Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

So sánh bút pháp trào phúng trong thơ văn nguyễn khuyến và tú xương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 116 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM

BỘ MÔN NGỮ VĂN

HUỲNH NGỌC GIÀU

SO SÁNH BÚT PHÁP TRÀO PHÚNG
TRONG THƠ VĂN CỦA
NGUYỄN KHUYẾN VÀ TÚ XƯƠNG
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Sư phạm Ngữ Văn

Cán bộ hướng dẫn:

PHAN THỊ MỸ HẰNG

Cần Thơ, 4 - 2011


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nếu nhà soạn nhạc đặt cái tâm của mình, trao gửi những nỗi niềm thầm kín trong giai
điệu nốt nhạc thì nhà văn lại thể hiện nỗi băn khoăn, trăn trở, những buồn vui của con tim
vào trang viết như chất chứa máu và nước mắt của chính mình. Cùng thể hiện tiếng sóng
biển, người nhạc sĩ này dùng những nốt nhạc trầm lắng, dịu nhẹ, êm ái…người kia lại dùng
những âm thanh mạnh mẽ, ồn ào và dữ dội… Cùng phản ánh hiện thực xã hội buổi giao thời
dưới chế độ thực dân nửa phong kiến, nếu Nguyễn Khuyến với giọng điệu nhẹ nhàng, thâm
trầm, kín đáo thì với Tú Xương lại là giọng điệu bốp chát, độc địa và sâu cay.
Chúng ta bắt gặp bên này là những thanh âm nhẹ nhàng, trong trẻo, mà da diết u buồn,
bên kia là dấu nặng trở trăn nhức nhối. Nhưng hai nhà thơ đã gặp nhau ở nơi hội tụ của mọi


ánh sáng văn chương chân chính mọi thời. Đó chính là lòng yêu nước tha thiết, được thể
hiện qua những trang văn thấm đẫm nỗi lòng của người nghệ sĩ, với bút pháp trào phúng sắc
sảo mà không thể trộn lẫn với bất kì một ai khác.
Nguyễn Khuyến cùng với Tú Xương là hai tác gia có vị trí quan trọng trong nền văn
chương Việt Nam. Cả một đời sáng tạo nghệ thuật, Nguyễn Khuyến – Tú Xương đã đạt
được nhiều thành tựu rực rỡ, để lại cho đời biết bao vần thơ đặc sắc. Người đọc ở nhiều thế
hệ tìm đến thơ của hai ông với niềm say mê và khâm phục. Các công trình nghiên cứu về
thơ văn của Nguyễn Khuyến và Tú Xương theo thời gian ngày một nhiều hơn, tạo cho
người đọc nhìn nhận đầy đủ hơn những giá trị to lớn mà hai nhà thơ đã để lại cho đời. Nó
như những hạt ngọc sáng ngời mà người nghệ sĩ đã vô tình đánh rơi vào trong nền văn học
Việt Nam. Ở mỗi công trình nghiên cứu, với mức độ khám phá, tìm tòi khác nhau, từng
bước khẳng định được vị trí, giá trị, ý nghĩa của thơ văn Nguyễn Khuyến – Tú Xương đối
với cuộc sống nói chung và sự phát triển của thơ văn Việt Nam nói riêng.
Đến với thơ văn trào phúng của Nguyễn Khuyến – Tú Xương, chúng ta như bước vào
một lâu đài kỳ diệu và bí mật mà càng tìm tòi khám phá, chúng ta càng phát hiện thêm
nhiều giá trị có ý nghĩa lớn lao về nội dung cũng như hình thức nghệ thuật. Bởi thế, nghiên
cứu bút pháp trào phúng trong thơ văn của Nguyễn Khuyến – Tú Xương, chúng tôi quan
niệm cần nghiên cứu một cách hệ thống toàn diện. Đây chính là điểm xuất phát quan trọng
để đánh giá chính xác những cống hiến to lớn đối với văn chương và hiểu thêm về tài năng,


nhân cách của Tam Nguyên Yên Đổ và ông Tú Vị Xuyên. Những con người sâu nặng tình
đời và dạt dào tình thơ.
Nguyễn Khuyến – Tú Xương để lại những di sản văn chương to lớn với nhiều thể loại
khác nhau. Dù ở thể loại nào thì cũng thể hiện rõ hai mảng: trào phúng và trữ tình. Nếu
mảng trữ tình làm cho lòng người như dịu lắng xuống để rồi nghe những tâm tư, những nỗi
băn khoăn, trăn trở, day dứt thì mảng trào phúng lại là những tiếng cười sâu cay mà ai đã
từng đọc thì không thể nào quên. Bởi nó là tiếng lòng khắc khoải của nhà thơ đối với cuộc
đời. Nguyễn Khuyến – Tú Xương đã làm cho người yêu thơ văn phải khâm phục, ngạc
nhiên và người nghiên cứu về thơ văn phải ngẫm nghĩ nhiều về tài hoa nghệ thuật cũng như

tâm sự thầm kín của hai nhà thơ cuối mùa Nho học. Chính vì vậy, nghiên cứu sự tương
đồng và dị biệt về bút pháp trào phúng trong thơ văn của Nguyễn Khuyến – Tú Xương được
nhiều nhà nghiên cứu, phê bình và giới giảng dạy Ngữ Văn ở các trường Đại học quan tâm.
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, góc độ nghiên cứu khác nhau, họ đã khám phá nhiều giá
trị của thơ văn Nguyễn Khuyến và Tú Xương, khẳng định được vị trí của thơ văn Nguyễn
Khuyến, Tú Xương trong đội ngũ nhà thơ Việt Nam trung đại. Lẽ tất nhiên, việc nghiên cứu
về bút pháp trào phúng trong thơ văn Nguyễn Khuyến – Tú Xương trải qua một quá trình
lâu dài, trong hoàn cảnh lịch sử - xã hội khác nhau, nên chắc chắn có nhiều ý kiến đánh giá
khác nhau về giá trị, hạn chế của thơ hai ông. Đó cũng là điều kiện thuận lợi để chúng tôi có
cơ hội xem xét kỹ hơn, trân trọng và yêu mến thơ văn Nguyễn Khuyến – Tú Xương.
Với những lẽ trên, chúng tôi không ngần ngại đi vào nghiên cứu vấn đề So sánh bút
pháp trào phúng trong thơ văn của Nguyễn Khuyến và Tú Xương.

2. Lịch sử vấn đề
Một tác phẩm nghệ thuật bất tử với thời gian không chỉ hay về nội dung, hình thức mà
cần phải có một cá tính, một phong cách nghệ thuật độc đáo. Nguyễn Khuyến – Tú Xương
sống mãi trong lòng độc giả với hai phong cách khác nhau: một bên nhẹ nhàng, thâm trầm
và kín đáo; một bên là bốp chát, độc địa và sâu cay. Nhưng cả hai nhà thơ đều có một điểm
chung trong bút pháp trào phúng. Điểm chung, điểm khác biệt ấy vẫn còn là một điều bí mật
đối với những nhà nghiên cứu văn học. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu viết về điều
này. Nhưng mảnh đất ấy mênh mông, rộng lớn và còn rất nhiều lãnh địa chưa được khám
phá.
Công trình nghiên cứu “Trần Tế Xương, về tác gia và tác phẩm” [28] đã tập hợp nhiều
bài nghiên cứu của các tác giả: Nguyễn Văn Hoàn, Lê Đình Kỵ, Đỗ Đức Dục, Trần Thanh


Mại – Trần Tuấn Lộ … chúng tôi nhận thấy bài viết “Tú Xương – Nhà thơ lớn của dân tộc”
của Nguyễn Đình Chú có đề cập đến nhận xét của Đặng Thai Mai “khen Tú Xương là “một
thầy Tú cũng biết cười” cạnh “một ông Nghè thích cười” (Nguyễn Khuyến)” [28; tr.475].
Đây là lời nhận xét về con người, cá tính của Nguyễn Khuyến – Tú Xương. Bởi thích cười

và biết cười mới làm nên những vần thơ trào phúng độc đáo. Đó cũng chính là điều kiện
hình thành thơ văn trào phúng của Nguyễn Khuyến – Tú Xương.
Khi đánh giá về Tú Xương “bậc thần thơ thánh chữ”, Nguyễn Đình Chú đã trích dẫn
lời nhận xét “Về thơ trào phúng thì Tú Xương xuất sắc hơn Nguyễn Khuyến, nhưng về thơ
trữ tình thì Nguyễn Khuyến lại xuất sắc hơn Tú Xương. Nhận xét đó vừa đúng vừa không
đúng. Đúng là thơ trào phúng của Tú Xương có xuất sắc hơn thơ trào phúng của Nguyễn
Khuyến. Đúng là thơ trữ tình của Nguyễn Khuyến có phong phú, bề thế hơn thơ trữ tình của
Tú Xương. Nhưng không đúng là vì thơ trữ tình của Tú Xương, xét ở chất lượng từng bài thì
lại không thua Nguyễn Khuyến. Những bài thơ thuần trữ tình của Tú Xương thường đã đạt
đến độ sâu thẳm nhất, chín mùi nhất của tâm trạng, của cảm xúc” [28; tr.500]. Ở đây người
viết chỉ nhận xét, so sánh về mảng thơ trào phúng và trữ tình của Nguyễn Khuyến – Tú
Xương. Ai độc đáo hơn, ai xuất sắc hơn. Họ bình luận về chất lượng từng bài thuộc hai
mảng thơ của hai nhà thơ. Và từ đó Nguyễn Đình Chú lại đưa ra nhận xét của nhiều người
về “sự khác biệt giữa tiếng cười của Tú Xương và tiếng cười của Nguyễn Khuyến. Tú
Xương là sắc sảo, dữ dội, cay độc. Nguyễn Khuyến là thâm thúy, nhẹ nhàng, hóm hỉnh. Nói
thế về cơ bản là đúng. Bởi tiếng cười của Tú Xương quả là gay gắt, dữ dội” [28; tr.502].
Nguyễn Đình Chú đã chỉ ra được điểm khác biệt trong việc sử dụng ngôn ngữ trào phúng
của Nguyễn Khuyến – Tú Xương.
Không chỉ thế, ông còn đưa ra lời nhận xét của nhiều độc giả “so với ngôn ngữ thơ
Nôm của Nguyễn Khuyến, ngôn ngữ thơ Nôm của Tú Xương có phần sắc sảo hơn, thần diệu
hơn. Điều đó đúng, Xuân Diệu trong khi xếp hạng các nhà thơ xưa, có ý muốn đặt Tú
Xương trên Nguyễn Khuyến có lẽ là căn cứ trên phương diện đó” [28; tr.504]. Ở đây có sự
so sánh giữa thơ Nôm của Nguyễn Khuyến – Tú Xương và cho rằng thơ Nôm của Tú
Xương có phần sắc sảo hơn, thần diệu hơn.
Như vậy, nhìn một cách tổng thể, Nguyễn Đình Chú đã đưa ra được một số nhận xét về
sự khác nhau trong bút pháp trào phúng của Nguyễn Khuyến và Tú Xương về việc sử dụng
ngôn ngữ trào phúng.


Công trình nghiên cứu “Thơ Trần Tế Xương – Tác phẩm và lời bình” [41] có bài viết

của Nguyễn Lộc “Kết cấu trữ tình và trào phúng trong thơ Tú Xương” cũng đề cập đến sự
khác nhau trong tiếng cười của Nguyễn Khuyến – Tú Xương “Khác với Nguyễn Khuyến,
một nhà thơ trào phúng nhiều tuổi cùng thời đại với Tú Xương, tiếng cười bao giờ cũng
thâm trầm, kín đáo, dù là nhà thơ tự cười mình, hay chế giễu cái xấu xa của cuộc đời. Ở Tú
Xương, biên độ của những tiếng cười tách biệt rất rõ. Trong những bài thơ tự cười cái
nghèo, cười chuyện hỏng thi, hay cười thói ăn chơi của mình, tiếng cười của ông pha nước
mắt, nhiều lúc lại là tiếng cười gằn, nhiều lúc lại cười phá lên, có chút gì khinh bạc. Còn
đối với những cái xấu xa, nhơ bẩn của cuộc đời, tiếng cười của Tú Xương khi thì bốp chát,
khinh bỉ, khi thì đánh một cái chết tươi…” [41; tr.219]. Đây cũng là sự khác nhau về việc sử
dụng ngôn ngữ trào phúng, dù đối với đối tượng khách thể hay chủ thể.
Qua đó, chúng ta thấy yếu tố dễ nhận thấy nhất khi so sánh thơ trào phúng của Nguyễn
Khuyến – Tú Xương là việc sử dụng ngôn ngữ trào phúng.
Cũng nói về sự khác nhau trong ngôn ngữ trào phúng của Nguyễn Khuyến và Tú
Xương, Chế Lan Viên nhận xét “Yên Đổ, tiếng anh khóc dẫu cười không thể giấu” [21;
tr.178]. Tiếng cười của Nguyễn Khuyến là tiếng cười ra nước mắt, nhiều khi đó cũng là
tiếng khóc. Nguyễn Khuyến chỉ trích thói đời một cách nhẹ nhàng, kín đáo và thâm thúy.
Có thể nói đây là một nhà thơ yêu nước đương thời muốn dùng lời văn châm biếm của mình
để khuyên răn người đời và cải tiến xã hội.
“Và Tú Xương cười gằn trong mảnh vỡ thủy tinh” [21; tr.178]. Tiếng cười của Tú
Xương là tiếng cười chua chát, độc địa. Tiếng cười phá ra một cách quyết liệt, gay gắt và
sắc lạnh trong sự uất ức tức nghẹn.
Bút pháp trào phúng trong thơ văn của Nguyễn Khuyến – Tú Xương không chỉ khác
nhau ở ngôn ngữ mà các nhà nghiên cứu còn chỉ ra sự khác nhau về hình tượng trào phúng.
Với công trình nghiên cứu “Tú Xương – Toàn tập” [30], trong đó có bài viết của Thanh
Lãng “Thơ Tú Xương - Tiếng chuông cáo chung của một thời đại”: “Cái châm biếm của
Nguyễn Khuyến mới chỉ có cái gì nhẹ nhàng, phảng phất, chứ cái châm biếm của Tú Xương
là cái châm biếm chua cay, có tính cách tấn công, có khuynh hướng lật đổ nhất là có màu
sắc thời sự. Tú Xương không nói mơ hồ, không dùng nhân vật lịch sử. Tú Xương đưa lên
sân khấu ngay chính những nhân vật của xã hội ông, của thời đại ông, của tỉnh ông, của
làng ông: ông chỉ tên, chỉ tuổi người ta. Ông không nói bóng gió” [30; tr.535].



Nguyễn Văn Hoàn cũng nhận định về “Lời Yên Đổ nhẹ nhàng, độ lượng và có khi còn
giữ màu kiểu cách, trang trọng, còn Tú Xương thì gay gắt, hằn học đến cay độc. Thơ châm
biếm của Tú Xương cứ như một ngọn roi quất thẳng vào mặt đối phương không chút thương
tiếc” [30; tr.558].
Qua cách nhận xét này, chúng ta thấy cuộc đời cá nhân ảnh hưởng rất lớn đến thơ văn
của nhà thơ. Bởi Nguyễn Khuyến đỗ đạt cao và là một bậc Nho uyên bác, nên giữ màu kiểu
cách, trang trọng. Trong khi đó, cuộc đời của Tú Xương đầy đau đớn, chua chát nên gay gắt,
hằn học đến cay độc. Từ đó đã hình thành nên bút pháp của hai người nghệ sĩ khác nhau.
Sự khác nhau về phong cách, về cá tính trong thơ văn Yên Đổ và Tú Xương chủ yếu là
do sự khác nhau về cuộc đời quyết định. So với Yên Đổ, Tú Xương hẩm hiu hơn, long đong
hơn và do đó sức mạnh đả kích trong thơ Tú Xương mãnh liệt hơn.
Công trình “Nguyễn Khuyến, về tác gia và tác phẩm [40], nổi bật “Nghệ thuật thơ văn
Nguyễn Khuyến” của Văn Tân. Tác giả nhận xét “Thái độ trào phúng của Nguyễn Khuyến
không riết róng như thái độ trào phúng của Tú Xương mà thường nhẹ nhàng, mát mẻ, nhiều
khi kín đáo “ý tại ngôn ngoại” [40; tr.339].
Có nghĩa là khả năng vận dụng ngôn ngữ một cách uyển chuyển, chính xác, giản dị và
mang đậm màu sắc dân tộc của Nguyễn Khuyến và Tú Xương. Nỗi đau, nỗi uất hận của Tú
Xương mạnh hơn Nguyễn Khuyến nhiều lần nên lời thơ của Tú Xương riết róng dữ dội.
“Còn cái độc địa của Nguyễn Khuyến là ở ý tứ, ở nội dung, chứ mới đọc qua thì chữ nghĩa
và âm hưởng câu thơ của ông vẫn có vẻ hiền lành so với câu thơ của ông Tú” [42; tr.244].
Trên đây là những nhận xét, đánh giá của các nhà nghiên cứu về so sánh bút pháp trào
phúng trong thơ văn của Nguyễn Khuyến và Tú Xương. Chúng ta thấy phần lớn đều đề cập
đến sự khác biệt trong việc sử dụng ngôn ngữ trào phúng để tạo nên tiếng cười. Trong quá
trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy các tác giả khảo sát bút pháp trào phúng Nguyễn
Khuyến – Tú Xương trong mối quan hệ hoàn cảnh, con người. Mặc dù các bài viết rất cụ
thể, chi tiết nhưng chỉ nghiên cứu chuyên sâu vài khía cạnh cụ thể và thực chất cũng chưa
có chuyên luận nào đi sâu tất cả các bình diện đối tượng trào phúng, nội dung trào phúng,
nghệ thuật trào phúng trong một bài nghiên cứu. Vì vậy, làm thế nào để tiếp cận và làm nổi

bật sự giống nhau và khác nhau trong bút pháp trào phúng của Nguyễn Khuyến – Tú Xương
là câu hỏi, cũng là nỗi băn khoăn, lo lắng của chúng tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Nền thơ văn Việt Nam giai đoạn giao thời (cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX) đã sản sinh
hai thi tài xuất sắc Nguyễn Khuyến – Tú Xương. Đây là một hiện tượng độc đáo. Hiện


tượng ấy ngay từ đầu xuất hiện không chỉ được công chúng đón nhận khá nồng nhiệt mà
luôn hấp dẫn với các nhà nghiên cứu. Trong gần một thế kỉ qua có rất nhiều công trình
nghiên cứu, khảo lục về thơ văn Nguyễn Khuyến – Tú Xương. Trong số đó có nhiều công
trình đạt được những thành tựu to lớn về nghệ thuật trào phúng của Nguyễn Khuyến – Tú
Xương. Bài nghiên cứu của chúng tôi cũng chỉ như hòn đá mà đặt cạnh Thái Sơn nếu so với
các công trình của người đi trước. Nhưng với lòng thành kính ngưỡng mộ tài danh của hai
nhà thơ, chúng tôi muốn xem đây như một hạt cát nhỏ góp phần xây dựng lâu đài thơ văn
của Nguyễn Khuyến – Tú Xương ngày càng đẹp hơn.

3. Mục đích, yêu cầu
Xác định một số yếu tố có tính chất tiền đề ảnh hưởng đến nguyên nhân hình thành thơ
văn trào phúng. Trên cơ sở đó, bước đầu chúng tôi khảo sát chuyên sâu về mảng thơ trào
phúng của Nguyễn Khuyến và Tú Xương nhằm làm nổi bật nét tương đồng và dị biệt trong
bút pháp trào phúng của Nguyễn Khuyến – Tú Xương ở một số phương diện nghệ thuật liên
quan đến ngôn ngữ, hình tượng và các biện pháp tu từ…Từ đó, chúng ta thấy được nét độc
đáo trong phong cách sáng tác của hai nhà thơ.
Qua nghiên cứu đề tài, chúng tôi có điều kiện tìm hiểu kỹ hơn về một tác giả lớn của
nền văn học trung đại, đồng thời giúp chúng tôi có cơ hội, nghiên cứu, đánh giá sâu hơn về
những cống hiến của hai tác giả cuối cùng của thế kỉ XIX trong mối quan hệ với những tác
giả khác để làm nổi bật vấn đề.

4. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài So sánh bút pháp trào phúng trong thơ văn của Nguyễn Khuyến và Tú
Xương, chúng tôi tập trung nghiên cứu, khảo sát thơ văn trào phúng của Nguyễn Khuyến –

Tú Xương ở phương diện nghệ thuật, để làm nổi bật sự tương đồng và dị biệt trong bút pháp
trào phúng của hai nhà thơ.
Trong quá trình tìm hiểu đề tài, dẫn chứng thơ văn Nguyễn Khuyến và Tú Xương được
sử dụng chủ yếu trong quyển Thơ văn Nguyễn Khuyến – Trần Tế Xương [49].
Các cứ liệu có liên quan đến đề tài chủ yếu dựa vào những quyển:
+ Phong cách học Tiếng Việt [26]
+Trần Tế Xương, về tác gia và tác phẩm [28]
+ Nguyễn Khuyến, về tác gia và tác phẩm [40]
Kết cấu luận văn, ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung có ba chương:
Chương một: Một số vấn đề chung


Chương hai: Điểm tương đồng giữa bút pháp trào phúng trong thơ văn Nguyễn
Khuyến và Tú Xương
Chương ba: Điểm khác biệt giữa bút pháp trào phúng trong thơ văn Nguyễn Khuyến
và Tú Xương

5. Phương pháp và phương hướng nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi tập hợp tư liệu có liên quan đến đề tài, sau đó tiến
hành phân loại, sắp xếp theo hệ thống những vấn đề cần khảo sát.
Chúng tôi chủ yếu sử dụng phương pháp so sánh để làm sáng tỏ vấn đề. Trong quá
trình phân tích có kết hợp với các thao tác: giải thích, chứng minh, phân tích, bình
luận…nhằm làm nổi bật sự tương đồng và khác biệt về bút pháp trào phúng của Nguyễn
Khuyến và Tú Xương.


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái niệm
1.1.1. Bút pháp

Theo Lê Bá Hán – Trần Đình Sử – Nguyễn Khắc Phi, bút pháp vốn là thuật ngữ của
thư pháp – nghệ thuật viết chữ Nho, chỉ cách cầm bút, cách đưa đẩy nét bút để tạo dáng nét
chữ đẹp. Chẳng hạn “Khen rằng bút pháp đã tinh” (Truyện Kiều).
Trong văn học, bút pháp là cách thức hành văn, dùng chữ, bố cục, cách sử dụng các
phương tiện biểu hiện để tạo thành một hình thức nghệ thuật nào đó. Ở đây, bút pháp cũng
tức là cách viết, lối viết. Đến với thơ Hồ Xuân Hương là đến với bút pháp trào lộng sâu cay,
một bút pháp trữ tình đậm tính nhân văn của Nguyễn Du, một bút pháp cổ kính nhưng rất
đỗi trữ tình của bà Huyện Thanh Quan. Có được điều đó là do nhà văn đã sử dụng các biện
pháp trào lộng, trữ tình hay từ cổ, cách dùng từ cổ mà nên.
Như vậy, khái niệm bút pháp do trực tiếp gắn với cách viết, lối viết nên có phần tương
đồng với khái niệm phong cách, văn phong.
Nguyễn Minh Hoàng nhận định về bút pháp “là cách viết, lối dùng lời văn để thể hiện
tư tưởng, ý nghĩ”. Như vậy, những tâm tư, tình cảm, những nỗi trăn trở băn khoăn của nhà
văn được thể hiện qua việc lựa chọn, sắp xếp ngôn từ và được trình bày với dụng ý của nhà
văn.
Nếu chất liệu để xây dựng hình tượng của âm nhạc là âm thanh, giai điệu; của hội họa
là đường nét, màu sắc; của điêu khắc kiến trúc là mảng khối thì văn học không chỉ lấy ngôn
từ làm chất liệu xây dựng hình tượng mà có sự kết hợp hài hòa và bút pháp là cách dùng
ngôn ngữ, hoặc đường nét, màu sắc, hình khối, ánh sáng để thể hiện hiện thực, thể hiện tư
tưởng trong tác phẩm nghệ thuật (Hoàng Phê).
Tóm lại, tuy giữa các tác giả có điểm khác nhau về nội hàm của thuật ngữ bút pháp,
nhưng nhìn chung có thể tìm thấy điểm gặp gỡ giữa các ý kiến. Bút pháp đó là cách viết, lối
viết, cách dùng lời văn nghệ thuật để thể hiện tư tưởng vào trong tác phẩm.

1.1.2. Trào phúng
Theo Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi, trào phúng là một loại đặc biệt
của sáng tác văn học và đồng thời cũng là một nguyên tắc phản ánh nghệ thuật trong đó


các yếu tố của tiếng cười mỉa mai, châm biếm, phóng đại, khoa trương, hài hước…được sử

dụng để chế nhạo, chỉ trích, tố cáo, phản kháng…những cái tiêu cực, xấu xa, lỗi thời, độc
ác trong xã hội.
Trào phúng theo nghĩa từ nguyên là dùng lời lẽ bóng bẩy, kín đáo để cười nhạo, mỉa
mai kẻ khác, song trong lĩnh vực văn học, trào phúng phải gắn liền với phạm trù mĩ học và
cái hài với các cung bậc hài hước, châm biếm. Văn học trào phúng bao hàm một lĩnh vực
rộng lớn với những cung bậc cái hài khác nhau từ những truyện cười, truyện tiếu lâm đến
tiểu thuyết, từ các vở hài kịch cho đến những bài thơ trào phúng, châm biếm (như của Hồ
Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương,…). Đó là một khái niệm bao trùm lĩnh vực văn
học của tiếng cười. Do yêu cầu của thực tế đấu tranh xã hội mà từ trào phúng tách ra loại
châm biếm, như một vũ khí sắc bén, nhưng không nên đồng nhất loại này với loại trào
phúng.
Như vậy, theo các tác giả này thể thơ thuộc loại trào phúng dùng tiếng cười để xây
dựng tư tưởng, tình cảm cho con người, chống lại cái xấu xa, lạc hậu, thoái hóa, rởm đời,
hoặc để đả kích, vạch mặt kẻ thù, đánh vào những tư tưởng, hành động mang bản chất thù
địch với con người.
Vạch mâu thuẫn của sự vật – mâu thuẫn giữa cái bên ngoài và cái bản chất bên trong –
để làm cho người đọc nhận thấy sự mỉa mai, trào lộng của sự vật là cách làm chủ yếu của
thơ trào phúng.
Việc sắp xếp trào phúng vào loại nào của văn học đã có một lịch sử lâu đời cùng với sự
xuất hiện của nó.
Từ thời cổ đại, lí luận văn học truyền thống coi trào phúng là một dạng trữ tình đặc
biệt. Trong đó, các tác giả thể hiện tình cảm phủ nhận những điều xấu xa. Sức mạnh của thơ
trào phúng phải là lòng căm giận sâu sắc những thói hư, tật xấu, những con người phản diện
trong xã hội, xuất phát từ một lí tưởng thẩm mĩ đúng đắn, tiến bộ. Nếu chỉ xoay quanh ở
cách nói hóm hỉnh, cách chơi chữ cười vui thì thơ trào phúng không có sức hấp dẫn.
Đến thời Phục Hưng, quan niệm này bị nghi ngờ khi đứng trước những tác phẩm văn
xuôi có dung lượng đồ sộ của Xecvantex, Rabơle…
Ở thế kỉ XIX, Hêghen kết luận rằng, trào phúng không mang tính sử thi và cũng không
phù hợp với trữ tình.



Đến thế kỉ XX, nhà lý luận văn học người Nga L.I. Ti-mô-phê-ép lại cho rằng trào
phúng là một loại đặc biệt của sáng tác văn học, nó gần gũi với trữ tình, sử thi và kịch trong
những trường hợp cụ thể.
Tóm lại, trào phúng có hai yếu tố không thể thiếu đó là gây cười và phản ánh. Do cười
là nhu cầu thiết yếu của con người, văn thơ trào phúng đã sử dụng yếu tố này một mặt để
phê phán, đả kích, một mặt thể hiện những tâm tư tình cảm của chính bản thân mình.
Trào phúng có nhiều cung bậc: có khi ở mức độ phê phán nhẹ nhàng, chủ yếu gây
cười, mua vui trên cơ sở vạch ra sự mất hài hòa, cân đối giữa nội dung và hình thức, giữa
bản chất và hiện tượng. Có khi trào phúng lại được thể hiện ở tính chất kín đáo, thâm trầm
không lộ liễu. Nó khéo léo, tinh tế khi vạch ra các mâu thuẫn, tạo ra cái cười bất ngờ, giúp
người ta nhận ra sự trớ trêu của tình huống, mỉm cười mà phân biệt đúng sai.
Không những thế, trào phúng còn hướng vào sự cười nhạo cái xấu xa, lố bịch đối với lí
tưởng xã hội hoặc chuẩn mực đạo đức. Nhân vật của trào phúng thường không có sự tương
xứng giữa bản chất bên trong và danh nghĩa bên ngoài của mình nên đã trở thành lố bịch.
Các tính cách trong trào phúng thường được miêu tả một cách đậm nét, cận cảnh và ở trạng
thái tĩnh nhất là những nét gây cười. Phạm vi phản ánh của trào phúng hết sức rộng lớn, từ
những vấn đề chính trị xã hội đến những thói xấu trong sinh hoạt hằng ngày. Trong trào
phúng cũng có thể mô tả nỗi khổ đau của con người, song chỉ có thể cho phép ở mức độ
nhất định sao cho nỗi đau không lấn át cái cười để từ đó chất trào phúng được thăng hoa.

1.2. Điều kiện hình thành thơ văn trào phúng của Nguyễn Khuyến và Tú
Xương
1.2.1. Sự sụp đổ ý thức hệ Nho giáo
Hiện thực xã hội thực dân nửa phong kiến hình thành là mảnh đất màu mỡ cho nền văn
học trào phúng phát triển. Thời của Nguyễn Khuyến – Tú Xương là thời của mầm tha hóa,
lai căng đang mọc dậy. Nó dễ dàng làm hoen ố, tiêu tán mọi danh dự, phẩm giá của con
người. Chưa có một giai đoạn nào trong lịch sử văn học dân tộc như ở giai đoạn này: khủng
hoảng trầm trọng về ý thức hệ xã hội, về chỗ dựa tinh thần. Nho giáo tàn tạ, phá sản. Lão –
Trang hay Phật giáo cũng không còn sức mạnh nào đáng kể. Gia Tô giáo, Thiên Chúa giáo

mới được du nhập vào nhằm củng cố, lấn át, đè bẹp nền văn hóa cổ truyền Việt Nam. Đồng
thời cắt đứt mối quan hệ văn hóa giữa Việt Nam với Trung Quốc, văn hóa Đông Nam Á để
nhanh chóng đưa Việt Nam vào vòng ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, văn hóa Pháp
theo lối nô dịch của chúng. Chữ quốc ngữ xuất hiện. Bởi thay chữ viết cũng có nghĩa là thay


nền văn hóa Hán học. Kèm theo đó là việc thi cử chữ Hán từng có lịch sử lâu đời trên đất
nước ta đến đây rơi vào cảnh chợ chiều, hấp hối đợi ngày xuống huyệt. Tây học, tân học đã
cạnh tranh và nhanh chóng thắng cuộc đối với cựu học, Hán học. Lối sống “Tư sản hóa”,
lối sống “Âu hóa” dần dần hình thành, xâm nhập và tấn công vào lối sống cổ truyền, lối
sống phong kiến.
Trung quân – Đạo Nho đã giữ vị trí độc tôn ở Trung Hoa trong mấy nghìn năm, truyền
sang nước ta từ thời Bắc thuộc. Đạo Nho đã trải qua những thời kỳ cực thịnh và làm nền
móng cho nền luân lý dân tộc. Nhưng khoảng giữa thế kỷ XIX, chế độ quân chủ ở nước ta
suy đồi. Những tư tưởng Tây phương lan tràn vào, nó như dòng thác đục ngầu làm cho
những tư tưởng Nho giáo vốn được đề cao nay bị lung lay, rệu rã đến tận gốc rễ.
Cả nền Đạo học đang hấp hối chờ chết. Một hiện tượng giao thời từ nền văn học chữ
Hán chuyển sang nền văn học chữ Quốc ngữ (1897). Nguyễn Khuyến cảm nhận được sự lỗi
thời, cái vô nghĩa của “Đạo học” và sự bất lực của tầng lớp mình. Tú Xương lại chán ngán
vì là nhà thơ đi thi nền Hán học và ông cũng là người đi thi theo nền học Quốc ngữ. Tú
Xương là người cuối cùng chứng kiến bao quát cả một nền Hán học sụp đổ. Sự giãy chết
của nền Hán học được thể hiện rất rõ trong thơ văn của ông. Đã có sự phân biệt giữa ông
Nghè, ông Cống với ông Nghị, ông Hàn, ông Cẩm, ông Cò, thầy Thông, thầy Phán,… Chữ
Quốc ngữ, chữ Tây “Cậu giáo, chú giáo, ông giáo” đã xuất hiện nhiều. Thầy đồ đã không
còn gọi nữa. Chính tiền tài đã giết chết dần Nho học. Đau, nhục, day dứt đối với những
người có tài, có tâm mà không được trọng dụng.
Cuộc kháng chiến bùng nổ, khắp nơi thực dân và tay sai ra sức bình định. Xã hội bước
vào giao thời. Bao nhiêu điều phi nghĩa bất nhân, xấu xa, bỉ ổi phơi bày một cách trắng trợn.
Nước nhà ngã xuống, đàn dòi bọ đế quốc và tay chân hùa vào rỉa róc. Nguyễn Khuyến và
Tú Xương vừa là chứng nhân, vừa là nạn nhân của cuộc đổi thay này. Hai nhà thơ đã chứng

kiến biết bao chuyện trái tai, gai mắt, chứng kiến những bước thâm trầm, bi thương vào loại
bậc nhất của lịch sử dân tộc. Đồng thời cũng chứng kiến sự thất bại của triều đình nhà
Nguyễn và các phong trào yêu nước trước một kẻ thù hoàn toàn xa lạ. Và cũng là người
nhận thấy một cách đau xót sự sụp đổ của một hệ tư tưởng đã lỗi thời, cũng như sự bất lực
đến hài hước của một loại hình trí thức đại diện cho hệ tư tưởng ấy trước thực tế lịch sử.
Nhà thơ không xa lánh được nên phản ứng lại bằng thơ trào phúng. Thơ văn trào
phúng của Nguyễn Khuyến – Tú Xương chĩa mũi nhọn vào chính quyền thực dân, vào bọn


khoa bảng đầu hàng, vào bọn hãnh tiến giàu sang nhờ xu phụ chính quyền mới. Ông chửi
rủa, châm biếm, xua đuổi nhưng vẫn không thoát.
Nguyễn Khuyến, Tú Xương đã ghi được tâm trạng của Nho sĩ lúc Hán học suy tàn.
Nguyễn Khuyến đại biểu cho nhà nho hiển đạt nhưng bất hợp tác lui về đồng ruộng an vui
với thiên nhiên, với dân quê. Tú Xương đại biểu cho nhà nho, công danh trắc trở vẫn không
muốn thay đổi lòng nhưng thiếu nghị lực trước sự cám dỗ của đời sống vật chất đang bành
trướng ở các đô thị. Tâm hồn bị xâu xé bởi những khuynh hướng trái ngược nên giọng văn
của ông khi thì xác thực tinh vi, khi thì ngông cuồng mơ hồ nhưng bao giờ cũng thành thực,
nôm na và dí dỏm. Nguyễn Khuyến – Tú Xương là hai nhà thơ đại diện lớn nhất và cuối
cùng của văn học Việt Nam trung đại.

1.2.2. Sự va chạm giữa đạo đức phong kiến và nền văn minh tư sản
Trước sự xâm chiếm kinh tế cũng như văn hóa phương Tây, nguyên tắc luân lý và
phong tục truyền thống của ta bị rung chuyển, nhường bước cho một xã hội mới đi ra. Một
xã hội xuất hiện những người chủ mới đã đem lại lối sống mới, quan niệm mới về đạo đức,
về nhân sinh, về cái đẹp. Bóng dáng của các giai nhân tài tử một thời thấy cái đẹp trong
những cử chỉ hào hoa, lịch thiệp hay những người anh hùng thấy cái đẹp trong việc chiến
đấu “da ngựa bọc thây”, bóng dáng của những nho sĩ thấy cái đẹp trong cảnh an bần lạc
đạo … nay đã không còn nữa. In lên nền trời của xã hội Việt Nam là cái “váy xắn ngang”
của mụ đầm trong thơ Nguyễn Khuyến hay là cái “đít vịt” của mụ đầm béo núc ních trong
thơ Tú Xương. Trên bối cảnh xã hội đó, thơ văn Nguyễn Khuyến phần nào vẽ lên một số nét

tiêu biểu của xã hội mới. Nhưng phải đến Tú Xương mới có được ngọn bút sắc sảo tuyệt vời
vẽ đậm nét và toàn diện hơn cái xã hội giao thời. Chủ yếu là xã hội thành thị, nơi tập trung
những nét tiêu biểu nhất của thời đại, trải qua những biến thiên chưa từng thấy trong xã hội
Việt Nam.
Đó là cái dáng đỏng đảnh của bọn me tây, gái đĩ, là cái dị hình, dị tướng của anh hàng
sắt giả danh nhà nho, là vô số hình thù của các quan ông “Thành thì đen kịt đốc thì lang”,
của các quan bà “chồng chung vợ chạ”, của các vị tu hành chán sự đú đởn vụng trộm trong
chùa lại thích đi lọng nghênh ngang ngoài đường phố. Đối với bọn này mọi tiêu chuẩn bình
thường của cuộc sống bị lật nhào tất cả. Lố lăng đã trở thành sang trọng, kệch cỡm trở thành
quý phái, xấu xí lại thích ăn diện, nghèo kiết lại thích tiêu hoang…
Cái mới ra đời từ những đô thị thuộc địa, là nhân tố văn hóa ngoại lai, ngoại sinh đang
giao thoa với những nhân tố cổ truyền. Một sự giao thoa văn hóa – ngôn ngữ ban đầu đều ít


nhiều lố lăng so với cổ truyền đã được tinh tế hóa. Thế là những la – ga (nhà ga), mét xì
(cảm ơn), những sâm banh, sữa bò, những hội Tây, ông Cẩm, ông Cò, me Tây…được châm
biếm qua thơ Yên Đổ và Tú Xương.
Ở đó, mọi giá trị đạo đức truyền thống đã bị đảo lộn, còn cái mới lại mang bộ mặt của
kẻ xâm lược. Ngòi bút thâm trầm, kín đáo của Nguyễn Khuyến và bốp chát, độc địa của Tú
Xương đã chĩa mũi nhọn vào những điểm yếu nhất của cái ung nhọt đó. Nhà thơ đã đem ra
trào phúng, châm biếm, hạ bệ những thần tượng cao nhất của cả một nền thể chế xã hội đã
tồn tại hàng mấy trăm năm. Đến thời Nguyễn Khuyến – Tú Xương, những giá trị truyền
thống dần dần mai một, hoặc đang từng bước đổ vỡ. Nho học, khoa cử đã xuống cấp, không
còn được coi trọng, mọi thứ đều có thể dùng tiền để mua bán, đổi chác, xuất hiện trong xã
hội nhiều kẻ chỉ có hư danh mà không có thực học. Thời của Nguyễn Khuyến và Trần Tế
Xương là thời Đạo học suy vi, cương thường điên đảo. Những kẻ xu thời là những kẻ xấu
xa, nhân phẩm thối nát mà lại cứ đem cái vỏ ngoài đạo đức ra lòe bịp người đời.
Nguyễn Khuyến cũng như Tú Xương đã sống trong một giai đoạn đặc biệt của lịch sử.
Xã hội mà Nguyễn Khuyến – Tú Xương sống là xã hội thực dân nửa phong kiến với những
biểu hiện lố lăng, kệch cỡm, những cái dơ bẩn thối tha theo lề lối phong kiến suy tàn cộng

thêm với tư sản hóa xuất hiện ngày càng nhiều. Nhà thơ cứ phải giương mắt mà trông cái xã
hội thực dân tư sản đang sinh ra, đang lúc nước mất, đạo học của thánh hiền đã suy lại càng
suy, muôn cái khả ố cứ chọc vào mắt, tác động vào tâm hồn nhà thơ. Tất cả những điều đó
được Nguyễn Khuyến – Tú Xương thể hiện trong thơ văn trào phúng.
Người đời có thể cười, khóc, thở than theo nhịp vui buồn của từng bài thơ. Song không
ai không thể không cùng cụ Tam Nguyên Yên Đổ và ông Tú Vị Xuyên sống lại một cách
thấm thía, sâu xa trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến buổi đầu. Sống lại với tất cả sức
khinh khi, căm giận, đau xót của những tấm lòng biết yêu thương đất nước, biết tủi nhục
trước cảnh nô lệ, biết tôn trọng đạo đức truyền thống của dân tộc. Chính điều kiện xã hội ấy
đã góp phần thúc đẩy thơ văn trào phúng của Nguyễn Khuyến – Tú Xương lên đỉnh cao của
nghệ thuật trào phúng trong nền văn học Việt Nam.

1.2.3. Sự tiếp thu truyền thống trào phúng trong văn học bình dân
và văn học bác học
Khi chữ viết chưa ra đời thì nền văn học dân gian đã phát triển rực rỡ và mãi đến sau
này. Do cười là nhu cầu thiết yếu của con người nên nó cũng đã được hình thành. Khởi đầu


bằng hình thức truyền khẩu với những câu ca dao, vè, truyện cười, tiếu lâm mang tính trào
phúng.
Do cuộc sống lao động vất vả nên nhu cầu giải trí, cười vui để quên đi mệt nhọc, cốt để
đùa chơi người ta phóng đại sự việc, sự vật:
Ở đâu mà chẳng biết ta
Ta con ông Sấm cháu bà Thiên Lôi
(Ca dao)
Cách nói ấy sẽ làm bật lên tiếng cười vui vẻ, sảng khoái. Ta còn bắt gặp trong đó tiếng
cười nhẹ nhàng mang tính chất xây dựng hơn lật đổ.
Với cái cười giả vờ và thông qua đó nhạo báng bao thế lực to lớn không đủ sức để xua
được con ruồi bé tí tẹo ‘‘Lạy trời lạy phật lạy vua, Để tôi sức khỏe tôi xua con ruồi’’ (Ca
dao). Bên cạnh đó, tiếng cười còn dùng làm vũ khí đả kích châm biếm và có sức sống lâu

bền. Những câu ca dao, vè, tục ngữ, được nhân dân thuộc lòng, lưu truyền rộng rãi từ đời
này sang đời khác. Đối tượng mà văn học dân gian nói đến rất phong phú và đa dạng. Chế
độ phong kiến suy tàn, bản chất xấu xa của bọn vua quan càng bộc lộ rõ nét hơn bao giờ hết.
Đối với bọn quan lại, người dân không ngần ngại lột trần bộ mặt đạo đức giả của chúng với
thái độ khinh bỉ, xem thường:

Ban ngày quan lớn như thần
Ban đêm quan lớn tần mần như ma
(Ca dao)
Sự tôn nghiêm của vị quan lớn hoàn toàn sụp đổ. Những hình ảnh “phụ mẫu chi dân”
ấy chỉ còn là mặt nạ của một lũ hề đáng cười hơn đáng kính. Không chỉ phê phán quan lại
mà người dân còn phê phán cả những ông vua là một đấng chí tôn nhưng thật chất chẳng ra
chi, chỉ là đạo đức giả như trong truyện Diêm Vương xử kiện. Diêm Vương ở đây tượng
trưng cho bọn vua chúa của giai cấp phong kiến. Truyện mang nội dung đấu tranh xã hội
với kết thúc bất ngờ, chỉ một câu nói cuối cùng “Đừng nói nữa tao thèm quá!”. Diêm
Vương đã tự lột mặt nạ đạo mạo của mình chỉ còn trơ lại bộ mặt thật, cái bộ mặt của con
người độc ác, xấu xa. Truyện đả kích vào giai cấp thống trị một đòn mạnh, đập tan ảo tưởng
về công lý xã hội trong chế độ phong kiến và vai trò cao quý của “đấng chí tôn”.
Cũng là đề tài phê phán, châm biếm vua chúa nhưng đến với hàng loạt truyện Trạng thì
mức độ phê phán của nó sâu sắc hơn và đối tượng cụ thể hơn. Như trong truyện Trạng


Quỳnh phản ánh một cách trực tiếp hơn, đánh vào vua Lê chúa Trịnh. Đây thuộc loại truyện
cười kết chuỗi vì vậy tính hiện thực, giá trị lịch sử và ý nghĩa xã hội cao hơn, rõ rệt hơn so
với truyện cười không kết chuỗi.
Nói đến cái chết của nhân vật Trạng Quỳnh và nói đến cái chết của chúa Trịnh nhân
dân có câu ca dao Trạng chết chúa cũng băng hà, Dưa gang đỏ đít thì cà đỏ trôn (Ca dao).
Mặc dù hư cấu nhưng đó chính là sự sáng tạo kỳ diệu, độc đáo của nhân dân ta ở thế kỉ
XVIII. Qua đó, tác giả dân gian muốn khẳng định ý chí và gửi gắm khát vọng không đội trời
chung với kẻ thù giai cấp. Ngoài ra thầy đồ, sư sãi cũng là đối tượng được nhân dân đề cập

đến và phản ánh những tật xấu xa, dốt nát, làm những chuyện trái với luân thường đạo lý.
Nếu như hình ảnh ông thầy đồ dốt nát hiện lên trong Tam đại con gà là báo hiệu sự suy
tàn của nền Nho học, của xã hội và của mọi tôn nghiêm đều bị lung lay thì hình ảnh của
những ông sư, bà sãi báo hiệu sự suy tàn về đạo đức:
Chỉ cốt lấy chỗ trú thân
Trước nương bóng Phật sau lần trúc mai
(Ca dao)
Cái độc đáo, tinh tế của ca dao là phát hiện được những khía cạnh tâm lý bên trong lớp
áo nâu sòng! Những đối tượng, vấn đề được nói đến trong văn học dân gian đã phản ánh
những mặt trái của cuộc sống. Những con người tưởng chừng như đạo mạo thì giờ đây trở
thành ngớ ngẩn, bần tiện và vô nhân. Sức phản ánh của văn học dân gian tuy chưa cao song
ý nghĩa tích cực của nó được thể hiện một cách đậm nét mang bản chất dân tộc. Văn học
dân gian trào phúng trở thành nền tảng vững chắc cho thơ văn trào phúng ở giai đoạn sau
đạt được những thành tựu rực rỡ hơn. Từ đó mới có thể khẳng định rằng những vần thơ trào
phúng của Nguyễn Khuyến – Tú Xương kế thừa những thành tựu của những sáng tác có
tính chất trào phúng trong văn học dân gian.
Truyện trào phúng thường tìm cái đáng cười ở những hiện tượng, những hành vi bộc lộ
nét bản chất của thói xấu làm ảnh hưởng đến thể thống của con người. Đến với những câu
chuyện của Ba Giai, Tú Xuất, người đọc không thể nào không bật lên tiếng cười sảng khoái
khi chứng kiến những kẻ có chức có quyền hà hiếp dân lành bị trừng trị đích đáng. Cuộc
sống của những con người ở vùng sơn cước, khuất sau những dãy núi ngút ngàn vẫn còn bị
bọn quan cường hào bóc lột, hà hiếp. Hai con người tài năng Ba Giai - Tú Xuất đã lật tẩy bộ
mặt của chúng, đồng thời cho chúng một bài học nhớ đời, đem lại cho người dân cuộc sống
bình yên, hạnh phúc.


Phần lớn truyện cười dân gian đã ghi lại được đều thuộc đời cuối Lê – đầu Nguyễn và
thời Nguyễn, kể cả buổi Tây sang. Những truyện cười này hợp thành một chân dung biếm
họa: vua không ra vua (Thôi đừng nói nữa mà tao thèm!, Xin Đại vương đình lại cho một
đêm,…), quan lại rặt một phường tham nhũng, bất tài (Trung thần, nghĩa sĩ cả, thần bia trả

nghĩa, quan huyện thanh liêm,…), những người làm thầy thiên hạ thì dốt nát và thiếu nhân
cách đến thảm hại (Bánh tao đâu? Tam đại con gà, Bốc thuốc theo sách, Tại thầy địa lí…),
cả những người thuộc tầng lớp bình dân cũng bị nhiễm những cái xấu thường lan tràn trong
thời buổi nhố nhăng…Nếu có cái nhìn bao quát cả “tổng tập” này, ta có thể nhận thấy một
điều có ý nghĩa sâu xa hơn nhiều so với bản thân sự phê phán ở từng truyện. Đó là tư tưởng
phóng túng, là sự đùa cợt có tính chất báng bổ đối với những giáo điều và một số giá trị
được coi là thiêng liêng của hệ tư tưởng phong kiến, của xã hội phong kiến.
Trong xã hội đảo điên, nghiêng ngửa vì nhiễu nhương phân tán, sĩ phu câm nín hoặc dè
dặt trước thực tại đau lòng. Nhiều nhà thơ, nhà văn đã mạnh dạn lột trần cái lố lăng, cái
xuống dốc, cái bất công của thời đại. Đồng thời cũng nói lên nỗi hoài nghi, chán chường và
khinh mạn của những con người bất mãn trước thời cuộc.
Trước hết, trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX, Hồ Xuân Hương là một trong
những cây bút xuất sắc khi viết về những vần thơ đả kích, trào phúng. Nhưng bao trùm lên
tất cả là một trí tuệ đẹp đẽ, thâm thúy, một tâm hồn yêu đời tha thiết, cho nên căm giận rất
mực một thứ đời giả dối, lố bịch và tàn ngược. Muốn tạo nên tiếng cười, muốn châm biếm
một đối tượng, Xuân Hương đã lố bịch hóa đối phương, vạch cái xấu bên ngoài của sự vật,
ghi thêm sâu một vài nét khả ố của nạn nhân ‘‘Đầu đội nón da loe chóp đỏ, Lưng đeo bị đạn
rủ thao đen’’ (Ông cử võ). Thơ Xuân Hương có lối dùng chữ, đặt câu rất đặc sắc. Xuân
Hương dùng chữ rất mạnh dạn, không đắn đo rụt rè, lựa ngay những chữ đập mạnh vào trí
óc ta và thường thường lại phù hợp với tình cảm của tác giả.
Ngôn ngữ Xuân Hương biến hóa một cách tài tình. Những đòn bút của Hồ Xuân
Hương đã góp phần làm tan rã ý thức hệ phong kiến và hạ bệ những thần tượng vốn bất khả
xâm phạm từ lâu. Với bút pháp sử dụng lối nói lái thành thạo và tinh nghịch hàm ý khinh
ghét cộng với việc dùng từ ngữ sắc bén chính xác, tính khôi hài như được nhân lên nhiều
lần, không thể xóa nhòa được, nó đã trở thành bia miệng “Quan Sứ sao mà cảnh vắng teo Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo” (Chùa Quan Sứ). Hoặc với lối nói lái ỡm ờ rất đau, Xuân
Hương đả kích bọn quan thị, nhà sư.


Hồ Xuân Hương gieo vần cũng rất độc đáo, oái oăm, hoặc trớ trêu buồn cười, những
ẩn ngữ, những chữ nói lái, đọc ngược“Đứng tréo trông theo, cảnh hắt heo, thiên thẹo, cheo

leo, khẳng kheo, uốn éo, tăn teo, lộn lèo”. Những vần khó gieo thi pháp trung đại gọi là “tử
vận” vần chết, khó họa lại nhưng khi sử dụng thành công giá trị biểu đạt được tôn lên rất
nhiều.
Văn học trào phúng phát triển mạnh mẽ hơn vào giai đoạn thế kỉ XIX, trước tiên với
tên tuổi Hồ Xuân Hương – Bà chúa thơ Nôm và cũng là nhà thơ có nhiều bài thơ trào phúng
nổi tiếng với tiếng cười phồn thực giàu sắc thái dân gian. Sự xuất hiện của Hồ Xuân Hương
như để lấp đi khoảng trống trước đó của văn học trào phúng Việt Nam. Bộ phận thơ trào
phúng của bà là sự kết tinh, tổng hợp và phát triển những thành tựu trào phúng đa dạng từ
trước đó qua hai nguồn văn học dân gian và văn học viết, đặc biệt là văn học dân gian. Chỉ
đến Hồ Xuân Hương nhiều hình tượng trào phúng hoàn chỉnh lần đầu tiên mới được tạo
dựng, đánh dấu một giai đoạn phát triển của văn học trào phúng nói riêng và toàn bộ nền
văn học dân tộc nói chung, tạo nên một bức tranh đời sống sinh động với nhiều hình tượng
đặc sắc. Khác với sự hài hước, châm biếm nhưng vẫn đứng trên lập trường giai cấp phong
kiến của các nhà thơ trước đó, Hồ Xuân Hương chống phong kiến một cách quyết liệt, hạ bệ
tất cả các “đấng, bậc” từ vua chúa đến anh hùng, quân tử, kẻ sĩ. Thơ trào phúng của bà
vạch trần bộ mặt xấu xa, giả dối, đầy dục vọng của tầng lớp thống trị. Bà cũng quyết liệt
chống thần quyền. Đối với những đối tượng này tiếng cười trong thơ của bà nhiều lúc mang
tính hủy diệt. Thơ trào phúng của Hồ Xuân Hương còn đả phá những tập tục khắc nghiệt
bóp nghẹt cuộc sống của người phụ nữ và đấu tranh cho hạnh phúc của họ. Hồ Xuân Hương
đã sử dụng “cái tục” như một thủ pháp nghệ thuật độc đáo, đem lại sự đa nghĩa sinh động
cho các hình tượng nghệ thuật trong thơ bà. Các biện pháp nghệ thuật trào phúng như chơi
chữ, nói lái, cách gieo vần, cắt nhịp, cách xây dựng hình ảnh gây cười, cách cấu trúc bài thơ
…cũng được bà sử dụng một cách tài tình và luôn mang bản sắc riêng Hồ Xuân Hương.
Nối tiếp Hồ Xuân Hương là Nguyễn Du. Nhà thơ sử dụng ngôn ngữ trào phúng hết sức
độc đáo nhằm thể hiện thái độ của mình đối với đối tượng. Mỗi một vần thơ khắc họa những
nét nổi bật nhất, nắm đúng cái thần của nhân vật “Thoắt trông nhờn nhợt màu da - Ăn gì to
lớn đẩy đà làm sao” (Truyện Kiều) hay ngoại hình “mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”
của Mã Giám Sinh. Từng câu, từng chữ được Nguyễn Du chọn lọc sắc sảo. Vì thế, sức tố
cáo, lên án, phê phán càng mạnh mẽ và dữ dội. Nguyễn Khuyến – Tú Xương sau này đã kế
thừa việc chọn lọc ngôn ngữ trào phúng trong thơ văn của mình.



Cuối thế kỉ XIX, Nguyễn Văn Lạc một nhà thơ đồng thời với Tú Xương, và đã ít nhiều
biết dùng những tư liệu lấy ngay trong thực tế cuộc sống. Thi sĩ vẫn còn nhiều ảnh hưởng
bởi phương pháp nghệ thuật của nền văn học cổ đại. Cho nên phần lớn thơ ông cũng chỉ để
phản ánh hiện thực một cách gián tiếp qua những đề tài công thức, chung chung. Chẳng hạn
khi ông muốn đả kích bọn hương chức thối nát trong làng ông, ông chưa nói được trực diện,
chưa nêu lên được những nét điển hình trong một nhân vật hương chức cụ thể nào để đả
kích, mà phải mượn những đề tài tượng trưng như là “Nghé ngọ già đời quen nghé ngọ –
Năm nay đàn khảy biết nghe đâu?” ... (Con trâu); “Khoe khoang mắt đỏ trong dòng bích –
Chẳng biết mình và cứt lộn đầu” …(Con tôm); “Trong bụng trống trơn, mang cổ giữa –
Trên đầu trọc lóc bịt khăn ngang”…(Ông làng hát bội)...Nguyễn Văn Lạc rất thành công
khi sử dụng biện pháp ẩn dụ với việc thể hiện nội dung trào phúng. Nhà thơ sử dụng thật đắt
những hình ảnh con trâu, con tôm, ông làng hát bội để thể hiện thái độ châm biếm, mỉa mai,
trào lộng của mình.
Nhìn chung lại, phương pháp nghệ thuật của các nhà văn thời cổ đại là phương pháp
chỉ thực hiện một cách sơ lược một bản chất nào đó của một tầng lớp, một tập đoàn, bằng
những nhận xét khái quát, chung chung, chứ không nhằm thể hiện bản chất đó qua một số
nét, một số sự việc cụ thể trong những con người cụ thể, những con người đang sống, đang
hoạt động, trong những trường hợp cụ thể. Phần lớn các nhà thơ, nhà văn thời cổ đại khi
phản ánh hiện thực khách quan của thời mình thường hay dùng những điển tích xưa, những
sự việc đã xảy ra từ những thời đại trước, hoặc mượn những vật tượng trưng để ám chỉ. Nói
tóm lại, để phản ánh một thực tế xã hội, các nhà thơ, nhà văn này ít khi sử dụng những tài
liệu chính do thực tế xã hội đó cung cấp. Mà họ lại hay đi tìm những tài liệu ở ngoài thực tế
đó, có khi rất xa với thực tế đó cả về thời gian lẫn không gian.
Đến nửa cuối thế kỷ XIX, văn học trào phúng Việt Nam đã phát triển thành một dòng
lớn mạnh bên cạnh các dòng văn học khác, với một đội ngũ tác giả đông đảo và những hình
tượng nghệ thuật điển hình. Sự phát triển của văn học trào phúng chứng tỏ sự trưởng thành
vượt bậc của văn học dân tộc trong giai đoạn lịch sử mới, thúc đẩy nhanh quá trình hiện đại
hóa nội sinh, tiến tới hình thành nền văn học cận hiện đại. Tiến trình của một nền văn học

cũng giống như cuộc đời của một con người. Con người ta cũng chỉ thực sự biết cười một
khi đã trưởng thành, đã có đủ trí tuệ, đã biết đến đau khổ và điều quan trọng hơn là đã tự
nhận thức được về những hạn chế của chính bản thân mình. Đó cũng là lúc con người ấy
không chỉ còn biết cười thiên hạ, mà còn biết cười buồn về mình, biết tự trào. Nguyễn


Khuyến – Tú Xương chính là những tác gia tiêu biểu nhất của văn học trào phúng ở giai
đoạn trưởng thành này. Hai ông cũng là hai đại diện cuối cùng và lớn nhất của nền văn học
Việt Nam trung đại ở vào giai đoạn chung cục.
Trong quá trình phát sinh, phát triển lâu dài, Nguyễn Khuyến, Tú Xương là hai ngôi
sao sáng cuối cùng của nền văn học trung đại Việt Nam, và ít hay nhiều cũng là hiện tượng
giao thoa giữa hai thế kỉ. Trong bản hợp ca “nguyền rủa thế tục” thì Nguyễn Khuyến, Tú
Xương là hai cây bút đả kích điển hình nhất, sắc nét nhất.
Nền văn học dân gian và văn học bác học tác động đến sáng tác của Nguyễn Khuyến –
Tú Xương, hình thành nên tiếng cười sắc sảo, độc đáo. Những thói xấu của xã hội suy tàn
không chỉ đến thời đại của Nguyễn Khuyến – Tú Xương mới có, mà trước đó đã xuất hiện.
Nguyễn Khuyến cũng như Tú Xương cảm nhận sâu sắc và từ đó nụ cười của ông thâm thúy
độc địa hơn về bức tranh xã hội phong kiến vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Thực tế xã hội cùng với sự xuống cấp về đạo đức đã tạo nên một Nguyễn Khuyến, một Tú
Xương với những vần thơ độc đáo mà không kém phần độc địa.

1.2.4. Ảnh hưởng truyền thống gia đình và tính cách của nhà thơ
Nguyễn Khuyến sinh trưởng trong một gia đình nhà nho nghèo và thuộc dòng dõi khoa
hoạn nhưng thanh bạch. Nguyễn Khuyến là con cháu mấy đời nhà nho, cả bên nội, bên
ngoại đều là nhà nho. Nhà thơ được hun đúc, nuôi dạy trong tư tưởng tôn quân. Đó là cội rễ.
Song nhờ có khối óc thông minh, đặc biệt là sự nỗ lực, cố gắng của bản thân, ông đã đỗ đầu
ba kì thi Hương, thi Hội, thi Đình, rồi làm quan đến chức tổng đốc của ba tỉnh Sơn – Hưng –
Tuyên. Có thể nói, Nguyễn Khuyến đã được giáo dục và trưởng thành trong khuôn khổ tư
tưởng phong kiến.
Ý thức tư tưởng Nguyễn Khuyến, do đó là ý thức phong kiến nhưng hết sức tiến bộ.

Trước thời cuộc đối với mọi vấn đề, ý thức tư tưởng của Nguyễn Khuyến đều có sự cân
nhắc, day dứt. Ông luôn mang tư tưởng trung quân nhưng ông không chấp nhận sự tha hóa,
nhu nhược của triều đình. Vì thế ông đành cáo quan về ở ẩn. Đó là hành động “lánh đục tìm
trong” thể hiện lòng yêu nước thái độ phản kháng với chữ trung quân mù quáng, chứng tỏ
sự bất hợp tác của nhà thơ. Hơn nữa, đó còn là sự bất lực của ông trước thời cuộc. Bởi vì,
bản thân Yên Đổ không phải là kẻ đầu hàng, nhưng giai cấp của Yên Đổ đã đầu hàng. Bình
sinh Yên Đổ không phải là kẻ thất bại, nhưng Yên Đổ mang tâm lý thất bại của giai cấp
mình, của những người mất nước xung quanh mình.


Cáo quan về ở ẩn nhưng Nguyễn Khuyến không quay lưng với hiện thực. Trái lại, ông
rất quan tâm cho vận mệnh của đất nước. Dù ở ẩn nhưng Nguyễn Khuyến không tìm thấy sự
thanh thản trong cuộc sống an nhàn như Nguyễn Bỉnh Khiêm “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ”,
hay cái ồn ào, phô trương của Nguyễn Công Trứ “Tiêu dao nơi hàn cốc thanh sơn” mà đời
ông lúc nào cũng gắn bó với cảnh thăng trầm của đất nước. Ông vẫn luôn đau đáu một tấm
lòng yêu nước thương dân. Ông căm ghét bọn thực dân xâm lược, căm ghét bọn người theo
giặc làm tay sai cho giặc. Chính vì thế, trong thơ văn ông, ta thấy xuất hiện mảng thơ trào
phúng, thể hiện khí tiết cũng như thái độ phản kháng của nhà thơ. Vì Nguyễn Khuyến là
một nhà nho yêu nước, ông không thể như Lê Hoan, Hoàng Cao Khải, ông cũng không đủ
dũng lực để làm một Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật. Cho nên, ông dùng tiếng cười
trào lộng để phản kháng, để thể hiện thái độ bất hợp tác của mình.
Sau khi đã cáo quan, Nguyễn Khuyến ít đi đây đi đó, lại rất ít bước chân đến chốn thị
thành. Nhưng hễ nghe có tin tức gì có liên quan đến nước, đến dân thì ông tìm cách cảnh
tỉnh đồng bào. Khi thì ông viết bài Hội Tây, khi thì ông viết bài Đấu xảo kí văn (Ghi những
điều nghe thấy trong cuộc đấu xảo) để phơi bày cái tâm địa đểu cáng của bọn quan thầy
thực dân và nhân đó đánh thức tinh thần dân tộc của mọi người.
Trước những sự việc, hiện tượng hay con người là sản phẩm của xã hội thực dân
phong kiến, ngòi bút của ông bao giờ cũng châm biếm, kín đáo, tế nhị, thâm trầm mà sâu
sắc, với một giọng điệu riêng của tiếng cười trào phúng. Nhẹ nhàng, bỡn cợt nhưng thâm
thúy. Tiếng cười ấy có nhiều cung bậc, sắc màu trào lộng khác nhau, và thường ẩn đằng sau

câu chữ, hình tượng mà tác giả dùng.
Nếu Nho giáo đã hun đúc nên một Nguyễn Khuyến khí tiết điềm đạm, thì tư tưởng Lão
Trang lại tạo nên một Nguyễn Khuyến ung dung, phóng khoáng. Nếu đời sống giữa nơi
thôn dã trau dồi tính tình chân thật, giản dị của tác giả thì tâm hồn phong phú của người
nghệ sĩ lại có những rung cảm tế nhị, những phút thành thật xao xuyến. Nguyễn Khuyến còn
là một tâm hồn dễ xúc cảm trước cuộc sống. Từ tình cảm gia đình, bạn bè, tình yêu thiên
nhiên đất nước, yêu sinh hoạt nông thôn, đến lòng yêu nước, yêu dân, người ta thấy ông là
một người có tình cảm tế nhị và phong phú. Đời sống nông thôn ở quê hương Nguyễn
Khuyến là một điều kiện quan trọng trong việc hình thành thơ văn trào phúng của ông. Nhà
thơ chứng kiến cảnh vất vả quanh năm mà “chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa”, cảnh
sống thắt lưng buộc bụng “dưa muối cho qua bữa”, “trầu cau chẳng dám mua”, cảnh sưu


cao nợ nần “phần thuế quan Tây phần trả nợ” (Chốn quê), cảnh vỡ đê lụt lội gây hạn hán,
đói kém triền miên...
Nguyễn Khuyến đã chứng kiến và đã từng sống trong những giây phút ấy. Nhà thơ
đồng cảm với đời sống lao khổ của người dân. Càng thương dân bao nhiêu thì Nguyễn
Khuyến càng căm ghét bọn giặc cướp nước và bọn tay sai bấy nhiêu. Chính vì thế ngòi bút
trào phúng của ông không ngừng đả kích, châm biếm những kẻ thống trị. Thơ văn trào
phúng của Nguyễn Khuyến càng mạnh mẽ hơn, càng sâu sắc hơn khi viết về những thủ
đoạn cướp bóc, hà hiếp người dân của bọn tay sai với những hình ảnh ẩn dụ hết sức độc
đáo.
Suốt cả một đời trừ ba mươi năm hoạn lộ, Nguyễn Khuyến sống với làng quê Yên Đổ,
gắn bó chan hòa với cuộc sống mộc mạc. Bao nhiêu điều bất công, chướng tai gai mắt xảy
ra. Cái nghèo luôn đè nặng lên đôi vai của người nông dân. Từ trong cái nghèo, cái khổ
người ta không còn nghe tiếng khóc, tiếng than mà đã bật thành tiếng cười. Một tiếng cười
chua xót, đớn đau, tiếng cười đả kích, châm biếm sâu cay.
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, những năm đầu của chính quyền thực dân, vùng Bắc
Kì phải chịu liên tiếp, hết hạn đến lụt, nạn mất mùa và đói kém xảy ra thường xuyên. Người
nông dân dưới ngòi bút của ông cần cù, vất vả quanh năm lao lực, những đói nghèo vẫn là

một gánh nặng, một nỗi ám ảnh luôn luôn đeo đẳng. Đói nghèo cộng thêm áp lực của những
ba động lịch sử dữ dội tất nhiên dẫn đến những đảo lộn và tha hóa đối với cuộc sống và con
người. Bao nhiêu nhân cách “dị dạng” được nhà thơ dùng ngòi bút kí họa tài tình ghi lại,
đều là hậu quả xa gần của sự tha hóa không thể cưỡng lại nỗi này.
Bàn đến địa vị của Nguyễn Khuyến trong làng thơ Việt Nam, không thể không nhắc
đến một nhà thơ đồng hương, đồng thời với Nguyễn Khuyến là Trần Tế Xương. Hai nhà thơ
một già, một trẻ, đỗ đạt cao thấp khác nhau, sinh khác thời, chết gần đồng thời, người ẩn cư
nơi xóm làng thanh vắng, kẻ sống giữa chợ xô bồ, người tâm tình đôn hậu, kẻ góc cạnh sắc
sảo, cùng thích châm biếm trào lộng, là một cặp ngẫu nhiên và lí thú của văn học Việt Nam.
Nối sau Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du và một số nhà thơ khác, Nguyễn Khuyến và Trần Tế
Xương là hai nhà thơ xuất sắc, độc đáo cuối cùng của dòng thơ trào phúng Việt Nam thế kỉ
XIX. Như chúng ta đã biết Tú Xương cũng thuộc dòng dõi nhà nho, có một niềm kiêu hãnh
về sự học thâm thúy của mình. Nhà thơ đã được sinh ra trong gia đình ấy nên có ảnh hưởng
lớn đến thơ văn của mình.


Nói đến thơ trào phúng của Tú Xương cần phải gợi lại thời xưa của tỉnh Nam Định.
Bởi vì ảnh hưởng từ quê hương vào trong thơ của Tú Xương rất đậm. Nam Định đã cho thơ
Tú Xương cái sắc màu, cái dáng nét, cái hương vị độc đáo sâu sắc của mình và Tú Xương
đã hiến cho Nam Định cái tài thơ, cái sức bút, cái tâm hồn, cái khát vọng của mình.
Nam Định là tỉnh có truyền thống Hán học lâu đời. Tú Xương được sinh ra và lớn lên
trên mảnh đất ấy. Hồn thơ Tú Xương đã được ươm trồng và nảy nở trên quê hương Nam
Định rất đáng tự hào đó. “Đọc thơ Tú Xương thấy bật lên một địa phương…trong thơ Tú
Xương, trong phú Tú Xương, chỉ rặt có cảnh Nam Định, sự Nam Định, lời Nam Định, người
Nam Định” (Nguyễn Tuân). Thành phố Nam Định thời đó với đầy đủ sắc thái đã được ghi
lại rất đậm trong thơ văn Tú Xương. Đây là một xã hội đang chuyển tiếp sang tư sản.
Vị Hoàng, làng Tú Xương vốn lâu đời có nhiều người Nho học. Nhưng học chữ Nho
tàn dần, thi cử những khoa cuối cùng thì không còn trường thi nữa. Nước đã mất. Xã hội
biến thiên. Các nhà nho nhìn thấy đạo đức truyền thống suy đồi. Bên cạnh đó, phố Hàng
Nâu xưa là một cái phố lam lũ của người lao động chân tay. Nó cũng là cái phố của những

nhà nho thanh bạch…
Đối với Tú Xương, một con người chỉ sống quẩn quanh ở thành phố quê hương, điều
đập vào mắt ông rõ rệt nhất là những cái lố lăng, kỳ quặc của xã hội vào buổi giao thời ấy
và nhà thơ đã ghi lại rất sinh động, những người những cảnh, những tập tục của nó… Thành
phố Nam Định bắt đầu mở mang. Bọn thực dân, bọn giàu có, thế lực chiếm hết các phố lớn,
phố sang, phố đông. Các nhà nho ở ngoại ô tất cả bị bật ra rìa thành phố.
Con người Nam Định, con người đất lề quê thói, đất học, đất thuần nông, rất chi là
thuần hậu, lễ giáo. Thế nhưng trên mảnh đất thuần hậu đó, lại vang lên một tràng cười thật
mãnh liệt. Và hình như đó là tràng cười duy nhất!
Học hành lỗi lạc, văn chương hay, song vì sinh vào giữa một thời đại có nhiều chuyện
đổi thay, bất lợi cho nước mình, nên ông chán nản. Nhất là những điều trông thấy hàng
ngày, anh dốt nổi danh, kẻ nịnh nọt bợ đỡ thì giàu có và danh giá, người tài không được
trọng dụng, mà chủ trương của hầu hết mọi người trong xã hội là làm thầy phán, thầy kí hay
đóng khố đỏ, khố xanh. Tất cả những cái đó đã làm cho ông Tú uất hận sinh ra một giọng
ngạo nghễ, có khi gay gắt và do đó nảy nở một tâm hồn muốn phá vỡ những cái thối nát đi.
Nhưng lúc đó cuộc khởi nghĩa của Kì Đồng thất bại, sĩ tử bị tù đày rất nhiều, ông Tú không
thể làm gì khác hơn là xuất phát một cách e dè kín đáo tâm tình của mình trong những bài
thơ cảm hoài.


Tú Xương đành trốn vào cái thời đại của mình mà sống một cách bế tắc, ngột ngạt, ông
Tú tức tối về hoàn cảnh của mình và luôn luôn muốn tự cởi mở ra. Nhưng tự cởi mở không
được, một người kém thế còn biết làm gì hơn là dùng cái khí giới của kẻ yếu là giọng văn
trào phúng để khinh thế ngạo vật để mỉa mai những người và vật ở chung quanh. Thơ châm
biếm của Tú Xương sinh ra từ đấy và ta thấy nhà thi sĩ Vị Xuyên không từ một hạng người
nào mà không đem ra phúng thế.
Xã hội thay cũ đổi mới chính là dịp tốt cho thơ trào phúng phát triển. Chế độ thực dân
nửa phong kiến hình thành là một dịp như vậy. Những người thị dân của các thành phố bước
vào đời sống xã hội: họ có cái nhìn mới, nhưng là đối tượng lạ hoắc đối với nhà nho và
nông dân – những nhân vật cũ. Đề tài khôi hài, châm biếm đả kích xuất hiện khắp nơi. Cái

cũ lỗi thời trở thành lố bịch và cái mới chưa quen mắt cũng trở thành ngờ nghệch. Người cũ
cười chế giễu cái mới và người mới cũng cười, chế giễu cái cũ. Có cách cười để lên án, có
cách cười để giễu cợt, để đùa. Có cái tự trào của cái già nua đơn chiếc và cũng có cái tự trào
hả hê của cái hãnh tiến, hợm hĩnh. Tài năng của Nguyễn Khuyến – Tú Xương hình thành
trong điều kiện đó. Đồng thời hai nhà thơ này đã đưa thơ trào phúng phát triển thành một
dòng nối tiếp không dứt.
Phải đến Nguyễn Khuyến – Tú Xương, trong văn học Việt Nam mới có hai nhà thơ
thật sự hứng thú với trào phúng. Nhà thơ không những đặc biệt chú ý đến những cảnh
chướng tai, gai mắt trong thực tế, mà còn thích thú dùng cái cười để đả kích. Với thi sĩ, thơ
trào phúng thành một dòng riêng và mỗi nhà thơ đã để lại trong đó một phong cách riêng,
một cái cười mang bản sắc riêng.
Sự cộng hưởng của ba yếu tố: truyền thống gia đình, quê hương và tính cách của
Nguyễn Khuyến – Tú Xương, được đặt trong hoàn cảnh xã hội giao thời, đã hình thành
những vần thơ trào phúng thâm trầm, nhẹ nhàng, kín đáo như Nguyễn Khuyến và chua cay,
sắc cạnh, độc địa như Tú Xương.


CHƯƠNG 2
ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG GIỮA BÚT PHÁP TRÀO PHÚNG TRONG
THƠ VĂN CỦA NGUYỄN KHUYẾN VÀ TÚ XƯƠNG
2.1. Điểm tương đồng trong việc sử dụng ngôn ngữ trào phúng
2.1.1. Nghệ thuật sử dụng từ ghép với việc thể hiện nội dung trào
phúng
Từ ghép là từ được hình thành bởi hai hay nhiều yếu tố kết hợp lại với nhau thành một
thể hoàn chỉnh không phân chia ra được, có giá trị rõ ràng về mặt ngữ pháp dùng để biểu
đạt một khái niệm nhất định. Cho nên chúng có những đặc điểm cơ bản: cấu tạo chặt chẽ,
tính thành ngữ về nghĩa, tính kết hợp không quy tắc [47; tr.47]. Hay nói cách khác, từ ghép
là những từ có hai hoặc hơn hai tiếng được ghép lại với nhau dựa trên quan hệ ý nghĩa.
Nguyễn Khuyến – Tú Xương đã sáng tạo và vận dụng từ ghép một cách linh hoạt trong thơ
văn trào phúng của mình. Từng từ, từng ngữ được đặt đúng nơi, đúng vị trí tạo nên giá trị

trào lộng rất cao.
Từ ghép được phân thành hai loại: ghép đẳng lập và ghép chính phụ. Mỗi loại từ ghép
đều có sức công phá ghê gớm của riêng nó. Nguyễn Khuyến – Tú Xương dùng nó như một
loại vũ khí đắc lực nhất để phục vụ cho cuộc chiến chống lại những điều xấu xa, đồi bại
trong xã hội nhố nhăng này.
Ông nghè tháng Tám là đồ chơi của trẻ con, nhưng mới nhìn, ông cũng đẹp đẽ, oai vệ
lắm. Ai dám gọi ông là đồ chơi, đồ tầm thường, mọi người từ lớn đến bé đều gọi ông là ông
nghè cả.
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi
(Tiến sĩ giấy)
Cái tài tình của Nguyễn Khuyến là dùng chữ “mảnh giấy” vừa để chỉ việc thi cử cần
đến giấy mực mà vừa cho ta biết ông nghè này bằng giấy. Chữ “nét son” cũng vậy. Son
dùng để chấm bài thi và nhờ cao điểm nên ông đỗ ông nghè, làm rạng mặt nho sinh. Nhưng
đồng thời chữ “nét son” cũng cho ta biết ông Nghè sở dĩ có được vẻ văn khôi là nhờ anh


×