ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------
TÔ NGỌC MINH
TIỂU THUYẾT ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM
NHÌN TỪ LÝ THUYẾT TRÒ CHƠI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC
HÀ NỘI, 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------
TÔ NGỌC MINH
TIỂU THUYẾT ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM
NHÌN TỪ LÝ THUYẾT TRÒ CHƠI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC
MÃ SỐ: 60 22 32
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Nguyễn Văn Nam
HÀ NỘI, 2013
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................. 2
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................... 2
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................................ 4
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu ............................................................... 9
4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 11
5. Cấu trúc của luận văn ................................................................................................ 11
PHẦN NỘI DUNG ......................................................................................................... 12
Chƣơng 1. LÝ THUYẾT TRÒ CHƠI TRONG VĂN HỌC ....................................... 12
1.1. Trò chơi, sự chơi và lý thuyết trò chơi trong văn học .......................... 12
1.1.1. Trò chơi và sự chơi ......................................................................................... 12
1.1.2. Nguồn gốc và nội dung lý thuyết trò chơi trong văn học ........................... 16
1.2. Trò chơi như một khuynh hướng thẩm mỹ chủ đạo của văn học
hiện đại/ hậu hiện đại ..................................................................................... 24
1.2.1. Mối quan hệ giữa lý thuyết trò chơi và chủ nghĩa hậu hiện đại trong
văn học ............................................................................................................................ 24
1.2.2. Việc vận dụng lý thuyết trò chơi trong văn học hiện đại/ hậu hiện đại . 31
1.3. Tính chất trò chơi trong tiểu thuyết đương đại Việt Nam................... 34
Chƣơng 2. NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA TÍNH CHẤT TRÒ CHƠI TRONG TIỂU
THUYẾT ĐƢƠNG ĐẠI VIỆT NAM............................................................................ 42
2.1. Sự thay đổi những quy ước về thể loại tiểu thuyết ............................... 42
2.1.1. Sự pha trộn giữa các thể loại ........................................................................ 42
2.1.2. Từ câu chuyện đến văn bản .......................................................................... 50
2.2. Cách thức tổ chức tác phẩm như là cuộc chơi về kết cấu .................... 53
2.2.1. Kết cấu phân mảnh và trò chơi lắp ghép văn bản ...................................... 53
2.2.2. Giả mạo mô hình kết cấu của các thể loại tiểu thuyết hay các loại văn
bản .............................................................................................................................. 56
2.3. Cuộc chơi về nhân vật, hình tượng ........................................................ 62
2.3.1. Sự đa dạng của hình tượng nhân vật – người kể chuyện và điểm nhìn.. 62
2.3.2. Nhân vật là những phức thể tâm lý và tính cách........................................ 67
2.3.3. Kiểu nhân vật kí hiệu – biểu tượng và “phi nhân vật” hay “phản nhân
vật”.............................................................................................................................. 71
Chƣơng 3. TÍNH CHẤT TRÒ CHƠI TRONG TIỂU THUYẾT ĐƢƠNG ĐẠI
VIỆT NAM – MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU.................. 78
3.1. Ngôn ngữ và sự lệch chuẩn ..................................................................... 78
3.2. Các kiểu giọng điệu.................................................................................. 83
3.2.1. Giọng điệu giễu nhại, hài hước .................................................................... 84
3.2.2. Giọng điệu lạnh lùng, khách quan............................................................... 87
3.2.3. Giọng điệu triết lý, suy tư ............................................................................... 91
3.3. Một số thủ pháp nghệ thuật khác........................................................... 95
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 105
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Từ sau năm 1986, trong xu thế và không khí chung của thời kỳ đổi
mới, toàn bộ nước ta bước vào quá trình thay da đổi thịt trong mọi lĩnh vực.
Văn học cũng không phải là một ngoại lệ khi nó có sự chuyển mình mạnh mẽ
về cả nội dung và hình thức. Sự biến chuyển sôi động ấy đáng kể nhất thuộc
về một thể loại văn xuôi của văn học - tiểu thuyết. Trong khi những thể loại
văn học khác ít nhiều được người đọc quan tâm thì tiểu thuyết với những ưu
thế và đặc trưng riêng của nó vẫn không bao giờ là cũ với độc giả.
Tiểu thuyết đương đại Việt Nam lúc này có sự lột xác mãnh liệt khi
những giá trị truyền thống cũ đòi hỏi được làm mới. Người ta không còn chú
ý nhiều đến những sự kiện lịch sử nữa mà số phận cá nhân mới là trung tâm
của sự chú ý. Câu hỏi về con người luôn được đặt ra chính là điều mà các tiểu
thuyết gia quan tâm hơn cả. Cộng thêm vào đó, tầm đón đợi của độc giả lúc
này cũng khác đi rất nhiều so với trước kia. Họ cũng như các nhà văn từ bỏ
thói quen đối chiếu giữa cuộc sống thực bên ngoài với câu chuyện được kể lại
mà bắt đầu suy tư về chính cái hiện thực dù có hay không có thật trong cuộc
sống mà nhà văn muốn gửi gắm.
Xã hội ngày càng phát triển với sự ra đời của khoa học công nghệ
thông tin kéo theo đó là hệ quả của việc văn học bị mất dần ưu thế trong cuộc
sống con người. Trong khi thơ ca không còn được ưu ái như trước (nước ta
vốn được coi là có truyền thống về thơ ca) thì văn xuôi ít nhiều vẫn còn sức
hấp dẫn, đặc biệt là tiểu thuyết. Thực tế là tiểu thuyết vẫn được phần lớn độc
giả lựa chọn khi đứng giữa một cửa hàng sách hơn những thể loại văn học
khác. Như trên đã đề cập, đó là bởi đặc trưng riêng biệt của thể loại này khiến
nó có ưu thế không thể chối cãi: tiểu thuyết được coi là “hình thái chủ yếu của
2
nghệ thuật ngôn từ”, là một hình thức tự sự cỡ lớn có khả năng tái hiện một
hiện thực đời sống hết sức toàn vẹn và sinh động.
Với những lý do trên, chúng tôi quyết định chọn tiểu thuyết đương đại
Việt Nam làm đối tượng nghiên cứu. Tất nhiên đây là một đối tượng nghiên
cứu không hề nhỏ, trước hết là bởi chính bản thân đặc trưng thể loại, sau đó là
phạm vi khảo sát khá rộng lớn. Vì vậy việc xem xét, nghiên cứu tiểu thuyết
đương đại Việt Nam sẽ được chúng tôi nhìn nhận từ một góc độ khác - một lý
thuyết còn khá mới mẻ với nền văn học nước nhà – lý thuyết trò chơi.
1.2. Lý thuyết trò chơi là một lý thuyết đa ngành khi nó bao phủ nhiều
lĩnh vực như toán học, vật lý, chính trị, kinh tế… cho đến những lĩnh vực
khoa học xã hội như triết học, mỹ học, nhân học và cả văn học nữa. Thực ra
lý thuyết trò chơi đã xuất hiện từ thời Hy Lạp cổ đại nhưng phải đến bây giờ
khi văn học chịu ảnh hưởng sâu sắc của chủ nghĩa hậu hiện đại thì lý thuyết
này mới được bộc lộ rõ ràng hơn. Hiểu một cách cụ thể có nghĩa là khi văn
học bắt đầu hình thành những dấu hiệu của hậu hiện đại (postmodern) cũng là
lúc lý thuyết trò chơi được các nhà nghiên cứu nhìn nhận lại như một cách thể
hiện cá tính sáng tạo của người sáng tác.
Cùng với sự ra đời của chủ nghĩa hậu hiện đại, lý thuyết trò chơi đã làm
thay đổi bộ mặt của văn học, đặc biệt là tiểu thuyết. Với lý thuyết trò chơi,
chức năng của văn học được nhìn nhận lại trong sự đề cao của chức năng giải
trí – cái mà thường đứng sau hai chức năng được coi là chủ yếu của văn học
là chức năng giáo dục và thẩm mỹ. Điều này theo chúng tôi là hoàn toàn phù
hợp với bối cảnh xã hội hiện đại/ hậu hiện đại: con người tìm đến văn chương
để thỏa mãn nhu cầu giải trí, tiêu khiển. Tuy vậy, đó không đơn giản là sự giải
trí hay thú tiêu khiển thông thường mà là cuộc chơi của trí tuệ hay hiểu nôm
na hơn là tính nghiêm túc của trò chơi ngôn từ. Chính vì vậy, lý thuyết trò
chơi cần được xem xét, nhìn nhận lại một cách có hệ thống và cụ thể.
3
Trên thế giới, lý thuyết trò chơi (game theory) đã được quan tâm từ lâu
khi người ta nhận thấy nghệ thuật cũng như một trò chơi của cuộc sống. Và
cũng không phải bây giờ văn học mới có tính trò chơi mà tự bản thân nó đã
mang trong mình những yếu tố của trò chơi dù ít hay nhiều, dù rõ ràng hay
còn mơ hồ. Nhưng phải đến bây giờ, khi văn học có đầy đủ thuận lợi để phát
huy giá trị tự thân của nó thì tính trò chơi hay chức năng giải trí mới được
người ta đề cập đến nhiều hơn. Nằm trong mạch phát triển chung ấy, văn học
nước nhà và cụ thể là tiểu thuyết đương đại Việt Nam cũng du nhập những
mô hình của lý thuyết trò chơi, dù rằng người viết có ý thức hay vô thức về nó
hay không. Điều đó có nghĩa là đọc một tác phẩm là độc giả được tham dự
vào một cuộc chơi tìm kiếm vô cùng tận nhằm giải mã những lớp ngữ nghĩa
đằng sau lớp vỏ ngôn từ. Như thế là nó cũng đang đòi hỏi cả người viết và
người đọc phải có những suy nghĩ mới, tâm thế mới, kích thích khả năng sáng
tạo của cả hai bên.
Lý thuyết trò chơi tuy rằng đã ra đời từ lâu trên thế giới, song đối với
giới nghiên cứu khoa học xã hội nước ta thì lý thuyết này còn khá xa lạ. Bởi
vậy việc nghiên cứu đối tượng là tiểu thuyết đương đại Việt Nam dưới góc độ
tiếp cận từ lý thuyết trò chơi theo chúng tôi cũng là khá mới mẻ hoặc ít ra
cũng đem lại cái nhìn mới về diện mạo tiểu thuyết nước nhà. Từ những lý do
trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Tiểu thuyết đương đại Việt Nam nhìn
từ lý thuyết trò chơi” với hy vọng tìm ra những điểm thú vị của lý thuyết trò
chơi trong văn học cũng như tìm ra được cách tiếp cận mới cho một thể loại
lớn trong văn học - tiểu thuyết.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Đối tượng “tiểu thuyết đương đại Việt Nam” được chúng tôi soi
chiếu dưới lý thuyết trò chơi cho nên trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu,
4
chúng tôi đã được tiếp nhận một số bài viết, bài dịch, sách báo đã xuất bản có
liên quan đến lý thuyết này. Do đây là một lý thuyết chưa được giới nghiên
cứu Việt Nam chú ý nhiều cho nên những công trình lớn, sách xuất bản viết
về nó hầu như không có. Người viết tìm thấy những bài báo, bài dịch, tiểu
luận của một số tác giả tìm hiểu về lý thuyết này đăng trên tạp chí, báo mạng
như:
- Bài dịch “Lý thuyết trò chơi” (Gordon E.Slethaug) do Nhã Thuyên dịch
trên trang web
- Bài viết “Tiếp cận bản chất trò chơi của văn học (Những gợi mở từ
công trình Homo Ludens của Johan Huizinga)” của tác giả Trần Ngọc
Hiếu trên trang web (Tạp chí nghiên
cứu Văn học, số tháng 11, tr 16 -28)
- Bài dịch “Tư liệu tham khảo – lý thuyết trò chơi (theories of play/ free
play)” (Gordon E.Slethaug) do Hải Ngọc dịch trên trang web
- Bài viết “Khúc ngoặt ngôn ngữ của lý thuyết trò chơi hậu hiện đại” của
tác giả Trần Ngọc Hiếu trên trang web (Nguồn: Tạp
chí VHNT số 332, tháng 2 – 2012, tr 56 -58).
- Bài viết “Cấu trúc không - thời gian của “Nghệ nhân và Margarita”
nhìn từ nguyên lý trò chơi” của tác giả Nguyễn Thị Như Trang trên
trang web (Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Văn
học, số tháng 12 - 2011).
- Bài viết “Thiên sứ của Phạm Thị Hoài: tiếp nhận từ lý thuyết trò chơi”
của tác giả Lê Hương Thủy trên trang web
5
- Bài viết “Một số mô hình kết cấu trò chơi trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại” của tác giả Nguyễn Thị Ninh trên trang web
- Bài viết “Trò chơi văn bản và những tương tác (Đọc “Chinatown” của
Thuận)”
của
tác
giả
Nhã
Thuyên
trên
trang
web
- Bài viết “Trò chơi ngôn ngữ trong tư duy hậu hiện đại” của PGS. TS
Lê Huy Bắc trong cuốn “Văn học hậu hiện đại – Lí thuyết và thực tiễn”
(NXB Đại học sư phạm, 2013)
v.v…
Trong đó, chúng tôi đặc biệt chú trọng vào các bài dịch là: “Lý thuyết
trò chơi” (Gordon E.Slethaug) do Nhã Thuyên dịch, “Tư liệu tham khảo – lý
thuyết trò chơi (theories of play/ free play)” (Gordon E.Slethaug) do Hải
Ngọc dịch và bài viết “Tiếp cận bản chất trò chơi của văn học (Những gợi mở
từ công trình Homo Ludens của Johan Huizinga)” của tác giả Trần Ngọc
Hiếu. Trong hai bài dịch về lý thuyết trò chơi của Gordon E.Slethaug, tác giả
đã tóm tắt lại quá trình hình thành và phát triển của lý thuyết này, bắt đầu từ
những nền tảng lịch sử đầu tiên cho đến những lý thuyết đương đại. Theo tác
giả thì những khái niệm về trò chơi và sự chơi được đề cập đầu tiên từ các
triết gia Hy Lạp cổ đại như Socrates, Heraclitus, Platon và Aristotle. Tiếp sau
đó, đến thế kỉ XVIII – XIX, lý thuyết trò chơi được Kant và Schiller phát triển.
Lý thuyết này càng được hoàn thiện hơn với những lý thuyết văn chương
đương đại cùng ba cách tiếp cận đáng chú hơn cả là: tiếp cận chính trị
(Mikhail Bakhtin), thông diễn học (Gadamer), và giải cấu trúc (Derrida,
Lacan, Foucault, Barthes, Kristeva).
6
Trong bài viết “Tiếp cận bản chất trò chơi của văn học (Những gợi mở
từ công trình Homo Ludens của Johan Huizinga)”, tác giả Trần Ngọc Hiếu đã
tóm lược lại những ý chính trong công trình nghiên cứu về trò chơi trong văn
học của Huizinga: đó là định nghĩa về trò chơi/ sự chơi và tầm quan trọng của
nó đối với đời sống con người, bản chất và chức năng của trò chơi/ sự chơi
trong văn học và ảnh hưởng của nó trong tiến trình văn học v.v…
Một trong những nguồn tài liệu quan trọng giúp ích rất nhiều trong quá
trình viết luận văn của chúng tôi là Luận án tiến sỹ của tác giả Trần Ngọc
Hiếu: “Lý thuyết trò chơi và một số hiện tượng thơ Việt Nam đương đại”,
chuyên ngành: Lý luận văn học - mã số: 62.22.32.01 (các bài viết của cùng
tác giả nêu trên cũng được trích ra từ luận án tiến sỹ này). Trong luận án của
mình, tác giả Trần Ngọc Hiếu đã nghiên cứu một cách công phu và tỉ mỉ về
quá trình phát triển của lý thuyết trò chơi trong văn học cũng như những nội
dung chính yếu của nó. Tác giả luận án đã dày công tìm hiểu về lý thuyết mới
mẻ này dựa trên mảng tư liệu tiếng Việt (dù chưa có nhiều) và mảng tư liệu
tiếng Anh mà tác giả tự dịch là phần lớn.
Từ những tài liệu đã thu thập về lý thuyết trò chơi nói trên, dù còn khá
ít ỏi và hầu hết được khai thác từ những bài viết, bài dịch lẻ tẻ trên các trang
web cùng với đó là sự giúp ích rất nhiều từ công trình khoa học đã nghiên cứu
trước đó, chúng tôi đã sắp xếp lại một cách có hệ thống để phục vụ cho quá
trình khảo sát và nghiên cứu đề tài.
2.2. Bên cạnh việc tìm hiểu về hướng tiếp cận đối tượng vấn đề, người
viết cũng chú tâm vào những vấn đề của chủ nghĩa hậu hiện đại trong mối
tương quan với lý thuyết trò chơi trong văn học. Có thể kể đến trong số đó là
những cuốn sách do các tác giả trong nước cũng như một số sách dịch về chủ
nghĩa hậu hiện đại trong văn học như:
7
- Văn học hậu hiện đại thế giới (2003) - Quyển 1: Những vấn đề lý
thuyết bao gồm các bài viết, bài dịch, phê bình của nhiều tác giả do Đào
Tuấn Ảnh sưu tầm và biên soạn.
- Lý thuyết văn học hậu hiện đại (2011) của Phương Lựu.
- Hoàn cảnh hậu hiện đại (2007) của Jean Francois Lyotard do Phạm
Xuân Nguyên dịch.
- Chủ nghĩa hậu hiện đại (2006) do Trần Tiễn Cao Đăng dịch.
- Văn học hậu hiện đại – Lí thuyết và tiếp nhận (2012) của Lê Huy Bắc.
- Văn học hậu hiện đại - Lí thuyết và thực tiễn (2013) do Lê Huy Bắc, Lê
Nguyên Cẩn, Đỗ Hải Phong tuyển chọn.
- Thi pháp chủ nghĩa hậu hiện đại (2013) của Liviu Petrescu do Lê
Nguyên Cẩn dịch và giới thiệu.
v.v…
2.3. Về những công trình nghiên cứu, đánh giá về văn học Việt Nam
đương đại nói chung và tiểu thuyết nói riêng, người viết tìm hiểu được một số
sách đã được xuất bản như:
- Văn học Việt Nam sau 1975 - những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy
(2006) của nhiều tác giả.
- Tiểu thuyết đương đại: Tiểu luận – Phê bình văn học (2005) của Bùi
Việt Thắng.
v.v…
và một số bài nghiên cứu trên các tạp chí về văn học như:
- Bài viết “Một cách lí giải về thực trạng tiểu thuyết Việt Nam đương
đại” (Tạp chí Nhà văn số 8/2000) của Nguyễn Hòa.
8
- Bài viết “Về một hướng thử nghiệm của tiểu thuyết Việt Nam gần
đây” (NCVH số 11/2005) của Nguyễn Thị Bình.
- Bài viết “Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi
mới” (NCVH số 11/2006) của Bích Thu.
- Bài viết “Vấn đề nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI”
(Tạp chí NCVH số 4/2010) của Hoàng Cẩm Giang.
- Bài viết “Khuynh hướng lạ hoá trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại –
một số bình diện tiêu biểu” (NCVH số 4/2012) của Nguyễn Thành.
v.v…
Những công trình nghiên cứu trên sách báo cũng như trên các tạp chí
về văn học nêu trên đã giúp chúng tôi nắm bắt được những vấn đề trong văn
học nước nhà sau đổi mới 1986, đặc biệt trong đó là thể loại tiểu thuyết với
những thay đổi rõ rệt về cả nội dung và hình thức.
Như vậy, trên cơ sở những tài liệu đã thu thập từ nhiều nguồn khác
nhau, chúng tôi đã có cái nhìn khái quát về tình hình tiểu thuyết đương đại
nước nhà cũng như những nội dung chủ yếu của lý thuyết trò chơi trong văn
học. Việc tìm đọc và khai thác tài liệu có liên quan đến vấn đề đã giúp chúng
tôi có những gợi mở để từ đó tiếp tục đi sâu nghiên cứu, phân tích và tìm hiểu
đề tài đã lựa chọn.
3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Tiếp cận tiểu thuyết đương đại Việt Nam từ lý thuyết trò chơi trong
văn học chúng tôi không nhằm khái quát lại toàn bộ tiến trình vận động của
tiểu thuyết nước nhà sau đổi mới 1986 cho đến nay mà chúng tôi lấy lý thuyết
trò chơi làm trung tâm để khảo sát đối tượng, từ đó tìm ra một cách nhìn nhận
mới mẻ hơn. Chúng tôi vẫn theo cách truyền thống khi tiến hành tìm hiểu đối
9
tượng là phân tích hai mặt nội dung và hình thức nghệ thuật đồng thời cũng
cố gắng đem lại cái nhìn vừa hệ thống vừa khác biệt cho diện mạo tiểu thuyết
đương đại Việt Nam.
Với cách thức tiếp cận như vậy, đề tài đã cho thấy những nỗ lực đổi
mới của các nhà văn trong quá trình sáng tác, đồng thời cũng đánh giá đúng
vai trò, chức năng của trò chơi trong văn học. Bên cạnh đó, đề tài cũng là
bước khởi đầu cho việc nghiên cứu những nội dung của lý thuyết trò chơi như
một cách thức mới mẻ để tư duy những vấn đề khác trong văn học.
3.2. Đối tượng nghiên cứu trong đề tài này là các tiểu thuyết Việt Nam
đương đại (được tính từ sau năm 1986). Tuy vậy nhưng phạm vi nghiên cứu
được chúng tôi thu hẹp lại trong các sáng tác có khuynh hướng hậu hiện đại vì
như trong phần lý do chọn đề tài đã trình bày, những tác phẩm văn chương
hậu hiện đại thường bộc lộ và thể nghiệm những mô hình khác nhau của lý
thuyết trò chơi. Một số tiểu thuyết đương đại Việt Nam được chúng tôi tiến
hành khảo sát có thể kể đến là: Thiên sứ của Phạm Thị Hoài, Thiên thần sám
hối, Đi tìm nhân vật… của Tạ Duy Anh, Thoạt kỳ thuỷ, Ngồi, Trí nhớ suy
tàn… của Nguyễn Bình Phương, Cơ hội của chúa, Khải huyền muộn… của
Nguyễn Việt Hà, Chinatown, T mất tích, Paris 11 tháng 8… của Thuận, Cõi
người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái, Người sông Mê của Châu Diên
hay Chuyện của thiên tài của Nguyễn Thế Hoàng Linh v.v…
Dù tiếp cận đối tượng dưới góc độ lý thuyết còn khá mới mẻ song
chúng tôi vẫn nghiên cứu đề tài luận văn dựa trên cơ sở khai thác những vấn
đề truyền thống như về nội dung là thể loại, kết cấu, nhân vật và các vấn đề về
phương diện nghệ thuật là ngôn ngữ, giọng điệu và một số thủ pháp nghệ
thuật khác.
10
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong đề tài luận văn thạc sĩ này, chúng tôi sử dụng một số phương
pháp chủ yếu sau :
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp đối chiếu so sánh
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp loại hình
v.v…
5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần Nội dung luận văn được chúng
tôi chia làm ba chương :
Chƣơng 1: Lý thuyết trò chơi trong văn học
Chƣơng 2: Những biểu hiện của tính chất trò chơi trong tiểu thuyết
đƣơng đại Việt Nam
Chƣơng 3: Tính chất trò chơi trong tiểu thuyết đƣơng đại Việt
Nam - Một số phƣơng diện nghệ thuật tiêu biểu
11
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
LÝ THUYẾT TRÒ CHƠI TRONG VĂN HỌC
1.1. Trò chơi, sự chơi và lý thuyết trò chơi trong văn học
1.1.1. Trò chơi và sự chơi
1.1.1.1. Bản chất của trò chơi (game) và sự chơi (play)
Lịch sử xã hội loài người bắt đầu từ xã hội nguyên thuỷ, trải qua nhiều
thời kỳ phát triển khác nhau có lẽ luôn có sự đồng hành của trò chơi trong
cuộc sống. Trò chơi (game) và sự chơi (play) là hành vi của đời sống con
người nhằm mục đích giải trí, tiêu khiển. Theo các học giả phương Tây thì ở
thời kỳ Hy Lạp cổ đại, trò chơi là “một phần trong đời sống giải trí của cộng
đồng”. Nó có thể nằm trong hình thức những cuộc thi đấu thể thao như những
cuộc so tài trí, thể lực, sức mạnh hợp lệ hay có khi nó có trong các nghi thức
thuộc về tôn giáo, liên quan tới trình diễn sân khấu… , thậm chí trò chơi còn
diễn ra trong các cuộc tranh luận giữa các học giả lúc bấy giờ v.v… Dù thuộc
về hình thức nào thì bản chất cơ bản của trò chơi và sự chơi vẫn là nhằm giải
trí, đem lại thú tiêu khiển trong đời sống hằng ngày của con người.
Trong luận án tiến sỹ “Lý thuyết trò chơi và một số hiện tương thơ Việt
Nam đương đại”, tác giả Trần Ngọc Hiếu lại nâng bản chất, ý nghĩa của trò
chơi lên một mức độ khác khi cho rằng “trò chơi không đơn thuần là một hoạt
động cơ bản của con người mà nó còn trở thành nguyên mẫu của các mô hình
tổ chức đời sống, các hình thái ý thức về thế giới và về chính mình” . Theo tác
giả thì trò chơi dường như là một khái niệm mở, tuy nó là một hiện tượng phổ
biến, dễ nhận diện và mô tả nhưng lại là một khái niệm rất mơ hồ, biến động
12
về nghĩa. Việc cắt nghĩa khái niệm trò chơi không thể dùng một câu mà có thể
khái quát được toàn bộ ý nghĩa của nó.
Trò chơi hiểu một cách nôm na chính là một cách sáng tạo ra mô hình
thế giới mới có không gian, thời gian riêng chi phối người chơi trong những
quy tắc, luật lệ chặt chẽ nhất thời. Tất nhiên mô hình thế giới mới này có sự
độc lập với thực tại song cũng không hoàn toàn thoát li khỏi thế giới có sẵn vì
vậy bản chất của trò chơi có tính lưỡng diện, vừa nghiêm túc vừa phi nghiêm
túc, vừa quy tắc lại vừa phóng khoáng, tự do như Hegel đã từng viết: “Trò
chơi là sự thăng hoa nhất và nghiêm túc nhất”.
Về cơ bản, trò chơi hay sự chơi theo chúng tôi có thể bao gồm các
thành tố, đó là: người chơi (đi kèm là luật chơi), thế giới chơi và đối tượng
được chơi. Trong các thành tố kể trên thì người chơi nắm vai trò quan trọng vì
người chơi điều hành, tổ chức, đưa ra luật lệ, phương thức chơi và đơn giản
hơn là bởi trò chơi vốn là hành vi của chủ thể con người. Người chơi tham gia
vào cuộc chơi có khi chỉ cần có một người là đủ song phần nhiều vẫn cần ít
nhất từ hai người trở lên. Về cơ bản, trò chơi thường xuất hiện do có sự
“tương tác” của hai hay nhiều đối tượng. Trò chơi và sự chơi luôn luôn diễn
ra trong một không gian, thời gian cụ thể nào đó mà chúng tôi gọi đó là thế
giới chơi (play world). Thành tố cuối cùng là đối tượng được chơi có khi
được nhận biết như một thực thể có khi lại rất trừu tượng. Chẳng hạn như
trong các cuộc so tài thể thao cổ đại thì đối tượng được chơi có thể là một cái
gậy, một hòn đá v.v… còn trong các cuộc tranh luận của các học giả thì đối
tượng được chơi ở đây chính là ngôn ngữ.
Liên quan đến thành tố quan trọng nhất là người chơi thì trò chơi và sự
chơi luôn thường đi kèm với các nguyên tắc, luật lệ chơi. Sự khác biệt trong
luật chơi chính là cơ sở để phân loại các kiểu trò chơi đồng thời cũng là căn
13
cứ để nhờ đó mà trò chơi được tiến hành. Luật chơi là do người chơi đặt ra
nhằm duy trì trò chơi, tạo ra sự hấp dẫn cho trò chơi. Nhà nghiên cứu người
Hà Lan Johan Huizinga trong công trình nghiên cứu Homo Ludens (dịch là
“Người chơi”) đã nhấn mạnh vai trò và sự cần thiết của việc phải giữ luật.
Theo ông, luật chơi bao giờ cũng tạo ra sự khó khăn, thử thách đối với người
chơi song cũng nhờ thế mà nó tạo nên sức hấp dẫn cho trò chơi, làm thoả mãn
một ham mê thường trực ở con người là chinh phục độ khó. Tuy vậy, chính
luật lệ chơi cũng vô hình chung thu hẹp phạm vi người chơi khi nó đặt ra
những điều kiện làm cho không phải ai cũng có thể tham gia vào cuộc chơi.
Rõ ràng, nguyên tắc, luật lệ chơi cần phải được tuân thủ để trò chơi được khả
hữu, để duy trì cộng đồng chơi.
Một điểm cần lưu ý ở đây là việc dùng khái niệm trò chơi (game) và sự
chơi (play) có sự phân biệt mang tính tương đối. Nhìn chung như trên đã đề
cập hai khái niệm này đều là hành vi của con người nhằm giải trí, tiêu khiển.
Sự phân biệt ở đây theo quan điểm của triết gia Hy Lạp Plato là trò chơi
(game) thường ít tính ngẫu hững hơn sự chơi (play), hay nói ngược lại là sự
chơi không chịu tác động nhiều của các quy tắc, luật lệ như trò chơi. Quan
điểm này của Plato được cơ bản giới nghiên cứu chấp nhận rộng rãi.
1.1.1.2. Chức năng của trò chơi/ sự chơi
Chức năng đầu tiên và rõ ràng nhất đúng theo bản chất của trò chơi/ sự
chơi là chức năng giải trí, mang lại khoái cảm cho con người. Đề cập đến
chức năng này, theo những nhà nghiên cứu đương đại về trò chơi thì có sự
phân biệt nhất định giữa trò chơi/ sự chơi với cái mà họ gọi là “sự làm việc”,
“cái nghiêm túc”. Theo các học giả thì cuộc đời thường nhật, có thực là
nghiêm trọng, không tự nguyện và xét ở mặt nào đó mang tính vụ lợi về cả
vật chất lẫn tinh thần. Trong khi đó thì trò chơi gắn liền với sự vui vẻ, thường
14
là tự nguyện và không vụ lợi. Sự phân biệt này theo chúng tôi mang tính
tương đối khi đặt ngược lại vấn đề là có khi nào cuộc chơi lại mang tính vụ
lợi hay không?
Đặt ra câu hỏi này chúng tôi quay trở về với vấn đề sự phân biệt giữa
hai khái niệm trò chơi (game) và sự chơi (play). Chính sự khác biệt giữa hai
khái niệm này đã cho chúng tôi thấy chức năng giải trí được bộc lộ rõ ràng
hơn ở sự chơi vì với sự chơi thì sự can thiệp của các quy tắc, luật lệ là ít hơn
so với trò chơi cho nên sự chơi là vô tư, không mang tính vụ lợi. Sự chơi của
con người là hoàn toàn ngẫu nhiên và luôn mang lại sự vui vẻ cho con người
trong cuộc sống hàng ngày. Còn với trò chơi mà con người tham gia khi đặt
trong một hoàn cảnh chơi nhất định (có tính chất ganh đua) chúng tôi nhận
thấy rằng lúc đó chức năng giải trí của nó có thể bị giảm đi đáng kể. Tuy vậy,
dù là trò chơi hay sự chơi thì cả hai khái niệm này đều cần được chú ý đến ở
khả năng đem đến cho con người sự vui tươi – thành tố kháng cự lại mọi phân
tích, diễn giải lôgíc, giúp con người “thả lỏng” và cân bằng trước những áp
lực của thực tại, của những quy luật duy lý.
Trở lại với nhận định sự chơi (play) là hành vi mang tính chất vô tư,
ngẫu nhiên nhiều hơn thì trái lại trò chơi (game) lại mang tính chất thử thách,
ganh đua hoặc phô diễn một cái gì đó nên nó kích thích con người khám phá
thế giới và bản thân chủ thể. Theo các nhà nghiên cứu thì hai dạng thức này
có thể cùng tồn tại trong cùng một trò chơi, có nghĩa là khi ganh đua, cạnh
tranh để đạt một cái gì đó thì đồng thời người ta cũng sẽ bộc lộ, biểu hiện một
điều gì đó tương ứng. Vì trò chơi (game) bao giờ cũng đi kèm với những
nguyên tắc, luật lệ cho nên vô hình chung điều đó tạo nên những thử thách
cho cuộc chơi. Cũng vì trò chơi/ sự chơi thường cần từ hai người tham gia trở
lên cho nên trong các cuộc chơi tính chất ganh đua, cạnh tranh là rất rõ ràng.
Và khi người ta ganh đua, cố gắng vượt qua các thử thách hiển nhiên người ta
15
sẽ phô diễn tất cả các phẩm chất, kỹ thuật tốt nhất của mình. Tất nhiên thông
qua những điều ấy người chơi sẽ khám phá ra những khả năng hay giới hạn
của bản thân, bên cạnh đó cũng khám phá thế giới và không ngừng cải tiến trò
chơi sao cho hợp lý hơn, hấp dẫn hơn.
Rõ ràng là nhờ có trò chơi/ sự chơi, con người không những được giải
trí, đầu óc khuây khoả mà ngày càng phát triển về cả thể chất lẫn trí tuệ. Theo
tiến trình vận động của khái niệm, trò chơi khẳng định mình như là một hình
thái đa chức năng: trò chơi vừa mang tính giải trí giúp giải phóng sinh lực
thừa vừa có chức năng nhận thức, vừa giúp con người biểu hiện chủ thể vừa
giúp hoàn thiện nhân cách, v.v… Câu nói nổi tiếng của Schiller: “Con người
chỉ toàn vẹn khi chơi” đã nhấn mạnh một cách đầy đủ và toàn diện chức năng
của trò chơi. Tham gia một cuộc chơi giúp con người thoát khỏi những ám
ảnh, lo âu của cuộc sống thường ngày, con người được sống trọn vẹn với bản
thể, bộc lộ những chiều sâu nhất trong tâm hồn mình. Vì vậy, “chơi, được
xem là có chức năng như một sự gián đoạn nhất thời, một sự tạm ngừng”
(Eugen Fink).
1.1.2. Nguồn gốc và nội dung lý thuyết trò chơi trong văn học
Lý thuyết trò chơi (game theory) bắt nguồn từ phương Tây và cụ thể là
từ thời Hy Lạp cổ đại. Các nhà nghiên cứu thấy rằng vấn đề trò chơi đã được
các học giả Hy Lạp cổ đại như Heraclitus, Aristotle hay Plato đề cập đến và
có những tìm hiểu ít nhiều. Nhà triết học Plato (khoảng 427 – 347 TCN) đã
nghiên cứu về trò chơi và những khái niệm đầu tiên được ông viết trong tác
phẩm “Phaedrus”. Trong “Phaedrus”, Plato đề xuất hai khái niệm là “trò
chơi” (ludus) và “sự chơi” (paideia). Plato là người đầu tiên đưa ra sự phân
biệt giữa hai khái niệm này và về cơ bản được giới nghiên cứu chấp nhận
rộng rãi. Theo Plato thì trò chơi (ludus/ game) là những nước đi có tính toán
16
đường hướng chặt chẽ, có quy tắc, mục đích do đó nó đem lại thú tiêu khiển
cho con người còn ngược lại sự chơi (paidiea/ play) lại không bị gò vào cấu
trúc đồng thời thiếu các quy tắc, mục đích. Như vậy có thể hiểu trò chơi ít
tính ngẫu hứng hơn, phải tính toán nhiều hơn là sự chơi, hành vi chơi. Dựa
theo quan điểm này chúng tôi ngầm hiểu là Plato có sự ưu ái hơn cho “trò
chơi” so với “sự chơi”.Chính vì “sự thiên vị” này cho nên theo Plato trò chơi
có tính cấu trúc, có thể cung cấp các mô hình, khuôn mẫu hành động, hành vi,
kỹ năng cho con người. Quan điểm này của Plato theo chúng tôi nhận thấy có
sự tương đồng với hành động “mô phỏng”/ “bắt chước” (mimesis) được đề
xuất bởi nhà triết học Hy Lạp Aristotle (384 -322 TCN) trong tác phẩm
“Poetics” (sách được xuất bản ở Việt Nam với tên tựa đề là “Nghệ thuật thơ
ca”). Aristotle cho rằng: “…sự mô phỏng vốn sẵn có ở con người từ thuở nhỏ,
và con người khác giống vật chính là ở chỗ họ có tài mô phỏng, nhờ có sự mô
phỏng đó mà họ thu nhận được những kiến thức đầu tiên…”[3, tr. 24]. Như
vậy là trong khi Plato quan niệm trò chơi cung cấp cho con người những mô
thức, khuôn mẫu hành động thì Aristotle lại cho rằng “thiên tính mô phỏng
vốn có trong chúng ta”, nghĩa là khi con người “chơi” cũng là lúc con người
đang “mô phỏng”.
Kế thừa tư tưởng của các triết gia Hy Lạp cổ đại, lý thuyết trò chơi đã
không ngừng được bồi đắp, thậm chí còn được đem ra xem xét lại. Lý thuyết
trò chơi đã được nghiên cứu rộng rãi: từ mỹ học của các triết gia duy tâm Đức
là Kant và Schiller (thế kỷ XVIII), nhà tư tưởng Niezsche (cuối thế kỷ XIX)
đến những lý thuyết gia quan trọng của thế kỷ XX như Martin Heidegger,
Jaccques Derrida (với thuyết giải cấu trúc), Mikhail Bakhtin (thông qua tiếp
cận chính trị), Hans-Georg Gadamer (tiếp cận thông qua thông diễn học)
v.v… Lý thuyết trò chơi vào cuối thế kỷ XX đã được phát triển trong nhiều
lĩnh vực hơn thông qua các cuộc thảo luận khoa học quan trọng của các học
17
giả: nó không những được nghiên cứu trong các lĩnh vực truyền thống như thể
thao, nhà hát và tôn giáo mà giờ đây còn lấn sang các lĩnh vực khác như văn
chương nghệ thuật, triết học chính trị, khoa học tự nhiên, kinh tế v.v… Những
học giả sau này tiếp tục nghiên cứu lý thuyết trò chơi trên cơ sở tổng hợp lại
các ý kiến của những người đi trước và xem xét ảnh hưởng rộng rãi của nó
trong văn hoá có thể kể đến một số cái tên như: Huizinga, Callois, Ehrrmann,
Spariosu v.v… Trong số đó, nghiên cứu về sự xâm nhập của trò chơi trong
văn chương bắt đầu thu được thành quả nhất và được coi là nền tảng phải kể
đến Johan Huizinga (1872 -1945) với tác phẩm “Homo Ludens” (Người chơi).
Trở lại với quan điểm của Plato, cho đến thế kỷ XVIII hầu hết các tư
tưởng gia truyền thống phương Tây gần như đồng thuận với ông. Các triết gia
thế kỷ này thậm chí khi suy ngẫm về những nhận định của Plato về vai trò và
sự phân biệt giữa trò chơi và sự chơi cũng không thực sự xem xét lại. Hai triết
gia người Đức là Imanuel Kant (1724 -1804) và F.Schiller (1759 – 1805) là
những người mở đường cho việc nhận định lại vai trò của trò chơi và sự chơi;
tuy vậy dù phát biểu theo những cách khác nhau song bản chất cả hai đều tiếp
nối quan niệm của Plato khi cùng cho rằng “sự chơi” được quy định bởi các
quy tắc lý trí (các quy tắc này cũng là một dạng “trò chơi”) là dạng thức cao
hơn còn “hành vi chơi tự do” chỉ là “sự chơi thuần tuý” (mere play). Cũng
giống như Aristotle, I.Kant xem nghệ thuật là trò chơi của trí tưởng tượng,
đem đến sự vui tươi, bộc phát và tự do. Tuy vậy, quan điểm của Kant vẫn là
sự nối dài truyền thống duy lý của lý thuyết trò chơi được khởi phát từ Plato,
có nghĩa là trò chơi của trí tưởng tượng trong nghệ thuật là “một trò chơi có
trật tự”, trí tưởng tượng dù phong phú thế nào cũng vẫn phải tuân theo những
quy luật của lý trí và nhờ vậy mà trò chơi nghệ thuật mới không bị biến thành
trò vui đơn thuần. Những quan niệm của Kant và Schiller sau này được
Nietzsche (1844 – 1900) – nhà triết học người Phổ tiếp tục nghiên cứu và phát
18
triển. Ông cho rằng trò chơi mang tính chất phủ định trong khoảnh khắc nhất
thời đưa con người ra khỏi thời gian, không gian thực tại để sống hết mình
trong một thế giới ảo ảnh khác. Không liên quan đến quan niệm coi trò chơi
và sự chơi mang hai ý nghĩa tách biệt nhau, Nietzsche suy xét rằng cả hai khái
niệm đều quan trọng và có ý nghĩa như là công cụ làm đứt gãy những giá trị
và mô thức truyền thống trong diễn trình hoạt động của đời sống văn hoá và
tri thức…
Đến thế kỷ XX, lý thuyết trò chơi phát triển mạnh mẽ hơn cả và mang
bản chất của một lý thuyết đa ngành với nhiều công trình nghiên cứu của các
nhà khoa học như Martin Heidegger (1889 – 1976), Hans Georg Gadamer
(1900 – 2002), Jaccques Derrida (1930 – 2004), Mikhail Bakhtin (1895 –
1975), v.v… Với Martin Heidgger, ông đã tiếp tục phát triển những nghiên
cứu của Kant, Schiller và Nietzsche, đóng góp nhiều hơn vào quá trình trả lại
tầm quan trọng của trò chơi. Trong quan điểm của ông, mọi người đều tham
dự vào một trò chơi lớn của cuộc đời và một sự chơi thế giới (world play),
cho dù những quy tắc, mục đích của chúng hết sức mơ hồ và cũng theo
Heidegger thì con người vừa là người chơi (player), vừa là vật chơi
(plaything). Cũng chịu ảnh hưởng của Kant và Schiller là Hans Georg
Gadamer, tác giả cuốn “Truth and Method” (“Chân lý và phương pháp”).
Trong công trình này, Gadamer quan niệm hành vi chơi như là một nguyên
tắc cơ bản của nghệ thuật: “trò chơi chính là phương thức tồn tại của nghệ
thuật”. Tuy nhiên khác với những người nghiên cứu đi trước, Gadamer cho
rằng chủ thể của trò chơi là chính nó chứ không phải là người chơi. Ông viết:
“Sức hấp dẫn của trò chơi, sự mê hoặc mà nó tạo ra nằm ngay trong sự thực
rằng trò chơi muốn làm chủ người chơi” (“Truth and Method”)…
Trò chơi và lý thuyết về nó thực sự trở thành sự thu hút của giới nghiên
cứu khoa học trong thế kỷ XX. Trong các lý thuyết phê bình văn học vào hai
19
thập kỷ cuối thế kỷ XX, những quan điểm của Jacques Derrida về trò chơi cũng
nhận được sự chú ý đáng kể. Theo ông, xã hội luôn cố gắng tổ chức và cấu
trúc ngôn ngữ, tư tưởng, hành động xã hội để hình thành nên những cấp bậc tôn
ti có hệ thống và đó được coi là hiển nhiên, mang tính siêu nghiệm, hiện hữu.
Và chơi chính là động thái phá vỡ sự hiện hữu, cấu trúc siêu nghiệm ấy. Tuy
vậy, khác với quan điểm của những triết gia trước, trong sự phân biệt giữa hai
khái niệm sự chơi và trò chơi, Derrida lại dành “sự thiên vị” hơn cho sự chơi vì
nó ít bị khuôn vào cấu trúc và cũng không có những mục tiêu cụ thể.
Mikhail Bakhtin khi nghiên cứu về lý thuyết trò chơi lại đưa ra một
khái niệm mới – khái niệm “carnival”. Đây là một phạm trù quan trọng của lý
thuyết trò chơi đương đại, “thể hiện ý thức kháng cự xã hội, ý hệ, chính trị
chính thống bằng tiếng cười lưỡng trị, mang tính phổ quát, toàn dân” (theo
Luận án tiến sĩ của Trần Ngọc Hiếu). Theo Bakhtin, trong thời kỳ trung cổ xa
xưa và trước thời Phục Hưng, những dạng thức của trò chơi và sự chơi mang
tính xã hội như “carnival”, hội chợ đã trở thành những không gian công cộng
– nơi mà nhân dân có thể qua hình thức cải trang thể hiện sự phản kháng nền
chính trị tăng lữ và độc quyền. Những hình thức trình diễn này được “mã
hoá” thành những câu chuyện mà chỉ những thành viên nhất định trong xã hội
mới có thể hiểu được đầy đủ tính chất ám chỉ và giễu nhại của nó. Có thể nói
rằng, quá trình “carnival hoá” là một hành vi vừa mang tính chính trị vừa như
một “trò chơi” (mang tính giễu nhại) nhằm thể hiện ý thức phản kháng,
chống đối những quy tắc, quan điểm đã được biết và những quyền uy đã được
thừa nhận trong xã hội…
Rõ ràng, mỗi nhà nghiên cứu lại có cách tiếp cận lý thuyết trò chơi theo
những cách khác nhau làm cho khái niệm trò chơi không ngừng được mở
rộng. Với Johan Huizinga (1872 – 1945) – nhà nghiên cứu người Hà Lan
cùng công trình nổi tiếng “Homo Ludens” (“Người chơi”), lý thuyết trò chơi
20
đã được đặt ra nhiều vấn đề mới mang tính gợi mở. Tác phẩm này hầu như
luôn được nhắc đến trong các tranh luận, công trình nghiên cứu về trò chơi.
“Homo Ludens” là một công trình nhân học – sử học nghiên cứu tầm quan
trọng của sự chơi, trò chơi trong nền văn minh của nhân loại với luận điểm cơ
bản, có tính chất bao quát là: “nền văn minh nhân loại đã hình thành trong sự
chơi, như là sự chơi và chưa bao giờ rời bỏ nó” (Johan Huizinga). Bản chất, ý
nghĩa, chức năng của sự chơi, trò chơi cũng được Huizinga thừa nhận và phát
triển như những truyền thống triết học trước đó. Theo ông, toàn bộ hoạt động
chơi phong phú và đa dạng của nhân loại từ xa xưa cho đến ngày nay có thể
chia ra làm hai dạng thức cơ bản là: các trò chơi mang tính chất cạnh tranh,
thách đố (contest) và các trò chơi nhằm mục đích biểu hiện, phô diễn
(representation) (hai dạng thức này có thể cùng có trong một trò chơi). Có
một điểm đáng lưu ý là trong cuốn sách của mình, Johan Huizinga khảo sát
đối tượng là “sự chơi” (play) chứ không phải là “trò chơi” (game). Điều đó có
nghĩa là ông quan tâm nhiều đến mặt triết lý, tinh thần của hành vi chơi hơn là
mặt cấu trúc, quy tắc cấu thành nên hoạt động này. Quan niệm về trò chơi của
Huizinga là rất rộng, thậm chí nó bao trùm cả mọi hình thái nhận thức của con
người. Dấu ấn của trò chơi thể hiện trong mỗi hoạt động của con người dù là
trong hình thức trình diễn (performance) hay trong các cuộc tranh đấu
(contest/ competition), trong các hình thái xã hội như triết học, tôn giáo, nghệ
thuật, v.v… Tác phẩm “Homo Ludens” ra đời năm 1938 khi mà chủ nghĩa
hiện đại trong văn hoá nghệ thuật phát triển đến đỉnh cao cho nên những quan
điểm mà Huizinga đưa ra trong cuốn sách của mình cũng mang đậm cảm
quan hiện đại chủ nghĩa. Và cũng theo ông thì vai trò và giá trị của sự chơi
trong đời sống nhân loại của nền văn minh hiện đại ngày càng trở nên suy
thoái bởi tác động của quá trình công nghiệp hoá, thương mại hoá, chính trị
hoá…
21
Lý thuyết trò chơi vẫn đã và đang được tiếp tục nghiên cứu phát triển
theo nhiều hướng tiếp cận khác nhau. Trên đây chúng tôi chỉ đưa ra một số
cách tiếp cận của một số nhà khoa học, nghiên cứu trên thế giới từ cổ chí kim
về ý nghĩa và tầm quan trọng của trò chơi và sự chơi trong các lĩnh vực, hình
thái xã hội khác nhau. Riêng đối với văn học thì lý thuyết trò chơi đang dần
trở thành một xu thế mới trong cả sáng tác lẫn tiếp nhận. Tuy trên thế giới
chưa có một công trình khoa học nào thực sự nghiên cứu ảnh hưởng của trò
chơi trong văn học song có thể khẳng định rằng trò chơi từ chỗ là hành vi của
đời sống đã trở thành lý thuyết trong sáng tạo nghệ thuật, với văn học thì nó là
trò chơi của ngôn từ. Theo đó, giá trị nhận thức của văn học không phải chỉ
nằm ở việc phản ánh thực tại, phát hiện những quy luật của cuộc sống mà hơn
thế còn gợi ra những chiều hướng khác của thực tại. Bên cạnh đó văn học
không còn chỉ mang ý nghĩa giáo dục, hướng thiện con người nữa mà còn
phải được chú ý đến khả năng đem đến cho chúng ta sự vui tươi, giải trí để
chống lại những áp lực của cuộc sống, những quy luật duy lý. Nếu như trò
chơi thực chất là một cách sáng tạo ra mô hình thế giới mới thì sáng tạo văn
học thực chất cũng là một trò chơi khi nó kiến tạo một thế giới thứ hai không
đồng nhất với thế giới thực. Nói rộng ra thì nghệ thuật vừa như là mô hình
nhận thức cuộc sống thực vừa như là trò chơi cuộc sống.
Trò chơi trong văn học cũng giống như trò chơi nói chung có thể bao
gồm các thành tố chính là người chơi (tác giả và độc giả) và đối tượng được
chơi (tác phẩm/ văn bản), hai thành tố trên sẽ đồng sáng tạo một thế giới mới
– thế giới chơi (play world). Mối quan hệ giữa nhà văn - tác phẩm – độc giả là
một mối quan hệ chặt chẽ và bây giờ nó không chỉ là cuộc chơi của riêng nhà
văn mà là một cuộc chơi mở. Nói như vậy chúng tôi muốn nhấn mạnh đến
khả năng đồng sáng tạo của tác giả/ nhà văn và độc giả, chính nhờ nó mà tác
phẩm không ngừng được biến đổi, mở rộng thêm ra. Văn học là trò chơi của
22