TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN NGỮ VĂN
CAO HOÀNG QUYÊN
GIÁ TRỊ NỘI DUNG – TƯ TƯỞNG
CỦA THƠ CA KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ
GIAI ĐOẠN 1955 – 1975
Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành Sư phạm Ngữ văn
Cán bộ hướng dẫn:
Th.s. TRẦN VĂN MINH
Cần Thơ, 5 – 2011
ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT VỀ THƠ CA KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MĨ GIAI ĐOẠN 1955 – 1975
1.1 Những điều kiện thuận lợi để thơ ca 1955 – 1975 phát triển
1.1.1. Sự lãnh đạo kịp thời và toàn diện của Đảng
1.1.2. Đội ngũ sáng tác đơng đảo, có nhiệt huyết, tài năng và kinh nghiệm
sáng tác
1.1.3. Hiện thực cuộc sống làm nên nguồn cảm hứng bất tận cho thơ ca
1.2. Những đặc điểm của thơ ca 1955 – 1975
1.2.1. Tập trung phục vụ cách mạng, cổ vũ chiến đấu
1.2.2. Hướng về quảng đại quần chúng nhân dân
1.2.3. Mang đậm tính thời sự và chất chính luận – suy tưởng
1.2.4. Chủ yếu được sáng tác theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng
mạn
1.3. Thành tựu nổi bật
1.3.1. Có một đội ngũ nhà thơ đơng đảo và trưởng thành nhanh chóng
1.3.2. Nội dung phong phú, đa dạng
1.3.3. Hình thức thể hiện đặc sắc trên nhiều phương diện
CHƯƠNG II: THƠ CA 1955 – 1975 – BỨC TRANH CHÂN THỰC
VÀ SINH ĐỘNG VỀ CUỘC SỐNG VÀ TÌNH CẢM
CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM THỜI CHỐNG MĨ
2.1. Bức tranh chân thực và sinh động về hiện thực cuộc sống
2.1.1. Đề tài cuộc sống mới, con người mới
2.1.2. Đề tài đấu tranh thống nhất đất nước
2.1.3. Đề tài ra trận
2.2. Bức tranh tâm tình nhiều cung bậc
2.2.1. Những tình cảm lớn của con người thời chống Mĩ
2.2.2. Có sự hịa quyện, thống nhất giữa cái riêng và cái chung
2.2.3. Mang đậm chất triết lí – suy tưởng
CHƯƠNG III: NHỮNG HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT ĐẶC SẮC
TRONG THƠ CA 1955 – 1975
3.1. Hình tượng Tổ quốc và Dân tộc
3.1.1. Đã thốt khỏi tính ước lệ trung đại và mang vẻ đẹp sinh động, cụ thể
3.1.2. Được cảm nhận trong sự hài hòa của nhiều phương diện
3.2. Hình tượng người anh hùng
3.2.1. Là tập thể những con người bình thường nhưng vĩ đại
3.2.2. Là tinh hoa, là đại diện cho một dân tộc, một thời đại anh hùng
3.3. Hình tượng “cái tơi” trữ tình
3.3.1. “Cái tơi” trữ tình đậm chất sử thi
3.3.2. “Cái tơi” trữ tình mang tính thế hệ
PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hai mươi năm chiến tranh chống Mĩ thật sự là hai mươi năm đầy “Máu và hoa”
của dân tộc Việt Nam. Hai mươi năm ấy, dân tộc ta đã phải sống và chiến đấu trong tận
cùng của nỗi đau mất mát, của nước mắt và sự hi sinh. Nhưng vượt lên mọi gian khổ, đau
thương, dân tộc ta đã khẳng định được những phẩm chất tốt đẹp của mình, đó là sự anh
dũng, hiên ngang, bất khuất, tự cường và giàu lòng yêu nước. Hồn thành xuất sắc sứ
mệnh lịch sử của mình, thơ ca 1955 – 1975 đã khắc họa được vẻ đẹp tuyệt vời của con
người Việt Nam thời chống Mĩ, những con người anh dũng, hiên ngang, sống giữa muôn
ngàn gian lao, mất mát mà lòng vẫn lạc quan, vẫn đầy ắp nghĩa tình. Với lịng u thơ và
niềm tự hào dân tộc, người viết thật sự bị cuốn hút trước những dịng thơ chống Mĩ –
những dịng thơ có sức lay động vô cùng mạnh mẽ đối với tâm hồn của mỗi con người.
Mỗi khi đọc những vần thơ ấy, người viết thấy mình như được trở về với khơng khí của
những ngày cả nước chống Mĩ, để thêm yêu, thêm tự hào về đất nước và con người Việt
Nam. Bên cạnh đó, là sinh viên của ngành sư phạm Ngữ văn, việc tìm hiểu về thơ ca giai
đoạn 1955 – 1975 còn là cơ hội để người viết bổ sung và hồn thiện kiến thức, phục vụ
cho cơng tác nghiên cứu và giảng dạy sau này của bản thân.
Đó là những lí do khiến người viết chọn vấn đề “Giá trị nội dung – tư tưởng của
thơ ca kháng chiến chống Mĩ giai đoạn 1955 – 1975” làm đề tài cho Luận văn tốt nghiệp
của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Văn học cách mạng 1945 – 1975 nói chung, thơ ca chống Mĩ 1955 – 1975 nói
riêng, là một trong những bộ phận sáng giá nhất của nền văn học dân tộc. Vì lẽ đó, “Giá
trị nội dung – tư tưởng của thơ ca kháng chiến chống Mĩ giai đoạn 1955 – 1975” khơng
phải là một đề tài hồn tồn mới, đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết, hội thảo
khoa học bàn về vấn đề này. Trong số đó, chúng ta có thể kể đến một số cơng trình nghiên
cứu sau:
Cơng trình đầu tiên, đó là quyển 50 năm văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng
8 của Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 1996. Đây là quyển sách tập hợp phần lớn
những bài phát biểu, báo cáo, tham luận tại Hội thảo 50 năm văn học Việt Nam sau Cách
mạng tháng Tám, do Đại học Quốc gia Hà Nội phối hợp với trường viết văn Nguyễn Du,
và Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội tổ chức năm 1995, tại Hà Nội. Nội dung của quyển sách
gồm ba phần với những tiêu đề do Nhà xuất bản tự đặt. Phần thứ nhất: Đặc điểm, diện
mạo, hướng tiếp cận. Phần thứ hai: Văn học và chiến tranh Cách mạng. Phần thứ ba:
Những vấn đề thi pháp thể loại. Trong phần thứ nhất, chúng ta có thể nhắc đến bài viết
“Về cách tiếp cận để đánh giá Văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám” của Nguyễn
Văn Long. Ở bài viết này, tác giả đã đưa ra ý kiến của mình về cách tiếp cận và đánh giá
đối với nền văn học cách mạng giai đoạn 1945 – 1975. Đặc biệt, khi bàn về mối quan hệ
giữa nền văn học 1945 – 1975 với hiện thực đời sống, tác giả đã khẳng định: “Hướng vào
đời sống xã hội rộng lớn với những biến cố trọng đại, văn học thời kì này đã ghi lại được
những hình ảnh khơng thể phai mờ của một thời kì lịch sử đầy gian lao, thử thách, nhiều
hi sinh nhưng cũng hết sức vẻ vang của dân tộc ta. Với hai cuộc chiến tranh yêu nước vĩ
đại, văn học đã sáng tạo được những hình tượng nghệ thuật cao đẹp về Tổ quốc, Nhân
dân, về các tầng lớp, thế hệ con người Việt Nam vừa giàu phẩm chất truyền thống vừa
thấm sâu tinh thần của thời đại” [2; tr.19]. Bài “Đặc điểm cơ bản của nền văn học mới
Việt Nam 1945 – 1975” của Nguyễn Đăng Mạnh cũng là một bài nghiên cứu có giá trị.
Trong bài viết này, tác giả đã trình bày khá rõ về những đặc điểm chính của văn học giai
đoạn 1945 – 1975. Theo ông đây là “Một giai đoạn văn học phục vụ chính trị, cổ vũ chiến
đấu” [2; tr. 49], “Một giai đoạn văn học hướng về đại chúng, trước hết là công nông
binh” [2; tr. 52], “Một giai đoạn văn học chủ yếu được sáng tác theo khuynh hướng sử thi
và cảm hứng lãng mạn” [2; tr. 57]. Và ở đặc điểm thứ nhất, tác giả đã nhấn mạnh như
sau: “tình cảm chủ yếu của thơ ca từ 1945 đến 1975 là những tình cảm cơng dân, tình
cảm chính trị: tình đồng chí, tình đồng bào, tình quân dân, tình với Đảng, với Bác Hồ, với
miền Nam còn trong tay giặc, hay miền Bắc xã hội chủ nghĩa… Những tình cảm khác
khơng phải khơng được nói đến nhưng đều được nâng lên thành tình cảm chính trị” [2; tr.
50]. Sang phần thứ ba của quyển sách, chúng ta có thể kể tới bài viết “Về một đặc điểm
của thơ Việt Nam từ 1955 đến 1975” của Trần Đăng Suyền. Trong bài viết này, tác giả
khẳng định: “Từ trước đến nay, các nhà nghiên cứu thường chia thơ Việt Nam 1955 –
1975 thành hai chặng đường: chặng đường từ 1955 đến 1964, và chặng đường từ 1965
đến 1975. Thơ trong những năm hịa bình (1955 – 1964) tập trung vào đề tài xây dựng
cuộc sống mới và đấu tranh thống nhất đất nước với những sáng tác của những nhà thơ
thế hệ chống Pháp, đặc biệt là sự chín lại của các nhà thơ tiền chiến. Chặng đường thứ
hai (từ 1965 đến 1975), thơ tập trung cao độ vào hai đề tài chính là Tổ quốc và chủ nghĩa
xã hội. Các nhà thơ tiền chiến, các nhà thơ thuộc thế hệ chống Pháp vẫn đang độ sung
sức, nhưng đóng góp nổi bật nhất trong chặng đường thơ này, nhất là ở những năm cuối
của cuộc kháng chiến thuộc về các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ” [2; tr. 257]. Theo Trần
Đăng Suyền cách chia trên là hoàn toàn có cơ sở, tuy nhiên, ơng cũng nói thêm: “về cơ
bản, thơ Việt Nam từ 1955 đến 1975 thực chất chỉ là một giai đoạn, nằm trong một chiều
hướng chung, có những đặc điểm cơ bản chung” [2; tr. 257-258]. Đặc điểm chung đó,
theo tác giả là: “Sự hồi sinh của cái tơi đời tư theo xu hướng hịa hợp với cái ta chung và
sự đậm dần, mở rộng, phát triển mạnh mẽ của cái tơi sử thi, tính chất sử thi – đó là một
trong những đặc điểm cơ bản nhất của thơ Việt Nam từ 1955 đến 1975” [2; tr. 258]. Sau
khi đưa ra đặc điểm trên của thơ ca 1955 – 1975, Trần Đăng Suyền đã dùng một số dẫn
chứng cụ thể để chứng minh. Tuy nhiên, bài viết của ông chỉ dừng lại ở một số nét cơ
bản, chưa đi sâu và chưa có sức bao quát cao.
Việt Nam nửa thế kỉ văn học (1945 – 1995) là tên một quyển sách được xuất bản
năm 1997, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, và cũng là tên của một Hội thảo văn học kỉ niệm
“50 năm, một nền văn học mới” do Bộ văn hóa thơng tin, Hội Nhà văn Việt Nam và Viện
Văn học phối hợp tổ chức vào năm 1995. Quyển sách tập hợp khá nhiều bài tham luận,
phát biểu tại hội thảo nói trên của nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình, nghiên cứu văn
học trên cả nước. Với bài “Nghĩ về đặc trưng thẩm mỹ của văn học cách mạng 1945 –
1975”, Trần Đình Sử khẳng định: “Văn học cách mạng đã làm giàu cho văn học dân tộc
bằng vô vàn vẻ đẹp hiện thực của đất nước và con người Việt Nam. Không phải vẻ đẹp cổ
xưa trong thơ Nguyễn Khuyến hay vẻ đẹp đìu hiu vắng vẻ, trống trải cơ đơn như trong thơ
mới mà là một vẻ đẹp tràn trề sức sống, thấm đượm lòng tự hào, niềm tin, ân tình, chỉ có
thể có được từ sau cách mạng tháng Tám” [24; tr.153]. Xét ở tính truyền cảm thì: “văn
học cách mạng truyền đạt niềm vui, tin yêu đời, tinh thần hi sinh qn mình hào sảng, ý
chí quật cường, khí phách coi thường hiểm nguy, gian khổ, khát vọng vươn tới tương lai
tốt đẹp, giữ gìn tình cảm ân nghĩa thủy chung… Nghệ thuật cách mạng hướng tới cuộc
sống con người siêu việt tồn tại hữu hạn của mình để tự khẳng định mình trong sinh mệnh
vơ hạn của Tổ quốc, nhân dân, tập thể, đoàn thể, tiến bộ, lí tưởng”, “Trong văn học cách
mạng con người tìm thấy ý nghĩa sự sống trong Tổ quốc, Nhân dân, trong tương lai tươi
sáng, trong lẽ sống vĩnh cửu” [24; tr. 135]. Tham gia Hội thảo với bài viết “Một nền văn
học chiến đấu và nhân đạo”, Nguyễn Văn Lưu cho rằng: “Văn học năm mươi năm qua ở
nước Việt Nam cách mạng là văn học của một xã hội đấu tranh tự giải phóng khỏi mọi
xiềng xích nơ lệ. Nếu văn học là tiếng nói, là tâm hồn, là nguyện vọng, là đời sống tinh
thần của một xã hội, một thời đại thì nền văn học của chúng ta là tiếng nói, là tâm hồn, là
nguyện vọng ý chí của một dân tộc, một cộng đồng của nhiều con người cùng hợp lại,
cùng hành động, cùng đứng lên chiến đấu giành lại quyền sống, quyền làm người, quyền
độc lập, tự do, dân chủ, bình đẳng, khơng phải chỉ cho riêng cá nhân, mà là cho cả cộng
đồng, cả dân tộc, trong đó có cá nhân, một cá nhân hài hịa với cộng đồng, với số đơng,
với tập thể” [24; tr.170-171]. Với bài viết “Lại nói đơi điều về mảng văn học về đề tài
chiến tranh 1945 – 1975”, Hồ Phương cũng khẳng định: trong cuộc kháng chiến chống
Mĩ “một lần nữa văn học đã đóng góp phần mình một cách hết sức xứng đáng, đã thực sự
là một vũ khí trong cuộc đấu tranh giành lại Tổ quốc, giành lại cuộc sống cho dân tộc.
Hiện thực dữ dội, quyết liệt và cũng đầy hào hùng của cuộc kháng chiến đã được thể hiện
khá sinh động, sâu sắc trong những nội dung rất phong phú và đa dạng” [24; tr.183]. Nói
riêng về mảng thơ ca, Phạm Tiến Duật với bài phát biểu “Nửa thế kỉ thơ Việt Nam (1945
– 1975) – sự bừng sáng của cảm hứng dân tộc” đã khẳng định: “Với đất nước ta vấn đề
độc lập bao giờ cũng gắn với vấn đề thống nhất đất nước và thơ ca thời kì 1954 – 1975 là
sự hịa quyện kì diệu hai yếu tố trên khi các nhà thơ nghĩ về Tổ quốc, nghĩ về nhân dân.
Bản anh hùng ca thời chống Mĩ cứu nước đã đưa thơ đến đỉnh cao mới của cảm hứng
sáng tạo xuất phát từ cảm hứng dân tộc và thời đại. Có thể nói một cách tự hào rằng, vào
giai đoạn chống Mĩ cứu nước, tất cả các thế hệ đội ngũ thơ đều có đóng góp lớn và đạt
đều đạt đến một đỉnh cao nào đó của thơ cách mạng và kháng chiến. Thơ chống Mĩ là
một thành tựu lớn lao của thơ ca Việt Nam nửa thế kỉ qua” [24; tr.342]. Cũng bàn về thơ,
Hà Minh Đức có bài “Nghĩ về hiện thực đời sống và thơ”. Trong bài này, Hà Minh Đức
cho rằng: “Bước vào những năm chiến tranh ái quốc, tiếng nói thơ ca ở giữa cuộc đời là
vũ khí tinh thần thanh cao và có hiệu quả, góp phần vào cuộc chiến đấu của dân tộc.
Hiện thực cách mạng ln thách thức những trang thơ, vì trách nhiệm thiêng liêng của thi
nhân, vì sự phong phú diệu kì của đời sống chiến đấu. Thơ ca rung lên với những vần thơ
ra trận, những bài thơ đánh giặc” [24; tr.363]. Tuy những ý kiến trên, đa phần chỉ mang
tính chất khái quát, đánh giá chung cho cả một giai đoạn văn học, nhưng vẫn có một ý
nghĩa nhất định đối với người viết trong việc nghiên cứu về giá trị nội dung – tư tưởng
của thơ ca chống Mĩ 1955 – 1975.
Quyển Văn học Việt Nam 1945 – 1975 (Tập 1), của Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn
Trác, Trần Hữu Tá, Nhà xuất bản Giáo dục, 1988, cũng là một cơng trình nghiên cứu khá
sâu về văn học cách mạng giai đoạn 1945 – 1975. Quyển sách đã được Hội đồng thẩm
định sách của Bộ Giáo dục giới thiệu dùng làm sách chung cho các trường Đại học sư
phạm. Nội dung của quyển sách được chia làm năm chương, trong đó, các tác giả đã dành
trọn chương ba để viết về văn học giai đoạn 1955 – 1975. Chia văn học 1955 – 1975
thành hai chặng đường là 1955 – 1964, và 1965 – 1975, trước hết, các tác giả đã giới thiệu
về bối cảnh lịch sử và tình hình văn học chung của từng chặng đường. Sau đó, họ đã đi
sâu trình bày về thành tựu của từng chặng đường theo hệ thống thể loại. Ở thể thơ, các tác
giả cho rằng, thơ ca ở chặng đường thứ nhất 1955 – 1964 có một đội ngũ nhà thơ mở rộng
và trưởng thành nhanh chóng. Nội dung thơ chủ yếu thể hiện cuộc sống mới trên miền
Bắc, tình cảm giữa nhân dân hai miền và tình cảm của bạn bè thế giới dành cho Việt
Nam. Đến chặng đường 1965 – 1975, các tác giả khẳng định bên cạnh các nhà thơ đã
trưởng thành, đã có tên tuổi như Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Tế Hanh,
thì sự góp mặt đơng đảo của các nhà thơ trẻ thời kì này, là một sự kiện nổi bật, thơ của họ
là dòng thơ chủ đạo, tạo một sắc thái trẻ, khỏe, rất mới cho thơ. Về nội dung, thơ của các
nhà thơ này tập trung vào ba mảng đề tài chính: một là lịng tự hào về q hương, Tổ
quốc, hai là chủ nghĩa anh hùng trên quê hương, và ba là tình yêu và chiến đấu. Theo các
tác giả của quyển sách thì ở phương diện nội dung, thơ ca ở chặng đường này: “tiếp tục
đậm đà tính thời sự - và là một bài ca đằm thắm về Tổ Quốc”. Tính thời sự trước hết, tập
trung vào hai sự kiện lớn là việc Mĩ leo thang chiến tranh bắn phá miền Bắc, và Bác mất.
Còn về Tổ quốc xã hội chủ nghĩa “thơ tiếp tục ca ngợi cuộc sống hạnh phúc trong lao
động, tình yêu và trong sự thay da đổi thịt hằng ngày của đất nước. Nhưng chủ đề tập
trung ở chặng đường này là chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong cuộc chống Mĩ, cứu
nước ở cả hai mền Nam – Bắc. Và người ta thấy trong thơ nổi bật lên hình ảnh người phụ
nữ, đặc biệt là những cô gái” [17; tr. 117]. Dù chỉ gói gọn trong một chương của quyển
sách, nhưng có thể nói, các tác giả đã cho chúng ta thấy được những nội dung cơ bản của
thơ ca giai đoạn 1955 – 1975.
Năm 2000, Nhà xuất bản Giáo dục đã cho xuất bản quyển Cái đẹp trong thơ ca
kháng chiến Việt Nam 1945 – 1975 của tác giả Vũ Duy Thơng. Trong sách, Vũ Duy
Thơng có viết: “Kế thừa dịng thơ yêu nước, thơ kháng chiến đã khắc họa được nhiều
hình tượng mới mẻ như hình tượng Tổ quốc, hình tượng lãnh tụ, hình tượng người chiến
sĩ cách mạng, hình tượng nhân dân… khác về chất so với thơ trước 1945” [25; tr. 87].
Sau nhận định vừa nêu, tác giả đã đi vào phân tích vẻ đẹp của từng hình tượng, qua những
vần thơ cụ thể. Và đây cũng là một phương diện, một giá trị của thơ ca kháng chiến chống
Mĩ giai đoạn 1955 – 1975 mà người viết sẽ tiếp tục tìm hiểu trong Luận văn của mình.
Quyển Văn học Việt Nam (Từ thế kỉ X đến thế kỉ XX), Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2001 là một trong những cơng trình nghiên cứu có giá trị của Nguyễn
Phạm Hùng. Nội dung của quyển sách gồm bốn phần, trong đó, tác giả đã dành trọn phần
ba để viết về văn học Việt Nam hiện đại (1930 – 1975). Về văn học trong thời kì chống
Mĩ (1954 – 1975), tác giả khẳng định: “Tiếp nối thành tựu của văn học cách mạng thời kì
chống Pháp, văn học thời kì chống Mĩ đã có những sự trưởng thành vượt bậc về đội ngũ,
về các tác phẩm có chất lượng cao, các thành tựu nghệ thuật đặc sắc. Đây được xem là
thời kì văn học cách mạng có nhiều thành cơng hơn cả, có những đóng góp hơn cả về nội
dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật vào sự phát triển của lịch sử văn học” [9; tr. 319].
Đi sâu hơn vào mảng thơ ca, tác giả này khẳng định: “Đến thời kỳ này, thơ ca cách mạng
Việt Nam quả đã gặt hái được những thành tựu vơ cùng to lớn” [9; tr. 321]. Thành tựu đó,
trước hết, là có được một đội ngũ sáng tác đơng đảo và hùng hậu, với sự hội tụ của tất cả
các thế hệ nhà thơ, mà “mỗi thế hệ đều có những đóng góp xứng đáng vào nền thơ đương
thời, đều khẳng định vị trí khơng thể thiếu của mình trên thi đàn” [9; tr. 321]. Và sau khi
trình bày lần lượt về các thế hệ nhà thơ của giai đoạn này, Nguyễn Phạm Hùng đã có nhận
định tương đối xác đáng về thơ ca thời chống Mĩ cứu nước: “Âm hưởng chung của thơ ca
là âm hưởng anh hùng, giọng điệu trữ tình nhưng hào hùng, sảng khối. Cảm hứng bao
trùm là cảm hứng về Tổ quốc, về Đảng, lãnh tụ, về người anh hùng trong chiến đấu và
lao động. Đó là anh giải phóng qn, cơ thanh niên xung phong, thanh niên “ba sẵn
sàng”, phụ nữ “ba đảm đang”, thiếu niên “năm điều Bác Hồ dạy”… Thơ ca phơi phới
niềm tin của “những buổi vui sao cả nước lên đường”. Tâm trạng cá nhân, cơ đơn dường
vắng bóng. Người ta hát lên khúc ca chung. Thơ ca chống Mĩ là một dàn hợp xướng rung
ngân khúc nhạc anh hùng của thời đại” [9; tr. 323-324].
Quyển Thơ Việt Nam hiện đại của Phong Lê, Vũ Văn Sỹ, Bích Thu, Lưu Khánh
Thơ, Nhà xuất bản Lao động, 2002, cũng là một cơng trình có nhiều đóng góp quan trọng.
Quyển sách gồm hai phần: phần đầu viết về những vấn đề chung của thơ ca thế kỉ XX
như khuynh hướng, thể tài, thể loại và thi pháp, phần sau viết về một số tác giả. Trong
phần đầu, có bài viết “Có một vùng đề tài cho thơ một thời: đời sống công nghiệp” của
Phong Lê. Trong bài này, Phong Lê cho rằng: “Cảm hứng về Tổ quốc, về đất nước quê
hương trong những năm chiến tranh đã cho ta những vần thơ rất hay về Trường Sơn, Về
Tây Nguyên, về Thủ đô, về những con đường dọc ngang ra tiền tuyến; về những con sông,
nhịp cầu, bến phà… bên những chân dung anh bộ đội, bà mẹ, cô gái sửa đường, em bé
giao liên… Ba mươi năm hành trình cùng cuộc chiến đấu của dân tộc, thơ đã cho ta hình
ảnh một cuộc họp mặt những con người làm nên chiến thắng; cho ta cảm nhận vẻ đẹp của
một đất nước trong bom đạn vẫn tươi xanh sự sống; và dào dạt tình nghĩa” [12; tr. 136].
Đến phần sau, khi viết về các nhà thơ của thế kỉ XX, Lưu Khánh Thơ có bài “Xuân Diệu
– một tài năng đa dạng”, “Cảm nhận về thơ Xuân Quỳnh”, “Hữu Thỉnh – một phong
cách thơ sáng tạo”. Phong Lê có bài “Tố Hữu, thơ và cách mạng”. Bích Thu thì có “Lê
Anh Xuân – nhập cuộc và sáng tạo”. Với những bài viết này, các tác giả đã mang đến cho
người đọc một cái nhìn tổng thể về cuộc đời, quá trình sáng tác, và giọng điệu thơ của các
nhà thơ trên. Đây cũng là nguồn tài liệu có ích cho người viết khi tìm hiểu về giá trị nội
dung – tư tưởng của thơ ca thời chống Mĩ.
Một cơng trình mà chúng ta không thể không nhắc đến là quyển Văn học Việt
Nam trong thời đại mới của Nguyễn Văn Long, Nhà xuất bản Giáo dục, 2003. Trong
quyển này, Nguyễn Văn Long đã tập hợp một số bài tiểu luận nghiên cứu, phê bình của
nhiều tác giả về những vấn đề và hiện tượng của văn học Việt Nam sau 1945, chủ yếu là
giai đoạn 1945 – 1975. Nội dung của quyển sách gồm 3 phần. Ở phần hai: Những vấn đề
thể loại, có bài viết “Thơ giai đoạn 1945 – 1975, tiến trình và các khuynh hướng”. Trong
bài viết này, tác giả không chỉ nêu lên những đặc điểm, và các chặng đường phát triển của
thơ ca 1945 – 1975, mà cịn khái qt về những nội dung chính của từng chặng đường.
Tác giả khẳng định: “Trong những năm đầu hịa bình, thơ ca tập trung thể hiện niềm vui
và niềm tự hào lớn lao về chiến thắng và hòa bình. Bên cạnh việc tái hiện những kỉ niệm
cịn tươi nguyên về kháng chiến, hình ảnh những con người kháng chiến cao đẹp, nhiều
tác giả đã hướng tới những bài thơ có tính khái qt rộng lớn hơn để nhìn lại và suy
ngẫm về cách mạng và kháng chiến, về những chặng đường vừa đi qua của lịch sử dân
tộc” [14; tr.84]. Ngồi ra, tình cảm với miền Nam và khát vọng thống nhất nước nhà cũng
là một đề tài lớn thu hút nhiều nhà thơ thời kì này. Đến thời cả nước chống Mĩ, tác giả
khẳng định: “Không chỉ bám sát hiện thực chiến tranh ở những hình ảnh, chi tiết cụ
thể…, thơ chống Mĩ còn theo sát cuộc chiến đấu của dân tộc trên những sự kiện lớn,
những vấn đề hệ trọng trong đời sống chính trị, tư tưởng. Theo hướng đó, thơ chống Mĩ
giàu tính thời sự và đậm chất chính luận” [14; tr.104]. Ở phần ba: Một số tác giả và tác
phẩm, Nguyễn Văn Long đã tập hợp nhiều bài viết về những tác giả và tác phẩm xuất sắc
của giai đoạn văn học này như: “Đường thơ Lưu Trọng Lư”, “Thế giới nghệ thuật thơ
Xuân Diệu”, “Chế Lan Viên, một ngọn tháp trên cánh đồng thơ”, “Phong cách nghệ
thuật thơ Huy Cận”, “Nguyễn Khoa Điềm với Mặt đường khát vọng”, “Thơ tuổi hai
mươi”. Với những nội dung trên, quyển sách là nguồn tài liệu hữu ích cho người viết khi
nghiên cứu về thơ ca giai đoạn 1955 – 1975.
Lịch sử văn học Việt Nam (Tập I) do Nguyễn Đăng Mạnh và Nguyễn Văn Long
đồng chủ biên, Nhà xuất bản Đại học sư phạm, 2007, cũng là một cơng trình nghiên cứu
có giá trị. Quyển sách gồm 13 chương, trong đó, chương II do Nguyễn Văn Long biên
soạn viết về “Thơ 1945 – 1975”. Nội dung chương này gồm hai phần. Trong phần thứ
nhất, Nguyễn Văn Long đã trình bày về quá trình phát triển và những thành tựu của thơ ca
giai đoạn 1945 – 1975 theo từng chặng đường phát triển của nó. Ở chặng đường 1955 –
1964, tác giả khẳng định những nội dung chính của thơ ca là: “Thể hiện sự hồi sinh của
đất nước, khẳng định cuộc sống mới và lí tưởng XHCN, thơ còn đề cập và giải đáp một số
vấn đề trọng yếu trong đời sống tư tưởng tinh thần của xã hội đương thời, khi miền Bắc
bước vào cuộc cách mạng XHCN: vấn đề quan hệ riêng – chung, con đường từ cái riêng
đi đến hòa nhập với cái chung” [18; tr. 105]. Bên cạnh đó, tình cảm đối với miền Nam và
khát vọng thống nhất đất nước cũng là một đề tài lớn của thơ ca 1955 – 1964. Những vần
thơ viết về đề tài này, bật lên một ý chí, một khát vọng, một niềm tin mãnh liệt vào cuộc
đấu tranh thống nhất đất nước. Đến chặng đường cuối cùng 1965 – 1975, Nguyễn Văn
Long nhận định như sau: “Tạm rời bỏ một số đề tài và cảm hứng về đời sống thường ngày
trong hịa bình, hay những vấn đề riêng tư, thơ tập trung vào một hướng lớn của đề tài và
chủ đề là cuộc chiến đấu chống Mĩ của cả dân tộc ở cả hai miền Nam, Bắc” [18; tr. 120].
Theo tác giả: “Trong mấy năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ thơ thường viết về
những cuộc lên đường, ra đi, những cuộc chia li trong niềm tin tưởng” [18; tr. 121]. Đến
khi “Bước vào cuộc kháng chống Mỹ với ý thức công dân và tinh thần của người chiến sĩ,
các nhà thơ đã đưa thơ lên những chiến hào, nơi mũi nhọn của cuộc chiến đấu” [18; tr.
121], và khi cuộc chiến tranh càng lan rộng và quyết liệt thì “thơ càng bám sát hiện thực
chiến tranh, với nhiều hình ảnh cụ thể, chân thực và sinh động. Các nhà thơ trẻ, nhất là
những nhà thơ – người lính, đã đem đến cho thơ chất sống hiện thực phong phú, tươi
nguyên cùng với sự nhạy cảm, trẻ trung trong tâm hồn của một thế hệ sẵn sàng gánh vác
lịch sử trước tiếng gọi của Tổ quốc” [18; tr. 122]. Trong chặng đường 1965 – 1975 này,
Nguyễn Văn Long cũng nêu lên ba đặc điểm cơ bản của thơ ca thời chống Mĩ. Đặc điểm
thứ nhất là “Thơ ca kháng chiến chống Mỹ tập trung biểu hiện những tình cảm và tư
tưởng lớn, bao trùm trong đời sống tinh thần của con người thời đại chống Mỹ cứu nước”
[18; tr. 125]. Đó là tình cảm đối với Tổ quốc và nhân dân. Ở đặc điểm này, tác giả khẳng
định: “Thơ đã xây dựng được nhiều hình tượng đẹp về con người Việt Nam thời đánh Mỹ,
ở nhiều tầng lớp, nhiều thế hệ, lứa tuổi, nhưng đều là biểu tượng của dân tộc và nhân
dân” [18; tr. 128]. Đặc điểm thứ hai là “Thời kì kháng chiến chống Mỹ tập trung xây
dựng hai loại hình tượng của “cái tơi” trữ tình là “cái tơi” sử thi và “cái tơi” thế hệ”
[18; tr. 129]. Cuối cùng tác giả khẳng định: “Tăng cường tính chính luận, chất suy tưởng
triết lí và gia tăng chất liệu hiện thực đời sống là những xu hướng chính trong sự vận
động phát triển của thơ thời kì chống Mỹ” [18; tr. 133]. Và đặc điểm này cũng đã được
tác giả tiếp tục làm sáng tỏ trong phần còn lại của chương, tức phần thứ hai “Những
khuynh hướng chính trong sự tìm tịi để đổi mới và phát triển thơ giai đoạn 1945 – 1975”.
Bên cạnh chương II vừa nêu, phần lớn dung lượng còn lại của quyển sách được
các tác giả ưu tiên để viết về cuộc đời và toàn bộ sự nghiệp, từ tác phẩm đầu tay đến trang
viết cuối cùng của một số nhà thơ tiêu biểu của thơ ca giai đoạn 1945 – 1975 như: Tố
Hữu (chương III), Chế Lan Viên (chương IV), Huy Cận (chương V), Tế Hanh (chương
VI), Hoàng Trung Thông (chương VII), Lê Anh Xuân (chương IX), Phạm tiến Duật
(chương X), Nguyễn Đình Thi (chương XIII).
Đặc biệt ở chương VIII, Trần Đăng Suyền đã đi sâu trình bày về “Thế hệ các nhà
thơ trẻ thời chống Mỹ cứu nước”. Nội dung của chương gồm bốn phần. Ở phần thứ hai:
“Thơ trẻ thời chống Mỹ và khuynh hướng mở rộng và đào sâu hiện thực”, tác giả cho
rằng: “thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ là một dòng thơ giàu các chi tiết cụ thể, sống động. Nhiều
nhà thơ trẻ đã mạnh dạn đưa vào thơ những chi tiết ngổn ngang, bề bộn của đời sống
chiến trường” [18; tr. 358], và “Hơn ai hết, các nhà thơ trẻ thời kì chống Mỹ đã nói thật
sâu sắc, thấm thía sự hy sinh gian khổ tột cùng của đời sống chiến tranh” [18; tr. 360].
Sau những nhận định trên, tác giả đã dùng những vần thơ cụ thể để chứng minh. Tuy chưa
có sức bao quát cao, do tác giả chỉ dừng lại ở một vài tác phẩm, nhưng có thể nói, phần
trình bày của Trần Đăng Suyền đã góp phần khẳng định giá trị phản ánh chân thực và sinh
động về hiện thực cuộc sống của thơ ca chống Mĩ. Sang phần thứ ba “Chất trí tuệ, chính
luận trong thơ trẻ thời chống Mỹ”, Trần Đăng Suyền khẳng định: “Chưa bao giờ trong
nền thơ hiện đại Việt Nam, tầm suy nghĩ, khái quát của thơ lại đạt tới sự sâu sắc như thơ
thời kì chống Mỹ. So với thời kì chống Pháp, đây là nét mới, một bước tiến của thơ chống
Mỹ” [18; tr. 369]. Tác giả cũng nói thêm: “chất trí tuệ và chính luận trong thơ trẻ thời
chống Mỹ mang đậm sắc thái riêng của “cái tôi” – thế hệ. Đó là cái tơi tự bộc lộ mình,
đại diện cho thế hệ mình – thế hệ những người trẻ tuổi (chủ yếu là những người lính)
đang tơi luyện trong ngọn lửa của chiến tranh, thực sự nếm trải những gian lao thử
thách, tự nguyện đem xương máu của mình để bảo vệ quê hương, đất nước. Thơ trẻ thời
kì chống Mỹ là tiếng nói của cái tơi thế hệ vừa trẻ trung vừa già dặn, vừa hồn nhiên trong
cảm xúc vừa sâu lắng trong suy tư” [18; tr. 370]. Cuối cùng, sau khi đã chứng minh cho
những ý kiến của mình bằng một số bài thơ cụ thể, Trần Đăng Suyền một lần nữa khẳng
định: "Chất trí tuệ, chính luận không phải là nét riêng của thơ trẻ mà là một đặc điểm
chung của thơ thời kì chống Mỹ cứu nước. Tăng cường chất trí tuệ, chính luận là khuynh
hướng chung của cả nền thơ hiện đại Việt Nam. Tuy nhiên, chất suy nghĩ, chính luận
trong thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ vẫn có sắc thái riêng, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của mình.
Đó là chất suy nghĩ, chính luận được nảy sinh từ hiện thực đời sống của đất nước trong
những năm tháng chiến tranh, đặc biệt là từ hiện thực gian khổ, ác liệt của đời sống chiến
trường thông qua sự trải nghiệm sâu sắc của cái tôi – thế hệ của các nhà thơ trẻ” [18; tr.
374]. Có thể nói phần trình bày của Trần Đăng Suyền đã góp phần làm sáng tỏ về tính
chính luận và chất trí tuệ trong thơ ca thời chống Mỹ.
Ngồi những cơng trình nghiên cứu, những bài viết đã nêu, chúng ta cịn có thể
nhắc đến quyển Ngữ văn 12, tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 2010, do Phan
Trọng Luận làm tổng chủ biên. Trong sách, các nhà biên soạn sách đã dành bài đầu tiên
để giới thiệu khái quát về văn học Việt Nam từ cách mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỉ
XX trên nhiều phương diện như hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa, q trình phát triển,
và những thành tựu chủ yếu. Ở giai đoạn 1945 – 1975, nền văn học được chia làm ba
chặng đường phát triển: chặng đường thứ nhất từ 1945 đến 1954, chặng thứ hai từ 1955
đến 1964, và chặng thứ ba là từ 1965 đến 1975. Trong chặng đường từ 1955 đến 1964,
các nhà biên soạn khẳng định: “Thơ từ năm 1955 đến năm 1964 phát triển mạnh mẽ. Sự
hồi sinh của đất nước sau những năm kháng chiến chống Pháp đầy hi sinh gian khổ,
thành tựu bước đầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự hòa hợp giữa cái riêng
với cái chung, nỗi đau chia cắt hai miền Nam – Bắc,… là những nguồn cảm hứng lớn cho
thơ ca” [15; tr. 7]. Sang chặng đường từ 1965 đến 1975, các tác giả cũng đã nhấn mạnh:
“Thơ những năm chống Mĩ cứu nước đạt được nhiều thành tựu xuất sắc, đánh dấu một
bước tiến mới của nền thơ Việt Nam hiện đại. Thơ ca tập trung thể hiện cuộc ra quân vĩ
đại của toàn dân tộc, khám phá sức mạnh của con người Việt Nam, nhận thức và đề cao
sứ mệnh lịch sử, tầm vóc và ý nghĩa nhân loại của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Thơ chặng
đường này thể hiện rất rõ khuynh hướng mở rộng và đào sâu chất liệu hiện thực; đồng
thời tăng cường sức khái quát, chất suy tưởng, chính luận” [15; tr. 8].
Điểm qua những cơng trình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề “Giá trị nội dung
– tư tưởng của thơ ca kháng chiến chống Mĩ giai đoạn 1955 – 1975”, chúng ta thấy nội
dung của các cơng trình là hết sức phong phú, đa dạng, đề cập đến nhiều vấn đề của văn
học 1945 – 1975. Trong số đó, có những cơng trình mang tính đúc kết, khái quát chung
cho cả một giai đoạn văn học, và cũng có những cơng trình đề cập đến từng giai đoạn,
từng thể loại, từng tác giả, tác phẩm,… Tất cả đã góp phần tạo nên một bức tranh khái
quát vừa phong phú, toàn diện, vừa cụ thể, chuyên sâu về văn học Việt Nam giai đoạn
1945 – 1975 nói chung, và thơ ca 1955 – 1975 nói riêng . Đó chính là nguồn tư liệu quan
trọng, giúp ích cho người viết rất nhiều trong quá trình thực hiện Luận văn tốt nghiệp.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài “Giá trị nội dung – tư tưởng của thơ ca kháng chiến chống Mĩ giai đoạn
1955 – 1975” đặt ra yêu cầu đối với người viết là phải làm sáng tỏ được những giá trị cơ
bản của thơ ca chống Mĩ giai đoạn 1955 – 1975 xét ở phương diện nội dung – tư tưởng.
Từ đó, có được cách nhìn nhận, đánh giá đầy đủ và sâu sắc hơn về những đóng góp của
thơ ca giai đoạn này. Vì vậy, khi nghiên cứu đề tài trên, người viết sẽ có cơ hội để được
cảm nhận trọn vẹn hơn, sâu sắc hơn về vẻ đẹp của đất nước và con người Việt Nam trong
suốt hai mươi năm đánh Mĩ, một chặng đường đầy gian lao, mất mát nhưng lại rất đỗi hào
hùng của dân tộc ta.
Để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu, ngoài những kiến thức đã có về thơ ca
chống Mĩ, người viết cần phải tham khảo thêm nhiều nguồn tài liệu, và vận dụng những
kĩ năng đã được tích lũy trong suốt q trình học tập như: kĩ năng phân tích, tổng hợp, so
sánh, kĩ năng viết… Thiết nghĩ, đây cũng là một cơ hội tốt để người viết có thể rèn luyện
và bổ sung thêm những kĩ năng cần thiết cho mình trong việc học tập và thực hiện một
cơng trình nghiên cứu mang tính chất khoa học.
4. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài “Giá trị nội dung – tư tưởng của thơ ca kháng chiến chống Mĩ giai
đoạn 1955 – 1975”, người viết chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu trong mảng thơ ca hai
mươi năm chống Mĩ, chặng đường từ 1955 đến 1975, và chỉ đi sâu nghiên cứu ở phương
diện nội dung – tư tưởng. Trong quá trình thực hiện, người viết sẽ tiến hành khảo sát, tìm
hiểu, và nêu lên những giá trị nội dung – tư tưởng của thơ ca kháng chiến chống Mĩ giai
đoạn 1955 – 1975 bằng những vần thơ cụ thể. Tuy nhiên, số lượng tác phẩm của giai đoạn
thơ ca này là rất lớn, vì vậy người viết sẽ chỉ trích dẫn những tác phẩm tiêu biểu và phù
hợp với vấn đề cần phải làm sáng tỏ.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài “Giá trị nội dung – tư tưởng của thơ ca kháng chiến chống
Mĩ giai đoạn 1955 – 1975” đầu tiên, người viết áp dụng phương pháp thống kê để thu
thập những tài liệu có liên quan đến thơ ca 1955 – 1975. Sau đó, người viết sử dụng
phương pháp hệ thống để phân loại những câu thơ, những đoạn thơ theo những tiêu chí đã
đặt ra từ đầu. Và khi viết Luận văn, người viết chủ yếu sử dụng hai phương pháp là phân
tích và tổng hợp vấn đề. Trong q trình phân tích, người viết có sự kết hợp, đan xen giữa
các thao tác như giải thích, chứng minh và bình luận,… để làm sáng tỏ những giá trị nội
dung – tư tưởng của thơ ca thời chống Mĩ.
CHƯƠNG I: NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT VỀ THƠ CA
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ GIAI ĐOẠN 1955 – 1975
1.1 Những điều kiện thuận lợi để thơ ca 1955 – 1975 phát triển
1.1.1. Sự lãnh đạo kịp thời và toàn diện của Đảng
Trong suốt quá trình lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam,
Đảng ta ln xác định vị trí quan trọng của văn học, Bác nói: “Văn hóa nghệ thuật cũng
là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Đồng chí Phạm Văn Đồng cũng
nhiều lần khẳng định văn học có khả năng làm công tác tư tưởng tốt nhất, do tác động của
nó “sâu sắc và bền bỉ nhất, dễ đi vào tình cảm, ảnh hưởng sâu sắc vào tư tưởng, tâm
hồn”. Vì thế, Đảng ln quan tâm lãnh đạo mặt trận văn hóa, văn nghệ. Trước thực trạng
tư tưởng, tình cảm của văn nghệ sĩ lúc bấy giờ chưa có sự thống nhất, Đảng đã kịp thời
phát huy vai trị lãnh đạo của mình trên mọi phương diện về tư tưởng, tổ chức, và phương
pháp sáng tác. Về tổ chức, năm 1943, Đảng đã tập hợp một số văn nghệ sĩ tiến bộ và
thành lập Hội Văn hóa cứu quốc. Đến tháng 6 năm 1945, Đảng chỉ thị cho Hội Văn hóa
cứu quốc thành lập tờ báo Tiền tuyến (sau này đổi thành báo Tiền phong) với sự tham gia
hoạt động của những hội viên đầu tiên trong Hội Văn hóa cứu quốc như Nguyễn Huy
Tưởng, Nam Cao, Nguyễn Đình Thi, Nguyên Hồng, Tơ Hồi,… và từ lực lượng nịng cốt
này, Hội đã mở rộng cánh cửa để thu hút đông đảo văn nghệ sĩ sau Cách mạng tháng Tám
thành một tổ chức thống nhất. Về tư tưởng, Đảng kêu gọi văn nghệ sĩ từ bỏ quan điểm
nghệ thuật vị nghệ thuật, xây dựng quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh, đồng thời cần xác
định lập trường tư tưởng là hướng về đại quần chúng nhân dân. Về phương pháp sáng tác,
Đảng đề cao và khuyến khích các văn nghệ sĩ sáng tác theo phương pháp hiện thực xã hội
chủ nghĩa. Điều này, được thể hiện rất rõ trong bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn
hóa Việt Nam do đồng chí Trường Chinh đọc tại Đại hội Văn hóa tồn quốc lần thứ hai,
năm 1948. Bản báo cáo khẳng định nền Văn học nghệ thuật mới của nước Việt Nam: “Về
xã hội lấy giai cấp công nhân làm gốc. Về chính trị, lấy độc lập dân tộc, dân chủ nhân
dân và chủ nghĩa xã hội làm gốc. Về tư tưởng lấy học thuyết duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử làm gốc. Về sáng tác văn nghệ, lấy chủ nghĩa hiện thực thực xã hội chủ nghĩa
làm gốc”. Để đạt được những u cầu, mục đích đó, Đảng đặc biệt quan tâm tới công tác
rèn luyện, bồi dưỡng tư tưởng cho văn nghệ sĩ qua những cuộc đấu tranh tư tưởng, những
buổi học tập chỉnh huấn, và nhất là những chuyến đi thực tế nhằm “Cách mạng hóa tư
tưởng, quần chúng hóa sinh hoạt”. Đây là điều kiện thuận lợi để các nhà văn, nhà thơ
khám phá hiện thực cuộc sống, gắn bó với nhân dân, từ đó có thêm nguồn cảm hứng sáng
tác. Và thực tế là sau mỗi chuyến đi như vậy, nền văn học dân tộc lại có thêm nhiều tác
phẩm mới, trong số đó, có khơng ít những tác phẩm xuất sắc. Nhìn lại chặng đường văn
học cách mạng 1945 – 1975 đã qua, chúng ta ghi nhận vai trò lãnh đạo to lớn của Đảng
khi đã lèo lái con thuyền thuyền văn học 1945 – 1975 nói chung, và thơ ca 1955 – 1975
nói riêng đi đúng hướng, từ đó gặt hái được nhiều thành tựu to lớn.
1.1.2. Đội ngũ sáng tác đông đảo, có nhiệt huyết, tài năng và kinh nghiệm sáng
tác
Một nhân tố không thể thiếu cho sự phát triển của thơ ca là lực lượng sáng tác.
Và ở phương diện này, thơ ca thời kháng chiến chống Mĩ đã có những điều kiện hết sức
thuận lợi khi có sự góp mặt đông đủ của cả ba thế hệ nhà thơ.
Thế hệ thứ nhất là các nhà thơ trước cách mạng tháng Tám, bao gồm Huy Cận,
Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Tố Hữu, Tế Hanh, Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư,… Thế hệ tứ
hai là các nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Pháp như Quang Dũng,
Hoàng cầm, Hoàng Trung Thơng, Hữu Loan, Chính Hữu, Hồng Ngun, Nơng Quốc
Chấn, Bàn Tài Đoàn, Bàng Sĩ Nguyên, Trần Hữu Thung, Xuân Hoàng, Lương An, Hoàng
Tố Nguyên,…. Thế hệ thứ ba bao gồm các nhà thơ trưởng thành trong thời kì xây dựng
chủ nghĩa xã hội và chống Mĩ cứu nước như Nguyễn Mỹ, Lê Anh Xuân, Nguyễn Khoa
Điềm, Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật, Thu Bồn, Lâm Thị Mỹ Dạ, Dương Thị Xuân Quý,
Phan Thị Thanh Nhàn, Giang Nam, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Bằng Việt, Nguyễn Duy,
Dương Hương Ly,... Nhìn chung, mỗi người trong số họ có một giọng điệu riêng, nhưng
họ giống nhau ở chỗ: họ đều là những nhà thơ giàu nhiệt huyết, giàu tài năng, và kinh
nghiệm sáng tác. Điều này đã được khẳng định qua những trang thơ bất tử với thời gian
của họ. Ở đây, người viết không đi sâu chứng minh, bởi những trang thơ ấy chắc chắn sẽ
được người viết phân tích làm sáng tỏ trong những phần tiếp theo của Luận văn.
Như vậy, sự góp mặt đông đủ của tất cả các thế hệ nhà thơ, trong đó, mỗi thế hệ,
mỗi tác giả một phong cách, một giọng điệu, chính là điều kiện thuận lợi góp phần làm
nên bản anh hùng ca dạt dào cảm xúc của thơ ca thời chống Mĩ. Và người viết xin được
mượn lời của tác giả Nguyễn Phạm Hùng để thay cho lời khẳng định về vai trò to lớn của
họ :“mỗi thế hệ đều có những đóng góp xứng đáng vào nền thơ đương thời, đều khẳng
định vị trí khơng thể thiếu của mình trên thi đàn” [9; tr. 321].
1.1.3. Hiện thực cuộc sống làm nên nguồn cảm hứng bất tận cho thơ ca
Không chỉ riêng nhà thơ Tố Hữu mà dường như tất cả các nhà thơ thời kháng
chiến chống Mĩ đều hiểu rõ: “Văn học không chỉ là văn chương mà thực chất là cuộc đời.
Văn chương sẽ khơng là gì cả nếu khơng vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát,
cũng là nơi đi tới của văn học”. Họ dùng ngòi bút để phục vụ kháng chiến, cổ vũ chiến
đấu, và ngược lại hiện thực đời sống kháng chiến cũng đã mang đến cho họ nguồn cảm
hứng bất tận để sáng tác và sáng tạo: “Văn nghệ phụng sự kháng chiến, nhưng chính
kháng chiến đem đến cho văn nghệ một sức sống mới. Sắt lửa mặt trận đang đúc nên văn
nghệ mới của chúng ta” (Nguyễn Đình Thi – Nhận đường).
Sau hiệp định Giơ – ne – vơ, năm 1954, nhân dân miền Bắc phấn khởi bắt tay
vào công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Bước đầu tuy còn nhiều vất vả, gian lao,
nhưng cũng thật sôi nổi, thật hào hùng với niềm vui chiến thắng, với niềm tin mãnh liệt
vào tương lai tươi sáng của đất nước. Tất cả thổi vào thơ một luồng gió mới, và thơ ca
1955 – 1975 trong những năm này đã vang lên những vần thơ ca ngợi đến mê say về
những đổi thay của đất nước và con người trong cuộc sống mới. Với những chuyến đi
thực tế, các nhà thơ thời kì này đã thực sự cảm nhận được niềm vui chiến thắng, và khơng
khí lao động hăng say, sơi nổi của nhân dân miền Bắc. Từ đó, họ tìm được nguồn cảm
hứng mới cho thơ trong đề tài cuộc sống mới, con người mới. Huy cận về với những
người thợ mỏ Quảng Ninh, không lâu sau ông đã cho xuất bản liên tiếp các tập thơ: Trời
mỗi ngày lại sáng (1959), Đất nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời (1963) và tất cả đều thật
hay, thật ý nghĩa với những hình ảnh, những câu chuyện về cuộc đời, và cuộc đấu tranh
của những người công nhân thợ mỏ. Nhà thơ Xuân Diệu với tập thơ Riêng chung (1960)
đã thật sự tìm được cảm giác hòa hợp giữa cái riêng và cái chung trong cả tư tưởng và
tình cảm. Nhà thơ khẳng định: “Xưa lệ sa ta oán hận đất trời”, “Trái đất ba phần tư
nước mắt / Đi như giọt lệ giữa không trung”, cịn nay thì “Giọt nước mắt ta chan chứa
tình người” (Lệ). Tiếp sau tập thơ đó, ơng hăng hái cổ vũ và thể nghiệm phương hướng
mở rộng cánh cửa cho cuộc sống lao động vào thơ, để thơ được đến thẳng với cuộc đời.
Với hai tập thơ Một khối Hồng (1964), và Hai đợt sóng (1967), chúng ta thấy Xuân Diệu
đã thật sự bị cuốn hút, thật sự say mê trước công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc. Nhà thơ hăng hái đến với nhiều mảnh đất của miền Bắc Việt Nam, và chính hiện
thực đời sống lao động ở Mã Pí Lèng – Hà Giang, Thuận Vi – Thái Bình, Suối Hai – Ba
Vì, Thanh Nga – Vĩnh Phúc, hay quần đảo Cô Tô,… đã giúp nhà thơ viết nên những vần
thơ khá hay về thiên nhiên, đất nước, và con người. Cũng bắt nguồn từ hiện thực đời sống
lao động của nhân dân miền Bắc, năm 1961, tập thơ Gió lộng của nhà thơ Tố Hữu ra đời.
Phần lớn nội dung của tập thơ đã thể hiện được niềm tự hào và niềm tin lộng gió trên
miền Bắc, trong những con người chiến thắng đang ra sức xây dựng cuộc sống mới. Dù
không thể trực tiếp đến với Tây Bắc, với những người con lao động mới, nhưng nhà thơ
Chế Lan Viên cũng đã gửi lịng mình tới đó theo Tiếng hát con tàu. Bài thơ là khát vọng
mãnh liệt của thi sĩ – khát vọng được đến với Tây Bắc, với mọi miền Tổ quốc xa xơi để
góp bàn tay xây dựng cuộc sống mới cho q hương.
Tóm lại, cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc đã thật sự cuốn hút
các nhà thơ giai đoạn 1955 – 1975, tạo nguồn cảm hứng dồi dào cho ngòi bút sáng tạo của
họ, giúp thơ ca 1955 – 1975 phát triển mạnh về chất cũng như là lượng.
Tuy nhiên, đúng như nhà thơ Tố Hữu đã từng khẳng định:
“Đường giải phóng mới đi một nửa
Nửa mình cịn trong nước lửa sơi
Một thân không thể chia đôi
Lửa gươm không thể cắt rời núi sơng”
(Ba mươi năm đời ta có Đảng)
Trong niềm vui chiến thắng, trong khơng khí sơi nổi, hăng say của miền Bắc, dân
tộc ta vẫn nhức nhói và trăn trở không nguôi với nỗi đau đất nước bị chia cắt, miền Nam
vẫn cịn chìm trong khói lửa chiến tranh của kẻ thù. Hơn bao giờ hết, trong giai đoạn này,
cả dân tộc ta căm thù giặc, khát khao và ra sức đấu tranh cho sự thống nhất của hai miền
Nam – Bắc. Đặc biệt, nhân dân miền Bắc trong cuộc sống xã hội chủ nghĩa đang từng
bước được khẳng định, vẫn hướng về miền Nam ruột thịt với những tình cảm nhớ thương
da diết nhất. Hồn cảnh nghiệt ngã ấy đã tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của
các nhà thơ giai đoạn này, và với sứ mệnh thiệng liêng của người nghệ sĩ, họ đã mang đến
cho thơ ca 1955 – 1975 những vần thơ vừa da diết, xót xa, vừa chân thành, đằm thắm về
cơng cuộc đấu tranh thống nhất đất nước, và tình cảm của nhân dân hai miền Nam – Bắc.
Chúng ta có thể nhắc đến một số bài thơ hay, tiêu biêu cho mảng đề tài này như: Nhớ con
sông quê hương, Chiêm bao, Mặt quê hương, Cái giếng đầu làng, Gửi miền Bắc của Tế
Hanh, Cửa Tùng của Hồng Trung Thơng, Nhớ mưa quê hương của Ca Lê Hiến, Đêm sao
sáng, Gửi người vợ miền Nam của Nguyễn Bính, Sóng vỗ cử Tùng của Lưu Trọng Lư,
Thù muôn đời muôn kiếp khơng tan của Tố Hữu,… Bên cạnh đó, niềm tin vào Đảng, vào
Bác Hồ, vào tương lai thống nhất đất nước của đồng bào miền Nam trong hiện thực còn
gian khổ, nhiều mất mát, hi sinh cũng đã được khắc họa khá rõ nét qua thơ những bài thơ
của Giang Nam, Thanh Hải như: Quê hương, Nghe em vào đại học, Mồ anh hoa nở, Cháu
nhớ Bác Hồ,…
Ngoài hiện thực xây dựng Chủ nghĩa xã hội, công cuộc đấu tranh thống nhất đất
nước, và tình cảm Bắc – Nam, thơ ca 1955 – 1975 cịn có được nguồn cảm hứng lớn từ đề
tài ra trận. Với đề tài này, nền thơ ca của dân tộc đã gặt hái được khá nhiều tác phẩm xuất
sắc, trong đó, mỗi tác phẩm là một thanh âm thật trong trẻo, thật độc đáo, góp phần tạo
nên bản hòa tấu rộn ràng, giàu chất anh hùng ca cho thơ thời chống Mĩ. Đó là những
“dịng thơ lửa cháy” của Tố Hữu, là “những bài thơ đánh giặc” của Chế Lan Viên, là
“chiến trường xa đến chiến trường gần” của Huy Cận, là Chia tay trong đêm Hà Nội của
Nguyễn Đình Thi, hay là Cuộc chia li màu đỏ tràn đầy niềm tin, và hi vọng của nhà thơ
Nguyễn Mỹ,… Có thể nói, những năm tháng chống Mĩ đầy mất mát, hi sinh nhưng cũng
thật hào hùng và vĩ đại của dân tộc đã làm làm nên chủ nghĩa anh hùng cách mạng trên
mảnh đất Việt Nam. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng ấy đã thấm nhuần vào tư tưởng và
tình cảm của rất nhiều nhà thơ thời kì này, giúp họ viết nên những vần thơ đặc sắc về Tổ
quốc, Nhân dân, về người mẹ, về người anh hùng giải phóng qn, về cơ thanh niên xung
phong,… Chúng ta không thể nào quên những bài thơ như Mẹ Suốt của Tố Hữu, Đất quê
ta mênh mông của Dương Hương Ly, Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, Dáng đứng Việt
Nam của Lê Anh Xuân, Khoảng trời hố bom của Lâm Thị Mỹ Dạ, Bài thơ về tiểu đội xe
khơng kính, Gửi em cơ thanh niên xung phong của Phạm Tiến Duật,… Đặc biệt, trong
những năm tháng đấu tranh ác liệt nhất, nhiều mất mát và hi sinh nhất, con người Việt
Nam vẫn đến với tình yêu bằng những cảm xúc chân thành và mãnh liệt nhất. Vượt qua
mọi mưa bao bão đạn của chiến tranh, của sự sống và cái chết, tình yêu của con người
Việt Nam, của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mĩ thật đẹp, thật đáng trân trọng biết bao với
nét đẹp vừa trong sáng, thủy chung, vừa đầy trách nhiệm với đất nước, với nhân dân. Đó
là niềm tự hào của thế hệ những con nười thời chống Mĩ, những con người “Khi Tổ quốc
cần, họ biết sống xa nhau…”. Và chính vẻ đẹp trong tình yêu thời chống Mĩ, đã mang đến
cho thơ ca 1955 – 1975 những bài thơ tình vào loại hay nhất của thơ tình Việt Nam, như
bài Hương thầm của Phan Thị Thanh Nhàn, Hôn của Phùng Quán, Núi Đôi của Vũ Cao,
Vườn xưa của Tế hanh, Bài thơ về hạnh phúc của Bùi Minh Quốc, Sóng của Xn Quỳnh,
Trường Sơn Đơng, Trường Sơn Tây, Nhật kí yêu đương của Phạm Tiến Duật, Chuyện hai
người yêu xa cách của Nguyễn Đình Thi,… Tóm lại, hiện thực đời sống kháng chiến cùng
những vẻ đẹp trong tư tưởng và tình cảm của con người Việt Nam thời chống Mĩ đã thật
sự “tỏa nắng cho thơ”, và mang đến cho thơ ca 1955 – 1975 một sức sống vô cùng mãnh
liệt. Những vần thơ ra đời trong giai đoạn này, với những giá trị và ý nghĩa to lớn của nó
thật sự là những bơng hoa nở dọc chiến hào, góp phần điểm tơ thêm cho vẻ đẹp, tính cách,
và tâm hồn của con người Việt Nam.
Bên cạnh những điều kiện đã trình bày ở trên, chúng ta cịn có thể nói thêm về
nhu cầu văn học của quần chúng. Bởi trong thời kì này, khả năng thưởng thức văn nghệ
của quần chúng rất cao, đồng thời sự am hiểu về văn chương của họ cũng đã ngày một
sâu sắc hơn. Quần chúng không chỉ biết tiếp nhận mà cịn biết phê bình văn học, và theo
Nguyễn Đình Thi thì “Đó là điều kiện căn bản quyết định hết thảy sự phát triển của một
nền nghệ thuật”.
Chiến tranh đã kết thúc, đất nước ta đã bước sang những trang sử mới của thời kì
xây dựng và phát triển đất nước. Trong xu hướng chung ấy, nền thơ ca của dân tộc cũng
đã bước sang một thời kì mới, với những điều kiện mới cho sự phát triển, nhưng với thơ
ca 1955 – 1975 chúng ta thừa nhận đây là thời kì thơ ca có một đội ngũ sáng tác hết sức
hùng hậu, giàu tài năng, và nhiệt huyết. Họ đã trải qua những trăn trở của q trình “nhận
đường”, và đã được tơi rèn trong những cuộc đấu tranh tư tưởng giữa các xu hướng,
trường phái, các quan điểm khác nhau. Đặc biệt, họ còn là những người đã từng sống và
sáng tác trong hoàn cảnh đặc biệt của hai mươi năm chiến tranh chống Mĩ đầy mất mát, hi
sinh, nhưng lại rất đỗi hào hùng của dân tộc, điều này đem đến cho họ nguồn cảm hứng
vô cùng phong phú, và chúng ta hiểu vì sao thơ ca giai đoạn này lại có sự phát triển vượt
bậc về số lượng cũng như là chất lượng. Thời đại lớn chắp thêm đôi cánh lớn cho thơ, sự
ra đời và lãnh đạo của Đảng trên mội phương diện từ đường lối, tổ chức, đến tư tưởng và
phương pháp sáng tác,… đã giúp thơ ca 1955 – 1975 đi đúng hướng, từ đó gặt hái được
những thành tựu to lớn. Trên đây, là những nhân tố thuận lợi giúp cho thơ ca 1955 – 1975
phát triển và tỏa sáng trên bầu trời thơ ca Việt Nam.
1.2. Những đặc điểm của thơ ca 1955 – 1975
1.2.1. Tập trung phục vụ cách mạng, cổ vũ chiến đấu
Trong lá thư của Trung ương Đảng gởi cho Đại hội văn nghệ tồn quốc lần thứ
IV có viết: “Đối với anh chị em văn nghệ sĩ của ta, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản phải là mục đích và lí tưởng đẹp đẽ nhất, Tổ quốc, nhân dân, cáh mạng là đối tượng
phục vụ cao quý nhất, văn hóa và tư tưởng là chiến trường, tác phẩm văn học là vũ khí
sắc bén” [23; tr.69]. Như vậy, nhiệm vụ phục vụ cách mạng, cổ vũ chiến đấu không chỉ là
yêu cầu hàng đầu mà còn là thước đo giá trị đối với những tác phẩm văn học, nhất là
những tác phẩm ra đời trong hồn cảnh đất nước có chiến tranh. Thơ ca 1955 – 1975 đã
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đó. Gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của cả dân tộc, thơ
ca thời kì này đã dõi theo từng bước đi của lịch sử, từng nhiệm vụ chính trị của đất nước,
và bám sát từng chi tiết trong hiện thực đời sống lao động, và kháng chiến của nhân dân.
Sau chiến thắng Điện biên Phủ cùng những vần thơ ca ngợi dân tộc, thể hiện
niềm vui, niềm tự hào phơi phới của những con người chiến thắng như:
“Hoan hơ chiến sĩ Điện biên
Hoan hơ đồng chí Võ Nguyên Giáp
Sét đánh ngày đêm xuống đầu giặc Pháp!
Vinh quang Tổ quốc chúng ta
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa!
Vinh quang Hồ Chí Minh, cha của chúng ta ngàn năm sống mãi
“Quyết chiến quyết thắng”, cờ đỏ sao vàng vĩ đại!
Kháng chiến ba ngàn ngày
Không đêm nào vui bằng đêm nay
Đêm lịch sử, Điện Biên sáng rực
Trên đất nước như huân chương trên ngực
Dân tộc ta, dân tộc anh hùng!”
(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu)
hay:
“Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy, sáng lòa”
(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)
thơ ca chuyển sang phục vụ cơng cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu
tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Với đề tài về cuộc sống mới, con người
mới, thơ ca đã mang đến cho người đọc những hình tượng tuyệt đẹp về sự hồi sinh của Tổ
quốc và con người trong cuộc sống lao động mới. Từ đó, làm cho mỗi con người càng
thêm yêu, thêm tự hào và ra sức xây dựng quê hương. Viết về đề tài này, chúng ta có thể
kể đến sự đóng góp của nhà thơ Huy Cận với các tập thơ như :Trời mỗi ngày lại sáng, Đất
nở hoa, Bài thơ cuộc đời, Xuân Diệu với Một khối hồng, và Hai đợt sóng, Tố Hữu với
Gió lộng, hay Chế Lan Viên với Ánh sáng và phù sa,…
Ở đề tài đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chúng ta thấy thơ
vang lên những tiếng thét căm hận trước tội ác của kẻ thù:
“Bọn chúng nó cịn bên ta đó!
Nó đương cịn gieo khổ rắc đau
Nó làm chồng vợ xa nhau
Nó mong chợ búa lạnh màu khăn tang
Nó muốn đốt xóm làng cháy rụi
Nhốt con ta hầm tối hang sâu
Con ta mới tí tuổi đầu
Nó toan xách ngược ném vào lửa bom
Nó chẳng muốn cho con ta hát
Chẳng muốn cho gặp Bác gần cha
Nó toan xé nước chia nhà
Nó mong ruộng lúa thành ra chiến trường”
(Gửi người vợ miền Nam – Nguyễn Bính).
Và những tình cảm nhớ thương da diết của nhân dân hai miền Nam – Bắc:
“Ban ngày ở miền Bắc
Ở miền Nam đêm đêm”
(Chiêm bao – Tế Hanh)
Tất cả, trở thành nhát dao cứa vào tim của mỗi con người Việt Nam, khiến nhân dân ta
càng thêm đau nỗi đau chia cắt. Và có thể nói, chính những tác phẩm viết về mảng đề tài
này đã làm tăng lên gấp bội lòng căm thù giặc trong mỗi con người Việt Nam. Để rồi hơn
bao giờ hết, cả dân tộc ta khao khát và ra sức đấu tranh cho sự thống nhất vẹn toàn của đất
nước.
Tháng 8 năm 1964, đế quốc Mĩ trắng trợn đưa không quân ra bắn phá miền Bắc,
cả nước ta ngập chìm trong bom đạn của chiến tranh. Và khơng cịn phân biệt hậu phương
hay tiền tuyến, nhân dân hai miền đã đứng dậy trực tiếp đánh Mĩ cho đến ngày đất nước
hồn tồn giải phóng. Tiếp tục thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, thơ ca thời chống Mĩ
vang lên những “dòng thơ lửa cháy”, “những bài thơ đánh giặc” giữa những đoàn quân
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước / mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Theo chân Bác –
Tố Hữu). Và khi cần thiết, thơ thời chống Mĩ cũng đã vang lên những khẩu hiệu, những
mệnh lên tiến cơng, bởi tất cả đều vì lợi ích của dân tộc:
“Hãy gầm lên như sấm sét đùng đùng
Tất cả pháo!
Và xông lên, dũng sĩ!”
(Bài ca Xuân 68 – Tố Hữu)
Qua những trang thơ của Chính Hữu, của Lê Anh Xuân, của Lữ Huy Nguyên,…
chúng ta thấy hình ảnh cả nước ra quân hiện lên thật hào hùng và thật kì vĩ với sức mạnh
của “bốn mươi thế kỉ cùng ra trận”. Và con đường ra trận đầy gian khổ, hi sinh cũng hiện
lên thật thi vị bởi cái nhìn đầy lạc quan của người lính:
“Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn đông nhớ Trường Sơn tây”
(Trường Sơn đơng – Trường Sơn tây – Phạm Tiến Duật)
Có thể nói, hơn bất cứ giai đoạn nào, thơ ca giai đoạn này đã tạo nên chủ nghĩa
anh hùng cách mạng cho thơ ca Việt Nam với những hình tượng đặc sắc về người anh
hùng nhân dân, về Tổ quốc, về người lãnh tụ,…Viết về những mất mát hi sinh, thơ ca thời
kì này khơng hề bi lụy, mà vẫn ngân vang khúc hát hào hùng của khuynh hướng sử thi:
“Có những phút làm nên lịch sử
Có cái chết hóa thành bất tử
Có những lời hơn mọi lời ca
Có con người nhân chân lí sinh ra”
(Hãy nhớ lấy lời tơi – Tố Hữu)
So với thơ ca thời chống Pháp, thơ thời chống Mĩ không hề né tránh những mất
mát, hi sinh, nhưng khi cần, nó biết nén tiếng thở dài đau thương để động viên người ra
trận, và giấu đi những tổn thất máu xương để làm yên lòng những người vợ mong chồng,
những người mẹ trơng con. Chính vì những lẽ đó mà thơ thời kì này đã có được những
vần thơ ca ngợi, những vần thơ khẳng định tràn đầy niềm vui, và sự lạc quan để cổ vũ
hiệu quả cho cuộc chiến đấu đầy gian lao, thử thách của dân tộc. Vượt qua mọi bom đạn
của kẻ thù, thơ ca trong những năm cả nước chống Mĩ, thật sự là tiếng thét xung phong, là
hồi kèn xung trận, để cổ vũ, và dẫn đường cho dân tộc ta. Khi cuộc chiến tranh càng khốc
liệt thì thơ ca lại càng khẳng đinh được vai trò to lớn của mình, đó là vũ khí sắc bén trên
mặt trận đấu tranh với kẻ thù, là sợi dây nối liền tình cảm, suy nghĩ của mỗi con người
việt Nam thành tiếng nói, và tình cảm chung. Lật lại những trang sử hào hùng của một
thời chống Mĩ, chúng ta một lần nữa ghi nhận và khẳng định vai trò to lớn của thơ ca giai
đoạn 1955 – 1975 khi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phục vụ cách mạng, và cổ vũ
chiến đấu cho cuộc đấu tranh của dân tộc.
1.2.2. Hướng về quảng đại quần chúng nhân dân
Xuất phát từ những nhận thức sâu sắc về vai trò và sự đóng góp to lớn của nhân
dân – những con người đã hi sinh xương máu của chính mình để xây dựng và bảo vệ đất
nước, các nhà thơ thời chống Mĩ đã xác lập tư tưởng: đất nước của nhân dân. Đây cũng
chính là tư tưởng chủ đạo của thơ ca giai đoạn này:
“Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và đã chết
Giản dị và bình tâm
Khơng ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân
Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
(Mặt đường khát vọng – Nguyễn khoa Điềm)
Và với nhiệm vụ phục vụ cách mạng, cổ vũ chiến đấu, hơn bao giờ hết, thơ ca
thời kháng chiến chống Mĩ tập trung hướng về quảng đại quần chúng nhân dân. Đây vừa
là đối tượng phục vụ, vừa là nguồn cung cấp lực lượng sáng tác cho thơ ca. Có thể nói,
gắn bó sâu sắc với nhân dân trong suốt những năm tháng đấu tranh cứu nước, các nhà thơ
giai đoạn 1955 – 1975 khơng chỉ có sự thấu hiểu sâu sắc trước những nỗi đau thương, bất
hạnh của nhân dân, mà còn khám phá được những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân trong
quá trình lao động và kháng chiến. Nhiều nhà thơ đã thể hiện được quá trình tham gia
cách mạng của nhân dân, từ đó, khẳng định ở nhân dân khả năng làm cách mạng và phẩm
chất anh hùng:
“Quê hương biết mấy thân yêu
Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau
Mặt người vất vả in sâu
Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn
Đất nghèo ni những anh hùng
Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên
Đạp quân thù xuống đất đen
Súng gương vứt bỏ lại hiền như xưa”
(Bài thơ Hắc Hải – Nguyễn Đình Thi)
Hơn ba mươi năm đã qua kể từ ngày cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc, với
ngần ấy thời gian để nhìn lại, và đánh giá một chặng đường văn học, chúng ta thừa nhận
thơ ca thời chống Mĩ đã tập trung xây dựng hình tượng quần chúng cách mạng và đã gặt
hái được những thành tựu vô cùng to lớn. Nhiều nhà thơ của giai đoạn này như Tố Hữu,
Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Nhật Thu, Tạ Vũ, Xuân
Quỳnh, Viễn Phương,… đã đi sâu miêu tả hình tượng người nơng dân, người mẹ, người
phụ nữ, em bé,… và họ cũng đã diễn tả khá thành công vẻ đẹp trong tâm hồn của của
nhân dân ta:
“Đêm cuối cùng được ở bên con
Mẹ thao thức lắng nghe từng nhịp thở
Nhịp thở bình n
Mơi con hé mở
Con thấy gì mà cười trong giấc mơ!
Bồi hồi mẹ viết bài thơ
Bao thương nhớ dành cho con tất cả
Mai mẹ lên đường
Nhiều gian lao vất vả
Suốt chặng đường dài mẹ sẽ nhớ về con
Cái miệng hay cười
Cái dáng lon ton
Cái đầu “bẹp cá trê” vì ít khi được bế!
Mai khơn lớn con nghĩ gì về mẹ
Con nghĩ gì về một chặng đường qua
Con nghĩ gì về đất nước chúng ta
Nỗi đau đớn xuyên rất nhiều thế hệ?
Không muốn lớn lên con phải làm nô lệ
Nên bây giờ mẹ ra đi”
(Viết cho con – Lệ Thu)
Hướng về đối tượng là đại quần chúng nhân dân, thơ ca 1955 – 1975 tất yếu phải
tìm đến với những hình thức nghệ thuật quen thuộc, gần gũi với nhân dân. Nhiều nhà thơ
của thời kì này đã tìm về kho tàng văn học dân gian, chẳng hạn như Lưu Trọng Lư, Trần
Hữu Thung thì tìm đến thể bát dặm Nghệ Tĩnh, Thanh Tịnh thì soạn những bài độc tấu
phát huy điệu nói lối vui nhộn của hề chèo. Tố Hữu thì chú ý phát huy các thể điệu dân ca
và những thủ pháp nghệ thuật của ca dao truyền thống… Cịn Xn Diệu thì ra sức học
tập ca dao, dân ca bởi theo nhà thơ thì “Muốn làm được thơ khá, thiết tưởng nên bắt đầu
làm được ca dao khá. Vì thơ của ta phải hay trên cơ sở quần chúng” (Phê bình giới thiệu
thơ)… Vì vậy mà phần lớn những bài thơ ra đời trong giai đoạn này đều ngắn gọn, nội
dung dễ hiểu, chủ đề rõ ràng, ngôn ngữ thơ cũng hết sức bình dị, trong sáng, và dễ nhớ, dễ
hiểu:
“Trái đất này là của chúng mình
Quả bóng xanh bay giữa trời xanh
Bồ câu ơi, tiếng chim gù thương mến
Hải âu ơi, tiếng chim vờn sóng biển
Cùng bay nào, cho trái đất quay!
Cùng bay nào, cho trái đất quay!”
(Bài ca về trái đất – Định Hải)
Phụng sự cách mạng tức là phụng sự nhân dân. Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
phục vụ cách mạng, cổ vũ chiến đấu, thơ ca 1955 – 1975 cũng đã tạo được bản sắc riêng
của mình, đó là một chặng đường thơ có tính nhân dân sâu sắc. Thiết nghĩ, đây vừa là đặc
điểm, vừa là một giá trị vô cùng to lớn của thơ ca thời chống Mĩ trong tiến trình thơ của
dân tộc.
1.2.3. Mang đậm tính thời sự và chất chính luận – suy tưởng
Gắn bó mật thiết với vận mệnh của dân tộc, thơ ca 1955 – 1975 đã phản ánh kịp
thời, chân thực và sinh động hiện thực cuộc kháng chiến chống Mĩ và khí thế sơi nổi, hào
hùng của công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đây được xem là một chặng
đường thơ có tính thời sự cao bởi hầu hết các sự kiện có liên quan đến vận mệnh của đất
nước, của nhân dân đều có mặt trong thơ. Năm 1954 chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc
thắng lợi, miền Bắc bước vào công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội, chúng ta nghe trong
thơ vang vọng niềm tự hào, niềm phấn khởi của những con người chiến thắng đang ngập
tràn niềm hi vọng ở cuộc đời mới:
“Tôi đi trong muôn dặm trời xuân
Nghe quê xa hòa điệu với quê gần
… Đi đi mãi, trái tim mang điệu hát
Đi đi mãi dưới trời xanh bát ngát
Gieo những mùa vàng, gieo những mùa thơ”
(Đường chúng ta đi – Hồng Trung Thơng)
Hịa trong khơng khí sơi nổi ấy của miền Bắc, các nhà thơ thời kì này vẫn khơng
qn hướng về miền Nam ruột thịt. Nhiều cây bút như Hoàng trung Thơng, Lưu Trọng
Lư, Nguyễn Bính, Tế Hanh, Lê Anh Xn, Tố Hữu…, đã phản ánh sâu sắc nỗi đau của
dân tộc trong hoàn cảnh đất nước bị cắt chia bằng những vần thơ đầy nhớ thương, trăn
trở:
“Tôi hôm nay sống trong lòng miền Bắc
Sờ lên ngực nghe trái tm thầm nhắc
Hai tiếng thiêng liêng hai tiếng “miền Nam”
Tôi nhớ không nguôi ánh nắng màu vàng
Tôi quên sao được sắc trời xanh biếc…
Tôi nhớ cả những người không quen biết…”
(Nhớ con sông quê hương – Tế Hanh)
Đặc biệt, nhiều bài thơ cịn ghi nhận được tình hình của miền Nam trong những trận càn
ác liệt của kẻ thù:
“Hôm nay, sáng mát trong, trời lặng
Hai mươi tám máy bay lên thẳng
Của lục qn, lính thủy Mĩ đi càn
Cách Sài gịn 35 dặm phía Nam…”
(Có thể nào n – Tố Hữu)
Tháng 8 năm 1964, khi Mĩ leo thang chiến tranh dùng không quân bắn phá miền
Bắc, thơ ca vang lên những tiếng thét căm thù, và những lời kêu gọi, cổ vũ, động viên:
“Đèn ta thắp những lời kêu gọi
Đi nhanh, đi nhanh
Chiến trường đã giục
Đầy núi đầy song
Đèn ta đã mọc.
Trong gió trong mưa
Ngọn đèn đứng gác
Cho thắng lợi, nối theo nhau
Đang hành quân đi lên phía trước”
(Ngọn đèn đứng gác – Chính Hữu)
Vào năm 1968, thơ ca cũng đã kịp thời phản ánh khí thế của quân và dân ta trong những
ngày chuẩn bị cho cuộc tiến công của chiến dịch Mậu Thân:
“Ta đi đây, lòng ta như bay
Với mỗi làn mây, với từng cơn gió
Gió miền Bắc đang thổi vào Nam đó
Gió mây ơi, khơng đợi nắng xn về
Hãy bay đi mà che những đồn xe
Và những đồn qn tn ra tiền tuyến…”
…Hoan hô Xuân 68 anh hùng!
Hãy gầm lên như sấm sét đùng đùng
Tất cả pháo!
Và xông lên, dũng sĩ!”
(Bài ca Xuân 68 – Tố Hữu)
Tiếp theo sự kiện lịch sử này, thơ thời chống Mĩ lại vang lên những tiếng nấc
nghẹn ngào trước cái tang chung của cả nước vào ngày Bác mất, ngày mà “đời tuôn nước
mắt, trời tn mưa”. Có thể nói, thơ ca trong những phút xé lòng của mùa thu năm 1969,
đã đọng lại trong lịng mỗi người dân Việt Nam những hình ảnh, những tình cảm khơng
thể nào phai về người cha già vĩ đại của dân tộc. Hàng nghìn bài thơ vơ cùng xúc động
như: Bác ơi của Tố Hữu, Bác có thấu lịng trẻ thơ của Nguyễn Hồng Kiên, Viếng lăng
Bác của Viễn Phương, Mn vàn tình thân u trùm lên khắp q hương của Việt
Phương, Chúng cháu canh giấc Bác ngủ Bác Hồ ơi của Hải Như, Gửi lòng con đến cùng
cha của Thu Bồn,… đã kết thành vòng hoa đầy hương sắc để dâng lên Người với tất cả
lịng thành kính, nhớ thương.
Không những vậy, khi giở lại những trang thơ của những năm chống Mĩ, chúng
ta còn dễ dàng bắt gặp hình ảnh cả nước lên đường với khí thế hào hùng, sôi nổi của
những con người sẵn sàng hi sinh tất cả cho độc lập, tự do, cho sự thống nhất của nước
nhà:
“Những buổi vui sao cả nước lên đường
Xao xuyến bờ tre từng hồi trống giục.
Xóm dưới làng trên, con trai con gái
Xơi nắm cơm đùm ríu rít theo nhau,
Súng nhỏ, súng to chiến trường chật chội,
Tiếng cười hăm hở đầy sơng đầy cầu”
(Đường ra mặt trận – Chính Hữu)
Dẫu biết rằng không một ai muốn đối mặt với mất mát, hi sinh, nhưng cái chết
vẫn là hệ quả tất yếu của chiến tranh. Điều đáng nói là khi đứng trước sự hi sinh của đồng
đội các nhà thơ thời kì chống Mĩ đã kịp thời tạo dựng nên những hình tượng mang tầm
vóc lớn lao của cả dân tộc – hình tượng “Dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ”. Chúng ta
làm sao có thể qn hình ảnh của anh giải phóng quân khi ngã xuống đường băng Tân
Sơn Nhất vẫn gượng đứng đứng lên và nổ súng bắn vào kẻ thù trong bài thơ Dáng đứng
Việt Nam của nhà thơ Lê Anh Xuân:
“Anh ngã xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vòng”
Càng mang đậm tính thời sự thơ ca 1955 – 1975 càng giàu chất chính luận – suy
tưởng. Đây vừa là đặc điểm vừa là qui luật vận động phát triển của thơ ca giai đoạn này.
Nói như vậy, khơng có nghĩa là nền thơ ca từ trước đến nay của dân tộc khơng có yếu tố
chính luận – suy tưởng. Thực tế cho thấy nền thơ ca cách mạng trước thời kì 1955 – 1975
vẫn có những tác phẩm giàu tính thời sự, phản ánh được những nhận thức, những vấn đề
trong tư tưởng tình cảm của con người Việt Nam thời bấy giờ. Tuy nhiên, cơng bằng mà
nói thì phải đến giai đoạn 1955 – 1975, yếu tố chính luận – suy tưởng trong thơ mới thật
sự được mở rộng và phát triển. Các nhà thơ của thời kì này khơng chỉ bám sát những sự
kiện lớn trong từng chặng đường cách mạng, ca ngợi những chiến công của của quân và
dân ta, kịp thời vạch trần, đả kích những âm mưu của kẻ thù, mà còn tập trung phát hiện,
khẳng định, lí giải về sức mạnh và phẩm chất của dân tộc trong lịch sử và hiện tại. Do
vậy, tính chính luận trong thơ đã được bổ sung và nâng cao bởi những suy tưởng triết lí.
Nhà thơ vừa là người tuyên truyền cổ động quần chúng nhân dân, vừa là nhà tư tưởng
luôn suy tư, chiêm nghiệm về đất nước, nhân dân, về vai trò và trách nhiệm của bản thân,
của cả thế hệ của mình. Đặc biệt, tính chính luận từ chỗ chỉ là đặc điểm trong sáng tác của
một vài nhà thơ dần dần đã trở thành phong cách chung của rất nhiều nhà thơ với những
biểu hiện ngày càng rõ nét. Với các nhà thơ như Chế Lan Viên, Huy Cận thì yếu tố triết lí,
suy tưởng đã trở thành nét nổi bật trong phong cách sáng tác của họ. Chúng ta ghi nhận sự
thành công và sức ảnh hưởng của họ đối với thế hệ các nhà thơ trẻ qua những vần thơ đầy
sức khái quát như:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa con tàu”
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
Tố Hữu được mệnh danh là nhà thơ trữ tình chính trị vì yếu tố chính luận đã trở
thành bản sắc trong sáng tác của ông. Nhưng rõ ràng, càng về sau của quá trình sáng tác,
nhất là vào những năm chống Mĩ, chúng ta thấy tính chính luận trong thơ Tố Hữu càng
gắn liền với những suy tư, những chiêm nghiệm mang tính lí giải theo chiều sâu về dân
tộc và lịch sử, về con người Việt Nam và cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước:
“Ôi Việt Nam! Từ trong biển máu
Người vươn lên như một thiên thần
Thế này chăng? Thuở xưa hoang dã
Chàng Sơn Tinh thắng giặc Thủy Tinh
Càng dâng nước càng cao ngọn núi
Chân Trường Sơn đạp sóng Thái Bình”
(Việt Nam – máu và hoa)
Đến thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc và kháng chiến chống Mĩ như Xuân Quỳnh, Nguyễn Duy, Phạm Tiến
Duật, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Khoa Điềm,… thì chất chính luận – suy tưởng
trong thơ càng được thể hiện rõ nét. Có thể nói, sáng tạo những vần thơ giàu chất suy
nghĩ, những hình tượng thơ mang ý nghĩa khái quát là xu hướng chính trong sáng tác của
các nhà thơ trẻ thời kì này. Tuy nhiên, điều đáng trân trọng là trong xu hướng chung đó,
mỗi nhà thơ đều tìm được một mảnh đất riêng để ươm mầm cho những hạt thơ của mình.
Phạm Tiến Duật tìm đến sự khái quát về sức sống của đất nước qua sức sống của cây trái
bốn mùa, hoặc hình ảnh của “vầng trăng đất nước vượt qua vầng trăng lửa mọc lên cao”.
Nguyễn Duy phát hiện và khẳng định phẩm chất của dân tộc qua hình ảnh của cây tre Việt
Nam:
“Rễ siêng không ngại đất nghèo
Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù
Vươn mình trong gió tre đu
Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành
Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh
Tre xanh không đứng khuất mình bóng râm
Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay ơm tay níu tre gần nhau thêm.
… Nịi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường
Lưng trần phơi nắng phơi sương
Có manh áo cộc tre nhường cho con”
(Tre Việt Nam)
Thanh Thảo thì ngày càng bộc lộ rõ nét những suy nghĩ mang chiều sâu triết lí về nhân
dân qua những hình tượng vừa cụ thể, vừa mang tính khái qt biểu tượng. Đặc biệt, với
hình tượng ngọn sóng trong bài thơ Những ngọn sóng mặt trời của ông, chúng ta thấy
nhân dân đã trở thành những con người vĩnh hằng, bất tử:
“Đã bao lần xuống biển lên trời rồi trở
đã cháy khô tới giọt cuối cùng
mà trong như thể trong nguồn
tràn trề như thể chưa từng cạn vơi
dị tận bể cũng xong thơi
nhưng vơ ích. Sóng có đời nào n
ngàn con sóng chết cuối đêm
sinh ngàn con sóng trước thềm rạng đơng
đẩy thuyền lật thuyền dễ khơng
mát mềm mài đá đá mịn thấu xương”
Riêng nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm – tác giả của bài trường ca Mặt đường khát vọng thì
trước sau vẫn luôn trung thành với tư tưởng đất nước của nhân dân. Với ông mọi cảnh vật
thiên nhiên đều chứa đựng một phần tâm hồn và máu thịt của ông cha. Từ những cảnh vật
cụ thể nhà thơ đã viết nên những vần thơ có sức khái qt vơ cùng sâu sắc như:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Khơng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ơng cha
Ơi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sơng ta”
(Đất nước)
Và cũng xuất phát từ tư tưởng đất nước của nhân dân, nhà thơ đã kêu gọi mỗi con người
Việt Nam về ý thức và trách nhiệm đối với đất nước, nhân dân:
“Em ơi em Đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất nước mn đời…”
(Đất nước)
Tóm lại, trong giai đoạn 1955 – 1975, chất chính luận – suy tưởng là một yếu tố
khá nổi bật trong tác phẩm của các nhà thơ lớp trước, và cũng thật thắm đượm trong sáng
tác của các nhà thơ trẻ. Có thể nói, đây vừa là đặc điểm vừa là nhân tố góp phần làm nên
bản sắc cho thơ ca thời chống Mĩ.
1.2.4. Chủ yếu được sáng tác theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn
Trong hai mươi năm kháng chiến chống Mĩ, nếu không có lịng u nước thiết
tha và lịng tin vững chắc vào tươi lai tươi sáng của cuộc kháng chiến, thì có lẽ dân tộc ta
đã khơng thể chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Trong thành quả to lớn ấy, chúng ta ghi
nhận sự đóng góp của những vần thơ dạt dào cảm hứng lãng mạn trong thơ ca 1955 –
1975. Chính những vần thơ này, đã tiếp thêm sức mạnh, niềm tin, và nghị lực, giúp quân
và dân ta vượt qua những mất mát, đau thương để đi đến thắng lợi cuối cùng.
Sau chiến thắng Điện biên Phủ, miền Bắc hăng hái bắt tay vào công cuộc xây
dựng Chủ nghĩa xã hội. Tuy bước đầu cịn nhiều khó khăn, gian khổ, nhưng nhiều nhà thơ
đã tích cực tham gia và cổ vũ nhân dân bằng những vần thơ tươi trẻ, dạt dào cảm hứng
ngợi ca đất nước và con người trong niềm vui, niềm tự hào bất tận. Chế Lan Viên có Ánh
sáng và phù sa, Huy Cận có Đất nở hoa và Trời mỗi ngày lại sáng, Tố Hữu có Gió lộng,
Xn Diệu có Ngói mới, Hồng Trung Thơng có Đường chúng ta đi,… Có thể nói, những
vần thơ này đã làm cho hình ảnh về sự hồi sinh của đất nước, sự đổi đời của nhân dân trở
nên đẹp hơn và tươi sáng hơn trong lòng của mỗi con người. Từ đó, mỗi người trong họ
càng thêm yêu, thêm tự hào và ra sức xây dựng quê hương:
“Quê ta anh biết chăng?
Thì đã ăn no ba mùa lúa
Cờ hồng hợp tác Đại Hồng Long
Cử anh chủ nhiệm xi Hà Nội
Đón máy cày lên với cánh đồng
Hơm nay trâu sắt đi cày ruộng
Tiếng máy âm vang thức núi rừng”
(Quê ta anh biết chăng? – Triều Ân)
Đến thời kì cả nước chống Mĩ, cảm hứng lãng mạn lại càng được thể hiện rõ hơn.
Hình ảnh cả nước lên đường hiện lên qua những trang thơ thật hào hùng, khí thế. Không
một tiếng thở dài, lưu luyến, cũng không một giọt nước mắt tiễn đưa, ngày cả dân tộc ra
quân chỉ có những tiếng cười vui, phấn khởi, rộn ràng:
“Những buổi vui sao cả nước lên đường
Xao xuyến bờ tre từng hồi trống giục
Xóm dưới làng trên, con trai con gái
Xơi nắm cơm đùm ríu rít theo nhau
Súng nhỏ, súng to chiến trường chật chội
Tiếng cười hăm hở đầy sông đầy cầu”
(Đường ra mặt trận – Chính Hữu)
Khơng những vậy, qua cái nhìn lãng mạn các nhà thơ thời kì này, con đường ra
mặt trận đầy bão đạn, mưa bom cũng đã được thi vị hóa thành “Đường ra trận mùa này
đẹp lắm” (Trường Sơn đông – Trường Sơn tây – Phạm Tiến Duật) với bướm bay lèn
đá, với nắng vàng rực rỡ, với những niềm vui bất tận của chiến trường “Ra chiến trường
như trẩy hội mùa xuân” (Hương bưởi – Xuân Thêm).
Quy luật của chiến tranh là mất mát, hi sinh, là gian khổ, thiếu thốn, nhưng vượt
lên tất cả những luồng mưa bom bao đạn của kẻ thù, thơ vẫn ngập tràn niềm tin yêu và hi
vọng vào cuộc đời:
“Cuộc đời vẫn đẹp sao
Tình yêu vẫn đẹp sao
Dù đạn bom man rợ thét gào
Dù thân thể triền miên mang đầy thương tích”
(Bài thơ tình u – Dương Hương Ly)
Ngay cả khi phải đứng trước cái chết, thơ thời chống Mĩ vẫn vang vọng những khúc hát
anh hùng thấm nhuần tinh thần lãng mạn cách mạng:
“Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm”
(Núi Đơi – Vũ Cao)
Có thể nói, cảm hứng lãng mạn đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong thơ ca 1955
– 1975. Cảm hứng này được thể hiện xuyên suốt trong tác phẩm của tất cả các thế hệ nhà
thơ, từ những cây bút lão thành của giai đoạn trước đến những những cây bút trẻ của giai
đoạn sau. Bởi tất cả các nhà thơ của thời kì này, đã gặp nhau ở đỉnh điểm của lòng tin, và
ý chí quyết chiến quyết thắng. Những vần thơ của họ đã thổi vào tâm hồn của mỗi con
người Việt Nam thời bấy giờ niềm yêu đời và lòng tin tưởng vào sự tất thắng của dân tộc.
Gắn liền với cảm hứng lãng mạn, thơ 1955 – 1975 còn là một giai đoạn thơ ca
mang đậm khuynh hướng sử thi. Chiến tranh ln là hồn cảnh nghiệt ngã nhất của đất
nước, trong hồn cảnh đó, số phận của mỗi con người phải gắn liền với vận mệnh chung
của toàn dân tộc. Vì vậy, tiếng nói trong thơ ca khơng chỉ là tiếng nói của mỗi cá nhân mà
cịn là tiếng nói chung của cả cộng đồng. Thời kì này, hầu hết các nhà thơ đều tập trung
phản ánh những vấn đề cơ bản nhất, có ý nghĩa sống cịn đối với cả dân tộc. Lời thơ mang
đậm tính sử thi, được thể hiện rõ nét qua giọng điệu ngợi ca, hào hùng. Cái đẹp trong thơ
gắn liền với ý niệm Tổ quốc trường tồn và những hình ảnh sáng ngời về chủ nghĩa anh
hùng cách mạng.
Từ năm 1955 đến 1964, chất sử thi chủ yếu được thể hiện qua những vần thơ viết
về đề tài cuộc sống mới, con người mới trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Đây là hình ảnh
về sự “thay da đổi thịt” của đất nước – một hình ảnh thật kì vĩ với rừng vàng biển bạc, với
mn vàn âm thanh và màu sắc:
“Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi!
Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt
Nắng chói sơng Lơ hị ơ tiếng hát
Chuyến phà rào rạt bến nước Bình ca”
(Ta đi tới – Tố Hữu)
Bước sang giai đoạn từ 1965 đến 1975, chất sử thi chủ yếu tập trung trong những
vần thơ viết về chủ nghĩa anh hùng cách mạng :
“Chúng muốn đốt ta thành tro bụi
Ta hóa vàng nhân phẩm, lương tâm
Chúng muốn ta bán mình ơ nhục
Ta làm sen thơm ngát giữa đồng”
(Việt Nam máu và hoa – Tố Hữu)
Có thể nói, chưa bao giờ ý thức và trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với đất nước
lại được đề cập nhiều trong thơ như thời kì 1955 – 1975:
“Sống, chúng tôi mong được sống làm người
Dù phải chết, mà còn trời đất
Mà Tổ quốc ta hòa bình, thống nhất
Chúng tơi khơng sợ máu chảy đầu rơi
Thà chết không chịu khuất phục một lời!”
(Thù muôn đời muôn kiếp không tan – Tố Hữu)
Những vấn đề riêng tư, những chuyện đời thường dường như đều bị quên lãng, nếu được
nói đến cũng chỉ nhằm nhấn mạnh thêm về trách nhiệm và tình cảm của cá nhân đối với
cộng đồng:
“Yêu nhau ai không muốn
Gần nhau và hôn nhau
Nhưng anh, anh khơng muốn
Hơn em trong tủi sầu
Em ơi rất có thể
Anh chết giữa chiến trường
Đôi môi tươi đạn xé
Chưa bao giờ được hôn
Nhưng dù chết em ơi
Yêu em anh không thể
Hôn em bằng đôi môi
Của một người nô lệ”
(Hôn – Phùng Quán)
Sáng tác theo khuynh hướng sử thi, các nhà thơ thời chống Mĩ khơng chỉ nhìn
con người và cuộc đời bằng con mắt cá nhân, mà còn bằng con mắt có tầm bao quát của
lịch sử, dân tộc và thời đại. Tố Hữu gọi đó là con mắt “Nhìn bốn hướng – Trơng lại nghìn
xưa, trơng tới mai sau – Trông Bắc, trông Nam, trông cả địa cầu”, Chế Lan Viên gọi là
“Con mắt Bạch Đằng – con mắt Đống Đa”. Vì thế, hình tượng người anh hùng trong thơ
ca thời kì này là những con người đại diện cho tinh hoa và khí phách, phẩm chất và ý chí
của thời đại. Họ là những con người có khả năng đáp ứng được những đòi hỏi của dân tộc
và thời đại, nhân danh cộng đồng mà chiến đấu vì sự sống còn của Tổ quốc. Chúng ta