Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh bắc ninh luận văn ths kinh tế 60 31 01 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 114 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÙI THỊ NHUNG

KINH TẾ TƯ NHÂN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÙI THỊ NHUNG

KINH TẾ TƯ NHÂN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số:

60 31 01

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Khắc Thanh

HÀ NỘI - 2012




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa được
công bố trong bất cứ công trình nào.

Hà Nội, ngày 24 tháng 12 năm 2012
TÁC GIẢ

Bùi Thị Nhung


MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

7

1.1. Lý luận chung về kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội

7


1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về kinh tế tư nhân
trong nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội

7

1.1.2. Các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về thành phần kinh
tế tư nhân

10

1.2. Các hình thức tổ chức sản xuất và vai trò của kinh tế tư nhân
ở Việt Nam

16

1.2.1. Các hình thức tổ chức sản xuất của kinh tế tư nhân ở Việt Nam

16

1.2.2. Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa
1.3. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân ở một số địa phương

19
28

1.3.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân của tỉnh Vĩnh Phúc


28

1.3.2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân của tỉnh Bình Dương

32

1.3.3. Những bài học kinh nghiệm rút ra cho phát triển kinh tế
tư nhân ở tỉnh Bắc Ninh

35

Chương 2: THỰC TRẠNG KINH TẾ TƯ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
BẮC NINH

37

2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Bắc
Ninh ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế tư nhân

37

2.2. Chính sách của địa phương về phát triển kinh tế tư nhân

41

2.2.1. Nhóm các chính sách khuyến khích đầu tư cho kinh tế tư nhân

42

2.2.2. Nhóm các chính sách trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực để

phát triển kinh tế tư nhân

48


2.2.3. Nhóm các chính sách về đất đai

48

2.2.4. Nhóm các chính sách hỗ trợ tín dụng cho thành phần kinh
tế tư nhân

49

2.2.5. Nhóm các chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng

50

2.2.6. Các chính sách liên quan đến cải cách hành chính

51

2.2.7. Các chính sách khác

51

2.3. Tình hình phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh Bắc Ninh
2.3.1. Về số lượng và quy mô các doanh nghiệp tư nhân

52

52

2.3.2. Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân trong các ngành ở
Bắc Ninh

58

2.4. Đánh giá chung về tình hình phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh
Bắc Ninh

64

2.4.1. Những kết quả đạt được

64

2.4.2. Những hạn chế của kinh tế tư nhân Bắc Ninh

68

2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong phát triển KTTN ở
Bắc Ninh

73

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TƯ NHÂN Ở TỈNH BẮC NINH TRONG THỜI GIAN TỚI

80


3.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội liên quan đến phát triển kinh tế tư
nhân ở Bắc Ninh

80

3.1.1. Cơ hội, thách thức đối với kinh tế tư nhân tỉnh Bắc Ninh
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
3.1.2. Mục tiêu phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh Bắc Ninh

80
83

3.2. Một số giải pháp phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh Bắc Ninh
trong thời gian tới

85

3.2.1. Nhóm giải pháp đối với chính quyền và các cơ quan ban
ngành của tỉnh Bắc Ninh

85

3.2.2. Nhóm các giải pháp trực tiếp đối với khu vực kinh tế tư
nhân của tỉnh Bắc Ninh

91

KẾT LUẬN

103


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

105


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CN - TTCN

: Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp

CNH, HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNTB

: Chủ nghĩa tư bản

CTCP

: Công ty cổ phần

DN

: Doanh nghiệp

DNNN

: Doanh nghiệp nhà nước


DNTN

: Doanh nghiệp tư nhân

DNVVN

: Doanh nghiệp vừa và nhỏ

ĐTNN

: Đầu tư nước ngoài

GDP

: Tổng sản phẩm trong nước

KCN, CCN

: Khu công nghiệp, cụm công nghiệp

KCX

: Khu chế xuất

KH & ĐT

: Kế hoạch và đầu tư

KTQT


: Kinh tế quốc tế

KTTN

: Kinh tế tư nhân

KTTT

:

Kinh tế trang trại

MMTB

: Máy móc thiết bị

NQD

: Ngoài quốc doanh

SXKDCT

: Sản xuất kinh doanh cá thể

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

UBND


: Ủy ban nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN
Trang
Bảng 1.1: Số lượng doanh nghiệp thực tế đang hoạt động sản xuất
kinh doanh trên cả nước tính đến 31/12 hàng năm

20

Bảng 1.2: Khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước phân theo quy mô
nguồn vốn

21

Bảng 1.3: GDP theo giá so sánh 1994 chia theo thành phần kinh tế

23

Bảng 1.4: GDP theo giá so sánh 1994 chia theo khu vực kinh tế

25

Bảng 2.1: Tổng sản phẩm nội địa tỉnh Bắc Ninh theo giá thực tế


39

Bảng 2.2: Tổng sản phẩm GDP bình quân đầu người

39

Bảng 2.3: Số lượng di tích lịch sử văn hoá tỉnh Bắc Ninh

40

Bảng 2.4: Số lượng doanh nghiệp tư nhân đăng ký mới của Bắc Ninh
và toàn quốc
Bảng 2.5: Số lượng các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân

53
54

Bảng 2.6: Số lao động sử dụng trong các doanh nghiệp phân theo
thành phần kinh tế tại Bắc Ninh
Bảng 2.7: Số lượng các DNTN ở Bắc Ninh theo quy mô lao động

56
56

Bảng 2.8: Số lao động bình quân của doanh nghiệp các thành phần
kinh tế ở Bắc Ninh năm 2000 và 2010

57

Bảng 2.9: Số cơ sở sản xuất kinh tế cá thể, tiểu chủ phi nông nghiệp

tỉnh Bắc Ninh
Bảng 2.10: Phân bố số hộ SXKDCT phi nông nghiệp theo huyện thị

58
59

Bảng 2.11: Một số chỉ tiêu về hộ SXKDCT phi nông nghiệp trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2000-2010

60

Bảng 2.12: Tăng trưởng số lượng trang trại giai đoạn 2005-2010

61

Bảng 2.13: Cơ cấu trang trại theo loại hình năm 2006 và 2010

63

Bảng 2.14: Vốn đầu tư toàn xã hội theo khu vực tại tỉnh Bắc Ninh

65

Bảng 2.15: Tỷ trọng đóng góp GDP của tỉnh Bắc Ninh theo thành
phần kinh tế

66


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở nước ta kinh tế tư nhân đã có một lịch sử phát triển thăng trầm. Trước
đổi mới, do quan niệm sai lầm đồng nhất kinh tế quốc doanh với CNXH, nên
chúng ta đã nóng vội xoá bỏ kinh tế tư nhân. Sai lầm cực đoan đó đã dẫn tới
lãng phí các nguồn lực, làm chậm tiến trình phát triển kinh tế của đất nước.
Kể từ Đại hội VI của Đảng, nhất là từ khi có Nghị quyết 16 NQ/TW của
Bộ Chính trị BCH-TW khoá VI về đổi mới chính sách và cơ chế quản lý kinh
tế ngoài quốc doanh, kinh tế tư nhân ở nước ta mới được phục hồi phát triển.
Nằm trong bối cảnh chung của cả nước, trong những năm đổi mới vừa
qua kinh tế tư nhân ở Bắc Ninh đã có những bước phát triển đáng kể. Khu vực
kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng vào việc huy động các nguồn lực giải
quyết việc làm tăng thu nhập và làm năng động nền kinh tế của địa phương, tạo
áp lực cạnh tranh thúc đẩy tăng trưởng và phát triển nền kinh tế trên địa bàn.
Bên cạnh những thành quả trên cũng như tình trạng chung của cả nước,
khu vực kinh tế tư nhân ở Bắc Ninh vẫn bộc lộ không ít hạn chế tiêu cực. Tuy
số lượng cơ sở và doanh nghiệp tư nhân tăng lên rất nhanh, nhất là từ khi có
luật doanh nghiệp (năm 2000), nhưng chất lượng hoạt động chưa tương xứng
với sự gia tăng đó. Hầu hết cơ sở doanh nghiệp tư nhân quy mô còn nhỏ, công
nghệ lạc hậu, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, còn mang nặng tính tự phát,
chủ thể sản xuất - kinh doanh chưa yên tâm về lâu dài… Tình trạng này gây tác
động hạn chế không nhỏ đến yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH và quá trình chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế của Tỉnh. Bắc Ninh đang thiếu các giải pháp và
cơ chế để phát huy những yếu tố tích cực của thành phần kinh tế này và hạn
chế những tiêu cực của nó trong quá trình phát triển.
Trước những vấn đề cấp bách nêu trên tôi chọn đề tài “Kinh tế tư nhân
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” làm đề tài luận văn thạc sỹ kinh tế của mình.

1



2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề kinh tế tư nhân ở nước ta nói chung và ở các tỉnh nói riêng đã
được quan tâm nghiên cứu, phân tích và đã trở thành chủ trương của Đảng trong
đường lối chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong công cuộc đổi mới.
- Nhóm tác giả cuốn sách: “Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản
tư nhân - Lý luận và chính sách” (2002, NXB CTQG) do PGS, TS Hà Huy
Thành chủ biên đã đi sâu phân tích thực trạng phát triển khu vực KTTN ở nước
ta trong thời kỳ đổi mới (theo ngành nghề và theo vùng lãnh thổ) nêu lên những
kết quả đạt được, những tồn tại, yếu kém, nguyên nhân chủ yếu và khuyến nghị
những chính sách, giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển khu vực KTTN.
- Trong cuốn: “KTTN và quản lý nhà nước đối với KTTN ở nước ta
hiện nay” (2003, NXB CTQG) do GS,TS Hồ Văn Vĩnh chủ biên, không chỉ
phân tích thực trạng hoạt hoạt động của khu vực KTTN, mà còn phân tích
thực trạng quản lý nhà nước đối với khu vực KTTN. Trên cơ sở đó, nhóm
tác giả đưa ra khuyến nghị phương hướng và tiếp tục đổi mới quản lý nhà
nước đối với KTTN ở nước ta.
- Cuốn sách: “KTTN Việt Nam sau hai thập kỷ đổi mới thực trạng và
những vấn đề đặt ra” (2005, NXB Khoa học xã hội) của tác giả Đinh Thị Thơm.
Đây là tác phẩm thu thập và hệ thống các bài viết phân tích, đánh giá, kiến giải
và những giải pháp đúc kết trong những công trình, bài viết của 9 nhà nghiên
cứu về những vấn đề lý luận, thực tiễn phát triển và hạn chế cũng như triển vọng
phát triển của khu vực KTTN.
- Trong cuốn: “Phát triển KTTN ở Việt Nam hiện nay” (2006, NXB
CTQG) của tác giả Vũ Quốc Tuấn đã đi sâu phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn
trình bày quá trình tìm tòi, thử nghiệm, đột phá, đấu tranh tư tưởng và tổng kết
sự phát triển của kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, trong đó
KTTN là bộ phận quan trọng. Đồng thời phân tích, nhận dạng và dự báo xu

2



hướng phát triển KTTN, đề xuất một số chính sách, giải pháp phát triển KTTN
trong giai đoạn tới.
- Đến nay đã có các công trình được công bố như: Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ “Một số vấn đề cơ bản về phát triển khu vực tư nhân với tư
cách là động lực cơ bản của mô hình tăng trưởng kinh tế mới giai đoạn 20112020” của TS. Vũ Hùng Cường, Viện kinh tế Việt Nam, được thực hiện năm
2009-2010. Nội dung nghiên cứu của đề tài nhấn mạnh vị trí vai trò của khu
vực kinh tế tư nhân đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế của Việt Nam
giai đoạn 2001-2010; thực trạng phát triển khu vực KTTN ở Việt Nam giai
đoạn 2001-2010 và quan điểm, định hướng, đề xuất giải pháp phát triển khu
vực KTTN trở thành động lực cơ bản của mô hình tăng trưởng kinh tế mới
giai đoạn 2011-2020.
- Đề tài “Phát triển kinh tế tư nhân và vấn đề đảng viên làm kinh tế tư
nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của PGS.TS
Vũ Văn Gàu, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, được thực hiện năm
2010. Nội dung đề tài phân tích quá trình hình thành và phát triển quan điểm
của Đảng ta về phát triển KTTN và vấn đề đảng viên làm KTTN theo tiến
trình của công cuộc đổi mới đất nước.
- Tài liệu “Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam”, được Nxb Chính trị quốc gia xuất bản năm 2010. Cuốn
sách được hình thành trên cơ sở đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước mã
số KX.04.09/06-10 trong chương trình khoa học cấp nhà nước KX.04 “Nghiên
cứu khoa học lý luận chính trị giai đoạn 2006-2010”. Nội dung cuốn sách nêu
những vấn đề cơ bản về sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, trong đó có vấn đề sở hữu tư nhân; thực trạng vấn đề sở hữu, các
thành phần kinh tế, nhấn mạnh đến thành phần KTTN trong quá trình đổi mới
kinh tế ở Việt Nam; và quan điểm, xu hướng, giải pháp đối với vấn đề sở hữu,
các thành phần kinh tế trong thời gian tới.

3



Riêng đối với tỉnh Bắc Ninh, liên quan đến khu vực KTTN cũng có
một số công trình:
- Luận án tiến sĩ: “Quá trình phát triển DN vừa và nhỏ ngoài quốc
doanh ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ 1997-2003 - Thực trạng, kinh nghiệm và
giải pháp” năm 2008 của tác giả Mẫn Bá Đạt - Đại học KTQD. Tác giả đã
nghiên cứu sự phát triển của các DNVVN ngoài quốc doanh ở tỉnh Bắc Ninh
để thấy được thực trạng của khu vực này và những chính sách của nhà nước
và địa phương tác động đến sự phát triển của DNVVN ngoài quốc doanh,
hoạt động của DNVVN ngoài quốc doanh và những đóng góp của nó đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
- Luận án Tiến sĩ: “Quá trình hoàn thiện các chính sách thúc đẩy phát
triển làng nghề ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ 1997 đến 2003 - Thực trạng,
kinh nghiệm và giải pháp”, năm 2008 của tác giả Nguyễn Như Chung ĐHKTQD. Luận án này làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của các
chính sách đối với sự phát triển các làng nghề trong quá trình CNH, HĐH
nông nghiệp nông thôn và phát triển kinh tế thị trường; đồng thời phân tích
tác động của chính sách (của Nhà nước và địa phương) đến sự phát triển các
làng nghề ở tỉnh Bắc Ninh, rút ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất các
quan điểm, các giải pháp chủ yếu và các kiến nghị nhằm hoàn thiện chính
sách thúc đẩy phát triển làng nghề ở tỉnh Bắc Ninh.
Như vậy, nghiên cứu KTTN ở Bắc Ninh đã được một số tác giả chú ý
nhưng chỉ đề cập ở một vài khía cạnh. Việc nghiên cứu KTTN với tư cách là
một khu vực kinh tế năng động với những đóng góp quan trọng trong sự phát
triển kinh tế của Bắc Ninh với những thành tựu đạt được và những khó khăn
gây cản trở sự phát triển của nó để đưa ra các giải pháp phát triển KTTN ở
tỉnh Bắc Ninh trong điều kiện hội nhập KTQT thì chưa có một công trình nào
nghiên cứu một cách thấu đáo.

4



3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Làm rõ vị trí, vai trò của KTTN nói chung và đối với sự phát triển của
Tỉnh Bắc Ninh nói riêng. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng, rút ra những
nhận định tổng quan về tình hình phát triển KTTN, đề xuất phương hướng và
các giải pháp chủ yếu phát triển KTTN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh cho những
năm sau.
3.2. Nhiệm vụ
Hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến KTTN, làm
cơ sở cho việc phân tích thực trạng, đánh giá quá trình phát triển kinh tế tư
nhân tại Bắc Ninh trong thời gian qua.
Đưa ra dự báo để định hướng phát triển KTTN trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh trong thời gian tới. Đề xuất và kiến nghị các giải pháp để phát triển kinh
tế tư nhân trên địa bàn Tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những nội dung chủ yếu liên
quan tới quá trình phát triển KTTN ở Bắc Ninh, bao gồm: quy mô, chất lượng
phát triển của khu vực KTTN; mối tương quan giữa khu vực KTTN với các
khu vực kinh tế khác đặc biệt giữa KTTN với chính quyền địa phương...
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Vấn đề phát triển KTTN rất rộng lớn, trong phạm vi
luận văn chỉ tập trung nghiên cứu vào quá trình phát triển của các cơ sở và
doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân trong các ngành công nghiệp,
nông nghiệp, xây dựng, dịch vụ thương mại trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
- Về thời gian nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình
phát triển KTTN ở Bắc Ninh từ năm 2000 trở lại đây, bởi vì đây cũng là thời


5


điểm Luât Doanh nghiệp có hiệu lực và Bắc Ninh cũng mới được tái lập từ
năm 1997 nên số liệu thống kê thời điểm này mới đầy đủ và đồng bộ.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và những quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước Việt Nam để áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể tại tỉnh Bắc Ninh.
Các phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị được coi trọng sử dụng
trong luận văn là phương pháp khảo sát thực tiễn, phân tích và tổng hợp, phương
pháp trừu tượng hoá khoa học, phương pháp thống kê, phân tích kinh tế…
6. Đóng góp chủ yếu về khoa học của luận văn
Trên cơ sở phân tích đúng tình hình kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh, luận văn làm rõ những thành công, hạn chế trong lĩnh vực này, đề
xuất những giải pháp khả thi cho việc phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn
Tỉnh, phát huy động lực mạnh mẽ của khu vực kinh tế năng động này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 9 tiết.

6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG THỜI KỲ QUÁ
ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI


1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về kinh tế tư nhân
trong nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội
Xuất phát từ thế giới quan duy vật về lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen
cho rằng, sự biến đổi của các chế độ xã hội là quá trình phát triển lịch sử tự
nhiên. Đó là do yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản
xuất và người sử dụng tư liệu sản xuất đó với kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng
và thói quen lao động của họ. Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với
người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất luôn luôn tác động lẫn nhau. Sự thống nhất và
tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất tạo thành
phương thức sản xuất.
Từ phân tích đó, C.Mác đã rút ra các quy luật phát triển của chủ nghĩa
tư bản và kết luận phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa sẽ thay thế
phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa là tất yếu khách quan. Phương thức
mới sẽ trải qua hai giai đoạn: Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa Cộng sản
Mở đầu giai đoạn chủ nghĩa xã hội là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư
bản có những đặc trưng chủ yếu: một là, kế thừa và phát triển lực lượng sản
xuất mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra trên cơ sở nâng cao trình độ xã hội hóa sản
xuất và lao động; hai là, quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất tồn tại dưới nhiều
hình thức sở hữu; ba là, còn sản xuất hàng hóa; bốn là, lao động vừa là quyền

7


lợi, vừa là nghĩa vụ và còn có sự khác nhau về lao động, do đó kết quả lao
động cũng khác nhau; năm là, thực hiện phân phối theo lao động.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, V.I. Lênin đã vận dụng và phát triển
học thuyết của Mác để xác định đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước

Nga sau năm 1917. Theo ông, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế
độ tư hữu về tư liệu sản xuất; còn quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nên chủ nghĩa xã hội không thể ra đời
trong lòng xã hội tư bản. Hơn nữa, để xây dựng chế độ công hữu xã hội chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất, xây dựng xã hội mới, cần phải có thời gian, nghĩa là
tất yếu phải có thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Từ sự phân tích như vậy, Lê nin cho rằng cách mạng vô sản giành được
chính quyền mới chỉ là sự khởi đầu cho thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong thời kỳ quá độ như vậy, nền kinh tế có tính chất quá độ: nó không còn
là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, nhưng cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa.
Phân tích thực trạng nền kinh tế của nước Nga lúc đó, ông cho rằng ở
nước Nga có 5 thành phần kinh tế: Một là, kinh tế nông dân gia trưởng;
Hai là, kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ của nông dân, tiểu thủ công cá thể và
tiểu thương; Ba là, kinh tế tư bản tư nhân; Bốn là, kinh tế tư bản nhà nước;
Năm là, kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, không bao lâu sau cách mạng tháng Mười năm 1917, nước
Nga lâm vào nội chiến 1918-1920. Trong thời kỳ này, Lênin đã áp dụng chính
sách Cộng sản Thời chiến. Đó là chính sách trưng thu lương thực thừa của
nông dân sau khi dành lại cho họ mức ăn tối thiểu, đồng thời xóa bỏ quan hệ
hàng hóa - tiền tệ, thực hiện chế độ cung cấp hiện vật cho quân đội và bộ máy
nhà nước. Chính sách cộng sản thời chiến đã chiến thắng được kẻ thù, bảo vệ
nhà nước Xô Viết non trẻ.

8


Nhưng khi hòa bình lập lại, chính sách này lại không còn thích hợp, nó
kìm hãm sự phát triển sản xuất.
Trong bối cảnh đó, chính sách Kinh tế mới ra đời (NEP). Nội dung và

biện pháp chủ yếu của NEP là thay thế chính sách trưng thu lương thực, theo
chính sách này, người nông dân chỉ nộp thuế lương thực cho nhà nước, số
lương thực còn lại, người nông dân được tự do trao đổi, mua bán trên thị
trường; tổ chức thị trường, thương nghiệp, thiết lập quan hệ hàng hóa - tiền tệ
giữa nhà nước và nông dân, giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và
nông nghiệp; sử dụng sức mạnh của nền kinh tế nhiều thành phần, khuyến
khích phát triển sản xuất hàng hóa nhỏ của nông dân, thợ thủ công; khuyến
khích kinh tế tư bản tư nhân, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, củng cố lại
các doanh nghiệp nhà nước, thực hiện chế độ hạch toán kinh tế và quan hệ
hợp tác kinh tế với các nước tư bản phương Tây.
Nội dung và giải pháp của NEP đã đánh dấu một bước phát triển mới
về lý luận kinh tế xã hội chủ nghĩa. Theo NEP, kinh tế nhiều thành phần, các
hình thức kinh tế quá độ, việc duy trì và phát triển quan hệ hàng hóa - tiền tệ,
sự quan tâm tới lợi ích kinh tế cá nhân trước hết là của nông dân, là những
vấn đề có tính chất nguyên tắc trong việc xây dựng mô hình kinh tế xã hội
chủ nghĩa.
Chính sách kinh tế mới có ý nghĩa quốc tế to lớn đối với các nước
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó có nước ta. Những
quan điểm kinh tế của Đảng ta, nhất là từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI đến nay, đã thể hiện sự nhận thức và vận dụng quan điểm trong
chính sách kinh tế mới của Lênin. Tất nhiên do thời gian và không gian xa
cách nhau, trải qua những biến động khác nhau, nên nhận thức và vận dụng
có thể có sự khác nhau, kể cả bước đi, nội dung và biện pháp cụ thể trong
khi tiến hành ở nước ta.

9


1.1.2. Các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về thành phần kinh tế
tư nhân

* Trước năm 1986
Cuối những năm 1970, trước tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội của
đất nước, hội nghị lần thứ 6 của BCH Trung ương Khóa IV (tháng 9/1979) chủ
trương “làm cho sản xuất bung ra” và sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế,
Hội nghị khẳng định sự cần thiết kết hợp kế hoạch với thị trường, kết hợp thị
trường có kế hoạch với thị trường tự do...Tiếp đến Ban Bí thư ra chỉ thị 100 về
khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp,
Chính phủ ra Nghị định 25/CP, 26/CP xác định việc sử dụng các quan hệ thị
trường,...Chính trên cơ sở những quyết sách đúng đắn đó, mà nhiều địa phương
đã có những tìm tòi sáng tạo về phát triển kinh tế hộ tiểu chủ công nghiệp, sửa
đổi giá, lương, tiền. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng
(1982) khẳng định chủ trương đó và thừa nhận ở miền nam vẫn còn năm thành
phần kinh tế. Tuy vậy đến năm 1986, KTTN vẫn được coi là tồn tại tạm thời và
giữ vai trò thứ yếu, bổ trợ cho kinh tế quốc doanh.
* Từ năm 1986 đến nay.
Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt
Nam (12/1986) - thời điểm được đánh dấu là cột mốc quan trọng trong công
cuộc đổi mới đất nước, trước hết là đổi mới kinh tế. Thông qua các chính sách
kinh tế mới của Đảng và nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân được hồi sinh và
phát triển trong một nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước. Các Đại hội của Đảng sau đó đã
khẳng định lại đường lối khởi xướng tại Đại hội VI và đưa ra các định hướng
lớn trong chính sách phát triển kinh tế Việt Nam.
Theo đó sự phát triển kinh tế tư nhân được khẳng định như sau: Kinh tế
cá thể tiểu chủ ở cả nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà
nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển; khuyến khích các hình thức tổ

10



chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn
hơn. Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những
ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường
kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát
triển trên những định hướng ưu tiên của nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài.
Đảng ta đã cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân trong các ngành
nghề lĩnh vực sản xuất kinh doanh quan trọng mà pháp luật không cấm, đã có
tác dụng khuyến khích mạnh mẽ hơn nữa việc phát triển kinh tế tư nhân, tạo
điều kiện cho kinh tế tư nhân được phát huy đầy đủ tiềm năng thế mạnh, tạo
sức bật lớn cho nền kinh tế. Đây được coi là bước đột phá mới về nhận thức
phát triển kinh tế tư nhân.
Đường lối đổi mới cơ bản đó của Đảng đã được thể chế hóa trong các
văn bản pháp lý. Trước hết là Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam có 15 điều quy định về chế độ kinh tế, theo đó nền kinh
tế Việt Nam là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiến
pháp năm 1992 còn quy định kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân được chọn
hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, được thành lập không bị hạn chế về
quy mô, hoạt động trong nhiều ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh.
Tháng 1/1991, chủ tịch Hội đồng Nhà nước đã ký sắc lệnh ban hành
luật doanh nghiệp tư nhân và luật công ty, tiếp theo là các nghị định của hội
đồng bộ trưởng ban hành cụ thể hóa các điều luật của luật doanh nghiệp tư
nhân và luật công ty cho phép công dân Việt Nam đủ 18 tuổi có quyền thành
lập doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty. Ngoài ra đối với các cá nhân, nhóm
kinh doanh có vốn thấp hơn vốn pháp định theo quy định đối với các doanh
nghiệp, công ty tư nhân thì được thành lập hộ sản xuất kinh doanh cá thể, tiểu
chủ hoặc nhóm hộ kinh doanh được đăng ký theo nghị định số 66/HĐBT ban
hành tháng 2 năm 1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ).

11



Trở lại giai đoạn lịch sử về phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta để thấy
rằng quan điểm của Đảng ta đối với thành phần kinh tế này đã dần có sự thay
đổi theo chiều hướng tích cực, nghĩa là, có tư duy đúng, có quan điểm đổi mới
đối với thành phần kinh tế tư nhân, tạo nhiều thuận lợi để khuyến khích thành
phần kinh tế này phát triển đúng định hướng.
Mặt mạnh của khu vực kinh tế tư nhân là có động lực cá nhân mạnh
mẽ, nó sẽ giúp hoạt động kinh doanh diễn ra năng động, nhanh chóng đổi
mới, hệ thống điều hành và quan lý gọn nhẹ, có hiệu quả và chi phí thấp. Lợi
ích cá nhân là một động lực mạnh mẽ của con người, tồn tại lâu dài. Việc sử
dụng động lực đó phục vụ cho lợi ích chung của xã hội là rất cần thiết trong
giai đoạn hiện nay ở nước ta.
Do vậy, trong nội dung này, có 02 vấn đề cần thiết phải làm rõ:
Thứ nhất, kinh tế tư nhân và vấn đề bóc lột giá trị thặng dư.
Xuất phát từ quan niệm cho rằng kinh tế tư nhân gắn liền với bóc lột,
quy mô kinh tế nhỏ thì bóc lột ít, quy mô kinh tế lớn thì bóc lột nhiều nên
một thời kinh tế tư nhân không được khuyến khích phát triển, là đối tượng
cải tạo xã hội chủ nghĩa để từng bước thu hẹp và xóa bỏ khu vực kinh tế
này. Cùng với quá trình đổi mới các chính sách đối với kinh tế tư nhân đã
thay đổi khá căn bản: Kinh tế hộ gia đình và kinh tế cá thể được khuyến
khích phát triển; kinh tế tư bản tư nhân mặc dù đã tuyên bố được phát triển
bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, song trong nhận thức lý luận
của các cấp hoạch định chính sách trên thực tế còn nhiều quan điểm chưa
nhất quán.
Ít nhất có 4 quan điểm khác nhau về vị trí của kinh tế tư nhân trong
nền kinh tế và thái độ ứng xử với kinh tế tư nhân như sau: Một là, coi
kinh tế tư nhân gắn liền với bóc lột, vì vậy phải cải tạo, thu hẹp và từng
bước xóa bỏ. Đây là quan điểm đã từng chiếm địa vị thống trị trong nhiều
năm trước đây. Hai là, coi kinh tế cá thể và tiểu chủ là không có bóc lột


12


nên có thể khuyến khích phát triển, còn kinh tế tư bản tư nhân là có bóc
lột nên có thể tạm thời chấp nhận trong một giai đoạn nào đó, song về lâu
dài phải giới hạn sự phát triển. Ba là, coi kinh tế tư nhân là bộ phận cần
thiết có vai trò và vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế và có mối liên kết
bổ sung hài hòa với kinh tế nhà nước trong quá trình phát triển lâu dài của
nền kinh tế. Bốn là, coi kinh tế tư nhân là bộ phận chính, là động lực chủ
yếu của nền kinh tế quốc dân, quyết định rất lớn đến hiệu quả cũng như sự
phát triển chung của nền kinh tế, trong khi đó kinh tế nhà nước đóng vai
trò hỗ trợ, chỉ làm những gì mà kinh tế tư nhân không muốn làm hoặc làm
không hiệu quả.
Điểm mấu chốt quyết định thái độ ứng xử với khu vực kinh tế tư nhân,
đặc biệt là kinh tế tư bản tư nhân là quan điểm về bóc lột và bản chất của hiện
tượng này trong nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội và cách thức của nhà
nước xã hội chủ nghĩa xử lý hiện tượng bóc lột này.
Bản chất của tình trạng bóc lột trong phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa đã được các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác phân tích trên cơ sở vận dụng
tư tưởng cơ bản về học thuyết giá trị thặng dư. Sự bóc lột diễn ra khi giá trị
của lao động mới sáng tạo ra vượt quá giá cả sức lao động và người chủ thuê
mướn lao động chiếm đoạt phần thặng dư đó làm sở hữu của mình.
Với sự lý giải này về sự bóc lột thì không phải cứ có thuê mướn lao
động là có bóc lột và cũng không phải cứ thuê nhiều nhân công là có mức bóc
lột cao. Bởi vì với một năng suất lao động trong một nền kinh tế kém phát
triển thì phần giá trị thặng dư mà người lao động mới sáng tạo ra rất thấp và
do đó phần giá trị thặng dư mà người chủ thuê mướn lao động thu được cũng
rất thấp mặc dù số người làm công có thể rất đông.
Đó là chưa kể đến các yếu tố khách quan khác ảnh hưởng đến sự lỗ, lãi

trong kinh doanh như ảnh hưởng của yếu tố tự nhiên (đối với sản xuất
nông, ngư nghiệp), của cung cầu và giá cả trong từng thời điểm cụ thể, của

13


tài năng trong quản lý,... Do vậy, vấn đề là ở chỗ phải xem người chủ thuê
mướn lao động có chiếm đoạt được giá trị thặng dư hay không và chiếm
đoạt được nhiều hay ít. Về vấn đề này, Các Mác đã lý giải rất kỹ cách thức
phân phối và phân phối lại giá trị thặng dư sau khi nó được sản xuất ra và
cho thấy, trong xã hội tư bản chủ nghĩa có rất nhiều nhân vật tham gia việc
phân chia giá trị thặng dư, đó là nhà tư bản ngân hàng và những người cho
vay vốn hưởng lãi suất, là chủ đất hưởng địa tô chênh lệch II, nhà nước
hưởng phần thu thuế.
Trong khi phải chấp nhận sự tồn tại của các hình thức kinh tế khác
nhau đại diện cho những phương thức sản xuất khác nhau và vì vậy có những
quan hệ sản xuất khác nhau, trong đó có quan hệ thuê mướn lao động và
chiếm đoạt giá trị thặng dư trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì
nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa là điều tiết quá trình phân phối và
phân phối lại sao cho mức độ chiếm đoạt giá trị thăng dư của những người
thuê mướn lao động sống có thể chấp nhận được, không gây nên những mâu
thuẫn xã hội gay gắt và cản trở quá trình phát triển kinh tế, thực hiện từng
bước sự công bằng xã hội.
Thứ hai, kinh tế tư nhân và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước, các chính sách và biện pháp kinh tế
- xã hội của Đảng và nhà nước phải nhằm tạo lập môi trường kinh tế mới,
thích hợp trong đó mọi cá nhân có thể phát huy tài năng của mình làm giàu
cho bản thân và cho đất nước.
Việc chấp nhận quan hệ trao đổi hàng hóa sức lao động và chấp nhận

sự phân phối chưa công bằng là phù hợp với quy luật của nền kinh tế thị
trường - dù điều này xét về mặt luân lý và đạo đức là điều mà chúng ta không
mong muốn. Tuy nhiên nhà nước xã hội chủ nghĩa với quyền điều hành nền

14


kinh tế của mình có thể có những chính sách làm hạn chế mức độ chênh lệch
về thu nhập và về bóc lột sức lao động.
Trong quan hệ mua bán sức lao động, nhà nước ta thông qua Bộ luật
Lao động vàcác quy chế khác có thể bắt buộc những người thuê mướn lao
động đảm bảo những quyền lợi cơ bản cho người lao động như tiền lương, giờ
làm việc, điều kiện an toàn lao động, vệ sinh lao động, v.v.. Tương tự như
vậy, trong quan hệ phân phối và phân phối lại thu nhập, nhà nước hoàn toàn
có thể thông qua việc xác định thể chế thuê mướn lao động, hợp đồng lao
động, trả công lao động, chính sách thuế để điều tiết và phân phối lại thu
nhập, hoặc thông qua chính sách đầu tư, chính sách xã hội, phát triển phúc lợi
xã hội công cộng,... để trả lại một phần giá trị thặng dư cho người lao động đã
tạo ra nó.
Như thế, có thể nói, khi nhà nước ta điều hành đất nước, trong đó có
điều hành nền kinh tế ở mức phù hợp, thì “Nhà tư bản” và “Người lao động
làm thuê” không phải là nhà tư bản và người làm thuê thuần túy như trong xã
hội tư bản chủ nghĩa. Mối quan hệ giữa chủ và người làm thuê đã được nhà
nước quy định và giám sát. Đó là chưa kể vai trò kiểm tra giám sát của các tổ
chức như Đảng, Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn,... đối với các hoạt động của
giới chủ và người lao động.
Tất cả những điều vừa trình bày trên cho thấy giữa các doanh
nghiệp, cơ sở thuộc thành phần kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và các doanh nghiệp, cơ sở trong nền
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa có sự khác biệt căn bản. Vì thế sẽ là

không thỏa đáng nếu cứ xem thành phần kinh tế tư nhân hàng ngày, hàng
giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản và do đó là đối tượng cải tạo của chủ nghĩa xã
hội. Ngược lại, các hình thức kinh tế tư bản tư nhân sẽ có đóng góp quan
trọng, lâu dài vào sự nghiệp phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.

15


Từ những vấn đề lý luận chung về các thành phần kinh tế, có thể hiểu:
Kinh tế tư nhân được dùng để chỉ thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản
tư nhân hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình
doanh nghiệp khác.
Xét về mặt quan hệ sở hữu, kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư
nhân đều thuộc loại hình sở hữu tư nhân, khác với sở hữu toàn dân, sở hữu tập
thể. Nhưng nếu xét về phương diện thành phần kinh tế thì kinh tế cá thể, tiểu
chủ và kinh tế tư bản tư nhân có thời kỳ chúng ta quan niệm là hai thành phần
kinh tế khác nhau, khác về trình độ phát triển lực lượng sản xuất và về bản
chất quan hệ sản xuất. Mặc dù vậy, do điều kiện của thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam, tại Đại hội X, Đảng ta đã ghép hai bộ phận này thành một
thành phần là thành phần kinh tế tư nhân.
Hiện nay, kinh tế tư nhân ở nước ta được khuyến khích phát triển dưới
sự lãnh đạo của Đảng và pháp luật của Nhà nước nên đã có thể kinh doanh
trong hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế, ngoại trừ một số ít lĩnh vực mà
Nhà nước giữ độc quyền nhằm đảm bảo an ninh và quốc phòng.
1.2. CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC SẢN XUẤT VÀ VAI TRÒ CỦA KINH TẾ
TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM

1.2.1. Các hình thức tổ chức sản xuất của kinh tế tư nhân ở Việt Nam

Ở nước ta, khi chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN với
kinh tế nhiều thành phần, kinh tế tư nhân được phát triển theo hướng tự do
kinh doanh những ngành, nghề công việc mà luật pháp không cấm. Kinh tế tư
nhân được hình thành trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, sở hữu tư
nhân gồm sở hữu tư nhân nhỏ (sở hữu của những người lao động làm ra sản
phẩm bằng chính lao động của họ và các thành viên trong gia đình như hộ
nông dân cá thể…) và sở hữu tư nhân lớn - sở hữu vốn, tài sản của các nhà
sản xuất kinh doanh trong nước và nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.

16


Kinh tế tư nhân bao gồm các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh sau:
- Loại hình kinh tế cá thể, tiểu chủ: là hình thức kinh tế của một hộ gia
đình hay một cá nhân hoạt động dựa trên hình thức sở hữu tư nhân nhỏ về tư
liệu sản xuất và hoạt động chủ yếu vào sức lao động của chính họ. Hình thức
kinh doanh này chủ yếu sử dụng lao động trong gia đình, việc sử dụng lao
động làm thuê không thường xuyên. Hộ kinh doanh cá thể là đơn vị kinh tế
độc lập tự chủ trong sản xuất kinh doanh, là chủ thể trong mọi quan hệ sản
xuất và tự chịu trách nhiệm về kết quả tài chính của mình.
Loại hình kinh tế cá thể gồm có: Kinh tế hộ gia đình là hình thức tổ
chức sản xuất chủ yếu trong loại hình kinh tế cá thể và trong khu vực sản xuất
nông, lâm nghiệp, đây là bộ phận cấu thành quan trọng của kinh tế tư nhân.
Kinh tế tiểu chủ cũng là hình thức kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ về tư
liệu sản xuất nhưng có thuê mướn lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu
dựa vào sức lao động và vốn của bản thân và gia đình (đó là những hộ làm
kinh tế trang trại, kinh tế trang trại chính là một hình thức của kinh tế tiểu chủ
trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp).
Mục tiêu kinh doanh chủ yếu của kinh tế cá thể, tiểu chủ xuất phát từ
nhu cầu giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho các thành viên trong gia đình,

họ hàng, vì vậy mục tiêu lợi nhuận chỉ là thứ yếu. Thực tế cho thấy, nhiều hộ
kinh doanh vẫn hoạt động kể cả trong những trường hợp sau khi hạch toán
kinh doanh không có lãi hoặc lãi ít để đảm bảo việc làm cho các thành viên
trong gia đình. Khi mới chuyển sang cơ chế thị trường, hệ thống kinh doanh
của các hộ cá thể phát triển một cách nhanh chóng, len lỏi vào mọi ngõ ngách,
phục vụ mọi nhu cầu đời sống của người dân, đặc biệt đối với các tầng lớp
dân cư có thu nhập thấp.
Tuy nhiên, tính tự phát trong kinh doanh có thể tác động xấu tới thị
trường, đồng thời, những hạn chế về quy mô, vốn, chất lượng nguồn nhân lực,
phương thức tổ chức kinh doanh, trình độ công nghệ, khả năng tiếp cận thị

17


trường sẽ gây cản trở cho sự phát triển của hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ, đặc
biệt trong tiến trình hội nhập sâu về kinh tế quốc tế. Vì vậy, sự phát triển của
các hộ cá thể tiểu chủ, rất cần tới sự giúp đỡ và định hướng của Nhà nước.
- Các doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân: dựa trên sở hữu tư nhân lớn
về vốn và các điều kiện kinh doanh. Hình thức kinh doanh là doanh nghiệp tư
nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh với
quy mô vốn và số lượng lao động nhỏ, thích hợp với khả năng tài chính, năng
lực quản lý của doanh nghiệp tư nhân, đồng thời cũng có thể thành lập những
tập đoàn kinh tế lớn hoạt động xuyên quốc gia.
Các loại hình kinh tế tư bản tư nhân được thành lập theo Luật Doanh
nghiệp, Luật Công ty tập trung vào các hoạt động dễ sinh lợi và thường tập
trung kinh doanh trên các địa bàn, các trung tâm kinh tế lớn, nơi tập trung khu
công nghiệp, đầu mối giao thông và khu đông dân cư nên có tác động tích cực
đến sự phát triển của các vùng kinh tế trọng điểm. Loại hình doanh nghiệp
này thích ứng với mọi ngành nghề, mọi trình độ từ thủ công đến tự động hóa,
tin học hóa, với quy mô từ nhỏ đến lớn, phù hợp với mọi địa bàn từ thành thị

đến nông thôn; hình thức sản xuất và phương pháp huy động vốn rất đa dạng,
cho phép huy động nguồn lực nội sinh; tổ chức bộ máy gọn nhẹ, có tính năng
động, nhạy bén; hiệu quả sản xuất, kinh doanh cao, thu hồi vốn nhanh, có khả
năng đổi mới công nghệ cao; họ có mối quan hệ kinh tế trong và ngoài nước,
vì thế rất năng động.
Tuy nhiên, lợi ích tư nhân có thể đi ngược lại lợi ích xã hội. Ý thức
chấp hành luật kém, tự phát, quá coi trọng lợi ích cá nhân dẫn đến những việc
làm phi pháp như trốn lậu thuế, làm hàng giả, hàng cấm, chụp giật; không
thích công khai thông tin các hoạt động của mình; khó tìm kiếm sự hợp tác
trong mọi hoạt động, từ chối những lĩnh vực kinh doanh không đẹm lại lợi
nhuận cao như trong lĩnh vực công ích; gây ô nhiễm môi trường; tạo nên sự
phân hóa thu nhập trong xã hội, khoảng cách giàu nghèo tăng lên.

18


×