LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều đổi mới và có
được bước phát triển mạnh mẽ. Đi từ một nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu,
cơ chế quản lý bao cấp, đến nay chúng ta đã từng bước xây dựng và phát triển một
nền kinh tế tiên tiến. Góp phần vào công cuộc xây dựng công nghiệp hoá - hiện đại
hoá đất nước. Trong sự nghiệp phát triển mạnh mẽ đó các công ty xí nghiệp đã
mạnh dạn áp dụng các chế độ hạch toán kế toán mới, phương thức sản xuất mới
vào kinh doanh.
Phân tích tài chính doanh nghiệp là một bộ phận của hoạt động sản xuất kinh
doanh và có mối quan hệ trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh .Phân tích tài
chính của một doanh nghiệp giúp chúng ta có cái nhìn chung nhất về thực trạng tài
chính của doanh nghiệp đó,giúp các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp xác định
được trọng điểm trong công tác quản lý tài chính , tìm ra những giải pháp tài chính
hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp .Do vậy, phân tích tài chính doanh nghiệp là mối quan tâm hàng đầu của
nhiều đối tượng .Mỗi đối tượng này có nhu cầu sử dụng thông tin khác nhau song
họ đều hướng tập trung vào những khía cạnh riêng trong bức tranh tài chính của
doanh nghiệp.
Tuy mới thành lập chưa được bao lâu nhưng các sản phẩm của công ty TNHH
Quốc tế Sinjoobo Việt Nam ngày càng được nhiều người biết đến, tình hình sản xuất
kinh doanh ngày càng phát triển. Để đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ hàng hóa tăng
cao, hiện tại công ty đang đầu tư xây dựng, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao năng
suất lao động, đổi mới công nghệ, phương pháp kinh doanh… Chính vì vậy mà việc
tổ chức công tác kế toán chặt chẽ, khoa học với những sổ sách kế toán đầy đủ, chi tiết,
phân tích tài chính cụ thể, chính xác là vô cùng cần thiết giúp nhà quản lý nắm rõ
hoạt động sản xuất kinh doanh và có những biện pháp thích hợp thúc đẩy sự phát
triển công ty.
Báo cáo gồm những phần sau:
Phần 1: Giới thiệu tổng quát về công ty TNHH Quốc tế Sinjoobo Việt Nam.
Phần 2: Tổng quan về phân tích tài chính doanh nghiệp.
Phần 3: Phân tích tình hình tài chính công ty TNHH Quốc tế Sinjoobo Việt Nam.
PHẦN I
GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT VỀ CÔNG TY TNHH QUỐC TẾ SINJOOBO
VIỆT NAM.
1.1:Gới thiệu chung về công ty TNHH Quốv Tế SINJOOBO VIỆT NAM.
1.1.1: Thông tin chung:
- Tên công ty: Công ty TNHH Quốc tế Sinjoobo Việt Nam, tên giao dịch
-
-
Sinjoobo International Limited Viet Nam
Địa chỉ: Khu Tiểu Trà, phường Hưng Đạo, quận Dương Kinh, thành phố
Hải Phòng.
Điện thoại: 031.3580.199
Fax: 0313.580.756
Mã số thuế: 0200568216
Quyết định thành lập: Công ty Sinjoobo được thành lập theo quyết định
số 65/GP-HP của UBND thành phố Hải Phòng cấp.
1.1.2: Quá trình hình thành và phát triển:
Nhận thấy việc cần thiết phải thành lập công ty dệt may hàng xuất khẩu để
đáp ứng nhu cầu kinh tế, công nghiệp hóa hiện đại hóa, đáp ứng tạo công ăn việc
làm cho người lao động và tạo ra lợi nhuận cho công ty. Góp phần đa dạng hóa sản
phẩm ngành công nghiệp cho thành phố Hải Phòng, đóng góp hiệu quả váo sự phát
triển chung của đất nước. Công ty TNHH Quốc tế Sinjoobo Việt Nam tên tiếng
anh là Sinjoobo International Limited Viet Nam tiền thân là công ty Liên doanh dệt
may Việt Nam- Malaysia được thành lập giữa bên Việt Nam là công ty TNHH
Minh Thành và bên nước ngoài là công ty Bo Fung Industries Malaysia Sdn.Bhd
theo giấy phép đầu tư số 65/GP-HP do UBND thành phố Hải Phòng cấp ngày
17/09/2003.
Công ty Liên doanh dệt may Việt Nam- Malaysia chuyển thành công ty
100% vốn nước ngoài với tên gọi là công ty TNHH Quốc tế Sinjoobo International
Limited (Việt Nam).
1.2. Cơ cấu tổ chức hoạt động, chức năng nhiệm vụ các bộ phận:
1.2.1.Sơ đồ bộ máy chung của công ty:
Công ty thực hiện mô hình cơ cấu tố chức theo kiểu trực tuyến. Hiện tại, với mô
hình cơ cấu tổ chức này đã thể hiện tính chuyên môn hóa cao trong công việc.
Ưu điểm: bộ máy đơn giản, gọn nhẹ. Không phát sinh tình trạng chồng chéo
mệnh lệnh. Chi phí quản lí thấp, có thể mang lại hiệu quả cao. Mỗi phòng ban sẽ
thực hiện những chức năng nhiệm vụ riêng cho nên hiệu quả làm việc sẽ cao và
kích thích được sự sáng tạo và nhiệt tình của mỗi phòng ban. Việc đào tạo huấn
luyện nhân sự sẽ trở lên đơn giản hơn. Nhân viên trong các phòng ban có cơ hội
nâng cao kĩ năng nghề nghiệp trong lĩnh vực chuyên môn của họ.
Nhược điểm: Cơ cấu này đòi hỏi người lãnh đạo phải có kiến thức toàn diện,
tổng hợp, đồng thời cơ cấu này làm hạn chế việc sử dụng các chuyên gia có
trình độ cao theo chuyên môn.Với kiểu mô hình cơ cấu này thì mỗi phòng ban
trong công ty chỉ chú trọng tới nhiệm vụ mình được giao, chỉ thực hiện vào mục
tiêu của phòng ban mình là không quan tâm tới các phòng ban khác dẫn tới sự
thiếu liên kết giữa các phòng ban trong công ty.
1.2.2.Chức năng các phòng ban trong cơ cấu tổ chức của công ty:
Tổng Giám đốc: chịu chịu trách nhiệm chung về toàn bộ quy trình sản xuất kinh
doanh của công ty.
Phó tổng giám đốc: điều hành các công việc ở khối sản xuất ,thay quyền tổng
giám đốc điều hành chung khi TGĐ đi vắng. Chịu trách nhiệm trước tổng giám đốc
về công việc được giao.
Phòng tài chính kế toán: có chức năng tham mưu, giúp việc cho TGĐ về tình
cụng tác sản xuất và tài chính của công ty.
Phòng hành chính: có nhiệm vụ giúp TGĐ về các việc liên quan đến vần đề hành
chính ở toàn công ty.
Phòng xuất nhập khẩu: giúp tổng giám đốc về hàng hoá, thành phẩm của công ty
xuất ra để xuất khẩu và các mặt hàng nhập khẩu từ thị trường nước ngoài.
Phòng Mechandise: có nhiệm vụ liên lạc với khách hàng về các thông số kỹ thuật,
mẫu mã, số lượng sản xuất khách hàng yêu cầu sau đó báo cáo với cấp trên và phổ
biến lại các vấn đề về kỹ thuật dưới sản xuất. Chịu trách nhiệm với những nhiệm
vụ của mình.
Phòng điều hành sản xuất: giúp điều hành công việc ở khối phục vụ, sản xuất và
chịu trách nhiệm trước phó TGĐ và TGĐ về công việc được giao
Phòng KCS: được TGĐ giao cho nhiệm vụ tham mưu, kiểm tra kiểm soát chất
lượng, tham mưu cho Tổng giám đốc về công tác kỹ thuật chất lượng sợi may
,thực hiện đánh giá, giám sát sự không phù hợp về chất lượng sản phẩm của
công ty với các tiêu chuẩn cơ sở. Cùng với các phòng chức năng tiến hành làm
thủ tục khiếu nại khách hàng về các sản phẩm nhập về không đảm bảo chất
lượng theo hợp đồng.
Phòng cơ điện: Giám sát và kiểm tra tình trạng hoạt động toàn bộ các máy
móc, thiết bị trong phân xưởng sản xuất, tham mưu cho TGĐ công ty quyết định
về việc sửa chữa, thay thế và nâng cấp các hệ thống máy móc thiết bị, việc đưa
thiết bị vào hoạt động chính thức sau khi thiết bị đã được sửa chữa, thay thế,
xư
Ph
ph
T
P
ởn
òn
Ổ thử.
H
bảo dưỡng qua thời gian chạy
N
Ó
g
Phòng kế hoạch vật tư, kỹ thuật máy:Tham mưu cho TGĐ các lĩnh vực sau:
kỹ
ho
tài
cơ
hà
kế
cắ
sa
th
m
G
X
K
T
GI
nh
ho
êu
ay
àn
ch
ac
đi
th
Ổ
N
Ct
ện
uậ
ch
he
ạc
ín
Á
N
K
S
M
ns
ín
ỉn
G
ht kỹ thuật, chất lượng
- Công tác quản lý và giám sát
GI
vậ
kế
m
id
Đ
h
áy
tô
to
Ố
Á
et
án
M
tư
C bị
- Công tác quản lý Vật tư, thiết
Đ
Ố
C
- Công tác quản lý an toàn, lao
động, vệ sinh môi trường tại các dự án
- Công tác soát xét, lập, trình duyệt thiết kế kỹ thuật
Tất cả các phòng ban khác đều có chức năng riêng biệt nhưng có cùng mục
đích là đem lại hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh cho toàn Công ty. Về công
tác tổ chức quản lý doanh nghiệp công ty TNHH Quốc tế Sinjoobo Việt Nam cũng
đã nghiên cứu lập các phòng ban chuyên trách hợp lý, logic khoa học, tạo điều kiện
cho công ty quản lý chặt chẽ các mặt kinh tế, kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất lao
động, chất lượng sản phẩm, giảm chi phí để hạ giá thành, đảm bảo cạnh tranh trên
thị trường, đem lại hiệu quả cao.
1.3. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty TNHH Quốc tế Sinjoobo Việt Nam.
1.3.1 Chức năng:
-
-
-
Trực tiếp thiết kế, tạo mẫu và sản xuất các sản phẩm may mặc.
Sản xuất theo đơn đặt hàng của các khách hàng trong nước và nước ngoài.
Kinh doanh các loại mặt hàng may mặc
-
Các sản phẩm mà công ty sản xuất chủ yếu là vest, jacket, áo lông, áo bông
mùa đông, quần và nhiều mặt hàng thời trang khác. Mỗi loại đều có nhiều
kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng, màu sắc khác nhau…
-
Nhận gia công toàn bộ: khi hợp đồng gia công được ký kết, công ty sẽ nhận
nguyên vật liệu từ khách hàng để tiến hành gia công theo yêu cầu và giao lại
cho khách hàng.
-
Ngoài ra công ty còn nhận thiết kế và sản xuất đồng phục cho các đơn vị
trường học, cơ quan…
1.3.2. Nhiệm vụ chủ yếu của công ty:
-
Xây dựng kế hoạch, nhiệm vụ và tổ chức thực hiện hoạt động sản xuất kinh
doanh cuả doanh nghiệp phù hợp với định hướng phát triển kinh tế địa
-
phương và cả nước.
Chấp hành nghiêm chỉnh các chế độ chính sách pháp luật của nhà nước trong
-
quản lý kinh tế và trong sản xuất kinh doanh.
Ký kết hợp đồng lao động, thực hiện chính sách cán bộ lao động và tiền
lương, tiền thưởng cho cán bộ công nhân viên của công ty theo quy định của
nhà nước. Phải xây dựng định mức lao động cho cá nhân, bộ phận và định
mức tổng hợp theo hướng dẫn của Bộ lao động thương binh và xã hội, xây
dựng đơn giá tiền lương trên đơn vị sản phẩm hoặc hoạt động dịch vụ trình sở
lao động thương binh và xã hội phê duyệt. Đảm bảo đời sống cho cán bộ công
nhân viên tron toàn công ty, giải quyết việc làm và thực hiện đầy đủ chế độ
-
chính sách của nhà nước.
Mở rộng liên kết kinh tế với các cơ sở sản xuất kinh doanh trong và ngoài
-
công ty.
Bảo vệ tài sản của công ty, bảo vệ môi trường, giữ gìn trật tự an ninh, trật tự
xã hội, làm tròn nghĩa vụ quốc phòng, tuân thủ pháp luật, hạch toán và báo
cáo trung thực chế độ chính sách của nhà nước quy định.
1.4.Đặc điểm về tình hình sản xuất của công ty.
1.4.1. Tình hình tổ chức sản xuất:
Công ty TNHH Quốc tế Sinjoobo Việt Nam là công ty chủ yếu gia công và sản
xuất các sản phẩm hàng may mặc theo quy trình công nghệ khép kín với các loại máy
móc chuyên dụng. Tính chất sản xuất của công ty là tính chất sản xuất phức tạp,liên
tục, loại hình sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn, chu kỳ sản xuất phụ thuộc vào
từng mã hàng cụ thể nhưng nhìn chung là sản xuất có chu kỳ ngắn. Mô hình sản xuất
công nghiệp của công ty bao gồm các phân xưởng, trong đó bao gồm nhiều tổ, đội
đảm bảo chức năng và nhiệm vụ cụ thể khác nhau nhằm phù hợp với quy trình công
nghệ sản xuất công nghiệp của công ty.
Bộ phận sản xuất có nhiệm vụ trực tiếp sản xuất theo nhiệm vụ của phòng kế
hoạch sẽ lên kế hoạch và giao nhiệm vụ cho các tổ sản xuất sẽ đảm nhiệm từng phần
công việc cụ thể.
Tại phân xưởng sản xuất được bố trí thành các tổ sản xuất, gia công và các tổ
sản xuất chịu sự giám sát trực tiếp của quản đốc. Sản phẩm vận động lần lượt từ công
đoạn này đến công đoạn khác một cách liên tục cho đến khi hoàn thành.
Quản đốc là người điều hành các phân xưởng, thực hiện điều hành sản xuất, tổ
chức chuẩn bị sản xuất, quản lý và kiểm tra chất lượng, thời gian giao hàng, báo cáo
định kỳ cho lãnh đạo công ty tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch sản xuất, thường
xuyên giám sát hướng dẫn kỹ thuật cho công nhân và quản lý tài sản của công ty
1.4.2.Quy trình công nghệ sản xuất.
-
Đàm phán và kí hợp đồng gia công, lựa chọn đơn hàng, dòng sản phẩm.
Tìm kiếm đối tác nước ngoài, lựa chọn dòng sản phẩm phù hợp với dây
truyền sản xuất của công ty, đàm phán về giá cả và số lượng đơn hàng, thị
-
trường tiêu thụ.
Làm hồ sơ xin giấy phép nhập khẩu nguyên phụ liệu máy móc, nếu cần đối
-
với những mặt hàng theo quy định của các bộ ngành liên quan.
Nhận các tài liệu kĩ thuật về mẫu mã từ phía đối tác.
-
Bộ phận tạo mẫu giao các sơ đồ dựa theo các tài liệu kĩ thuật đã nhận từ
-
nước ngoài.
Các giấy tờ có liên quan về việc nhập khẩu các phụ liệu như: B/L, Invoice,
-
packing list…
Làm thủ tục nhập khẩu đồng bộ các nguyên phụ liệu từ nước ngoài theo hợp
-
đồng đã kí về nhà máy.
Tổ chức sản xuất: phân đồng bộ nguyên phụ liệu tại kho nhập chia theo mã
hàng cho từng dơn vị.
Sơ đồ quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm:
Tổ in
Vải
Tổ
may
Tổ cắt
Tổ thêu
Tổ là
Tổ
gấp
T
hành
phẩm
Trước hết để đưa nguyên vật liệu chính vào sản xuất phải qua giác mẫu tức là
nghiên cứu và chế thử, may mẫu cho khách hàng duyệt rồi tiến hành phác sơ đồ
mẫu lên giấy sau đó đưa vào khâu cắt.
Công đoạn cắt: công đoạn này do tổ cắt của cá xí nghiệp thành viên thực hiện,
nguyên phụ liệu từ kho được đưa về các tổ cắt. Tại đây thực hiện các công việc
như trải vải, xoa phấn, cắt phá, cắt gọt, viết số và phối kiện để cuối cùng tạo ra bán
thành phẩm cắt.
Công đoạn in, thêu: sau công đoạn cắt, công đoạn này chỉ được thực hiện theo
đơn đặt hàng của khách hàng.
Công đoạn may: sau khi nhận bán thành phẩm từ các tổ cắt hoặc in, thêu các tổ
may sẽ tiếp tục gia công hoàn chỉnh sản phẩm. Kết thúc công đoạn này, sản phẩm
gần như đã hoàn chỉnh và được chuyển sang sau đó tiền hành là phẳng. Sau đó
chuyển sang công nghệ tiếp theo.
Công đoạn gấp: nhận được sản phẩm ở các tổ là chuyển sang sau đó tiến hành
gấp và cho vào túi Nilon.
Từ những sản phẩm hoàn thành này phòng KCS tiến hành kiểm tra chất lượng
và những sản phẩm đạt chất lượng theo đúng yêu cầu kĩ thuật thì mới được nhập
kho thành phẩm, tại kho thành phẩm đạt chất lượng này sẽ được đóng thành kiện
lớn và xuất bán.
Phòng xuất nhập khẩu liên hệ với phía đối tác và xuất thành phẩm.
PHẦN II
TỔNG QUAN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
2.1.Tổng quan về tài chính doanh nghiệp
2.1.1:Khái niệm tài chính doanh nghiệp (TCDN)
Tài chính doanh nghiệp dược hiểu là những quan hệ giá trị giữa doanh
nghiệp với các chủ thể trong nền kinh tế. Các quan hệ tài chính doanh nghiệp chủ
yếu bao gồm :
Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước :
Đây là mối quan hệ phát sinh khi doanh nghiệp muốn thực hiện nghĩa vụ thuế với
Nhà nước, khi Nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp.
Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính :
Quan hệ này được thể hiện thông qua việc doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài
trợ. Trên thị trường tài chính, doanh nghiệp có thể vay ngắn hạn để đáp ứng nhu
cầu vốn ngắn hạn, có thể phát hành cổ phiếu và trái phiếu để đáp ứng nhu cầu vốn
dài hạn. Ngược lại, doanh nghiệp phải trả lãi vay và vốn vay, trả lãi cổ phần cho
các nhà tài trợ. Doanh nghiệp cũng có thể gửi tiền vào ngân hàng, đầu tư chứng
khoán bằng số tiền tạm thời chưa sử dụng.
Quan hệ giữa doanh nghiệp với các thị trường khác :
Trong nền kinh tế, doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp khác
trên thị trường hàng hoá, dịch vụ, thị trường sức lao động. Đây là những thị trường
mà tại đó doanh nghiệp tiến hành mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng, tìm kiếm
lao động ….Điều quan trọng là, thông qua thị trường, doanh nghiệp có thể xác định
được nhu cầu hàng hoá, dịch vụ cần thiết cung ứng. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp
hoạch định ngân sách đầu tư, kế hoạch sản xuất. tiếp thị nhằm thoả mãn nhu cầu
thị trường.
Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp :
Đây là quan hệ giữa các bộ phận sản xuất- kinh doanh, giữa cổ đông và người quản
lý, giữa cổ đông và chủ nợ, giữa quyền sử dụng vốn và quyền sở hữu vốn. Các mối
quan hệ này được thể hiện thông qua hàng loạt chính sách của doanh nghiệp như :
chính sách cổ tức (phân phối thu nhập), chính sách đầu tư, chính sách về cơ cấu
vốn, chi phí ….
2.1.2.Cơ sở tài chính doanh nghiệp :
Một doanh nghiệp muốn tiến hành hoạt động sản xuất - kinh doanh, cần
phải có một lượng tài sản phản ánh bên tài sản của Bảng cân đối kế toán. Nếu như
toàn bộ tài sản do doanh nghiệp nắm giữ được đánh giá tại một thời điểm nhất định
thì sự vận động của chúng – kết quả của quá trình trao đổi – chỉ có thể được xác
định cho một thời kỳ nhất định và được phản ánh trên Báo cáo kết quả sản xuất
kinh doanh. Quá trình hoạt động của các doanh nghiệp có sự khác biệt đáng kể về
quy trình công nghệ và tính chất hoạt động . Sự khác biệt này phần lớn do đặc
điểm kinh tế kỹ thuật của từng doanh nghiệp quyết định. Cho dù có sự khác biệt
này, người ta vẫn có thể khái quát những nét chung nhất của các doanh nghiệp
bằng hàng hoá, dịch vụ đầu ra.
2.1.3.Mục tiêu tài chính doanh nghiệp :
Một doanh nghiệp tồn tại và phát triển vì nhiều mục tiêu khác nhau như :
Tối đa hoá lợi nhuận , tối đa hoá đoanh thu trong ràng buộc tối đa hoá lợi nhuận ,
tối đa hoá hoạt động hữu ích của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp.., song tất cả các
mục tiêu cụ thể đó đều nhằm mục tiêu bao trùm nhất là tối đa hóa giá trị tài sản cho
các chủ sở hữu . Bởi lẽ, một doanh nghiệp phải thuộc về các chủ sở hữu nhất
định ; chính họ phải nhận thấy giá trị đầu tư của họ tăng lên ; khi doanh nghiệp đặt
ra mục tiêu là tăng giá trị tài sản cho chủ sở hữu, doanh nghiệp đã tính tới sự biến
động của thị trường, các rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Quản lý tài chính
doanh nghiệp chính là nhằm thực hiện được mục tiêu đó.
Các quyết định tài chính trong doanh nghiệp : quyết định đầu tư, quyết định
huy động vốn, quyết định về phân phối, ngân quỹ có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau. Trong quản lý tài chính, nhà quản lý phải cân nhắc các yếu tố bên trong và
các yếu tố bên ngoài để đưa ra các quyết định làm tăng giá trị tài sản của chủ sở
hữu, phù hợp với lợi ích của chủ sở hữu .
2.1.4.Nội dung tài chính doanh nghiệp:
Các quan hệ tài chính doanh nghiệp được thể hiện trong cả quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Để tiến hành sản xuất- kinh doanh, nhà doanh nghiệp phải xử lý các quan hệ tài
chính thông qua phương thức giải quyết ba vấn đề quan trọng sau :
- Thứ nhất, nên đầu tư dài hạn vào đâu và bao nhiêu cho phù hợp với loại hình sản
xuất kinh doanh lựa chọn. Đây chính là chiến lược đầu tư dài hạn của doanh
nghiệp và là cơ sở để dự toán vốn đầu tư.
- Thứ hai, nguồn vốn đầu tư mà doanh nghiệp có thể khai thác là nguồn nào ?
- Thứ ba, nhà doanh nghiệp sẽ quản lý hoạt động tài chính hàng ngày như thế nào?
Chẳng hạn, việc thu tiền từ khách hàng và trả tiền cho nhà cung cấp? Đây là các
quyết định tài chính ngắn hạn và chúng liên quan chặt chẽ tới quản lý tài sản lưu
động của doanh nghiệp.
Ba vấn đề trên không phải là tất cả mọi vấn đề về tài chính doanh nghiệp,
nhưng đó là ba vấn đề lớn nhất và quan trọng nhất. Nghiên cứu tài chính doanh
nghiệp thực chất là nghiên cứu cách thức giải quyết ba vấn đề đó.
2.2. Mục tiêu và ý nghĩa của phân tích tài chính doanh nghiệp
2.2.1 Mục tiêu của phân tích tài chính doanh nghiệp :
Mục tiêu cao và quan trọng nhất của các nhà phân tích tài chính là đánh giá
khả năng xảy ra rủi ro phá sản tác động tới doanh nghiệp mà biểu hiện của nó là
khả năng thanh toán ,khả năng cân đối vốn ,khả năng hoạt động cũng như sinh lãi
của doanh nghiệp .Trên cơ sở đó ,các nhà phân tích tài chính tiếp tục nghiên cứu và
đưa ra những dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức doanh lợi nói riêng
của doanh nghiệp trong tương lai .Nói cách khác ,phân tích tài chính là cơ sở để dự
đoán tài chính .Phân tích tài chính có thể được ứng dụng theo nhiều hướng khác
nhau :Với mục đích tác nghiệp (chuẩn bị các quyết định nội bộ), với mục đích
nghiên cứu ,thông tin hoặc theo vị trí của nhà phân tích (trong doanh nghiệp hoặc
ngoài doanh nghiệp ).Tuy nhiên, trình tự phân tích và dự đoán tài chính đều phải
tuân theo các nghiệp vụ phân tích thích ứngvới từng giai đoạn dự đoán .
Tuy nhiên, bên cạnh những mục tiêu quan trọng hàng đầu này, phân tích tài
chính còn nhằm đạt một số mục tiêu khác như:
- Cung cấp kịp thời, đầy đủ, chính xác các thông tin kinh tế cần thiết cho chủ
doanh nghiệp, các nhà đầu tư và những người sử dụng thông tin tài chính khác của
doanh nghiệp.
- Cung cấp các thông tin về tình hình sử dụng vốn, khả năng khai thác vốn,
hiệu quả sản xuất kinh doanh khắc phục những thiếu sót tồn tại.
- Cung cấp các thông tin về tình hình công nợ, khả năng tiêu thụ sản phẩm
hàng hóa và khả năng sinh lời cũng như ảnh hưởng làm thay đổi điều kiện sản xuất
kinh doanh, giúp doanh nghiệp dự đoán chính xác tương lai của mình.
2.2.2 Ý nghĩa của phân tích tài chính doanh nghiệp
Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì các
doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác nhau đều bình đẳng trước pháp luật
trong việc lựa chọn ngành nghề kinh doanh, đối tác, bạn hàng. Do vậy, việc phân
tích tài chính doanh nghiệp là mối quan tâm hàng đầu của nhiều đối tượng, trước
hết là ban giám đốc, các nhà đầu tư, các chủ nợ, các tổ chức ngân hàng, các đối
tác,... đặc biệt là cơ quan chủ quản của Nhà nước và người lao động. Mối nhóm
người này có nhu cầu sử dụng thông tin khác nhau song họ đều hướng tập trung
vào những khía cạnh riêng trong bức tranh tài chính của doanh nghiệp.
Đối với nhà quản trị tài chính doanh nghiệp
Họ tiến hành nghiên cứu các hoạt động tài chính gọi là phân tích tài chính nội
bộ. Do ở trong doanh nghiệp nên các nhà quản lý có các thông tin đầy đủ về doanh
nghiệp, họ có lợi thế phân tích tài chính tốt nhất. Trên cơ sở kết quả thu được từ
phân tích tài chính, các nhà quản lý sẽ cân nhắc ra quyết định đầu tư, cũng như
quyết định tài trợ cho các hình thức đầu tư đó như thế nào để đạt được hiệu quả cao
nhất. Công tác phân tích tài chính cũng là cơ sở để nhà phân tích đánh giá tình hình
mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp có hiệu quả hay không, lãi hay lỗ ở mức nào,
cơ cấu vốn có hợp lý không, khả năng thanh toán có đảm bảo không,... nhà quản lý
cũng thông qua đó để ra các quyết định phân chia lợi tức thu được.
Phân tích tài chính đối với nhà đầu tư
Các nhà đầu tư tài chính là các tổ chức và cá nhân có nhu cầu đầu tư vốn cho
doanh nghiệp, chấp nhận cùng chịu rủi ro. Thu nhập của họ là tiền chia lợi tức và
giá trị tăng thêm của vốn đầu tư .Hai yếu tố này chịu ảnh hưởng của lợi nhuận kỳ
vọng của doanh nghiệp. Các nhà đầu tư lớn thường dựa vào các nhà chuyên môn,
những nhà nghiên cứu kinh tế tài chính thực hiện việc nghiên cứu phân tích tài
chính để phân tích và làm rõ triển vọng của doanh nghiệp cũng như đánh giá cổ
phiếu của doanh nghiệp, khả năng đảm bảo mức lợi tức mà họ yêu cầu. Đối với các
nhà đầu tư hiện tại cũng như các nhà đầu tư tiềm năng, mối quan tâm trước hết là
việc đánh giá những đặc điểm đầu tư của doanh nghiệp. Các nhà đầu tư quan tâm
tới an toàn về đầu tư của họ thông qua tình hình được phản ánh trong điều kiện tài
chính của doanh nghiệp và tình hình hoạt động của nó, đặc biệt là chính sách lãi cổ
phần của doanh nghiệp thường là mối quan tâm chủ yếu của các nhà đầu tư.
Mặt khác, nhà đầu tư cũng quan tâm tới thu nhập của doanh nghiệp, họ quan
tâm đến khả năng tăng trưởng, các thông tin liên quan tới việc doanh nghiệp đã
dành được những nguồn tiềm năng gì và như thế nào, đã sử dụng chúng ra sao, cơ
cấu vốn của doanh nghiệp có tốt không. Những rủi ro mà doanh nghiệp có khả
năng phải hứng chịu, doanh nghiệp có đòn bẩy tài chính nào không. Các đánh gía
đầu tư cũng liên quan tới việc dự đoán thời gian, độ lớn và những điều không chắc
chắn của những quyết đoán tương lai thuộc doanh nghiệp. Ngoài ra, các nhà đầu tư
cũng quan tâm tới việc điều hành, hoạt động và tính hiệu quả của công ty quản lý
trong doanh nghiệp. Những thông tin về công tác quản lý đòi hỏi những nguồn nào
và sử dụng những nguồn đấy dưới sự giám sát của công tác quản lý như thế nào
cũng có thể tác động, ảnh hưởng tới các quyết định đầu tư.
Phân tích tài chính đối với người cho vay
Người cho vay phân tích tài chính để nhận biết khả năng vay và trả nợ của
khách hàng. Chẳng hạn, để quyết định cho vay, một trong những vấn đề mà người
cho vay cần xem xét là doanh nghiệp thực sự có nhu cầu vay hay không? Khả năng
trả nợ của doanh nghiệp là như thế nào.
Ngoài ra, phân tích tài chính doanh nghiệp cũng cần thiết đối với người hưởng
lương trong doanh nghiệp, đối với cán bộ thuế, thanh tra, cảnh sát kinh tế, luật
sư,... dù họ công tác ở các lĩnh vực khác nhau nhưng họ đều muốn hiểu biết về hoạt
động của doanh nghiệp để thực hiện tốt hơn công việc của họ.
2.3. Vai trò, nhiệm vụ của phân tích tài chính với việc nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh
*Vai trò:
Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là một trong những mục tiêu quan
trọng của các doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tức là làm sao
để có nhiều lợi nhuận hơn nữa, làm cho giá trị của doanh nghiệp trên thương
trường ngày càng được nâng cao.
Muốn nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình, chủ
doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau như: tiến hành cải cách
bộ máy quản lý, liên doanh liên kết với các đơn vị, doanh nghiệp khác. Song còn
một biện pháp mang lại hiệu quả cao nhất, chi phí thấp nhất, luôn được các chủ
doanh nghiệp áp dụng, đó là tiến hành phân tích tài chính đối với doanh nghiệp của
mình. Tài chính là chìa khoá của đầu tư, và vì thế nó cũng là chìa khoá cho sự tăng
trưởng. Do vậy, phân tích tài chính tốt cũng có ý nghĩa là có đủ chìa khoá cho việc
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Phân tích, đánh giá đúng tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các mặt
đồng nghĩa với việc trao cho chủ doanh nghiệp một công cụ để thúc đẩy sự tăng
trưởng của doanh nghiệp, phân tích tài chính sẽ giúp chủ doanh nghiệp nhận thức
rõ thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp mình để từ đó lập ra những kế
hoạch, những bước đi trong tương lai nhằm phát huy được những tiềm lực của
mình và mang lại hiệu quả sản xuất kinh doanh cao nhất.
Thực hiện tốt công tác phân tích tài chính sẽ giúp chủ doanh nghiệp tiến
hành các giao dịch trao đổi buôn bán, tiết kiệm đầu tư và tăng trưởng tốt hơn. Nếu
các việc đó đều làm tốt thì hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được
nâng cao là điều hiển nhiên.
*Nhiệm vụ:
Với vai trò trọng như vậy, nhiệm vụ của việc phân tích tình hình tài chính là việc
cung cấp những thông tin chính xác về moị mặt tài chính của doanh nghiệp, bao
gồm:
Đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các mặt đảm bảo vốn
cho sản xuất kinh doanh, quản lý và phân phối vốn, tình hình nguồn vốn
Đánh giá hiệu quả sử dụng từng loại vốn trong quá trình kinh doanh và
kết quả tài chính của hoạt động kinh doanh, tình hình thanh toán.
Tính toán và xác định mức độ có thể lượng hoá của các nhân tố ảnh
hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, từ đó đưa ra những biện pháp
có hiệu quả để khắc phục những yếu kém và khai thác triệt để những năng lực
tiềm tàng của doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh.
2.4. Thu thập thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính doanh nghiệp sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng lý
giải và thuyết minh thực trạng của hoạt động tài chính doanh nghiệp. Nó phục vụ
quá trình dự đoán tài chính, bao gồm từ những thông tin nội bộ đến các thông tin
bên ngoài.
2.4.1 Các thông tin trong nội bộ doanh nghiệp
Để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của doanh nghiệp ,có thể sử
dụng thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp như là một nguồn thông tin
quan trọng bậc nhất và có tính chất bắt buộc phải sử dụng khi thực hiện phân tích
tài chính doanh nghiệp .Với những đặc trưng hệ thống ,đồng nhất và phong phú ,kế
toán hoạt động như một nhà cung cấp quan trọng những thông tin đáng giá cho
phân tích tài chính .Vả lại ,các doanh nghiệp cũng có nghĩa vụ cung cấp những
thông tin kế toán cho các đối tác bên trong và bên ngoài doanh nghiệp .Thông tin
kế toán được phản ánh khá đầy đủ trong các báo cáo kế toán .Phân tích tài chính
được thực hiện trên cơ sở các báo cáo tài chính -được hình thành thông qua việc
xử lý các báo cáo kế toán chủ yếu . Các báo cáo tài chính thường được sử dụng để
phân tích là: Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển
tiền tệ và những nguồn thông tin khác.
Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là một bản báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh một cách
tổng quát toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp theo hai cách đánh giá tài sản
và nguòn vốn hình thành tài sản tại thời điểm lập báo cáo.
Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh
Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh là một báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh
tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh theo từng loại hoạt động của
doanh nghiệp.
Tóm lại, để phân tích tình hình tài chính của một doanh nghiệp, các nhà
phân tích cần phải đọc và hiểu được các báo cáo tài chính, qua đó, họ nhận biết
được và tập trung vào các chỉ tiêu tài chính liên quan trực tiếp tới mục tiêu phân
tích của họ một cách chính xác nhất.
2.4.2 Các thông tin bên ngoài doanh nghiệp
Sự phát triển của một doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau.
Vì vậy, để đánh giá chính xác tình hình tài chính, khả năng sinh lời và triển vọng
phát triển của doanh nghiệp giúp nhà quản lý đưa ra các quyết định đúng đắn thì
các thông tin liên quan đến môi trường xung quanh của doanh nghiệp có ý nghĩa
vô cùng quan trọng. Đó là các quan hệ tài chính trong kinh doanh giữa các doanh
nghiệp với Nhà nước thông qua hệ thống các chính sách quản lý tài chính, giữa các
doanh nghiệp với các đối tác kinh doanh. Đồng thời, các thông tin về hình thức tổ
chức doanh nghiệp, môi trường hoạt động, lĩnh vực kinh doanh, loại hình kinh
doanh, các chính sách kinh tế các biến động kinh tế vĩ mô... tất cả đều ảnh hưởng
tới kết quả phân tích.
Đồng thời cần đặt sự tăng trưởng của doanh nghiệp trong mối liên hệ với các
hoạt động chung của ngành kinh doanh. Đặc điểm của ngành kinh doanh liên quan
tới tài chính của các sản phẩm, quy trình kĩ thuật áp dụng, cơ cấu sản xuất, nhịp độ
phát triển của chu kỳ kinh tế. Những nghiên cứu theo ngành chỉ rõ tầm quan trọng
của việc nghiên cứu đó trong nền kinh tế, quy trình công nghệ, các khoản đầu tư,
cơ cấu ngành, độ lớn của thị trường và triển vọng phát triển.
Như vậy, tổng hợp các thông tin bên trong và bên ngoài doanh nghiệp sẽ
cung cấp đầy đủ các dữ liệu cần thiết giúp cho các nhà phân tích có thể đưa ra
được những nhận xét, kết luận một cách đúng đắn.
Tuy vậy, trong mọi nguồn thông tin thì thông tin kế toán là cần thiết và quan
trọng nhất vì doanh nghiệp có nghĩa vụ cung cấp thông tin kế toán cho các đối
tượng quan tâm bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Thông tin đầu vào thường
phải qua khâu xử lý sơ bộ để loại bỏ những thông tin thiếu chính xác trước khi sử
dụng phân tích tài chính.
2.5. Các phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
2.5.1. Phương pháp đánh giá:
Phương pháp này rất hay sử dụng trong phân tích tài chính, và được đan xen trong
nhiều giai đoạn khác nhau của quá trình phân tích tài chính
Phương pháp so sánh:
Đây là kỹ thuật dễ dàng sử dụng và được sử dụng rất nhiều trong các kỹ thuật phân
tích. So sánh tuyệt tối về sự biến động thông qua các con số cơ học; so sánh tương
đối nói về sự biến động thông qua các chỉ số %, tăng hoặc giảm qua các kỳ để từ
đó có được các nhân định khác nhau cho báo cáo phân tích
Phương pháp phân chia:
Sử dụng để chia nhỏ các yếu tố cần phân tích trên báo cáo tài chính, phục vụ nhiều
khía cạnh phân tích khác nhau trên một bài phân tích. Các chiều có thể phân chia
trên một báo cáo phân tích tài chính
Chi tiết theo yếu tố cấu thành yếu tố cần nghiên cứu: phân tách các chỉ tiêu
nhỏ trong một chỉ tiêu lớn cần phần tích
Chi tiết theo thời gian phát sinh và kết quả: phân tách theo dòng thời gian
của một chi tiêu cần phân tích để khái quát sự biến động chỉ số thông qua các giai
đoạn phát triển khác nhau trong doanh nghiệp
Chi tiết theo không gian: phân tách các chỉ tiêu phân tích theo khu vực địa
lý, để có được sự so sánh khác nhau giữa các vùng, miền phát sinh chỉ tiêu cần
phân tích
Phương pháp liên hệ đối chiếu:
Kết hợp với các hiện tượng kinh tế, xã hội, chính trị để có được mối tương quan
liên hệ với nhau, cân đối các yếu tố, luận chứng sẽ làm cho phân tích tài chính
doanh nghiệp trở nên chính xác hơn về thông tin và có giá trị với các nhà quản trị,
nhà đầu tư.
2.5.2. Phương pháp phân tích nhân tố:
Đây là phương pháp sử dụng các nhân tố liên quan với nhau xác lập thành một
công thức toán học logic để đánh giá sự tác động qua lại giữa các nhân tố ảnh
hưởng đến tài chính trong doanh nghiệp.
Sự cố định hoặc gia tăng không đáng kể của nguồn vốn thì sẽ có một sự biến động
tương quan giữa vốn chủ sở hữu và nợ vay. Qua đó xác định được mức độ ảnh
hưởng khác nhau của các nhân tố liên quan đến một tổ hợp các chỉ tiêu cần phân
tích
Xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố: xác định cụ thể từng nhân tố ảnh
hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp
Thay thế liên hoàn: thông thường phương pháp này nằm trong các phương
trình toán học về tích số và thương số
Số chênh lệch: là một kết quả của phương pháp liên hoàn, khi nhân tố ảnh
hưởng cần phân tích có liên hệ với tích số với một chỉ tiêu cần phân tích
Phương pháp cân đối: sự dung hòa giữa 2 nhân tố ảnh hưởng nhau, như ví
dụ về nguồn vốn bên trên
Tính chất của các nhân tố: khi có được các kết quả mang tính chất cơ số học,
con số biết nói. Các nhà phân tích tiến hành xem xét tính chất ảnh hưởng của các
nhân tố khách quan, chủ quan... để đưa ra từng quyết định cụ thể giúp doanh
nghiệp có được các chiến lược phát triển khác nhau cho từng thời kỳ phân tích báo
cáo tài chính
2.6. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
Xuất phát từ nhu cầu thông tin về tình hình tài chính doanh nghiệp của chủ
doanh nghiệp và các đối tượng quan tâm khác, phân tích hoạt động tài chính bao
gồm các nội dung sau:
2.6.1. Phân tích khái quát về tình hình tài chính.
Để phân tích khái quát về tình hình tài chính, ta xem xét trước hết ở sự thay
đổi của bảng cân đối kế toán, tức là sự tăng giảm về mặt tổng số của tài sản và
nguồn vốn. Tiếp đến, là phân tích những nguyên nhân đã ảnh hưởng đén tình hình
thay đổi trên. Bằng cách đó, chỉ ra được mức độ tác động khác nhau của từng
khoản mục đến sự thay đổi của bảng cân đối kế toán.
2.6.2. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn.
Phân tích diễn biến của nguồn vốn và sử dụng vốn là xem xét và đánh giá sự
thay đổi các chỉ tiêu cuối kỳ so với đầu kỳ trên bảng cân đối kế toán về nguồn vốn
và cách thức sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Để tiến hành cách thức phân tích nguồn vốn và sử dụng vốn trước tiên,
người ta trình bày bảng cân đối kế toán dưới dạng bảng cân đối báo cáo (trình bày
một phía) từ tài sản đến nguồn vốn. Sau đó, so sánh số liệu cuối kỳ với đầu kỳ
trong từng chỉ tiêu của bảng cân đối để xác định tình hình tăng giảm vốn của doanh
nghiệp theo nguyên tắc:
- Sử dụng vốn: tăng tài sản, giảm nguồn vốn
- Nguồn vốn: Giảm tài sản, tăng nguồn vốn
Nội dung phân tích này cho nhà phân tích xác định được khả năng về nguồn
vốn và nhu cầu sử dụng vốn hiện tại của doanh nghiệp ,dự báo tình hình tăng
giảm nguồn vốn trong tương lai ,xác định nguyên nhân làm thay đổi nguồn vốn
,lập các kế hoạch tài chính của doanh nghiệp .Từ đó, có giải pháp khai thác các
nguồn vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
Vận dụng nội dung phân tích này trên thực tế ,người ta tiến hành phân tích
sự thay đổi các dòng tiền trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp ,xác định các
nguyên nhân làm tăng ,giảm tiền trong kỳ kinh doanh .Để xác định nguyên nhân
làm tăng , giảm tiền người ta bắt đầu từ việc so sánh cuối kỳ so với đầu kỳ trong
từng chỉ tiêu của phần tài sản và nguồn vốn trên Bảng cân đối kế toán .
Như vậy, qua việc phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn đã cho ta
một cái nhìn tổng hợp sự thay đổi nguồn vốn và sử dụng vốn trong một kỳ kế toán.
2.6.3. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần phải có tài sản bao
gồm tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn, tài sản cố định và đầu tư dài hạn. Để hình
thành hai loại tài sản này phải có các nguồn tài trợ tương ứng bao gồm nợ ngắn
hạn, nợ quá hạn, nợ nhà cung cấp và nợ phải trả ngắn hạn khác.
Nguồn vốn dài hạn là nguồn doanh nghiệp sử dụng lâu dài cho hoạt động
kinh doanh bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn vốn vay nợ trung hạn, dài hạn.
Nguồn dài hạn trước hết được đầu tư để hình thành tài sản cố định, phần còn lại
của nguồn vốn dài hạn và nguồn vốn ngắn hạn được đầu tư hình thành tài sản lưu
động. Chênh lệch giữa nguồn vốn dài hạn với tài sản cố định hay giữa tài sản lưu
động với nguồn ngắn hạn được gọi là vốn lưu động thường xuyên. Mức độ an toàn
của tài sản ngắn hạn phụ thuộc vào độ lớn của vốn lưu động thường xuyên.
Vốn lưu động thường xuyên = Nguồn vốn dài hạn – Tài sản cố định
= Tài sản lưu động - nguồn vốn ngắn hạn
Kết quả tính toán được phân tích ra các trường hợp:
Vốn lưu động thường xuyên lớn hơn 0, nghĩa là nguồn vốn dài hạn lớn hơn
tài sản cố định. Nguồn vốn dài hạn dư thừa sau khi đầu tư vào tài sản cố định được
đầu tư vào tài sản lưu động. Đồng thời, tài sản lưu động lớn hơn nguồn vốn ngắn
hạn do vậy khả năng thanh toán của doanh nghiệp là tốt.
Vốn lưu động thường xuyên bằng 0 : có nghĩa là nguồn vốn dài hạn tài trợ
đủ cho TSCĐ và TSLĐ đủ để doanh nghiệp trả các khoản nợ ngắn hạn, tình hình
tài chính như vậy là lành mạnh.
Vốn lưu động thường xuyên nhỏ hơn 0: có nghĩa là nguồn vốn dài hạn không
đủ để trả nợ cho tài sản cố định, doanh nghiệp phải đầu tư một phần nguồn vốn
ngắn hạn vào tài sản cố định, tài sản lưu động không đủ để đáp ứng nhu cầu thanh
toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán của doanh nghiệp mất thăng bằng, doanh
nghiệp phải dùng một phần TSCĐ để thanh toán nợ ngắn hạn đến hạn trả.