Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Tra cứu ảnh dựa trên đặc trưng kết cấu sử dụng biến đổi contourlet và wavelet (LV00949)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (892.73 KB, 121 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan
mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông
tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, ngày 01 tháng 07 năm 2013
Người viết cam đoan

Nguyễn Mai Hương


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cám ơn các thầy cô giáo trong tổ bộ môn Lí luận
văn học – Khoa ngữ văn, phòng sau đại học trường Đại học sư phạm Hà Nội
2 đã tạo điều kiện và giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô Lý Hoài Thu, người đã tận
tình giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện đề tài này. Cô đã cho em nhiều
bài học quý báu về phương pháp nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cám ơn tới tất cả bạn bè, đồng nghiệp và những
người thân đã động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên
cứu.

Hà Nội, ngày 10 tháng 07 năm 2013
Tác giả luận văn

Nguyễn Mai Hương


MỤC LỤC
Lời cảm ơn


Lời cam đoan
Mục lục
Trang
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 4
3. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu................................................. 6
3.1 Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 6
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 6
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.................................................................... 6
4.1. Đối tượng nghiên cứu................................................................................. 6
4.2. Phạm vi nghiên cứu................................................................................... 6
5. Dự kiến đóng góp của luận văn..................................................................... 7
6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 7
CHƯƠNG I ....................................................................................................... 8
CỐT TRUYỆN VÀ NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN ........................ 8
CỦA PHẠM NGỌC TIẾN ............................................................................... 8
1.1. Cốt truyện - sự mở rộng dung lượng hiện thực.......................................... 8
1.2. Các kiểu cốt truyện trong truyện ngắn của Phạm Ngọc Tiến .................. 14
1.2.1. Cốt truyện mang dáng dấp truyền thống.......................................... 14
1.2.2 Cốt truyện với kết thúc bất ngờ, kết thúc để ngỏ.............................. 16
1.2.3. Cốt truyện đan xen nhiều mạch truyện ............................................ 20
1.3. Nhân vật ................................................................................................... 25
1.3.1. Những vấn đề chung về nhân vật .......................................................... 25
1.3.2. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Phạm Ngọc Tiến.................... 27
1.3.2.1. Nhân vật người lính ...................................................................... 27


1.3.2.2. Nhân vật người phụ nữ........................................................... 32
1.4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Phạm Ngọc Tiến . 36

1.4.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật .......................................... 36
1.4.2. Nghệ thuật khai thác diễn biến nội tâm nhân vật............................. 38
CHƯƠNG II .................................................................................................... 42
KẾT CẤU – KHÔNG GIAN, THỜI GIAN TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA
PHẠM NGỌC TIẾN....................................................................................... 42
2.1. Nghệ thuật tổ chức kết cấu trong truyện ngắn của Phạm Ngọc Tiến ...... 42
2.1.1. Khái niệm kết cấu và kết cấu trần thuật................................................ 42
2.1.1.1. Kết cấu.................................................................................... 42
2.1.1.2.Kết cấu trần thuật .................................................................... 44
2.1.2.Hình thức kết cấu trần thuật trong truyện ngắn của Phạm Ngọc Tiến... 45
2.1.2.1.Kết cấu đơn tuyến. .................................................................. 45
2.1.2.2. Kết cấu tâm lý. ...................................................................... 47
2.1.2.3. Kết cấu mở. ............................................................................ 50
2.2. Không gian, thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn Phạm Ngọc Tiến. ...... 53
2.2.1. Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Phạm Ngọc Tiến ........... 53
2.2.1.1. Quan niệm về không gian nghệ thuật .................................... 53
2.2.1.2. Không gian thiên nhiên trong cái nhìn của Phạm Ngọc Tiến 55
2.2.1.3. Không gian đời tư và không không gian lưu lạc.................... 59
2.2.2. Thời gian nghệ thuật ........................................................................ 63
2.2.2.1. Quan niệm về thời gian nghệ thuật ....................................... 63
2.2.2.2. Thời gian điểm nút giao thời.................................................. 64
2.2.2.3. Thời gian đan xen giữa quá khứ và hiện tại........................... 66
CHƯƠNG 3..................................................................................................... 71
NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN........................ 71
CỦA PHẠM NGỌC TIẾN ............................................................................. 71
3.1. Trần thuật và điểm nhìn trần thuật ........................................................... 71
3.1.1. Người trần thuật trong truyện ngắn của Phạm Ngọc Tiến............... 72
3.1.1.1. Người trần thuật hàm ẩn......................................................... 74
3.1.1.2. Người trần thuật tường minh.................................................. 77
3.1.2. Điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn của Phạm Ngọc Tiến ........ 79

3.1.2.1. Khái quát về điểm nhìn trần thuật.......................................... 79
3.1.2.2. Điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn của Phạm Ngọc Tiến .......... 82


3.2. Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn của Phạm Ngọc Tiến ................. 92
3.2.1. Lời văn trần thuật ............................................................................. 93
3.2.1.1. Lời trần thuật gián tiếp của người kể chuyện ........................ 94
3.2.1.2. Lời trần thuật nửa trực tiếp .................................................... 96
3.2.2. Lời văn miêu tả ................................................................................ 98
3.3. Giọng điệu trong truyện ngắn Phạm Ngọc Tiến. ................................... 100
3.3.1. Giọng điệu vừa mang sắc thái trữ tình, vừa mang tính suy tư, chiêm
nghiệm...................................................................................................... 102
3.3.2.Giọng điệu hài hước, dí dỏm........................................................... 105
3.3. 3.Giọng xót xa, thương cảm.............................................................. 108
KẾT LUẬN ................................................................................................... 111


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Truyện ngắn được hiểu là “tác phẩm tự sự cỡ nhỏ” ( theo Từ điển văn
học) và nếu chỉ dừng lại ở cách định nghĩa này thì truyện ngắn đặt trong sự so
sánh, đối chiếu với tiểu thuyết chỉ khác nhau về dung lượng phản ánh,về độ
dài văn bản, tuy nhiên trên thực tế xét về bản chất thì truyện ngắn được coi là
một thể loại tự sự độc lập. Điều đó có nghĩa là truyện ngắn có những đặc
điểm khác biệt với các thể loại tự sự khác, đặc biệt là tiểu thuyết.
Truyện ngắn được mệnh danh là “một thể loại muôn hình muôn vẻ
biến đổi không ngừng. Nó là một vật biến hoá như quả chanh của Lọ Lem”
(D.Grônôpxki), truyện ngắn đã len lỏi vào mọi ngóc ngách của xã hội, bắt kịp
nhanh với những chuyển biến muôn màu của đời sống. Ở Việt Nam và đặc

biệt từ sau năm 1986, sự cởi mở nhiều chiều của đời sống xã hội đã tạo tiền
đề để truyện ngắn Việt Nam có những bước chuyển biến mạnh mẽ. Nhà văn
Nguyên Ngọc khi nhận xét về Truyện ngắn Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đã
nói: “Đây có thể coi là một thời kỳ có nhiều truyện ngắn hay trong văn học
Việt Nam, tiếp theo “vụ được mùa truyện ngắn” những năm 1960 và một vụ
mùa khác trong chiến tranh”. Tuy nhiên truyện ngắn lần này có những khác
biệt rõ rệt: “Những năm 1960 từng để lại nhiều truyện ngắn đẹp như thơ,
trong veo, trữ tình. Truyện ngắn thời kỳ chiến tranh thì vạm vỡ, chắc chắn.
Đặc điểm nổi bật lần này là cầm cái truyện ngắn trong tay có thể cảm thấy cái
dung lượng của nó nặng trĩu. Có những truyện ngắn, chỉ mươi mười trang thôi
mà sức nặng có vẻ còn hơn cả một cuốn tiểu thuyết trường thiên” [xem 32].
Bởi vậy, việc tìm hiểu thể loại truyện ngắn để có được một cái nhìn khái quát
về những chuyển đổi mạnh mẽ cả nội dung và hình thức thể hiện và cũng thấy
được những đóng góp của các tác giả trong quá trình vận động đó.


2
Bên cạnh sự phát triển hùng hậu cuả đội ngũ sáng tác, văn chương
thời kỳ đổi mới còn ghi nhận những chuyển biến tích cực trong quan điểm
sáng tác, thi pháp thể loại, tư duy nghệ thuật của các nhà văn.
Văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới ghi nhận nhiều đóng góp của những
cây bút có nhiều triển vọng như các nhà văn trẻ: Phan Triều Hải, Phan Thị
Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư ... và ta không thể không
nhắc tới nhà văn Phạm Ngọc Tiến.
Phạm Ngọc Tiến là một nhà văn khi xuất hiện đã thu hút được sự chú ý
của độc giả. Cuộc đời cầm súng tuy không dài nhưng Phạm Ngọc Tiến rất
gắn bó và được trưởng thành từ mảnh đất của chiến tranh. Phạm Ngọc Tiến
bên cạnh sự cố gắng chiếm lĩnh nhiều phạm vi đề tài khác nhau, ông còn là
người luôn có sự tìm tòi, khám phá. Với sự góp mặt của mình trên diễn đàn
văn học, ông cũng đã có một số đóng góp đáng kể với những giải thưởng

không nhỏ như:
- Giải thưởng văn học: Giải nhì cuộc thi truyện ngắn do tạp chí Văn
nghệ Quân đội với truyện ngắn: Chạy trốn.
- Giải thưởng đề tài chiến tranh cách mạng Hội Nhà văn Việt Nam năm
1994 với tập truyện ngắn: Họ đã trở thành đàn ông.
- Giải A cuộc thi viết về thiếu nhi của NXB Kim đồng (1993-1995) với
truyện vui: Đợi mặt trời.
- Giải thưởng liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam năm 1996
với tập truyện ngắn: Những sinh linh bé bỏng.
- Giải thưởng Hội Văn nghệ Hà Nội 5 năm (1991-1996) với tiểu thuyết:
Tàn đen đốm đỏ.
Truyện ngắn của Phạm Ngọc Tiến thường khai thác về đề tài chiến
tranh và đời sống nông thôn của người nông dân. Sự điển hình nhân vật trong


3
truyện ngắn của ông được tạo dựng bởi chất dân dã, bởi diện mạo khó quên
tạo cho nhân vật có những tính cách riêng biệt, điển hình, sinh sắc.
Độc giả không chỉ biết đến Phạm Ngọc Tiến là tác giả truyện ngắn
mà qua truyền hình tên tuổi của ông đựợc gắn với các kịch bản phim như:
Đất và người, Ma làng, Chuyện làng Nhô, Gió làng Kình, Chuyện phố
phường, Ngõ lỗ thủng...
Sau 34 năm giải phóng khi chiến hào đã im tiếng súng, những người
lính dấn thân nơi lửa đạn giờ đều đã luống tuổi, những thế hệ vào sinh ra tử
của một thời cũng được tái hiện dưới ngòi bút của Phạm Ngọc Tiến. Rồi
những thân phận nhỏ bé, những mảnh đời thiếu may mắn của người phụ nữ,
những mong muốn hạnh phúc nhỏ nhoi, những tình cảm rất đời thường của
con người trong các mối quan hệ xã hội... Tất cả đã tạo nên thế giới nghệ
thuật và phong cách riêng cho Phạm Ngọc Tiến.
Mặc dù những sáng tác của ông khá phong phú về mặt thể loại nhưng

có lẽ tạo được ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc lại chính là những truyện
ngắn của ông, với câu văn dung dị, cách viết mộc, thô, đơn giản đến tối thiểu.
Chính sự thô nhám không cầu kỳ ấy đã tạo ra sự khác biệt, một thứ ngôn ngữ,
một giọng điệu rất riêng, sống động chân thực, gần với cuộc đời. Không chỉ
lạ trong truyện ngắn, những bài báo của ông cũng rất vui, nhiều chi tiết rất
đời, hóm hỉnh được nhiều người thích.
Tuy không phải là người tiên phong tìm ra hướng đi mới hay tạo ra
những bước đột phá trong quá trình đổi mới văn học. Nhưng với lối viết tự
nhiên, giọng điệu, cùng cách tìm tòi, triển khai vấn đề của đời sống mang
phong vị rất riêng, truyện ngắn của Phạm Ngọc Tiến vẫn có nhiều cách tân
về mặt thi pháp. Đây cũng chính là nguyên nhân quan trọng tạo chỗ đứng cho
nhà văn trong lòng độc giả và trong giới nghiên cứu phê bình văn học .


4
Cùng với sự phát triển của đời sống văn học, ngày nay truyện ngắn có
những chuyển biến lớn cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Càng ngày
truyện ngắn càng khẳng định được vị trí của mình và tạo được ấn tượng trong
lòng độc giả. Ở mỗi thời kỳ lịch sử nhất định, chúng ta đều có những truyện
ngắn hay và những tác giả tiêu biểu. Phạm Ngọc Tiến cũng có thể là một điển
hình.Ông là một nhà văn trưởng thành khi chiến tranh đã đi qua. Truyện ngắn
của ông luôn có cái nhìn mới lạ về cuộc sống. Chọn đề tài Truyện ngắn của
Phạm Ngọc Tiến từ góc nhìn thể loại, chúng tôi muốn nghiên cứu một cách
hệ thống những đặc trưng và đặc điểm thi pháp nổi bật của một cây bút truyện
ngắn khá đặc sắc.
2. Lịch sử vấn đề
Phạm Ngọc Tiến là một cây bút trẻ, sinh ra và lớn lên ở đất Hà Thành
nhưng đề tài về người nông dân luôn hiện hữu trong sáng tác của ông từ
truyện ngắn đến tiểu thuyết. Ông viết về những nét văn hoá, phong tục tập
quán cho đến lối sống của con người ở nông thôn. Bên cạnh đó, Phạm Ngọc

Tiến còn viết về những người lính trong cuộc sống đời thường với những mưu
sinh, những ước mơ nhỏ bé của con người khi chiến tranh đã đi qua nhưng
còn để lại bao dấu tích, những hạnh phúc muộn mằn, hiếm hoi của người phụ
nữ.
Sự xuất hiện của ông không gây ra tiếng vang lớn trên văn đàn, tuy
nhiên những trang viết thấm đẫm hương vị làng quê , dung dị, rất “đời” đã tạo
ra dư âm không thể nào quên trong lòng các thế hệ độc giả. Bởi vậy, truyện
ngắn của Phạm Ngọc Tiến ngày càng cuốn hút bạn đọc bởi sự nhẹ nhàng,
đằm sâu và thấm thía.
Phạm Ngọc Tiến là một cây bút bền bỉ, sáng tác nhiều và khá nhanh.
Các sáng tác của ông đã và đang thu hút sự quan tâm của người nghiên cứu,
phê bình tuy không nhiều. Có thể kể đến một số bài tiêu biểu sau đây.


5
Tác giả Hưong Thy và Lan Phương trong bài: Đầu năm trâu, ra sách
Thằng mõ trâu trên trang Thể thao, văn hoá ngày 5/2/2009 có viết: “Thằng
mõ trâu với nhan đề chung cho cả tập sách là một truyện ngắn thú vị của
Phạm Ngọc Tiến.Truyện kể về thú chơi trâu chọi ở xứ biển Đồ Sơn của nhân
vật Tu “lếch” với những đam mê lẫn tham vọng, với những mánh khoé lẫn sự
tận tâm thực sự chắc chắn sẽ là câu truyện thú vị nhân dịp đầu năm 2009. Bên
cạnh đó, ta sẽ gặp ở đây các nhân vật quen thuộc từng thấy trên phim truyền
hình như lão Khuyếch, thằng Khoái trong Mõ làng Kình, gặp một anh hùng
thời hiện đại ở truyện ngắn Tai nạn; hoặc lạc vào một thế giới xen lẫn hư và
thực với bao ám ảnh trong truyện ngắn Nguyên thuỷ.”
Với nhan đề: Nhà văn Phạm Ngọc Tiến quyết không sống... nhạt
đăng trên Cand.com ngày 23/3/2009 Việt Hà có viết: “Nhà văn Phạm Ngọc
Tiến văn chương thô mộc nhiều khi đọc xong vẫn thấy gai người, nhưng cái
tình đọng lại luôn thật ấm áp, hiền hoà.”
Phạm Ngọc Tiến khởi đầu văn chương bằng một loạt các giải thưởng.

Ở bên trong con người lúc nào cũng ồn ào, nôn nóng, nồng nhiệt và chân thật
đến thái quá, chất thợ, chất lính lấn át hết cả mọi ứng xử tạo nên cái dễ gần
suồng sã và tin tưởng ấy, là một tâm hồn nhạy cảm, cả nghĩ, đa sầu. Văn
Phạm Ngọc Tiến không màu mè, ướt át, nhưng cũng không thô tháp vụng về.
Trong bài viết: Nhà văn Phạm Ngọc Tiến: Chất thợ, chất lính, chất văn
trên tờ Tiền phong online ngày 20/1/2013, nhà văn giàu kinh nghiệm sống và
viết Trung Trung Đỉnh đã nhận xét: “ Tiến viết như là tự giãi bày cái phần sâu
kín bên trong con người mình, thành thử cái chất thợ, chất lính không còn là
gam chủ lực. Hình ảnh người lính trở nên mềm mại hơn cái anh lính có nguồn
gốc thợ điện đời thường. Những trang văn trình làng đầu tiên của Tiến mà tôi
được đọc trong truyện ngắn Chạy trốn chính là cái mạch văn ấy, cho đến nay
vẫn không mấy đổi thay, dường như Tiến cũng không có ý định đổi thay,


6
nhưng càng ngày càng sâu lắng điềm tĩnh hơn, nhất là ở những truyện ngắn và
các bài tạp bút giàu chất nhân văn gần đây.”
Về vị trí và những đóng góp của Phạm Ngọc Tiến, nhà văn Trung
Trung Đỉnh đã khẳng định: “Phạm Ngọc Tiến là một nhà văn có những đóng
góp đáng kể trong tiến trình văn học đương đại, nhất là truyện ngắn và tiểu
thuyết thời hậu chiến”.
Do vậy, việc nghiên cứu chuyên sâu Truyện ngắn Phạm Ngọc Tiến từ
góc nhìn thể loại là một vấn đề cần thiết.
3. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm làm rõ những đặc sắc riêng
trong truyện ngắn của Phạm Ngọc Tiến, chỉ ra những đặc điểm nổi bật làm
nên phong cách nghệ thuật của ông, từ đó khẳng định những đóng góp không
nhỏ của Phạm Ngọc Tiến trong nền văn xuôi hiện đại và đương đại Việt Nam,
đặc biệt trong thể loại truyện ngắn.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý thuyết có liên quan đến đề tài.
Nghiên cứu những phương diện cơ bản về thể loại truyện ngắn của
Phạm Ngọc Tiến.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các khía cạnh nổi bật của thi pháp
truyện ngắn: nhân vật, kết cấu, không gian- thời gian nghệ thuật, ngôn
ngữ...qua đó thấy được nét riêng biệt, độc đáo của Phạm Ngọc Tiến.
4.2. Phạm vi nghiên cứu


7
Với đề tài, Truyện ngắn Phạm Ngọc Tiến từ góc nhìn thể loại, chúng
tôi tập trung khảo sát một số tập truyện ngắn tiêu biểu của ông như: Họ đã trở
thành đàn ông,Thằng mõ trâu, Nguyên quán.
5. Dự kiến đóng góp của luận văn
Qua việc nghiên cứu đặc điểm truyện ngắn, chúng tôi muốn phác thảo
nên chân dung của một tác giả văn xuôi có những nét đặc sắc, nổi bật.
Luận văn tập trung tìm hiểu Truyện ngắn của Phạm Ngọc Tiến từ góc
nhìn thể loại, từ đó khẳng định đặc điểm phong cách truyện ngắn Phạm Ngọc
Tiến và những đóng góp của ông đối với nền văn xuôi Việt Nam hiện đại và
đương đại.
Thấy được những nét cơ bản trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện và
nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, luận văn chúng tôi chủ yếu sử dụng những phương
pháp sau:
- Phương pháp loại hình.
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học.

- Phương pháp thống kê, phân loại.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.


8
CHƯƠNG I
CỐT TRUYỆN VÀ NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
CỦA PHẠM NGỌC TIẾN
1.1. Cốt truyện - sự mở rộng dung lượng hiện thực
“Nếu tác phẩm trữ tình phản ánh hiện thực trong sự cảm nhận chủ
quan về nó thì tác phẩm tự sự lại tái hiện đời sống trong toàn bộ tính khách
quan của nó. Tác phẩm tự sự phản ánh hiện thực qua bức tranh mở rộng của
đời sống trong không gian thời gian, qua các sự kiện biến cố xảy ra trong
cuộc đời con người” [10, 385]. Phương thức phản ánh hiện thực qua các sự
kiện, biến cố và hành vi con người làm cho tác phẩm tự sự trở thành một câu
chuyện về ai đó hay về một cái gì đó. Cho nên, tác phẩm tự sự truyền thống
bao giờ cũng có cốt truyện.Vì vậy ta có thể khẳng định cốt truyện chiếm một
vị trí vô cùng quan trọng góp phần hình thành nên đặc trưng thể loại.
Cốt truyện là hình thức cơ bản nhất của truyện. Mỗi tác phẩm thường
có một cốt truyện hoàn chỉnh. Cốt truyện tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn và tạo
nên sức thuyết phục mạnh mẽ cho chủ đề và tư tưởng của tác phẩm.Vì thế,
“cốt truyện là yếu tố quan trọng bậc nhất không thể thiếu trong bất kỳ một
hình thức tự sự nào”.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì “cốt truyện là hệ thống các sự kiện
cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành
bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học
thuộc các loại tự sự và kịch”[10, 386].
Có thể tìm thấy qua một cốt truyện hai phương diện gắn bó hữu cơ.
Một mặt, cốt truyện là một phương diện bộc lộ nhân vật, nhờ cốt truyện, nhà

văn thể hiện sự tác động qua lại giữa các tính cách nhân vật, mặt khác cốt
truyện còn là phương tiện để nhà văn tái hiện các xung đột xã hội. Cốt truyện
vừa góp phần bộc lộ hiệu quả đặc điểm mỗi tính cách, lại vừa trình bày một


9
hệ thống các sự kiện phản ánh chân thực xung đột xã hội, có sức mạnh hấp
dẫn và lôi cuốn người đọc.
“Cốt truyện là một hiện tượng phức tạp. Trong thực tế văn học, cốt
truyện các tác phẩm hết sức đa dạng, kết tinh truyền thống dân tộc, phản ánh
những thành tựu văn học của mỗi thời kỳ lịch sử, thể hiện phong cách tài
năng nghệ thuật của nhà văn”[10, 100].
Dẫn luận nghiên cứu văn học do G.N.Pôpêlôp chủ biên nêu khái quát về
cốt truyện: “Các tác phẩm tự sự và kịch miêu tả các sự kiện, hành động trong
đời sống nhân vật diễn ra trong không gian và thời gian. Phương diện này của
các sáng tác nghệ thuật được gọi bằng thuật ngữ cốt truyện” [21, 229].
Vậy ta có thể đi đến kết luận về cốt truyện: Cốt truyện là một hệ thống
các sự kiện, biến cố phản ánh những diễn biến của cuộc sống một cách nghệ
thuật làm cho tính cách của nhân vật hình thành và phát triển. Đồng thời, cốt
truyện còn là phương tiện để nhà văn tái hiện các xung đột xã hội nhằm làm
sáng tỏ chủ đề - tư tưởng của tác phẩm, qua đó thể hiện phong cách tài năng
nghệ thuật của nhà văn.
Cốt truyện là thành phần quan trọng và thiết yếu của tự sự và kịch. Nó
thường trải qua một tiến trình có vận động, hình thành, phát triển và kết thúc.
Tuy vậy ở những cốt truyện cụ thể không phải bao giờ cũng có đầy đủ các
thành phần đã nêu. Và một cốt truyện hay, hấp dẫn phụ thuộc rất nhiều vào
hiện thực cuộc sống với những quy luật phát triển tất yếu của nó, phụ thuộc
vào năng lực, phẩm chất sáng tạo, đặc biệt là ý đồ tư tưởng của tác giả. Bởi
vậy, mỗi nhà văn trên con đường sáng tạo nghệ thuật đều phải nỗ lực tìm tòi
những cốt truyện phù hợp để biểu hiện tư tưởng một cách sâu sắc. Tìm hiểu

cốt truyện chính là một góc độ để nắm bắt chủ đề tư tưởng, cũng như giá trị
thẩm mỹ của tác phẩm, đồng thời cho ta thấy được tài năng và sự sáng tạo
không ngừng nghỉ của người nghệ sỹ.


10
Tác phẩm tự sự phản ánh đời sống qua việc lựa chọn, trình bày hệ
thống những sự kiện, chi tiết, tình tiết khác nhau. Nghĩ về truyện ngắn,
Nguyễn Minh Châu hình dung: "Truyện ngắn như mặt cắt giữa một thân cây
cổ thụ, Chỉ liếc qua những đường vân trên cái khoanh gỗ tròn tròn kia, dù sau
trăm năm vẫn thấy cả cuộc đời của thảo mộc" [5, 332]. Hay nói một cách cụ
thể hơn: "Khác với tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong sự đầy
đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn thường hướng tới việc khắc họa một hiện
tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh, trong đời sống tâm
hồn con người" [17,31]. Do vậy, hướng tiếp cận và cách thức lựa chọn, xây
dựng cốt truyện của truyện ngắn cũng có những đặc trưng riêng. Được quan
niệm "là một hệ thống các sự kiện phản ánh những diễn biến của cuộc sống và
nhất là các xung đột xã hội một cách nghệ thuật, qua đó các tính cách hình
thành và phát triển trong những mối quan hệ qua lại của chúng nhằm làm
sáng tỏ chủ đề tư tưởng của tác phẩm" [39]. Cốt truyện truyện ngắn có nhiều
biểu hiện đa dạng và phong phú thể hiện những chức năng, giá trị khác nhau
trong từng giai đoạn phát triển cụ thể của thể loại.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã nhấn mạnh vai trò của cốt truyện:
“Trong những truyện ngắn hay, bao giờ người viết cũng biết lợi dụng cốt
truyện để tạo độ căng” [5, 230]. Nhà văn Ma Văn Kháng khi viết truyện ngắn
cũng có nhận xét: “Với tôi, theo một thói quen đã trở thành thông lệ, trước hết
hiển nhiên là phải có được một cốt truyện”. Gớt cũng đã đề cao vai trò của cốt
truyện trong sáng tạo truyện ngắn: “Đúng vậy, còn gì quan trọng hơn cốt truyện
và nếu thiếu nó cả nền lí luận nghệ thuật sẽ còn ra gì nữa? Nếu cốt truyện
không dùng được thì tài năng cũng sẽ lãng phí vô ích. Và chính vì nghệ sỹ hiện

nay không có những cốt truyện xứng đáng nên tình hình nghệ thuật hiện đại
mới bi đát như thế”.


11
Để tạo nên sức sống bền lâu cho thể loại, nhà văn phải luôn có ý thức
cách tân và sáng tạo trong lao động nghệ thuật, công việc đó "xét đến cùng là
sự cải tạo các phương thức tổ chức nghệ thuật của tác phẩm, phản ánh những
thay đổi trong phạm vi và tính chất của mối quan hệ con người - thực tại" [2].
Hơn nữa, trong văn học thời kỳ đổi mới, cả người sáng tác và độc giả đều có
nhu cầu cao hơn trong sáng tạo và cảm thụ nghệ thuật, muốn nhận thức, khám
phá cuộc sống ở “bề chưa thấy, ở cái bề sâu, ở cái bề sau, ở cái bề xa” (Chế
Lan Viên). Cho nên, với vai trò là “phương tiện bộc lộ tính cách đa dạng và
phương tiện để nhà văn thể hiện các xung đột xã hội” truyện ngắn thực sự lên
ngôi khi tạo được nhiều cốt truyện hay, độc đáo và có khả năng truyền tải
nhiều nội dung xã hội sâu sắc. Vì thế, giá trị chủ yếu của cốt truyện không
đơn thuần ở chỗ có hay không có cốt truyện mà ở chiều sâu nội dung tư tưởng
mà nó dung chứa được. Cốt truyện do vậy không chỉ là tổng hợp giản đơn các
chi tiết, biến cố mà được tổ chức một cách có hệ thống những sự kiện tình
huống đa dạng, hàm chứa sự dồn nén tích tụ nhiều trạng thái của đời sống.
Cốt truyện theo xu hướng hiện nay không chỉ thực hiện chức năng phản ánh,
tái hiện đời sống, xây dựng tính cách nhân vật mà còn là sự khám phá lý giải
sâu sắc hiện thực xã hội và những số phận cá nhân. Điều đó cho thấy “truyện
ngắn thời kỳ này đã mở ra nhiều hướng tìm tòi cả trong tiếp nhận hiện thực
lẫn thi pháp thể loại” [37, 57].
Thực chất việc tạo nên cốt truyện hay, có chiều sâu là cách thức tạo nên
hiệu quả nghệ thuật cao trong một hình thức nhỏ, là “khả năng ôm trùm bao
quát hiện thực, là sức chứa chất liệu đời sống hay khả năng của nội dung phản
ánh hiện thực” [38]. Vấn đề của một số truyện ngắn hiện nay là vấn đề dung
lượng hiện thực và khả năng phản ánh cuộc sống. Xu hướng “tiểu thuyết hóa”

thể loại truyện ngắn được nhà văn Nguyên Ngọc đánh giá xác đáng: “Dung
lượng truyện ngắn ngày nay rất lớn, trong độ ba trang mấy nghìn chữ mà rõ


12
một cuộc đời, một kiếp người, một thời đại. Các truyện ngắn bây giờ rất nặng
dung lượng của nó là dung lượng của cả cuốn tiểu thuyết” [38]. Cho nên hầu
hết mỗi truyện ngắn là cả một cuộc đời, một số phận thậm chí cả một thời đại.
Sự xâm nhập mạnh mẽ của tư duy tiểu thuyết tạo cho truyện ngắn: “Một sức
chứa lớn hơn nhiều so với bản thân chúng và mở rộng khả năng thể loại đến
độ ngạc nhiên” [1, 4].
Trước năm 1975, cốt truyện ít nhiều chịu áp lực của sử thi truyện ngắn
chú ý tạo dựng những cốt truyện chặt chẽ với tình huống gay cấn, căng thẳng.
Âm hưởng chủ đạo là ngợi ca, khẳng định. Truyện ngắn giai đoạn này cũng
đã hướng tới cốt truyện tâm lý, phản ánh vẻ đẹp nội tâm của con người nhưng
chưa có nhiều trang thể hiện sâu sắc diễn biến tâm lý và cái tôi nội cảm của
nhân vật. Sau năm 1975, nhất là trong những năm gần đây, thực tiễn văn học
đã chứng minh cái tạo nên sức hấp dẫn lôi cuốn của truyện ngắn không chỉ là
“những cốt truyện rạch ròi, những sự kiện trọng đại, những tình huống căng
thẳng, những xung đột bên ngoài, mà còn là những cảnh ngộ đời thường,
những tính cách nhân vật giàu tâm trạng và nhận thức cá nhân với cuộc đời và
những người sống bên mình” [40]. Cốt truyện đã vận động đổi thay trong sự
phát triển của thể loại, xuất hiện những cốt truyện đầy kịch tính, những cốt
truyện giàu tâm trạng, cốt truyện có đầu có cuối, cốt truyện vô hậu, phi kết
cấu, có cốt truyện phản ánh hiện thực đương đại, có cốt truyện ảo, cổ tích.
Với khả năng biến hóa linh hoạt trong cách xây dựng cốt truyện, truyện ngắn
là thể loại thuận lợi để biểu đạt một cách tự nhiên, cụ thể những nỗi niềm,
những tâm sự thầm kín đầy bí ẩn của con người.
Truyện ngắn đương đại phát triển đa dạng với nhiều hình thức khác
nhau. Bằng cách diễn đạt khác với những phương thức thể hiện đa dạng vừa

truyền thống vừa hiện đại, truyện ngắn trong một thời gian không dài đã làm
được nhiều vấn đề mà tiểu thuyết chưa kịp làm.Truyện ngắn đã đạt được


13
nhiều thành tựu đáng kể trong xây dựng cốt truyện, trong cách nhìn nghệ
thuật về con người và trong sáng tạo ngôn từ. Nếu tiểu thuyết là cái nhìn tập
trung xoáy sâu vào những vấn đề của con người cá nhân cũng như mối quan
hệ của cá nhân và xã hội trên hành trình tìm kiếm và khẳng định những giá trị
nhân bản, nhà văn chú ý vào số phận, tính cách của nhân vật mà soi chiếu lại
lịch sử xã hội để khơi gợi những vấn đề triết lý nhân sinh thì trái lại, trong
truyện ngắn, nhà văn chú trọng vào việc xây dựng tình huống truyện: “Quan
trọng nhất của truyện ngắn là tạo ra một tình huống nào đó từ tình huống nổi
bật của tính cách nhân vật” (Nguyễn Đăng Mạnh). Nhà văn Nguyễn Kiên tâm
đắc: “Điều quan trọng đối với truyện ngắn là phải lựa chọn cho được cái tình
thế, nó bộc lộ nét chủ yếu của tính cách số phận, nó đặc trưng cho một hiện
tượng xã hội” [19].
Trong bài: Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975, tác giả Bích
Thu đã đánh giá tổng quát như sau: “Trong những năm gần đây, truyện ngắn
có xu hướng tự nới mở đa dạng hơn trong cách diễn đạt. Cốt truyện vận động
đổi thay trong sự phát triển của thể loại…Truyện ngắn hôm nay ngày càng
tăng cường cốt truyện bên trong, biểu lộ trạng thái tâm tưởng của nhân vật
chính, giảm bớt cốt truyện hành động bên ngoài”.
Vì vậy, để tạo được một cốt truyện vừa độc đáo vừa cô đúc là điều kiện
căn bản cho truyện ngắn của tác giả đó thành công. Thời gian gần đây, truyện
ngắn đương đại Việt Nam phát triển một cách rầm rộ, kéo theo nó là sự cách
tân không ngừng, trong đó có sự cách tân phong phú của cốt truyện. Tiêu biểu
như song hành cùng với cốt truyện kịch tính thì càng về sau lại xuất hiện
nhiều cốt truyện trữ tình.
Nhà văn Phạm Ngọc Tiến khá linh hoạt trong việc tạo cho mình một số

kiểu cốt truyện. Đó là cốt truyện vừa mang tính truyền thống vừa mang hơi
thở hiện đại. Khi khảo sát các truyện ngắn của Phạm Ngọc Tiến, bề ngoài


14
chúng ta tưởng như ông vẫn sử dụng kỹ thuật viết truyền thống theo quy luật
tự nhiên của sự kiện. Nhưng khi đọc kỹ, khám phá bên trong của mỗi tác
phẩm, ta lại thấy văn phong của ông là cả một thế giới sáng tạo. Điều đó tạo
cho Phạm Ngọc Tiến có một dấu ấn trong việc xử lý các mối quan hệ. Đó là
mối quan hệ giữa cốt truyện biên niên và cốt truyện trần thuật, cốt truyện đảo
lộn thời gian trần thuật. Từ đó ta có thể nhận thấy một số cốt truyện chủ yếu
mà Phạm Ngọc Tiến tổ chức trong tác phẩm của mình là: Cốt truyện mang
dáng dấp truyền thống, cốt truyện kết thúc bất ngờ, kết thúc để ngỏ và cốt
truyện đan xen nhiều mạch truyện.
1.2. Các kiểu cốt truyện trong truyện ngắn của Phạm Ngọc Tiến
1.2.1. Cốt truyện mang dáng dấp truyền thống
Cốt truyện truyền thống có thể hiểu là người kể dường như không quan
tâm nhiều tới một cốt truyện đầy đủ. Ở cốt truyện này, người kể thường chú ý
đến sự kiện để lý giải, cắt nghĩa, minh họa cho một vấn đề mà người kể đưa
ra. Đó là một số cốt truyện hoàn toàn có sự kiện mà không có biến cố, các sự
kiện tình tiết cứ đan cài một cách đầy ngẫu hứng và không theo một sự sắp
xếp nào cả.
Truyện ngắn của Phạm Ngọc Tiến có nhiều truyện viết theo kiểu này.
Nguyên nhân là ông thường viết bằng ký ức, bằng hồi tưởng của một người
con xa quê, một người lính trở về sau chiến tranh đau thương, mất mát. Đó là
cách viết hết sức đơn giản về những câu chuyện đời thường mang tính tự
truyện. Kiểu cốt truyện đơn giản này phần lớn đều lấy từ cuộc đời thực của
nhà văn hoặc là những điều ông mắt thấy tai nghe. Chính vì thế mà những cái
được phản ánh trong truyện ngắn của Phạm Ngọc Tiến không phải là một thế
giới tưởng tượng mà bao giờ cũng được xuất phát từ con người cụ thể, những

sự kiện, những câu chuyện có thật hoặc không thì cũng được chắt lọc từ cuộc


15
sống. Tiêu biểu như các truyện ngắn: Tiếng lá, Vọng thê, Hõm nước cây si,
Nguyên quán, Cố hương....

.

Truyện ngắn Nguyên quán có cốt truyện rất đơn giản, Phạm Ngọc Tiến
không đi vào vấn đề mang tính vĩ mô hay bước ngoặt lớn lao. Truyện của ông
tập trung trần thuật những câu chuyện đời thường, những cảm nhận của con
người trở về quê sau bao năm xa cách, với những tháng ngày học tập và làm
việc ở một nơi xa. Những câu chuyện về gia đình, làng xóm, những tình cảm
giận hờn của đôi lứa… tất cả những câu chuyện tản mạn đó dường như không
có sự ăn khớp với nhau. Nhưng qua cách viết dung dị, nhẹ nhàng của nhà văn,
truyện tưởng như rời rạc kia lại là những mẩu chuyện làm toát lên nỗi niềm
đau đáu của nhân vật “tôi” khi nghĩ về gia đình và quê hương.
Ở truyện ngắn Cố hương, người đọc được nhà văn đưa vào thế giới
của niềm vui, sự đau khổ cùng nhân vật. Đó là ký ức tuổi thơ tôi với nỗi bất
hạnh của “tôi” và nỗi đau của mẹ. Mỗi lần tôi tự hỏi. Mình có cha không?
Cha mình là ai? “Mẹ giấu tôi. Tôi cố gặng. Mẹ vẫn chỉ khóc. Phải nói điều
Vận nói, mẹ mới chịu. Tôi quyết liệt thế cũng không phải vì chuyện Vận, mà
chính tôi muốn được biết tất cả. Có gì khổ bằng phải sống chơi vơi, mù mịt
không hề biết gốc gác của mình. Quả tình, cuộc sống thế chỉ đáng một nửa”
[33, 140]. Khi tôi có người yêu, cô ấy đã là động lực giúp tôi đi tìm đáp án
cho những câu hỏi ấy.
Với không gian “đêm mới chỉ bắt đầu sập xuống. Gió vương vít, lao
xao thổi rung rinh tán lá của những vòm cây cơm nguội. Trời âm u. Sao thưa
thớt và xa vời”[33, 94]. Phạm Ngọc Tiến đã cho ta cảm nhận được cái dư vị

tình yêu của anh lính trẻ trong giờ khắc chiến tranh dữ dội. Trong tâm hồn
anh vẫn còn những “phút giây bình yên, dù đang là những ngày hè chiến tranh
của năm bay hai máu lửa. Anh chưa yêu. Giã từ tuổi mười bảy, anh chỉ có
cánh bằng lăng ép khô và bài thơ học trò chép bằng mực tím trong cuốn sổ để


16
bước chân vào quân ngũ”[33, 95]. Dù đang sống trong khoảnh khắc mong
manh của sự sống và cái chết, trong màn mưa bom bão đạn của kẻ thù nhưng
trái tim người lính trẻ vẫn ngập đầy cảm xúc yêu thương. “Nàng như ngọn
gió thoảng qua đời anh. Nàng - cánh chim nhỏ yếu ớt khẽ chạm vào trái tim
anh và vĩnh viễn đậu lại ở đó”[33, 103]. Và có lẽ “mối tình thoáng qua như
không có thực ấy sẽ cùng anh đi hết chiến tranh, đến ngày chiến thắng”[33,
104].
Với những tình cảm rất đời thường ấy, Phạm Ngọc Tiến đã để dòng
cảm xúc bộc lộ theo tiến trình của sự hồi tưởng, kiến giải cho những tâm
trạng nhẹ nhàng nhưng không kém phần đằm thắm.
1.2.2 Cốt truyện với kết thúc bất ngờ, kết thúc để ngỏ
Cốt truyện với kết thúc bất ngờ, kết thúc để ngỏ rất phổ biến trong Văn
học Việt Nam cận hiện đại. Ở đó kết thúc tác phẩm bao giờ cũng là phần mà
vấn đề được giải quyết một cách triệt để, mọi bí ẩn của câu chuyện đều được
lý giải nhưng cốt truyện theo hình thức này lại khác.
Tác phẩm bất đầu bằng những sự việc đã xảy ra hoặc chưa xảy ra
nhưng đến cuối tác phẩm thì sự việc ấy vẫn chưa được giải quyết triệt để và
dường như còn dang dở. Có thể gọi đây là cốt truyện có kết thúc mở. Đỗ
Hương Thủy từng nhận định: Tác phẩm là một cấu trúc mở, một khối vuông
rubích, một bức tranh lập thể mời gọi sự khám phá diễn dịch và đối thoại từ
phía người đọc. Kiểu cốt truyện này ban đầu gây cho người đọc sự hụt hẫng
nhưng xem ra, đây có thể là ý đồ của nhà văn. Bởi dẫn dắt vấn đề theo cốt
truyện như thế này cũng đồng nghĩa là để cho độc giả cùng nhập cuộc. Người

đọc lúc này quên mình là độc giả để tham gia suy ngẫm, hình dung về nhân
vật và đưa ra lời lý giải để nhằm thỏa mãn ý muốn cá nhân.


17
Khảo sát các truyện ngắn của Phạm Ngọc Tiến, ta nhận thấy có một số
truyện ngắn theo kết cấu này. Tiêu biểu là: Tai nạn, Quả muộn, Khoảnh khắc,
Điếu văn cho người sống…
Truyện ngắn Quả muộn là một câu chuyện đau lòng xảy ra trong gia
đình cụ Phó Nhiễu: “Cụ Phó Nhiễu lặng lẽ rời con cháu ra đi vào năm 75 tuổi.
Ở làng Kình sống đến tuổi ấy được coi là trên mức thượng thọ. Người sống
đến thượng thọ lúc nằm xuống được dân làng đưa tiễn trọng thể theo nghi
thức đại tang…Cụ ra đi vào một ngày cuối tháng 8 ta. Tiết thu nhưng trời
hừng hực nóng. Tịnh không có một chút gió nào phe phẩy. Những tán bưởi, lá
lùm lùm rũ xuống…”[34, tr 5-6].
Cụ mất đám ma của cụ linh đình như một ngày hội ở làng Kình. Có dễ
phải đến dăm chục năm nay ở làng Kình không có đám ma nào to như vậy. Cái
làm nên đám ma to và khác thường của cụ chính là ở sự “nườm nượp những
chiếc xe to nhỏ, đủ loại vào ra như mắc cửi. Suốt đêm cả làng đèn đuốc sáng
choang, hoa chăng suốt từ trong nhà, ngoài ngõ. Hoa nhiều đến nỗi chưa đến lễ
hạ huyệt, người nhà cụ Phó đã mang vô số vòng hoa xuống rải ở bãi mả”[34, 8].
Đám tang của cụ làm mát mặt cả dân làng Kình. Từ xưa đến nay chưa
có một đàm nào to và khác thường đến thế.
Đọc tác phẩm ta cứ tưởng tượng cụ Phó Nhiễu phải làm một chức gì to
tát lắm. Nhưng không, cụ chỉ là ông nông dân bình thường như bao người
khác nhưng ông có cái đặc biệt là ông có những đứa con làm to ở tỉnh. Ông có
ba người con, hai trai một gái. Cô con gái của cụ nay đã ở tuổi bốn mươi
nhưng cả tỉnh này cũng đều biết đến tiếng. Hồi trẻ cô có “sắc đẹp quyến rũ
đến mê hồn - đẹp đến nỗi không tính được số trai làng từng tan nát con
tim”[34, 10]. Giờ đây cô là vợ của một cán bộ chủ chốt của tỉnh. Còn anh cả tên là Cửu thời kháng chiến làm liên lạc của tỉnh đội, sau hòa bình là cán bộ

của sở thương nghiệp, nay ông đã là Giám đốc của một sở. Anh con trai thứ là


18
con người tần tảo một nắng hai sương “theo nghiệp Bố làm nghề nông, tuy
nghèo nhưng tính ông lành như cục đất. Lúc cụ Phó mất cụ đang ở với anh
con thứ này”[34, 9].
Truyện đưa đến cho người đọc một loạt những thông tin về gia đình cụ
Phó nhưng cũng làm cho độc giả đau lòng khi nghĩ đến cái chết của cụ. Hoàn
cảnh gia đình như thế dáng lẽ cụ phải được an nhàn, sung sướng ngồi hưởng
lộc để ngắm nghía con cháu công thành danh toại. Nhưng cụ lại gặp tai ương,
cụ bị mù cả hai con mắt: “Người mù sống lay lắt, vật vờ như cái bóng, được
ngay nào biết ngày ấy. Tuy mù nhưng cụ vẫn làm được khối việc, chả có nhà
nào không dung rổ rá do đôi tay cụ sờ sẫm đan nên. Tuy không nhìn thấy gì
nhưng cụ rất tài chưng cất từ hoa bưởi - thứ tinh dầu đặc biệt”[34, 13].
Cuộc sống cứ bình lặng trôi, cụ ở cùng anh con thứ - tuy nghèo nhưng
ấm áp tình thân. Sống cùng vợ chồng anh thứ cụ đỡ quạnh quẽ bởi có thằng
cháu mau miệng quý ông thao thắng kể chuyện suốt ngày. Một hôm cụ thèm
ăn bưởi, cụ bảo thằng cháu sang nhà bác “bứt cho ông một quả”. Sang nhà
bác buông sẵng: “Hết bưởi rồi, bảo ông thế”[34, 17]. Nhưng đâu phải thế cây
bưởi còn đến bảy tám chục quả. Ông Phó Nhiếu lặng người đau đớn “ông lần
lần rút tờ bạc năm trăm đưa cho cháu: Cháu chịu khó lên đầu làng bảo cụ Cả
Doạch bán cho ông một quả, ông thèm lắm”[34, 18]. Thằng cháu đi mua bưởi
về. Đến cửa nó bỗng khựng lại kêu không thành tiếng: “Nó oà khóc. Ông ơi!
Ông làm sao thế xuống đi ông, xuống mà ăn bưởi”[34, 19].
Cụ Phó Nhiễu mất, hàng xóm chạy sang. Chị bí thư xã gần nhà cùng
mấy người đều là đảng viên, chị bí thư gấp gáp: “Các đồng chí chứng kiến.
Ông cụ thắt cổ chết. Ta biết với nhau thế là đủ. Gia đình cán bộ, không nên
làm ồn ào to chuyện, cần phải giữ”[34, 19].
Xưa nay đáng lẽ ở đời người chết thường nhắm mắt nhưng ở đây cụ

Phó mắt lại cứ mở trừng trừng. Chị bí thư vuốt mắt cho cụ: “Ông ơi, ông sống


19
linh chết thiêng xin ông nhắm mắt. Lạy ông, ông đừng nhìn thế tội lắm”[34,
19].
Suốt từ đầu câu chuyện ấy người đọc đã nhập cuộc cùng với những trăn
trở suy tư của cụ. Ta như có sự đồng cảm cùng với nỗi niềm của cụ khi sống
giữa đàn con có chức sắc, có quyền thế mà điều giản đơn muốn ăn một quả
bưởi do chính tay mình trồng cũng không được. Đau đớn tận cõi lòng, cụ đâu
ngờ anh con cả không hiểu được lòng cha, không hiểu được cái vị ngọt trong
từng múi bưởi. Ta đọc truyện đến đâu lòng đau đến đó. Kiếp sống con người
mong manh, cụ Phó mất nhưng mất trong đau đớn: “Giữa lúc chuẩn bị đưa cụ
xuống huyệt thì có một chiếc xe con màu đen bóng lộn đang chạy bị ách lại.
Ông cụ Thưởng, ngoại tám mươi, già nhất làng Kình, tay gậy lọc cọc đi giữa
đương. Còi xe pim pim. Vị cán bộ xuống xe. Cụ Thưởng bảo:
- Ngài về dự tang ?
- Vâng !
- Ngài có biết ông Phó chết vì lẽ gì không ?
Vị cán bộ cười
- Tuổi các cụ quy tiên là sướng rồi.
Cụ Thường dừng tay gậy.
- Chết khổ, chết sở. Chết như thế chúng tôi thèm vào chết.
- Cụ bảo sao ?
Cụ Thưởng dạt ngay sang vệ đường chắp tay cung kính:
- Trình ngài. Ông ấy thắt cổ chết.
Chiếc xe dừng lại nhà ông Cửu đúng mười phút. Đó là vị cán bộ thủ
trưởng của cả ông Cửu lẫn anh chồng cô Bưởi”[34, 21].
Câu chuyện kết thúc, nhưng đã để lại bao dư âm day dứt trong lòng mỗi
độc giả: "Hạt sẽ nảy mầm thành cây. Những hạt bưởi này có thành cây bưởi

ngọt được chăng? nếu được thì đó là điều trái quy luật ở làng Kình”[34, 21].


20
1.2.3. Cốt truyện đan xen nhiều mạch truyện
Cốt truyện là những đường dây sự kiện, “hệ thống sự kiện cụ thể”[11,
99]. Là sự xâu chuỗi, liên kết, tổ chức các chi tiết, “tình huống theo yêu cầu tư
tưởng và nghệ thuật nhất định” [11, 99]. Khi xây xựng cốt truyện, nhà văn có
thể tạo ra một hoặc nhiều đường dây sự kiện đan xen và bổ sung cho nhau
nhằm làm nổi bật nội dung tư tưởng của tác phẩm. Do vậy, mạch truyện có
thể được hiểu là những đường dây chi tiết, sự kiện nhất định trong từng cốt
truyện, được tạo nên theo những khả năng kết hợp khác nhau. Một câu
chuyện có thể có một hoặc nhiều mạch truyện. Suy cho cùng, việc sáng tạo
mạch truyện phụ thuộc chủ yếu vào ý đồ sáng tác và quan niệm về giá trị cốt
truyện của tác giả. Sự phức tạp và biến động của đời sống xã hội sau đổi mới
đã làm nảy sinh rất nhiều phương diện và phạm vi hiện thực mới mẻ cần được
khám phá, lý giải.
Xu hướng phản ánh cuộc sống đa chiều đã xuất hiện trong nhiều truyện
ngắn thời kỳ sau này. Sự chuyển đổi từ loại cốt truyện một mạch thẳng sang
cốt truyện đan xen nhiều mạch truyện là một biểu hiện rõ nét của sự đổi mới
nghệ thuật trong truyện ngắn hiện đại. Do đó, cốt truyện được tổ chức linh
hoạt và tinh tế hơn với nhiều ngã rẽ, nhiều mạch truyện.
Trong truyện ngắn của Phạm Ngọc Tiến, ta thấy nhà văn đã tạo ra sự
đan xen của nhiều mạch truyện, mạch quá khứ và mạch hiện tại, hay sự song
song tồn tại của cái thực và cái ảo… Nhà văn thường xây dựng kiểu cốt
truyện có sự xáo trộn về mặt thời gian nghệ thuật, đan xen những sự kiện quá
khứ và hiện tại để đối chiếu và soi tỏ nhằm khác họa sâu sắc hình tượng nhân
vật và bộc lộ tối đa tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Trong truyện ngắn của ông
cốt truyện thường được bắt đầu ở hiện tại sau đó trở về quá khứ rồi lại quay
về hiện tại. Ở một số truyện ngắn khác có sự đan xen giữa quá khứ và hiện

tại, tạo điều kiện cho nhân vật bộc lộ tình cảm, suy nghĩ hành động của mình


×