Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Hiện trạng khai thác nguồn lợi cá ngựa (hippocampus) ở phú quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (700.82 KB, 35 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN

NGUYỄN HOÀNG KHÔN

HIỆN TRẠNG KHAI THÁC NGUỒN LỢI CÁ NGỰA
(HIPPOCAMPUS) Ở PHÚ QUỐC – KIÊN GIANG

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH SINH HỌC BIỂN

Cần Thơ, 2011

1


TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN

NGUYỄN HOÀNG KHÔN

HIỆN TRẠNG KHAI THÁC NGUỒN LỢI CÁ NGỰA
( HIPPOCAMPUS ) Ở PHÚ QUỐC – KIÊN GIANG

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH SINH HỌC BIỂN

CÁN BỘ HƢỚNG DẪN
PGs.TS. VŨ NGỌT ÚT
Cần Thơ ,2010


2


CẢM TẠ
Xin chân thành cảm ơn các thầy, cô Khoa Thủy sản - Trường Đại học Cần
Thơ đã cung cấp những kiến thức bổ ích trong thời gian học tại trường.Xin
bài tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy Vũ Ngọc Út đã tận tình giúp đỡ, hướng
dẫn và đóng góp nhiều ý kiến quý báu giúp tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp
này.
Xin gửi lời cảm ơn đến các anh chị tại phòng Kinh tế huyện Phú Quốc- Kiên
Giang, đặc biệt là chị Liên và gia đình anh Hồ Văn Oanh ở xã Hàm Ninh đã
nhiệt tình giúp đỡ trong thời gian thu số liệu tại Phú Quốc.
Sau cùng tôi xin cảm ơn đến gia đình và bạn bè đã động viên, giúp đỡ và tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập và thực hiện luận văn
tốt nghiệp này.

3


DANH SÁCH HÌNH
Tran
g
Hình 2.1 Cá ngựa Hippocampus kuda ......................................................... 3
Hình 2.2 Bản đồ Phú Quốc .......................................................................... 5
Hình 4.1 Tỉ lệ khai thác cá ngựa ở từng khu vực........................................... 11
Hình 4.2 Tàu chuyên khai thác cá ngựa ........................................................ 12
Hình 4.3 Lưới cào cá ngựa ........................................................................... 12
Hình 4.4 Cá ngựa đen ( Hippocampus kuda) ................................................ 12
Hình 4.5 Cá ngựa gai ( Hippocampus histrix) ............................................... 12
Hình 4.6 Cá ngựa ba chấm ( Hippocampus tricumalatus) ............................. 13

Hình 4.7 Cá ngựa mõm ngắn ( Hippocampus mohnikei) ............................... 13
Hình 4.8 Các hình thức tiêu thụ cá ngựa ....................................................... 14
Hình 4.9 Năng suất khai thác hàng tháng tại tàu ........................................... 16
Hình 4.10 Xu hướng về thành phần loài ....................................................... 17
Hình 4.11 Xu hướng về kích thước ............................................................... 17
Hình 4.12 Xu hướng về sản lượng khai thác cá ngựa .................................... 17
Hình 4.13 Xu hướng về thu nhập .................................................................. 18
Hình 4.14 Xu hướng phát triển nghề khai thác cá ngựa ................................ 18

4


DANH SÁCH BẢNG
Trang
Bảng 4.1 Kích thước cá ngựa khai thác
................................................................................................................ 13
Bảng 4.2 Sự khác biệt về kích thước giữa hai nhóm cá ngựa khai thác chính
................................................................................................................ 14
Bảng 4.3 Giá bán cá ngựa theo đối tượng thu mua tại thời điểm khảo sát
................................................................................................................ 15
Bảng 4.4 Số ngày, tỉ lệ đực cái và khối lượng trung bình cá ngựa thu tại tàu
................................................................................................................ 16

5


MỤC LỤC
Chƣơng I ĐẶT VẤN ĐỀ ...............................................................................7
1.1
Giới thiệu ..........................................................................................7

1.2
Mục tiêu đề tài ..................................................................................8
1.3
Nội dung đề tài..................................................................................8
1.4
Thời gian và địa điểm nghiên cứu .....................................................8
Chƣơng I TỔNG QUAN TÀI LIỆU .............................................................9
2.1 Đặc điểm cá ngựa: .................................................................................9
2.1.1 Phân loại và phân bố: ..................... Error! Bookmark not defined.
2.1.2 Đặc điểm sinh học: ........................................................................10
2.1.2.1 Hình thái : ...............................................................................10
2.1.2.2 Tập tính sống : ........................................................................10
2.1.2.3 Tính ăn :..................................................................................10
2.1.2.4 Sinh sản : ................................................................................10
2.2 Đặc điểm đảo Phú Quốc :...................... Error! Bookmark not defined.
2.3 Tình hình khai thác cá ngựa ở một só nước trên thế giới và Việt Nam :11
2.3.1. Khai thác cá ngựa ở Ấn Độ:..........................................................12
2.3.2. Khai thác cá ngựa ở Philippin: ......................................................12
2.3.3. Khai thác cá ngựa ở Thái Lan: ......................................................12
2.3.4.Khai thác cá ngựa ở Việt Nam: ......................................................12
Chƣơng III VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................16
3.1 Vật liệu ................................................................................................16
3.2 Phương pháp nghiên cứu ......................................................................16
3.2.1 Thu thập số liệu .............................. Error! Bookmark not defined.
3.2.1.1 Số liệu thứ cấp ......................... Error! Bookmark not defined.
3.2.1.2 Số liệu sơ cấp ........................... Error! Bookmark not defined.
3.2.2 Xử lý số liệu ..................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................................19
PHỤ LỤC.....................................................................................................30


6


Chƣơng I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Giới thiệu
Cá ngựa (giống Hippocampus) được dùng cho nhiều mục đích như: làm
thuốc, cá cảnh và thức ăn bổ dưỡng. Đặc biệt đây là loại dược liệu truyền
thống của nhiều nước khu vực châu Á như: Trung Quốc, Philippin, Ấn Độ,
Việt Nam,...Trên thế giới cá ngựa phân bố chủ yếu vùng biển Caribe, vịnh
Mêxico, vùng Ấn Độ Dương và đặc biệt tập trung nhiều ở khu vực Đông và
Đông Nam Á. Một số nước tiêu thụ và xuất khẩu cá ngựa (hải mã) lớn như
Trung Quốc, Thái Lan, Mexico, Ấn Độ, Indonexia, Hongkong, Đài Loan,Việt
Nam,... Cá ngựa được khai thác trực tiếp hoặc gián tiếp trên toàn thế giới, từ
việc khai thác quy mô nhỏ bằng những tàu nhỏ của hộ gia đình đến những tàu
kéo tôm thương mại.
Việt Nam là một trong năm nước dẫn đầu về việc xuất khẩu cá ngựa trên thế
giới. Các loài cá ngựa phân bố ở Việt Nam như Hippocampus comes;
H.histrix; H.kuda; H.spinosissimus; H. trimaculatus ..... Khai thác cá ngựa
như nghề khai thác truyền thống ở nhiều địa phương của nước ta. Khu vực
khai thác chủ yếu miền duyên hải Nam Trung bộ và Nam bộ từ Bình Định trở
vào Bà Rịa- Vũng Tàu và Kiên Giang ở biển Tây. Trong đó khu vực Kiên
Giang có sản lượng khai thác cao nhất với đội tàu khoảng 2.799 chiếc, tổng
sản lượng khai thác là 5.962 cá ngựa/ngày, đạt sản lượng khoảng ba tấn khô
vào năm 1995 (Amada Vicent,1996). Hầu hết sản phẩm cá ngựa được bán tươi
hoặc khô hay làm cá cảnh. Thị trường tiêu thụ chính ở nước ta là Tp.Hồ Chí
Minh, Hà Nội. Ngoài ra, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu cá ngựa lớn nhất
của Việt Nam. Nhu cầu về cá ngựa trên thị trường thế giới ngày càng tăng và
đó cũng chính là nguyên nhân làm cho việc khai thác loài này tăng mạnh theo,
làm cho nguồn lợi cá ngựa ở nước ta ngày càng giảm mạnh và đặc biệt là Kiên

Giang. Vì thế việc khảo sát nguồn lợi cá ngựa ở đây là một vấn đề cần thiết
không chỉ về mặt nghiên cứu khoa học mà còn cả trong việc quản lý khai thác
nguồn lợi một cách hợp lý nhất. Hiện nay nhiều loài cá ngựa ở nước ta đã
được IUCN liệt vào danh sách đỏ ở mức báo động cao như: Hippcampus
comes; H.kuda; H.spinosissimus; H.trimaculatus. Đó là lí do thực hiện đề tài
“HIỆN TRẠNG KHAI THÁC NGUỒN LỢI CÁ NGỰA
(HIPPOCAMPUS) Ở PHÚ QUỐC”.

7


Mục tiêu đề tài

1.2

Đánh giá hiện trạng khai thác cá ngựa ở Phú Quốc làm cơ sở cho việc đề xuất
các biện pháp quản lý khai thác và hướng tới bảo tồn nguồn lợi cá ngựa.
Nội dung đề tài

1.3

Điều tra tình hình đánh bắt cá ngựa ở một số địa bàn khai thác chính ở
Phú Quốc.
- Theo dõi trực tiếp sản lượng khai thác cá ngựa ở một số ngư dân theo
thời gian trong năm.
1.4
Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Địa điểm : xã Bãi Thơm, xã Hàm Ninh, xã Gành Dầu và thị trấn An
Thới ( huyện Phú Quốc – tỉnh Kiên Giang).
- Thời gian : kéo dài 6 tháng từ tháng 12- 2010 đến tháng 5-2011.

-

8


Chƣơng II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Thành phần loài và phân bố cá ngựa
2.1.1 Vị trí phân loại
Theo Lourie (2004) giống cá ngựa
Hippocampus có vị trí phân loại như sau:
Giới: Animalia
Ngành:Chordata
Phân ngành: Vertebrata
Lớp: Actinopterygii
Bộ: Gasterosteiformes
Họ: Syngnathidae
Giống: Hippocampus
Hình 2.1 Cá ngựa Hippocampus kuda ( Nguồn: Lourie,S,A. )

2.1.2 Phân bố
Trên thế giới có khoảng 33 loài cá ngựa được ghi nhận, trong đó Việt Nam có
7 loài (Louire et al, 2004). Chúng phân bố cả khu vực ôn đới và các vùng biển
nhiệt đới từ 500 vĩ độ bắc đến 500 vĩ độ nam. Chúng thường sống trong rạn san
hô, tảo biển lớn, cỏ biển, và rừng ngập mặn, một số thích sống ở nền đáy cát
hoặc có nhiều bùn. Ngoài ra, cũng xuất hiện ở vùng cửa sông, đầm phá. Cá
ngựa thường phân bố ở mật độ thấp. Môi trường sống của cá ngựa dễ bị ảnh
hưởng bởi hoạt động của con người mà chủ yếu là việc phát triển du lịch và
các hoạt động khai thác hủy diệt làm cho môi trường sống của chúng ngày
càng bị phá hủy nghiêm trọng (Lourie, 2004).

Theo Ngô Trọng Lư và Nguyễn Kim Độ (2007) một số loài cá ngựa phân bố ở
Việt Nam bao gồm:
- Cá ngựa đen (Hippocampus kuda Bleeker, 1852) sống nơi bùn cát, rong lá
hẹ và rong cánh quạt, chủ yếu ở cửa sông sâu 0,5-2 m. Chiều dài cá 80-160
mm, ở vùng Thừa Thiên Huế, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Hà Tiên (Kiên Giang).
Màu đen hoặc nâu, đôi khi có màu vàng. Mùa vụ sinh sản tháng 4, 5, 9,10 và
12. Kích thước tham gia sinh sản lần đầu, con đực 90 mm, con cái 100 mm.
Sức sinh sản tuyệt đối là 2.415- 27.436. Khả năng đẻ con từ 271- 1.405 con,
trung bình 889 con.

9


- Cá ngựa ba chấm (H. trimaculatus Leech) sống ở đáy bùn cát, rạn san hô.
Phân bố từ Quảng Nam đến Kiên Giang. Màu trắng ở con cái, màu nâu ở con
đực, có 3 chấm ở trên thân. Mùa đẻ rộ tháng 3, 4, 5 và 10. Ở Bình Thuận, cỡ
tham gia đẻ lần đầu cá đực 100-109 mm, cá cái 110-119 mm. Sức sinh sản
tuyệt đối 7.247-92.734.
- Cá ngựa gai (H. spinosissimus) sống ở đáy cát bùn, rạn san hô. Chiều dài cá
70-170 mm. Phân bố ở Quảng Ninh, Hải Phòng, Đà Nẵng, từ Khánh Hòa đến
Kiên Giang. Đặc điểm màu vàng trắng hoặc nâu, đôi khi có đốm đen trên thân.
Thân và có nhiều gai nhọn. Kích thước tham gia sinh sản lần đầu, con đực
140-170 mm, con cái 100-109 mm.
- Cá ngựa gai dài (H. histrix). Chiều dài cá 80-140 mm, ở đáy cát bùn, rạn đá
và san hô. Cá có màu trắng đôi khi có màu vàng. Thân và đuôi có nhiều gai
nhọn. Mùa đẻ rộ ở Bình Thuận từ tháng 5 đến tháng 11.
- Cá ngựa thân trắng (H. kellogi). Lớn nhất trong nhóm cá ngựa, chiều dài cá
30cm, sống ở nơi cát bùn, rạn đá và san hô. Phân bố từ Đà Nẵng, Khánh Hòa
đến Vũng Tàu. Cá có màu trắng, không có gai nhọn, có giá trị cao.
- Cá ngựa mõm ngắn (H.mohnikei). Chiều dài cá 50-70 mm. Sống ở nơi bùn

cát, chà rào, rong lá hẹ và rong cánh quạt, ở cửa sông sâu 0,5-2 m. Phân bố ở
Quảng Trị, Khánh Hòa.
2.2 Đặc điểm sinh học
Theo Lourie (2004) cá ngựa có một số đặc điểm sinh học như sau :
2.2.1 Hình thái
Đầu cá giống đầu ngựa, mõm hình ống, không có răng, thân không có vẫy,
không có đường bên, đuôi dài cong để bám, không có vây đuôi như cá khác.
Cơ thể có nhiều vòng xương thân và đuôi.
2.2.2 Tập tính sống
Cá ngựa bơi đứng, di chuyển chậm nên thường ngụy trang trong các thảm cỏ
biển rạn san hô, màu sắc thay đổi theo môi trường sống.
2.2.3 Tính ăn
Cá ngựa chỉ ăn sinh vật sống có kích thước phù hợp với cỡ miệng và con mồi
di chuyển chậm. Nên thức ăn của cá ngựa chủ yếu là Copepoda, tôm nhỏ cỡ
200-300 m
2.2.4 Sinh sản
Ở cá ngựa, con cái đẻ trứng và con đực ấp trứng. Cá ngựa thành thục sau bốn
tháng đến một năm tùy loài, và kích thước thành thục cũng khác nhau giữa các
10


loài. Mùa vụ sinh sản khác nhau phụ thuộc vào sự phân bố của cá ngựa ở các
vùng vĩ độ khác nhau. Ở vùng biển nhiệt đới thì thời gian sinh sản kéo dài hơn
ở vùng ôn đới. Ngoài ra mùa sinh sản cũng chịu ảnh hưởng của yếu tố môi
trường như ánh sáng, nhiệt, chu kỳ trăng.
Ngoài ra theo Ngô Trọng Lư và Nguyễn Kim Độ ở Việt Nam hầu hết các loài
cá ngựa đều có mùa đẻ kéo dài quanh năm. Cá ngựa đen đẻ rộ vào tháng 4-12
ở Bình Thuận, cá ngựa gai đẻ rộ vào tháng 5-11, cá ba chấm đẻ vào tháng 310. Trong tự nhiên cá thường đẻ ở độ sâu 1,3 m, cá đẻ ở môi trường chất đáy,
vỏ sò, rong lá hẹ (Thalassia sp), ở nhiệt độ 27oC, độ mặn 30%o lúc triều lên.
Cá ngựa đen đực tham gia đẻ ở cỡ chiều dài 145 mm, nặng 12g, cá cái cỡ 150

mm nặng 13,2g đẻ được 150-220 con, còn ở cá ngựa gai con đực cỡ 140-170
mm, con cái 100-109 mm.
Tập tính chuyển trứng và đẻ con: Khi buồng trứng đạt đến giai đoạn chín muồi
sinh dục thì cá cái chuyển trứng sang túi ấp của con đực. Đây là đặc trưng của
loài cá ngựa, khi con đực, cái gặp nhau, con đực uốn mình theo trục cơ thể sát
vào con cái, thân cá đực chuyển sang màu, cá cái thân trắng có màu đen. Con
đực đổi màu uốn cong cơ thể để mở túi ấp nhanh liên tục, giúp cho túi ấp co
thắt, lỗ huyệt mở rộng từng đợt có con phóng ra ngoài. Trong khi đẻ cá di
chuyển hoặc đứng yên dùng đuôi bám vào vật bám, thường ban đêm chỉ đẻ từ
3-5 đến 20-30 con, rồi nghỉ 24 giờ rồi lại đẻ tiếp, thời gian đẻ khoảng 1 ngày
đêm, có khi chỉ 2-3 giờ. Số lượng cá con mỗi đợt đẻ khoảng 271-1405 con.
Trứng phân cắt và quá trình phát triển phôi diễn ra trong túi ấp của con đực.
Trứng thụ tinh trục dài nhất 2,9 mm (chưa thụ tinh trục dài 1,62-1,9 mm).
Thời gian phát triển phôi diễn ra trong 8 ngày đêm thực tế là 9-10 ngày. Thời
gian ấp của cá ngựa đen đực có khi đến 40-60 ngày, cá ba chấm 11-19 ngày.
Cá con mới đẻ ra hình ngoài khá giống cá trưởng thành có khả năng bơi lội và
bắt mồi ngay ngày đầu, đặc biệt chúng có hướng quang rất mạnh. Môi trường
đẻ ở nhiệt độ 25-28oC, độ mặn 20-31%o.
2.3 Tình hình khai thác cá ngựa trên thế giới và Việt Nam
Cá ngựa là đối tượng khai thác lâu đời ở nhiều nước khu vực Đông và Đông
Nam Á. Sản lượng khai thác tăng liên tục từ thập niên 80 cho đến nay và sản
lượng cá ngựa tự nhiên đang có xu hướng giảm dẫn. Việc nghiên cứu tìm hiểu
về đặc tính cá ngựa trở nên cấp thiết cho việc khai thác hợp lý và bảo vệ loài
này. Theo khảo sát của Vicent năm (1996) tình hình khai thác cá ngựa ở một
số nước cụ thể như sau :

11


2.3.1. Khai thác cá ngựa ở Ấn Độ

Ở Ấn Độ, cá ngựa được đánh bắt chủ yếu ở miền Nam, Tamil Nadu (phía
đông), và Kerala (phía tây), tập trung ở Ramnad, vịnh Palk. Có những đội tàu
chuyên khai thác cá ngựa và không chuyên. Phương tiện đánh bắt là tàu dài từ
11-12 m hoạt động trên biển khoảng 12-14 giờ một ngày. Phần lớn là khai thác
vào ban đêm. Hầu hết các sản phẩm cá ngựa khô ở Ấn Độ được xuất khẩu
sang Singapor và Malaysia. Sản lượng ở các đội tàu chuyên đánh bắt ở Tamil
Nadu là 3.040 kg (1,2 triệu con, 400 con/kg) và số cá ngựa đánh bắt ở một số
tàu khai thác cá khác là 300kg (240.000-300.000 con). Ở Kerala 350 kg
(35.000 con). Tổng cá ngựa khô được buôn bán là 3600kg (1.500.000 con)
(Vicent, 1996). Giá bán cá ngựa là 62-118 USD/kg cá ngựa khô. Tổng giá trị
xuất khẩu là 24.932 USD/tháng (Marichamy et al, 1993, Amada Vicent,
1996).
2.3.2. Khai thác cá ngựa ở Philippines
Hoạt động khai thác cá ngựa tập trung quanh khu vực Cebu bao gồm Bohol và
Negros, và khu vực quanh Zamboanga bao gồm Jolo và Tawi. Đảo Busuanga
cung cấp nguồn cá ngựa sống trong khi Bohol và Jolo chuyên cung cấp nguồn
cá ngựa khô dùng cho chế biến dược liệu truyền thống TCM. Cá ngựa được
bắt bằng tay hoặc là đánh bắt bằng lưới. Sản lượng xuất khẩu cá ngựa ở
Philippin năm 1993 là 3,6 tấn. Trong đó, 120kg từ Puerto Princesa, 3.200 kg
từ Cebu và 300 kg từ Zamboanga (Vicent, 1996). Sản lượng năm 1994 là
2.458 kg từ Cebu và Zamboanga. Năm 1995, có khoảng 300- 450 con/kg thì
ước tính sản lượng cá ngựa xuất khẩu ở Philippin khoảng 765.400 – 1.136.900
con. Như vậy liên tục qua ba năm sản lượng cá ngựa giảm đáng kể. Xu hướng
chung còn giảm trong thời gian tới.
2.3.3. Khai thác cá ngựa ở Thái Lan
Theo ghi nhận thì năm 1989 ở Thái Lan xuất khẩu khoảng 15 tấn cá ngựa (4,5
triệu con). Nhưng những năm sau liên tục giảm: Năm 1900 là 5,967 tấn bán
sang Trung Quốc và 4,046 tấn bán sang Đài Loan. Năm 1991 là 4,268 tấn bán
sang Trung Quốc và 4,703 tấn sang Đài Loan. Năm 1994 có 8,069 tấn được
xuất bán (Vicent, 1996).

2.3.4.Khai thác cá ngựa ở Việt Nam
Hơn một nữa sản lượng cá ngựa ở Việt Nam được đánh bắt ở vùng biển Kiên
Giang, tập trung quanh đảo Phú Quốc. Ngoài ra một số nơi khai thác cá ngựa
khác ở nước ta như Khánh Hòa, Bình Thuận,.. Số lượng tàu khai thác tương
đối nhiều có khoảng 640 tàu ở Khánh Hòa, 623 tàu ở Bình Thuận và 2.799 tàu
12


ở Kiên Giang (Vicent, 1996). Sản lượng khai thác năm 1995 khoảng 5 tấn
(1.750.000 con), trong đó có khoảng 4.700 – 4.800 kg được xuất bán sang
Trung Quốc (Vicent, 1996).
2.4. Một số nghiên cứu về cá ngựa ở Việt Nam và trên thế giới
Những nghiên cứu đầu tiên về cá ngựa được Vincent thực hiện từ những thập
niên 80 của thế kỉ 20 tại đại học Cambridge. Tác giả cũng là người đầu tiên
nghiên cứu về tập tính bắt cặp sinh sản của cá ngựa. Năm 1996, Project
Seahorse (tổ chức nghiên cứu và bảo tồn cá ngựa) ra đời và Dr Vicent là một
trong thành viên đầu tiên sáng lập ra tổ chức này. Hiện nay, tổ chức này có
mặt ở nhiều nước trên thế giới như: Canada, Philippines, Thổ Nhĩ Kỳ, Sri
Lanka, Anh, Australia, Hongkong, Nam Phi, Việt Nam....
Tháng 5-2004 việc buôn bán cá ngựa phải tuân thủ theo công ước quốc tế về
buôn bán động thực vật hoang dã nguy cấp (gọi tắt là CITES (the Convention
on International Trade in Endangered Species of Flora and Fauna)).
Năm 2006, IUCN đã xếp 7 loài cá ngựa vào sách đỏ ở tình trạng đe dọa, sắp bị
nguy cấp. Trong đó Việt Nam có 4 loài.
Một số nghiên cứu về cá ngựa thực hiện trong những năm gần đây như : năm
1996 Amada Vicent công bố nghiên cứu về việc buôn bán cá ngựa ở các nước
như Ấn Độ, Thái Lan, Indonexia, Việt Nam, Trung Quốc, Hongkong,
Philippines, Đài Loan, Singapor...
Năm 1999, Lourie lần đầu tiên đưa ra tài liệu phân loại cá ngựa tương đối
hoàn chỉnh và nó được bổ sung năm 2004 với tựa đề “A Guide to the

Identification of Seahorse”
Năm 2004, Vicent và Foster nghiên cứu về chu kỳ sống và đặc điểm về sinh
thái của cá ngựa ứng dụng cho việc bảo tồn và quản lý nguồn lợi cá ngựa.
Cùng năm, Martin-Smith đưa ra 11 biện pháp quản lý nghề khai thác cá ngựa
ở Philippines như : quy định về kích thước khai thác, mùa vụ khai thác, quy
định về việc mua bán cá ngựa,... tập trung xây dựng cơ sở dữ liệu về đặc điểm
sinh học và tình hình kinh tế xã hội để giúp các hộ ngư dân vừa khai thác vừa
bảo tồn được nguồn lợi cá ngựa.
Năm 2008, phát hiện ra 3 loài cá ngựa mới ở Indonexia Hippocampus pontohi
và H. severnsi ở đảo Bunaken và loài H. satomiae ở đảo Derawan (Lourie &
Kuiter).
Ở Việt Nam các nghiên cứu về cá ngựa được thực hiện ở Viện Hải Dương học
Nha Trang. Năm 2006, Đỗ Hữu Hoàng và Trương Sỹ Kỳ thuộc Viện Hải
Dương học đã phối hợp với tổ chức Project Seahorse, tiến hành khảo sát việc
13


khai thác cá ngựa ở miền Trung Việt Nam và tình hình đánh bắt cũng như việc
mua bán cá ngựa ở Việt Nam.
2.5 Đặc điểm đảo Phú Quốc
Đảo Phú Quốc nằm trong vịnh Thái Lan, phía tây nam của Việt Nam, Phú
Quốc trải dài từ vĩ độ: 9°53′ đến 10°28′ độ vĩ bắc và kinh độ: 103°49′ đến
104°05′ độ kinh đông.
Vùng biển Phú Quốc có 22 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó đảo Phú Quốc lớn nhất
có diện tích 567 km² (56.700 ha), dài 49 km, nơi rộng nhất (ở phía bắc đảo) 25
km, nơi hẹp nhất (ở phía nam đảo) 3 km. Điểm cao nhất tới 603 m (núi Chúa).
Địa hình thiên nhiên thoai thoải chạy từ bắc xuống nam với 99 ngọn núi đồi.
Phần các vùng biển quanh đảo nông có độ sâu chưa đến 10 m. Tuy nhiên, cụm
đảo nhỏ của cảng An Thới bị ngăn cách hẳn với phần mũi phía nam của đảo
Phú Quốc bởi một eo biển có độ sâu tới hơn 60 m.

Phú Quốc là một trong những khu bảo tồn biển của Việt Nam với diện tích
mặt nước của Khu bảo tồn biển là 26.863,17 ha, trong đó vùng bảo vệ nghiêm
ngặt 2.952,45 ha, vùng phục hồi sinh thái rộng 13.592,95 ha và vùng phát triển
10.317,77 ha. Ở Bắc đảo là vùng thảm cỏ biển rộng lớn thuộc 2 xã Hàm Ninh
và Bãi Thơm, phía Nam đảo có những rạn san hô nằm quanh các hòn của quần
đảo An Thới thuộc xã Hòn Thơm, huyện Phú Quốc.
Vùng biển Phú Quốc được đánh giá là ngư trường giàu có với tổng trữ lượng
cá phân bố ước đạt khoảng 464 nghìn tấn. Trong đó trữ lượng cá nổi chiếm
khoảng 51% (239 nghìn tấn), cá đáy và cá rạn san hô chiếm khoảng 49% (225
nghìn tấn). Ngoài nhóm cá, vùng biển Phú Quốc còn chứa đựng nhiều nhóm
hải sản có giá trị khác như tôm, mực, ghẹ, ốc nhảy, trai ngọc, sò huyết, sò
lông, nghêu lụa, bạch tuộc, hải sâm, cá ngựa…, hàng năm được khai thác với
sản lượng lớn, tạo nguồn thu nhập và công ăn việc làm cho người dân trên đảo
và khu vực lân cận. Những đối tượng hải sản này thường được khai thác ở
vùng ven các đảo, trong các rạn san hô, thảm cỏ biển và vùng nước lân cận.
Ngoài ra, Phú Quốc cũng được xem là một trong những nơi có mức độ đa
dạng sinh học cao với hệ sinh thái san hô và thảm cỏ biển phong phú : Hệ sinh
thái rạn san hô: Qua ghi nhận có 252 loài thuộc 49 giống và 14 họ san hô
cứng, 19 loài san hô mềm với tổng diện tích là 473,9 ha, phân bố chủ yếu tập
trung quanh các đảo ở phía Nam quần đảo An Thới với diện tích 362,2 ha
(chiếm 76% tổng diện tích). Hệ sinh thái thảm cỏ biển: Phú Quốc là một trong
hai địa phương tại Việt Nam có sự phân bố của cỏ biển. Tại đây ghi nhận có
09 loài cỏ biển, phân bố ở phía Đông đảo và một ít ở Bắc và Nam đảo với tổng
14


diện tích 10.600 ha (Cổng thông tin điện tử tỉnh Kiên Giang
www.kiengiang.gov.vn)

15



Chƣơng III
VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Địa điểm và thời gian nghiên cứu
3.1.1 Địa điểm nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu được thực hiện tại bốn địa điểm của đảo Phú Quốc là :
xã Hàm Ninh, xã Bãi Thơm, xã Gành Dầu và thị trấn An Thới (Hình 3.1).

Hình 3.1Bản đồ Phú Quốc

3.1.2 Thời gian nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu được thực hiện trong 6 tháng từ tháng 12-2010 đến
tháng 5-2011.
3.2 Vật liệu
- Biễu mẫu phóng vấn. ( xem Phụ lục 1)
- Giấy, bút ghi chép, sổ theo dõi hàng tháng.
- Một số dụng cụ cân đo mẫu tươi : thước kẹp, cân tiểu li...
3.3 Phƣơng pháp nghiên cứu
 Phỏng vấn trực tiếp ngư dân

16


Phỏng vấn trực tiếp 29 hộ đánh bắt cá ngựa tại 2 địa điểm Hàm Ninh, Bãi
Thơm nơi khai thác cá ngựa chủ yếu của Phú Quốc và xã Gành Dầu, thị trấn
An Thới.
Các vấn đề phỏng vấn bao gồm :
- Ngư cụ, phương tiện khai thác.
- Mùa vụ khai thác.

- Loài khai thác chủ yếu.
- Kích cỡ khai thác.
- Sản lượng đánh bắt được.
- Năng suất khai thác.
- Giá cả.
- Thu nhập.
 Theo dõi số lượng khai thác theo thời gian
Có 2 hộ được chọn và hợp tác ghi lại số lượng cá ngựa khai thác mỗi ngày
trong sổ ghi chép được cấp phát.
Sổ ghi chép (Xem Phụ lục 2) bao gồm các thông tin :
- Ngày tháng đánh bắt.
- Thời gian đánh bắt.
- Số lượng đánh bắt : cá đực, cá cái.
- Loài đánh bắt được và loài chiếm ưu thế.
 Thu mẫu cá ngựa trực tiếp tại tàu khai thác. Số lượng khoảng 5- 10 mẫu.
Xác định các chỉ tiêu sinh học như : loài, chiều dài, khối lượng, tỉ lệ đực cái.
Số liệu thu định kì mỗi tháng 1 lần.
3.4 Phƣơng pháp xử lý số liệu
Sử dụng chương trình Excel nhập và xử lý số liệu.

17


Chƣơng IV
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Thông tin chung về các hộ khai thác cá ngựa ở Phú Quốc
Tổng số ngư dân được phỏng vấn là 29 hộ. Trong đó, chỉ có 10 hộ chuyên khai
thác cá ngựa (Bãi Thơm 4 hộ, Hàm Ninh 2 hộ, An Thới 2 hộ, Gành Dầu 2 hộ)
chiếm 34,48% và 19 hộ không chuyên (Bãi Thơm 7 hộ, Hàm Ninh 9 hộ, An Thới
2 hộ, Gành Dầu 2 hộ) chiếm 65,52%. Các hộ khai thác không chuyên tập trung

khai thác đối tượng mực, ghẹ, tôm, cua, ốc và một số nhóm cá tạp khác. Loại hình
khai thác chính ở nhóm này chủ yếu là sử dụng ghe cào, lưới ghẹ...
Nhìn chung khu vực thị trấn An Thới có số lượng người tham gia khai thác cá
ngựa ít nhất 10%, tiếp đến là xã Gành Dầu 14% và nhiều nhất là khu vực xã Bãi
Thơm 38% và xã Hàm Ninh 38% (Hình 4.1).
40

38

38

% số hộ khai
thác

35
30
25
20
14
15
10
10
5
0

Hàm Ninh Bãi T hơm An T hới Gành Dầu
Khu vực

Hình 4.1 Tỉ lệ số hộ khai thác cá ngựa ở từng khu vực


Qua biểu đồ ta thấy số hộ khai thác tập trung nhiều nhất ở hai xã Hàm Ninh và Bãi
Thơm nên có thể nói nơi đây là khu vực cá ngựa phân bố nhiều nhất ở Phú Quốc.
Thông tin từ các hộ phỏng vấn, thường xuyên có các tàu các khu vực khác như
Gành Dầu, An Thới và cả các tàu khai thác từ đất liền vào khu vực này khai thác.
Độ tuổi các hộ tham gia khai thác cá ngựa từ 31-52 tuổi, trung bình là 39,37 
6,41 tuổi. Đa số các hộ khai thác đều có nhiều năm kinh nghiệm trung bình là
12  7,9 năm và có hộ kinh nghiệm khai thác gần 30 năm. Trong đó, nhóm chuyên
đánh bắt cá ngựa, hộ có kinh nghiệm lâu nhất là 20 năm. Như vậy, cho ta thấy việc
khai thác cá ngựa đã có từ lâu ở Phú Quốc.

18


Số nhân khẩu trung bình ở mỗi hộ là 4,25  1,65 và mỗi tàu khai thác cần trung
bình 2 – 3 người nên ngư dân khai thác có thể sử dụng các thành viên trong gia
đình tham gia khai thác (Bảng 4.1)
Bảng 4.1Thông tin chung về các hộ khai thác
Diễn giải

Trung bình

Lớn nhất

Nhỏ nhất

Độ tuổi (tuổi)

39,37  6,41

52


31

Số năm kinh
nghiêm (năm)

12  7,9

30

2

Số nhân khẩu
(ngƣời)

4,25  1,65

8

2

Phương tiện khai thác chính là các ghe cào ( Hình 4.2). Hầu hết các ghe đều có
công suất nhỏ khoảng 5-10 CV. Riêng đối với nhóm khai thác không chuyên ngư
cụ khai thác chính là lưới đục, lưới ghẹ kết hợp với ghe cào. Kích thước mắt lưới
khai thác ở các ghe cào cá ngựa thường là 2a = 2 cm, dài 12 m, rộng 5 m ( Hình
4.3).

Hình 4.3 Lưới cào cá ngựa

Hình 4.2 Tàu chuyên khai

thác cá ngựa

4.2 Loài, khu vực và kích cỡ cá ngựa đƣợc khai thác
Sau thời gian khảo sát và thu mẫu ở làng chài Hàm Ninh phát hiện được 4 loài cá
ngựa bao gồm: cá ngựa đen hay dân địa phương hay gọi là cá ngựa trâu
19


(Hippocampus kuda), cá ngựa gai (Hippocampus spinosissimus), cá ngựa ba chấm
(Hippocampus trimaculatus) và cá ngựa mõm ngắn (Hippocampus mohnikei).

Hình 4.4 Cá ngựa đen
( Hippocampus kuda)

Hình 4.6 Cá ngựa ba chấm
(Hippocampus tricumalatus)

Hình 4.5 Cá ngựa gai
( Hippocampus spinosissimus)

20

Hình 4.7 Cá ngựa mõm ngắn
(Hippocampus mohnikei)


Trong đó, cá ngựa đen và cá ngựa gai xuất hiện phổ biến và được đánh bắt nhiều
nhất. Còn cá ngựa ba chấm và cá ngựa mõm ngắn rất hiếm gặp. Tuy nhiên ở khu
vực miền Trung thì cá ngựa ba chấm Hippocampus trimaculatus là loài xuất hiện
phổ biến hơn so với các loài khác chiếm khoảng 62%, trong khi đó cá ngựa đen H.

kuda chỉ chiếm có 4% và cá ngựa gai dài H. histrix chiếm tỉ lệ nhỏ hơn 1%
(Jessica, 2006). Khu vực khai thác cá ngựa thường cách bờ từ 1km trở lên. Độ sâu
trung bình khoảng 3 m. Tùy vào từng khu vực khác nhau mà đánh bắt được cá loài
cá ngựa khác nhau. Cụ thể, khu vực thảm cỏ lá hẹ, rong cách bờ khoảng hơn 1km
thì loài cá ngựa đen chiếm ưu thế. Ở khu vực cách bờ hơn 4 km với nền đáy là cát
và sỏi thì đánh được loài cá ngựa gai dài là chính.
Kích thước cá ngựa trung bình được đánh bắt là 8,5  2,05 cm. Kích cỡ khai thác
cũng khác nhau giữa nhóm chuyên khai thác cá ngựa và không chuyên (Bảng 4.2).
Bảng 4.2 Kích thước cá ngựa khai thác
Diễn giải

Trung bình (cm) Lớn nhất (cm)

Nhỏ nhất (cm)

Nhóm chuyên

12,43  0.47

15,08  1,76

10,11  1,69

Nhóm không chuyên

9,36  1,08

14,36  1,44

5,46  0,77


Bảng 4.2 cho thấy ở nhóm chuyên khai thác cá ngựa thì kích thước cá được khai
thác lớn hơn so với nhóm khai thác không chuyên. Khả năng cá ngưa nhỏ bị bắt
cao hơn ở nhóm không chuyên. Sự khác biệt về kích thước cá ngựa khai thác được
ở hai nhóm chuyên và không chuyên chủ yếu do đối tượng khai thác
ở từng nhóm khác nhau dẫn đến việc sử dụng ngư cụ khai thác cũng khác nhau và
cả kích thước mắt lưới cũng không giống nhau.
Diễn giải

Trung bình (cm) Lớn nhất (cm)

Nhỏ nhất (cm)

Cá ngựa đen

9,72  1,92

16,5

4,2

Cá ngựa gai

9,22  1,74

14

5,8

21



Giữa hai nhóm cá thì cá ngựa đen có kích thước trung bình lớn hơn so với nhóm
cá ngựa gai. Nhưng cá ngựa đen có kích thước nhỏ nhất bị bắt là 4,2 cm (Bảng
4.3). Do các tàu khai thác thường nhỏ và khu vực khai thác gần bờ nên khả năng
cá ngựa đen nhỏ bị bắt cao hơn so với cá ngựa gai dài phân bố ở khu vực xa bờ
hơn.
Bảng 4.3 Sự khác biệt về kích thước giữa hai nhóm cá ngựa khai thác
chính

4.3 Thời gian và mùa vụ khai thác
Các tàu khai thác cá ngựa thường hoạt động cả ban ngày và ban đêm. Trong đó
theo số liệu phỏng vấn ở các hộ khai thác thì 89,66% số hộ khai thác chủ yếu vào
ban ngày và 10,34% số hộ tập trung khai thác vào ban đêm, tất cả các hộ chuyên
khai thác cá ngựa đều tập trung khai thác vào ban ngày. Thời lượng khai thác từ 812 giờ đối với cả hai thời điểm ban ngày và ban đêm. Cũng như các nhóm đối
tượng hải sản khác, cá ngựa cũng chia ra hai vụ đánh bắt là vụ nam (tháng 6 đến
tháng12) và vụ bắc (tháng 1 tháng 5). Trong đó ở vụ nam cá ngựa được đánh bắt
cao nhất từ tháng 8 đến tháng 10, thấp nhất là tháng 11 và tháng 12. Còn ở vụ Bắc
sản lượng đánh bắt cao nhất từ tháng 2 đến tháng 4 và thấp nhất là tháng 1. Trong
khi đó ở khu vực miền Trung nước ta thì thời điểm đạt sản lượng khai thác nhiều
nhất là từ tháng 4 đến tháng 10, thấp nhất là từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau,
riêng loài cá H. tricumalatus được ghi nhận khai thác nhiều nhất từ tháng 2 đến
tháng 6 hàng năm (Jessica, 2006). Theo Choo (2003) thì cá ngựa đen H. kuda ở
khu vực Peninsula (Malayxia) xuất hiện ít nhất vào thời điểm từ tháng 11 năm
trước đến tháng 3 năm sau. So với các khu vực khác thì nhìn chung ở khu vực Phú
Quốc cá ngựa có thể được khai thác quanh năm.
Thời gian khai thác trong năm giữa các hộ cũng không giống nhau. Trong đó có
65% số hộ khai thác ít hơn 6 tháng/năm, 10% khai thác từ 7-9 tháng/năm và 25%
khai thác trên 10 tháng/năm. Thời gian khai thác trung bình trong năm vào khoảng
6,5  3,2 tháng, tùy vào điều kiện thời tiết, biển động mà ngư dân sẽ tiến hành

đánh bắt. Mặt khác, cũng phụ thuộc vào mùa vụ khai thác của các nhóm hải sản
khác và giá bán của chúng mà những ngư dân sẽ quyết định đánh cá ngựa hay
không. Cho nên cũng khó xác định được sự khác biệt giữa hai nhóm khai thác.
4.4 Năng suất khai thác

22


Theo ghi chép của hai hộ chuyên khai thác cá ngựa ở Hàm Ninh từ tháng 1-2011
đến tháng 4 -2011, thì tháng 4 là tháng có sản lượng và năng suất khai thác cao
nhất, thấp nhất là tháng 1 (Hình 4.8 và Bảng 4.4)

CPUE (con//tàu/ngày)

30

25.32

25
20

15.75

18.12

20.77

15
10
5

0
1

2

3

4

5

Tháng

Hình 4.8 Năng suất khai thác hàng tháng tại tàu

Bảng 4.4 Số ngày, tỉ lệ đực cái và khối lượng trung bình cá ngựa thu tại tàu đánh
bắt

Tháng Số ngày
1
2
3
4

4
8,5
11
11

Tỉ lệ đực

cái
1,86
1,07
0,99
0,81

Khối lƣợng
trung bình mỗi
con(gram)

Tổng số con
(con)

Tổng khối
lƣợng
(gram)

6,825

63

430

5,123

154

789

4,033


228,5

921,45

4,483

278,5

1248,61

Tháng 4 là tháng có sản lượng cao nhất với tổng khối lượng đánh bắt được là
1248,61 gram và có năng suất đánh bắt cao nhất với CPUE (Catch per unit
effort) là 25,32  13,44 con/tàu/ngày với số ngày khai thác trung bình là 11 ngày.
23


Tháng thấp nhất là tháng 1 với sản lượng đánh bắt được là 430 gram và năng suất
khai thác là CPUE = 15,75 con/tàu/ngày và số ngày khai thác trung bình là 4 ngày.
Thời điểm này, chuyển từ vụ bắc sang vụ nam nên biển động mạnh vì thế việc
khai thác gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, theo số liệu phỏng vấn từ 29 hộ thì
năng suất khai thác cá ngựa trung bình đạt được là CPUE = 28,13 con/tàu/ngày,
thấp nhất là CPUE = 9,48 con/tàu/ngày và cao nhất là CPUE = 63,19
con/tàu/ngày. Như vậy CPUE được tính từ 29 hộ phỏng vấn cao hơn nhiều so với
số liệu thu trực tiếp tại tàu. Qua đó phần nào phản ánh sự suy giảm nguồn lợi cá
ngựa trong thời gian vừa qua. Tuy nguồn lợi cá ngựa ở Phú Quốc có xu hướng
giảm nhưng CPUE vẫn cao so với các tỉnh Bình Thuận (CPUE = 1,08  0,28
con/tàu/ngày năm 1996), Cà Mau (CPUE = 0,80  0,19 con/tàu/ngày năm 1996),
Bạc Liêu (CPUE = 2,5  0,13 con/tàu/ngày năm 1996) (Brian, 2006), và tại Cửa
Bé- Khánh Hòa (CPUE = 1,37  0,05 con/tàu/ngày năm 2000) (Jessica, 2006). Có

thể nói Phú Quốc là khu vực có trữ lượng cá ngựa dồi dào ở tỉnh Kiên Giang nói
riêng và cả nước nói chung.
Nhìn chung thì tháng 1 có số ngày khai thác thấp, tuy nhiên tỉ lệ đực:cái (1,86:1)
tương đối cao và khối lượng trung bình mỗi con lại cao nhất (6,825 gram) trong
các tháng ghi nhận.
4.5 Tiêu thụ cá ngựa, giá bán và thu nhập của các hộ ngƣ dân từ cá ngựa
Cá ngựa được tiêu thụ bằng nhiều hình thức như bán cho người thu gom, bán tại
địa phương, bán tươi sống cho đại lý. Trong đó, hình thức bán cho người thu gom
là chính chiếm 45%, bán cho đại lý là 14%, vừa bán cho người thu gom và cho đại
lý là 38% và bán tại địa phương chiếm 3% .
Hình thức bán tại địa phương chủ yếu phục vụ cho nhu cầu sử dụng sản phẩm cá
ngựa tại chỗ của người dân ở địa phương. Tại mỗi khu vực khai thác có nhiều hộ
đi thu gom cá ngựa từ các tàu khai thác hoặc ngư dân có thể trực tiếp mang lại bán
cho những người này. Đây được xem như hình thức tiêu thụ cấp 1. Sau đó, những
người thu gom sẽ đem ra các đại lý lớn để bán lại, đây là tiêu thụ cấp 2. Tùy theo
sản lượng khai thác được mà đôi khi các hộ khai thác có thể mang ra bán trực tiếp
cho đại lý và giá bán có thể cao hơn so với người đi thu gom. Các đại lý tập trung
nhiều ở khu du lịch làng chài Hàm Ninh, khu vực gần cảng An Thới. Riêng tại khu
du lịch làng chài Hàm Ninh có 5 cửa hàng kinh doanh các sản phẩm cá ngựa, còn
ở thị trấn An Thới thì có khoảng 3 cửa hàng. Hầu hết các đại lý này là các cửa
hàng bán các sản phẩm cá khô và đồ lưu niệm. Tại đây cá ngựa có thể được bán

24


tươi sống hoặc bán khô. Các du khách thường mua cá ngựa tại các đại lý này là
chính. Giá mua bán cá ngựa cũng khác nhau tùy theo cấp độ thu mua (Bảng 4.5).
Bảng 4.5 Hình thức tiêu thụ và giá bán cá ngựa tại thời điểm khảo sát

Đối tƣợng


Ngƣời
thu gom

Đại lý

Ngƣời
thu
gom và
đại lý

Hình thức
tiêu thụ

45%

14%

38%

3%

Giá bán

2,5- 3,0
triệu/ kg

3,0-3,5
triệu/
kg


-

-

Tại địa
phƣơng

Du
khách

Trên 4
triệu/ kg

Giá bán có thể khác nhau theo từng thời điểm trong năm phụ thuộc vào mùa du
lịch hoặc sản lượng khai thác được. Ngoài ra, các sản phẩm cá ngựa khô cũng
được bán với giá rất cao tùy theo kích cỡ lớn nhỏ. Giá trung bình trên 7 triệu
đồng/kg.
Thu nhập của các hộ khai thác cũng khác nhau tùy theo từng tháng trong năm
trung bình khoảng 639.819  301.970 đ/tàu/ngày đánh bắt. Riêng với nhóm chuyên
bắt cá ngựa trung bình khoảng 813.125  355.802 đ/tàu/ngày đánh bắt và nhóm
không chuyên trung bình là 557.417  214.58 đ/tàu/ngày đánh bắt. Tuy có sự
chênh lệch về thu nhập nhưng những ngư dân khai thác không chuyên có thể có
thêm thu nhập từ các loại hải sản khác như mực, ghẹ, tôm, cá tạp khác... Thu nhập
thật sự của các hộ không cao do chi phí xăng dầu cao, lưới dễ bị hư do cào gần nền
đáy, và chi phí thuê mướn thêm lao động để khai thác.
4.6 Những xu hƣớng về khai thác cá ngựa
4.6.1 Xu hƣớng về thành phần loài, kích thƣớc và sản lƣợng
Qua kết quả khảo sát có 76% số hộ được phỏng vấn cho rằng thành phần loài cá
ngựa không đổi, còn 24% số hộ cho rằng có sự suy giảm về thành phần loài cá

ngựa. Xu hướng về kích thước cá ngựa cũng khác nhau giữa các nguồn khai thác
cụ thể là 3% số hộ ngư dân cho rằng kích thước cá ngựa khai thác vẫn duy trì kích
thước lớn là tương đối nhiều, 21% số hộ cho biết kích thước cá ngựa khai thác có
kích thước nhỏ chiếm tỉ lệ ít, còn 24% nhận thấy kích thước cá ngựa không đổi và

25


×