
sạch và vệ sinh môi trường nhằm điều hoà, phối hợp các hoạt động đa dạng trong
lĩnh vực này.
Sự kết hợp các nguồn vốn của dân, của Nhà nước và của nước ngoài, đặc biệt
là của tổ chức UNICEF đã tạo các nguồn vốn quan trọng đảm bảo cấp nước đạt

tiêu chuẩn cho các vùng nông thôn rộng lớn.


9. Tuyên truyền giáo dục cộng đồng
Với quan điểm nhiệm vụ bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn dân, Chính
phủ luôn coi trọng nhiệm vụ tuyên truyền giáo dục cộng đồng về môi trường, coi
đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên của đất nước. Kể từ khi ban
hành Luật bảo vệ môi trường, phong trào nhân dân tham gia bảo vệ môi trường đã
trở thành hoạt động phổ biến trên toàn quốc. Các tổ chức xã hội như thanh niên,
phụ nữ, các tổ chức phi chính phủ,… đã tổ chức hàng trăm lớp đào tạo, tập huấn,
các hội thảo, hội nghị; xây dựng hàng chục chương trình truyền hình về các vấn đề
bảo vệ môi trường, tổ chức thi vẽ tranh môi trường cho trẻ em, tổ chức các phong
trào vệ sinh môi trường, phong trào trồng cây, tuần lễ quốc gia về nước sạch và vệ
sinh môi trường; phong trào thành phố, nông thôn xanh, sạch, đẹp,... Các phong
trào này đang trở thành nhận thức và hoạt động thường xuyên của cộng đồng.
10. Hợp tác quốc tế
Vấn đề môi trường là vấn đề có tính liên ngành, liên vùng và liên quốc gia, các
vấn đề rừng đầu nguồn, sông và biển là mối quan tâm chung của các nước trong
khu vực. Sự nghiệp BVMT của Việt Nam không thể tách rời sự nghiệp BVMT của
khu vực và thế giới, những biện pháp bảo vệ và cải thiện môi trường ở Việt Nam
có liên quan đến môi trường toàn cầu. Chính vì vậy, Việt Nam luôn coi trọng việc
hợp tác với các nước láng giềng để bảo vệ và cải thiện môi trường


PHẦN KẾT THÚC
Qua bài tiểu luận “ Những tác động tiêu cực của con người đến hệ sinh thái
ở Việt Nam” Con người và môi trường có mối quan hệ sinh thái hệ chặt chẽ. Con
người sống trong môi trường hệ sinh thái nào thì chịu sự tác động qua lại của môi
trường hệ sinh thái đó. Trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên, con người lựa
chọn tạo dựng môi trường sống của mình từ môi trường tự nhiên, tận dụng khai

thác tài nguyên thiên nhiên, các yếu tố môi trường nhằm phục vụ cuộc sống của
mình. Môi trường tự nhiên quy định cách thức tồn tại và phát triển của con người.
Con người tác động vào môi trường tự nhiên theo hướng tích cực và tiêu cực.
Trong mối quan hệ tương tác, môi trường tự nhiên làm nền tảng cho cuộc sống của
con người. Nếu con người biết giới hạn để vừa sử dụng vừa bảo vệ môi trường tự
nhiên thì mối quan hệ ngày càng bền chặt và tồn tại lâu dài. Ngược lại, môi trường
tự nhiên sẽ tiếp tục bị tàn phá nếu con người không có biện pháp cụ thể để bảo vệ
nó. Trong mối quan hệ với môi trường xã hội, con người là nhân tố trung tâm,
tham gia và chi phối môi trường xã hội. Ngược lại, môi trường xã hội là nền tảng
căn bản trong sự phát triển nhân cách con người. Môi trường xã hội tốt, con người
sống sẽ được hòa nhập vào môi trường, được hưởng đầy đủ các giá trị do môi
trường xã hội mang lại. Mặt trái của môi trường xã hội đó là sự suy thoái về đạo
đức, lối sống, sự tiêm nhiễm văn hóa ngoại lai, các loại tệ nạn xã hội, tội phạm và
các biểu hiện lệch lạc khác. Để bảo đảm cho sự phát triển bền vững, đòi hỏi phải
duy trì mối quan hệ thân thiện giữa con người và môi trường hệ sinh thái, ngăn
chặn những tác động tiêu cực của con người tới môi trường hệ sinh thái và xã hội.



×