Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

tố tâm với thể loại tiểu thuyết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.91 KB, 61 trang )

Trờng đại học Vinh
Khoa Ngữ văn
=== ===

Khóa luận tốt nghiệp đại học
Ngành cử nhân khoa học ngữ văn

"Tố tâm" với thể loại tiểu thuyết

Giáo viên hớng dẫn:
Sinh viên thực hiện:

Lê Văn Tùng
Lê Thị Huê

Vinh 2005
= =

Mục Lục

Trang
A. Mở đầu............................................................................................................
1. Lý do chọn đề tài..............................................................................................
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu................................................................................
3. Phơng pháp nghiên cứu....................................................................................
4. Giới hạn đề tài...................................................................................................
5. Nhiệm vụ khoa học...........................................................................................


B. Nội dung.........................................................................................................


Chơng I: Về tiểu thuyết và lịch sử tiểu thuyết..................................................
1.1. Thể loại tiểu thuyết........................................................................................
1.2. Tiểu thuyết trong lịch sử văn học: Thế giới - Việt Nam...............................
1.3. Khái niệm tiểu thuyết hiện đại....................................................................
1.3.1. Tiểu thuyết hiện đại............................................................................
1.3.2. Khái quát các chặng đờng phát triển của tiểu thuyết hiện đại từ
đầu thế kỷ XX đến 1945.....................................................................
Chơng 2: "Tố Tâm" nhìn từ góc độ thể loại tiểu thuyết...............................
2.1. Giới thiệu khái quát về Hoàng Ngọc Phách và "Tố Tâm".........................
2.1.1. Về Hoàng Ngọc Phách.......................................................................
2.1.2. Đề tài - chủ đề - nội dung t tởng của "Tố Tâm".................................
2.2. "Tố Tâm" với các đặc trng thể loại tiểu thuyết...........................................
2.2.1. "Tố Tâm" tiếp cận thực tại qua góc nhìn đời t...................................
2.2.2. Chất văn xuôi trong tiểu thuyết "Tố Tâm".....................................
2.2.3. Nhân vật trong tiểu thuyết "Tố Tâm" là những con ngời nếm trải
.............................................................................................................
2.2.4. "Tố Tâm" chứa đựng nhiều yếu tố ngoài cốt truyện..........................
2.3. Thành công và vị trí của "Tố Tâm" nh một tiểu thuyết hiện đại................
Chơng 3: "Tố Tâm" với sự phát triển tiểu thuyết hiện đại từ sau
1932 - 1945....................................................................................
3.1. "Tố Tâm" với tiểu thuyết lãng mạn Tự Lực văn đoàn............................
3.2. "Tố Tâm" với tiểu thuyết hiện thực phê phán.............................................
C. Kết luận......................................................................................................
Tài liệu tham khảo......................................................................................

Lời cảm ơn
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo Lê Văn Tùng,
ngời đã gợi ý đề tài và tận tâm hớng dẫn tôi trong suốt quá trình
làm khóa luận.
Tôi cũng nhận đợc sự giúp đỡ của các thầy cô trong khoa Ngữ

văn, nhất là các thầy cô trong tổ Văn học Việt Nam hiện đại.
Một lần nữa, tôi xin cảm ơn thầy giáo hớng dẫn và các thầy cô
giáo, bạn bè đã giúp đỡ, động viên tôi hoàn thành khóa luận này.
=2=


Vinh, tháng 5 năm 2005.
Tác giả

Lê Thị Huê

A. Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử văn học Việt Nam, thập kỷ 20 của thế kỷ XX có một vị trí
vô cùng trọng đại. Đó là khoảng thời gian đệm tích tụ năng lợng cho một cuộc
nhảy vọt, là mối giao thoa văn hoá Đông - Tây kim cổ, là thời điểm diễn ra
cuộc tranh giành kịch liệt giữa cái cũ - vốn đã tồn tại lâu trong quá khứ với cái
mới - đang đợc du nhập ồ ạt từ bên ngoài vào. Và đây cũng là lúc nền văn học
Việt Nam đang bớc những bớc dài để chuyển mình từ phạm trù trung đại sang
phạm trù hiện đại mà dấu hiệu rõ nhất là tiểu thuyết Tố Tâm, một điểm mốc
đặc biệt trên hành trình phát triển của văn học và tiểu thuyết Việt Nam hiện
đại.
Ngời ta gọi Hoàng Ngọc Phách là nhà văn của một cuốn sách, cuốn
sách đó là tiểu thuyết Tố Tâm. Mặc dù chỉ vẻn vẹn trong vòng một trăm
trang nhng lại chứa đựng nhiều điều khá mới mẻ, đã giải quyết đợc khá trọn
vẹn và đúng hớng yêu cầu cấp bách, nhức nhối mà lịch sử đặt ra trên bình diện
văn học, ông đã nâng thể loại tiểu thuyết lên một bớc mới - tiểu thuyết tâm lý,
khác với tiểu thuyết truyền thống - tiểu thuyết đạo lý. Phá vỡ kết cấu của tiểu
thuyết cổ điển hội ngộ, lu lạc, đoàn viên, tác giả đa vào trong tác phẩm của
=3=



mình mối tình đẹp đẽ, thơ mộng nhng rồi tan vỡ và một trong hai nhân vật
chính phải chết. Ngay hình thức kể chuyện cũng vậy, tiểu thuyết một phần là
câu chuyện kể bằng ngôi thứ nhất, một phần là những bức th và một phần là
nhật ký. Đây là một cách viết rất mới mẻ.
Do đó tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách đã trở thành một
hiện tợng văn học lý thú, đợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Tuy nhiên các
công trình từ trớc đến nay mới chỉ quan tâm, chú ý tới những d luận xã hội, sự
đối lập giữa cái mới và cái cũ mà cha thực sự quan tâm đến vấn đề về thể loại.
Việc lựa chọn đề tài này có ý nghĩa quan trọng, một mặt nó thể hiện những
thành công của Hoàng Ngọc Phách ở thể loại tiểu thuyết, mặt khác ngời đọc
nhận thấy đợc sự phát triển của thể loại tiểu thuyết ở Việt Nam là phát triển
theo đúng quy luật của lịch sử và đi đúng quy luật của quá trình giao lu văn
hoá.
Khảo sát tiểu thuyết Tố Tâm giúp chúng ta phần nào thấy vai trò vị trí
mở đầu và cả những hạn chế của tiểu thuyết lãng mạn ở thời kỳ đầu, mở đờng
cho tác phẩm lãng mạn sau này nh tiểu thuyết của Tự Lực văn đoàn có thể đạt
đợc những thành tựu cao hơn trong sáng tạo nghệ thuật.
Mặt khác trong quá trình giảng dạy các tác phẩm văn học lãng mạn
trong nhà trờng phổ thông, do nhiều yếu tố chi phối, việc dạy và học còn rất
nhiều bất cập, giáo viên và học sinh nhiều lúc cha dám đi sâu vào toàn bộ tác
phẩm. Việc nghiên cứu đề tài này giúp cho việc giảng dạy các tiểu thuyết Việt
Nam hiện đại một cách có căn cứ lý thuyết, căn cứ thực tiễn, phản ánh đúng
quy luật phát triển của tiểu thuyết.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Lịch trình tìm hiểu, nghiên cứu Tố Tâm và Hoàng Ngọc Phách đã có
hơn nửa thế kỷ và có khoảng trên 300 công trình, bài viết. Nhng khi trong d
luận đang xôn xao, sôi nổi về cuốn tiểu thuyết mới lạ thì phát ngôn chính
thống trên báo chí của giới nghề nghiệp lại hết sức dè dặt. Trong một bài phát

biểu của mình năm 1922 Lê Hữu Phúc nêu lên một vấn đề cũng chính là băn
khoăn của tác giả. Quyển tiểu thuyết ra đời khi sớm quá lại viết theo lối mới
ta cha từng xem quen. Đây là có thể xem là công trình đầu tiên nghiên cứu về
"Tố Tâm".
Trong những năm 30 của thế kỷ XX, Tố Tâm đợc nhiều tác giả quan
tâm nghiên cứu bởi nó là tác phẩm có giá trị đột phá trong nghệ thuật nh các
bài viết, tiểu luận của Thiếu Sơn, Trúc Hà, Trơng Tửu...đăng trên các báo, tạp
chí. Tuy nhiên các tác giả này chú trọng vào tiếng nói xã hội, những cách tân
=4=


nghệ thuật. Năm 1935 trên báo Loa, Trơng Tửu tập trung nghiên cứu hai vấn
đề mà Hoàng Ngọc Phách đặt ra trong tác phẩm: Đôi trai gái lãng mạn gần
nhau có thoát đợc ái tình không? ái tình ấy ở hiện trạng xã hội bây giờ gặp
những trở lực gì và gây những tai hoạ gì ?
Trong một bài điều tra về thanh niên An Nam năm 1938 cũng đã khẳng
định công lao của Hoàng Ngọc Phách: Trớc Tố Tâm, tiểu thuyết là một chuỗi
dài sự kiện chồng chéo lên nhau, có nhiều lúc lần không ra, nhng rồi cuối
cùng không thể nào khác vẫn dẫn đến một sự giáo dục về đạo lý. Ông Hoàng
Ngọc Phách dù đã thanh minh nhiều lần nhng vẫn có can đảm viết cuốn tiểu
thuyết thực sự là tiểu thuyết. Ông đặc biệt có can đảm làm cho tiểu thuyết
không phải chỉ kể lể sự kiện mà là chân dung của những tâm hồn.
Nhìn chung trong những năm 30, chúng ta cha thấy xuất hiện những
công trình đáng kể nào nghiên cứu về "Tố Tâm" và Hoàng Ngọc Phách. Chỗ
đứng vẻ vang mà "Tố Tâm" giành đợc chỉ kéo dài trong khoảng 10 năm không
phải do nó mà chính tại những tiểu thuyết viết rập khuôn theo kiểu của nó đặc
biệt phải kể đến những tiểu thuyết của Tự Lực văn đoàn, khi nó ra đời đã
chiếm đợc vị trí trong lòng độc giả thì "Tố Tâm" chỉ còn đợc đón nhận một
cách vừa phải nếu không nói là hững hờ và lãng quên. Trớc nghịch cảnh đó
Thạch Lam đã rút ra một vài nhận xét không phải là không có phần vội vã:

Tố Tâm bây giờ không còn ai nhắc đến, cuộc kén chọn của thời gian đã lôi
cuốn tiểu thuyết đó nh nhiều tiểu thuyết của các văn sĩ khác.
Ngay lập tức ngời ta đã bác lại ý kiến của ông. Trong nhà văn hiện đại
(quyển 2) ở mục Hoàng Ngọc Phách, Vũ Ngọc Phan lên tiếng trách cứ các
nhà phê bình đã phạm vào một điều lầm lớn là không biết đặt "Tố Tâm" vào
thời đại của nó để thấy hết những giá trị thời đại mà quyển tiểu thuyết
nổi tiếng một thời ấy chứa đựng.
Cũng thống nhất với ý kiến của tác giả nhà văn hiện đại, Trơng Chính
trong Dới mắt tôi cũng khẳng định: cuốn tiểu thuyết đã đợc nhiều ngời
hoan nghênh và hình nh đã chiếm đợc một chổ chắc chắn trong văn học Việt
Nam hiện đại. Các bài viết này đã nhận thấy đợc giá trị đích thực của cuốn
tiểu thuyết. Tuy nhiên vẫn cha có một công trình nào nghiên cứu tác phẩm
một cách toàn diện đặc biệt là về thể loại.
Trong khoảng thời gian từ 1945 - 1954 do tình hình lịch sử, nhiệm vụ
chính trị chi phối quan niệm nghệ thuật đa tới sự cảnh giác quá lớn đối với
những hiện tợng văn chơng lãng mạn nên tiểu thuyết ít đợc nghiên cứu và
nhắc đến.
=5=


Phải từ năm 1954 trở đi, tiểu thuyết của Hoàng Ngọc Phách mới đợc
nhiều tác giả nghiên cứu với những công trình lớn nhỏ, đáng kể nhất là Phạm
Thế Ngũ, tác giả của cuốn Việt Nam văn học sử giản ớc tân biên đã đi vào
nghiên cứu một số vấn đề có thể xem là khá mới mẻ thời bấy giờ, đó là vấn
đề: hoàn cảnh và chủ ý của tác giả khi viết, vấn đề nghệ thuật mới và hiệu ứng
của nó đối với ngời đơng thời. Tiếp đó là sự ra đời của một loạt công trình
nghiên cứu: Song An Hoàng Ngọc Phách - Ngời của một cuốn sách của Vũ
Bằng năm 1970 (Tạp chí văn học số 113/ 1970). Từ truyện thơ đến tiểu
thuyết Tố Tâm: Sự phát triển của tiểu thuyết văn xuôi ở Việt Nam của Cao Thị
Nh Quỳnh, John Schafer năm 1985 (Tập san nghiên cứu Châu á 1988).

Vào những năm đổi mới "Tố Tâm" đợc nghiên cứu trên nhiều bình diện
sâu rộng hơn, đặc biệt năm 1989 Tuyển tập Hoàng Ngọc Phách gồm "Tố
Tâm" và một số truyện ngắn, hồi ký, bản thảo của ông đợc xuất bản đã đánh
dấu một mốc quan trọng trong quá trình nghiên cứu Hoàng Ngọc Phách và tác
phẩm của ông. Đặc biệt năm 1966 nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của
Hoàng Ngọc Phách, để tởng nhớ đến công lao và đóng góp to lớn của ông,
Nguyễn Huệ Chi đã cho xuất bản công trình nghiên cứu Hoàng Ngọc Phách Đờng đời và đờng văn (Hội Nhà văn Việt Nam - 1966) tập hợp khá đầy đủ và
có chọn lọc những bài nghiên cứu, phê bình, bình luận trong toàn bộ sáng tác
của Hoàng Ngọc Phách của các tác giả trong và ngoài nớc.
Tuy nhiên cha có một công trình nào nghiên cứu "Tố Tâm" trong vai trò
tiên phong mở đầu cho thể loại tiểu thuyết hiện đại. Luận văn này là công
trình đầu tiên nghiên cứu một cách công phu và có hệ thống về vai trò của nó,
đánh dấu một bớc phát triển mới của thể loại tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.

=6=


3. Phơng pháp nghiên cứu
Tiểu thuyết "Tố Tâm" ra đời trong thời điểm nhạy cảm của lịch sử, đó là
nền văn học Việt Nam đang chuyển dần từ phạm trù trung đại sang phạm trù
hiện đại. Vì vậy khi tiếp cận tác phẩm phải đặt nó vào quá trình vận động của
nền văn học nói chung và sự phát triển của thể loại tiểu thuyết nói riêng để
thấy đợc "Tố Tâm" là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tiểu thuyết Việt Nam hiện
đại. Nó xuất hiện trên văn đàn không phải là một hiện tợng kỳ dị, đột biến mà
nó là kết quả của một quá trình vận động.
Đề tài thuộc phạm vi nghiên cứu về thi pháp thể loại tác phẩm nên mọi
nhận định đánh giá ngời viết đa ra đều xuất phát từ các yếu tố trong văn bản
ngôn từ, đồng thời có sự so sánh, đối chiếu với các tác phẩm khác có giá trị ra
đời trớc và sau nó để từ đó có thể mở rộng tìm hiểu sự phát triển của thể loại
tiểu thuyết.

Từ nguyên tắc trên, ta có thể áp dụng các biện pháp sau để nghiên cứu
đề tài: So sánh "Tố Tâm" với các tác phẩm ra đời trớc và sau nó nh so sánh với
tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Trọng Quản, tiểu thuyết của Tự Lực
văn đoàn, hiện thực phê phán. Để từ đó thấy đợc vai trò mở đầu của nó so với
tiểu thuyết truyền thống và những hạn chế của nó so với những tiểu thuyết sau
này.
4. Giới hạn đề tài
Mặc dù Hoàng Ngọc Phách không chỉ có tiểu thuyết "Tố Tâm" nhng do
thời gian và trình độ có hạn nên chúng tôi tìm hiểu, nghiên cứu và khảo sát
dựa vào văn bản in trong cuốn Hoàng Ngọc Phách đờng đời và đờng văn
của tác giả Nguyễn Huệ Chi, do Nhà xuất bản văn học năm 1996 (Đây là bản
in đúng theo bản in của Nhà xuất bản Nam Ký, Hà Nội).
Vấn đề trọng tâm của đề tài đó là vấn đề thi pháp về thể loại của tác
phẩm. Từ đó đi tới nhìn nhận, đánh giá tiểu thuyết "Tố Tâm" - cột mốc mở
đầu, đặt nền móng cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
5. Nhiệm vụ khoa học
Đi vào tìm hiểu đề tài "Tố Tâm" với thể loại tiểu thuyết để có cái nhìn
đầy đủ hơn, toàn diện hơn về sự vận động và phát triển của thể loại tiểu
thuyết, ra đời không phải bất ngờ ngẫu nhiên mà nó là cả một quá trình. Vậy
nên ngời thực hiện đề tài này phải chỉ ra đợc vai trò quan trọng mở đầu của
"Tố Tâm" và những đóng góp của Hoàng Ngọc Phách đối với thể loại mới mẻ
=7=


này. Sau đó phải làm rõ những cái mà nó đã đạt đợc so với yêu cầu của thể
loại tiểu thuyết hiện đại và những hạn chế do thời đại quy định.

=8=



B. Nội dung
Chơng 1:

Về tiểu thuyết và lịch sử tiểu thuyết
1.1. Thể loại tiểu thuyết
Việc nghiên cứu tiểu thuyết với t cách là một thể loại vấp phải những
khó khăn đặc biệt. Đó là do tính đặc thù của bản thân khách thể này: Tiểu
thuyết là thể loại văn chơng đang biến chuyển và còn cha định hình
(M.Bakhtin). Những lực cấu thành thể loại còn đang hoạt động trớc mắt chúng
ta. Nòng cốt thể loại của tiểu thuyết cha hề rắn lại và chúng ta cha thể dự đoán
đợc hết khả năng uyển chuyển của nó. Chính vì vậy xây dựng lý thuyết tiểu
thuyết là cực kỳ khó khăn.
Thực ra lý thuyết ấy có một khách thể hoàn toàn khác với lý thuyết các
thể loại kia. Đó là thể loại duy nhất nảy sinh và đợc nuôi dỡng bởi thời đại
mới của lịch sử thế giới mà vì thế mà thân thuộc, sâu sắc với thời đại ấy. Trong
khi đó thì các thể loại lớn khác chỉ đợc thời đại mới kế thừa ở dạng hoàn tất và
chúng chỉ thích nghi khá hơn hoặc kém hơn với những điều kiện sinh tồn mới.
So với chúng thì tiểu thuyết là một sinh linh thuộc giống nòi khác. Nó khó
sống chung với các thể loại kia. Nó đấu tranh giành lại địa vị thống trị trong
văn chơng và nơi nào nó u thắng, ở đấy những thể loại khác, thể loại cũ bị
phân hoá.
Tiểu thuyết là thể loại văn chơng duy nhất luôn luôn biến đổi, do đó nó
phản ánh sâu sắc hơn, nhạy bén hơn sự biến chuyển của bản thân hiện thực.
Chỉ kẻ biến đổi mới hiểu đợc sự biến đổi. Tiểu thuyết sở dĩ đã trở thành nhân
vật chính trong tấn kịch phát triển văn học thời đại mới bởi vì nó là thể loại
duy nhất do thế giới ấy sản sinh ra nên nó đồng nhất với thế giới ấy về mọi
mặt. Tiểu thuyết về nhiều phơng diện đã và đang báo trớc sự phát triển tơng lai
của toàn bộ văn học. Vì thế một khi đã chiếm lĩnh đợc vị trí thống trị, nó xúc
tác làm đổi mới tất cả các thể loại khác, nó làm chúng lây nhiễm tính biến đổi
và tính không hoàn thành. Nó lôi cuốn chúng một cách đầy quyền lực vào quỹ

đạo của mình, chính bởi vì quỹ đạo ấy trùng hợp với phơng hớng phát triển cơ
bản của toàn bộ văn học. Vị trí cực kỳ quan trọng của tiểu thuyết nh một đối tợng nghiên cứu cho cả lý luận và lịch sử văn học là ở chỗ đó.
Quá trình biến đổi của tiểu thuyết cha kết thúc. Ngày nay, nó đang bớc
vào một giai đoạn mới. Nét đặc thù của thời đại là thế giới trở nên phức tạp và
sâu sắc phi thờng, tính đòi hỏi cao, tính tỉnh táo và óc phê phán của con ngời
=9=


cũng tăng trởng phi thờng. Những đặc điểm đó sẽ ấn định cả sự phát triển của
tiểu thuyết.
1.2. Tiểu thuyết trong lịch sử văn học thế giới - Việt Nam.
Không phải ngẫu nhiên mà thể loại tiểu thuyết chiếm vị trí trung tâm
trong hệ thống thể loại văn hoc cận đại, hiện đại. Đúng nh nhà bác học ngời
Nga M. Bakh tin nhận định: Tiểu thuyết là thể loại văn chơng duy nhất đang
biến chuyển và còn cha định hình.
1.2.1. Tiểu thuyết trong lịch sử văn học thế giới.
ở Châu Âu tiểu thuyết xuất hiện vào thời kỳ xã hội cổ đại tan rã cũng
nh văn học cổ đại suy tàn, cùng lúc dó con ngời đã xuất hiện ý thức cá nhân.
Cho nên các tiểu thuyết cổ đại của Hy Lạp, La Mã không thể đứng chen vai
với anh hùng ca, bi kịch, hài kịch cổ đại nữa. Cá nhân lúc ấy không còn cảm
thấy lợi ích và nguyện vọng của nó gắn liền với cộng đồng xã hội cổ đại,
nhiều vấn đề của đời sống riêng t đặt ra gay gắt. Số phận họ bị đe doạ bởi sự
cớp bóc trên các nẻo đờng, bị chiến tranh giành giật lãnh thổ đẩy vào cảnh
sống chết bất trắc, bị các nhà đơng cục bóc lột tàn nhẫn, con ngời ý thức đợc
thực trạng trơ trọi không nơi bấu víu của họ. Nhà lý luận Biêlinxki phân tích
nguồn gốc tiểu thuyết đã viết rằng tiểu thuyết bắt đầu phát sinh từ lúc Vận
mệnh của con ngời, mọi mối liên hệ của nó với đời sống nhân dân đợc ý thức.
Vì vậy đời cá nhân bất luận thế nào cũng không thể là nội dung của anh hùng
ca Hy Lạp, nhng có thể là nội dung của tiểu thuyết [13, 387]
ở chặng đầu tiên tiểu thuyết Châu Âu thờng ngắn đơn giản ngẫu nhiên

và có nhiều yếu tố hoang đờng. Chẳng hạn tiểu thuyết Hy Lạp cổ thờng kể về
những chuyện ly kỳ ngẫu nhiên xảy ra đối với số phận một con ngời, của đôi
tình nhân, những chuyện phiêu lu mạo hiểm. Chẳng hạn Truyện lừa vàng
của Apulây (khoảng 124 - 175) kể chuyện một thanh niên uống nhầm thuốc
bùa và biến thành con lừa, rồi bị một bọn cớp mang đi lần lợt bị bán làm việc
kéo cối xay bột, thồ hàng cho lính rồi lại bị bán cho nhà giầu để giết thịt, sau
nhờ có vị nữ thần cứu lại làm ngời và liền đi tu. Hoặc nh truyện tình yêu thì
thờng là đôi thanh niên nam nữ gặp nhau liền yêu nhau, cha kịp cới thì bị cớp
hoặc cha mẹ không thuận. Đôi tình nhân bỏ trốn thì gặp cớp, bị đắm thuyền,
bị bán làm nô lệ. Cuối cùng sau bao nhiêu phiêu lu mạo hiểm lại gặp nhau và
đám cới đợc tiến hành.
Nh vậy, sự quan tâm đời t con ngời nh một nét đặc trng của thể loại tiểu
thuyết thoạt đầu đã hình thành từ thời cổ đại. Con ngời một mình đối diện với
= 10 =


sự biến hoá, bất ngờ của môi trờng và muốn tồn tại, con ngời phải đem phẩm
chất, tài trí, kinh nghiệm cá nhân mà chọi lại với mọi sự can thiệp của số
phận. Và t duy tiểu thuyết cũng xuất hiện với sự tái hiện đời sống trên quan
điểm của con ngời riêng lẻ.
ở thời trung cổ khoảng thế kỷ XI - XII phổ biến ở Châu Âu là tiểu
thuyết hiệp sĩ, nhân vật chính thờng là những ngời giang hồ tài giỏi, tôn thờ lý
tởng chống cái ác và tiểu thuyết hiệp sĩ này thờng gắn với những câu chuyện
tình. Hiệp sĩ phải phiêu lu qua các vơng quốc và lâu đài khác nhau, đem tài trí
mà lập các chiến công kỳ lạ để đợc khẳng định trong tình yêu của một ý trung
nhân. Đến cuối thế kỷ XIII, loại tiểu thuyết này mất dần.
Từ thế kỷ XIII trở đi, ở Châu Âu đặc biệt là ở Tây Ban Nha bắt đầu hình
thành và phổ biến loại tiểu thuyết bợm nghịch, du đãng, nhân vật chính trong
tiểu thuyết là những gã du đãng, tài giỏi đi giang hồ từ vùng này sang vùng
khác và nhiều khi đó là những tên lừa đảo, trộm cớp.

Giai đoạn mới của tiểu thuyết bắt đầu từ thời Phục Hng Châu Âu
(khoảng thế kỷ XIV - XVI) khi xảy ra quá trình giải phóng con ngời khỏi thần
quyền của nhà thờ, khi con ngời bắt đầu ý thức nh một thực thể xã hội, tính
trần tục cụ thể trong các quan hệ xã hội và điều kiện xã hội, lý tởng nhân văn
đợc khẳng định, tôn thờ lẽ sống tự nhiên, miêu tả rộng lớn tất cả các quan hệ
cá nhân và xã hội gắn liền với ý thức phê phán hoàn cảnh làm cho tiểu thuyết
thời kỳ này có bộ mặt mới. Chi tiết sinh hoạt, chi tiết lịch sử, phong tục tăng
lên, kết cấu mở rộng. Yếu tố phiêu lu mang một chức năng mới: Mở rộng diện
quan sát, nghiên cứu và phê phán hiện thực. Păngtagruyen của Rabơle và
Đônkihôtê của Xecvantex đã phê phán mọi mặt xã hội phong kiến trung cổ
và cả mặt hạn chế của quan hệ t bản, khẳng định nhu cầu mọi mặt của con ngời, từ vật chất đến tinh thần.
Thế kỷ XVIII - XIX đặc biệt là thế kỷ XIX hai trờng phái hiện thực và
lãng mạn đã xuất hiện các nghệ sĩ bậc thầy nh Xtăngđan, Bandắc, ThaCơ Rây,
Đickenx, Gôgôn, Tuôcghênhép, Đôxtôiepxki, L.Tônxtôi... Thể loại tiểu thuyết
đã đạt đến sự nảy nở trọn vẹn, sự miêu tả đời sống riêng t với những lợi ích
dục vọng cá nhân đều gắn liền với tính khái quát có tầm vóc lịch sử xã hội
rộng lớn, xây dựng những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Về
nội dung thể loaị, tiểu thuyết thế kỷ XIX kết hợp nội dung đời t với nội dung
thế sự, một số tác phẩm kết hợp với nội dung lịch sử dân tộc. Quy mô tiểu
thuyết đạt đến tầm vóc lớn lao đồ sộ cha từng có nh bộ Tấn trò đời của

= 11 =


Bandắc, Dòng họ RugôngMacca của Dôla, Chiến tranh và hoà bình của
L.Tônxtôi.
Còn ở Trung Quốc, khái niệm tiểu thuyết xuất hiện từ rất sớm, ngay từ
thời nhà Tần (Thế kỷ III TCN) trong sách của Trang Tử. Theo Lỗ Tấn, tiểu
thuyết Trung Quốc ra đời, vận động phát triển qua các thời kỳ:
ở thời Nguỵ Tấn (Thế kỷ III - IV) xuất hiện dới dạng Chí quái, Chí

nhân - chuyện ghi chép những việc quái dị hoặc những việc thuộc sinh hoạt
cá nhân của các danh sĩ ở ngoài giới hạn kinh sử. Do vậy loại tiểu thuyết này
cực kỳ ngắn, đơn giản và có nhiều yếu tố hoang đờng.
Đến đời Đờng, giai cấp phân hoá, đối lập sâu sắc, lại thêm thành thị
phát triển tạo cơ sở cho loại văn học ngoài kinh sử phát triển. Cũng nh ở phơng Tây, tiểu thuyết truyền kỳ đời Đờng thể hiện những nhu cầu đời sống cá
nhân, phê phán các thói tục xấu xa hoặc sự bất bình đẳng xã hội, khẳng định
các phẩm chất tính cách cá nhân tốt đẹp nh ca ngợi tình vợ chồng, tình yêu
chung thuỷ... Do vậy nó gần gũi với cuộc đời, ngoài ra là các truyện hiệp
khách, truyện tìm tiên học đạo thể hiện t tởng h vô kiểu đời ngời nh mộng,
phú quý nh khói.
Tiểu thuyết thoại bản đời Tống (khoảng thế kỷ XI - XIII) ở Trung Quốc
các đô thị phát triển, xuất hiện tầng lớp thị dân cho nên có các nghệ nhân kể
chuyện để phục vụ cho tầng lớp này, thờng là truyện kể từng đêm theo sự tích
lịch sử hoặc kinh truyện mà theo Lỗ Tấn các thoại bản này chính là cơ sở cho
sự ra đời của tiểu thuyết chơng hồi Minh - Thanh. Tiểu thuyết thoại bản đời
Tống tiếp tục thể hiện cuộc đời số phận và phẩm chất cá nhân trong đời sống.
Đến đời Minh - Thanh thì đây là thời kỳ phát triển rực rỡ của tiểu
thuyết. Tiểu thuyết đời Minh thờng khai thác đề tài lịch sử, thể hiện tinh thần
nghĩa hiệp, do vậy mà có giọng điệu hào hùng, hoành tráng nh bộ tiểu thuyết
chơng hồi nổi tiếng Tam quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung, Thuỷ
hử của Thi Nại Am, Tây du ký của Ngô Thừa Ân. Sang đời Thanh xã hội
trở nên rối ren, thối nát cho nên xuất hiện các tiểu thuyết xuất sắc kể về đời t
và đạo đức thế sự nh Hồng lâu mộng và Chuyện làng Nho.
1.2.2. Tiểu thuyết trong lịch sử văn học Việt Nam.
Tiểu thuyết ở Việt Nam phát triển muộn. Từ thế kỷ X - XII mới xuất
hiện những văn bản viết đầu tiên, thờng là những truyện văn xuôi dới dạng các
thần phả nh việt điện U linh hoặc ghi chép các truyền thuyết dân gian nh
Lĩnh Nam chích quái. Do vậy bao giờ cũng có những yếu tố hoang đờng.
= 12 =



Từ thế kỷ XV - XVIII những truyện văn xuôi chữ Hán đạt đợc những
thành tựu đáng kể nh Thánh Tông di thảo của Lê Thánh Tông, Truyền kỳ
mạn lục của Nguyễn Dữ, Truyền kỳ tân phảcủa Đoàn Thị Điểm phần lớn là
viết về đời t của những ngời bình thờng, nhất là phụ nữ.
Từ thế kỷ XVIII - XIX đặc biệt là cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX
xuất hiện những truyện Nôm, trong truyện Nôm đã có yếu tố của tiểu thuyết
nh có cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ ngời kể chuyện. Đây có thế coi là tiền đề
cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại ra đời bởi qua khảo sát ngời ta thấy những
cuốn tiểu thuyết đầu tiên có cấu trúc giống truyện Nôm. Cùng với việc xuất
hiện truyện Nôm cuối thế kỷ XVIII xuất hiện tác phẩm văn xuôi chữ Hán dài
hơi phải kể đến là Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái có quy mô
tiểu thuyết: 17 hồi, hơn 30 nhân vật bao quát một khoảng thời gian dài từ
1767 - 1802, nhiều chi tiết về cuộc sống nhiều mặt. Về nội dung thể loại tuy
có yếu tố đời t và thế sự nhng tính chất sử thi là chủ yếu vè gắn với sự hng
vong của triều đại, của đất nớc. Tuy nhiên xét về nhiều mặt nó vẫn thuộc
phạm trù tiểu thuyết cổ điển phơng Đông.
Vậy tiểu thuyết Việt Nam hiện đại xuất hiện khi nào? Vào cuối thế kỷ
XIX (1887) tại Gia Định lần đầu tiên xuất bản cuốn tiểu thuyết mang mầu sắc
mới đó là Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản. Trong truyện này
ngời đồng hành với Lazaro Phiền trên chuyến tàu đi Bà Rịa đã thuật lại những
lời thú tội của chính Lazaro Phiền, một thông ngôn của chính quyền thuộc địa
Pháp tại Nam Kỳ. Một phụ nữ Việt lấy chồng Pháp phải lòng thầy thông ngôn,
nhng không đợc Lazaro Phiền đáp lại, chị ta bèn bịa tạc những chuyện xấu
trong quan hệ giữa vợ của Lazaro Phiền với anh vợ của anh ta. Nghi bạn và vợ
thông dâm, Lazaro Phiền đã giết cả hai ngời. Lazaro Phiền hối hận vì đã giết
bạn và vợ giày vò. Sau khi biết vợ và bạn vô tội, Lazaro Phiền càng bị giày vò
dữ dội hơn. Nỗi đau khổ vì sám hối nhng không đợc cứu rỗi đó khiến Lazaro
Phiền dần dần đi đến cái chết. Cuốn tiểu thuyết này chỉ dày có 28 trang cha
gây đợc tiếng vàng lớn. Đáng chú ý trong bài tựa của cuốn tiểu thuyết tác giả

viết:
Đã biết rằng: xa kia dân ta chẳng thiếu chi thơ, văn, phú, truyện nói về
những đấng anh hùng hào kiệt, những tay tài cao chí cả rồi đó, mà những đấng
ấy thuộc về đời xa chớ đời nay chẳng còn nữa. Bởi đó tôi mới dám bày đặt
một chuyện đời này là sự thờng có trớc mắt ta luôn, nh vậy thì sẽ có nhiều ngời sẽ lấy lòng vui mà đọc, kẻ thì cho quen mặt chữ, ngời thì đặng giải phiền
một giây.
= 13 =


Vậy nếu truyện tôi in ra đây làm cho đẹp lòng mọi ngời đặng, thì tôi
lấy làm có phớc lắm, mà ai có thấy sự gì chẳng đẹp ý ai, thì xin cho tôi biết
mà thú tội cùng sửa mình lại, thì tôi sẽ cảm ơn vô cùng.
ở một đoạn trớc có câu: ... tôi một có ý dụng lấy tiếng thờng mọi ngời
hằng nói mà làm ra một truyện hầu cho kẻ sau coi mà bày đặt cùng in ít nhiều
chuyện hay... [198, 4].
ở đây Nguyễn Trọng Quản đặt ra ba tiêu chí đối với một tiểu thuyết
hiện đại. Thứ nhất tiểu thuyết là sự h cấu mà tác giả nói là bày đặt để kể lại
một câu chuyện, thứ hai đó là những chuyện xảy ra trong xã hội đơng thời sự
thờng có trớc mắt ta luôn và cuối cùng là dùng văn xuôi viết bằng chữ quốc
ngữ để kể lại câu chuyện bày đặt,đó là thứ tiếng thờng mọi ngời hằng nói.
Nói chung tác phẩm cha đạt đợc tầm vóc của một thiên tiểu thuyết, về một phơng diện nào đấy mới chỉ là một truyện dài mà thôi.
Phải đợi đến đầu thế kỷ XX (1922) nhà văn Hoàng Ngọc Phách viết
tiểu thuyết"Tố Tâm", xuất bản năm1925 thì giới nghiên cứu văn học mới
khẳng định đây là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
Từ năm 1900 - 1920 tiểu thuyết hiện đại viết bằng chữ quốc ngữ phát
triển rất nhanh và hầu nh chỉ tập trung ở khu vực Nam Bộ, số lợng nhiều nhng
thành tựu cha có, cha xuất hiện những tác giả, tác phẩm tiêu biểu.
Từ 1920 - 1930 bắt đầu có thành tựu về cây bút Nam Bộ tiêu biểu là Hồ
Biểu Chánh với các tác phẩm nh Cay đắng mùi đời, Tiền bạc bạc tiền,
Cha con nghĩa nặng... Tuy nhiên tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh mới chỉ là

tiểu thuyết đạo lý nặng về giáo huấn.
Tiểu thuyết Việt Nam bớc vào thời kỳ phát triển rực rỡ phải đến giai
đoạn 1930 - 1945 với hàng loạt tiểu thuyết của Tự Lực văn đoàn và nhất là
tiểu thuyết của hiện thực phê phán với những tác giả và tác phẩm tiêu biểu nh
Nam Cao với Sống mòn, Vũ Trọng Phụng với Số đỏ, Vỡ đê, Giông tố
ngoài ra còn phải kể đến Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố ...
Giai đoạn 1945 1975 tiểu thuyết gặt hái đợc nhiều thành công trong
việc phản ánh hai cuộc chiến tranh thần thánh của dân tộc và trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc biệt là xây dựng đợc nhiều nhân vật anh hùng
nh Hòn đất của Anh Đức, Đất nớc đứng lên của Nguyên Ngọc, tiểu thuyết
Miền Tây của Tô Hoài ...
Từ sau 1975 đến nay tiểu thuyết tập trung vào thể hiện đề tài đời t thế
sự và đã đạt đợc những thành tựu đáng kể trên nhiền phơng diện: cách xây
dựng nhân vật, ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ trần thuật ... đa tiếng Việt dần
= 14 =


đến sự hoàn thiện và hiện đại nh Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh, Nỗi
buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Bến không chồng của Dơng Hớng ...
1.3. Khái niệm tiểu thuyết hiện đại.
1.3.1. Tiểu thuyết hiện đại.
Xa kia đối với tiểu thuyết, ông cha của chúng ta có một quan niệm
riêng: tiểu thuyết tức là những chuyện hoang đờng hoặc chuyện lịch sử quá
khứ. Đọc tiểu thuyết để giải trí mà giải trí là cùng sống một lúc với các nhân
vật trong tiểu thuyết ở một thế giới khác, một thế giới thần tiên hay ma quỷ,
chỉ hơi phảng phất với cuộc đời ở thế gian này.
Các quan niệm về tiểu thuyết ấy, ngày nay đã thay đổi hẳn. Nếu ta đứng
vào phơng diện văn học mà xét, ta sẽ thấy thế kỷ XIX của Pháp cũng nh của
cả Châu Âu là thế kỷ của tiểu thuyết. Còn ở Tàu, tiểu thuyết lại phát đạt sớm
hơn. Ngay từ thế kỷ XII nớc Tàu đã có bộ Tam quốc chí diễn nghĩa mà ngày

nay vẫn đợc kể là một bộ tiểu thuyết kiệt tác.
Tiểu thuyết đợc phát đạt nh thế tất nhiên cũng có cái lý của nó, cũng
nh một thứ cây gặp đợc chỗ đất thích hợp và khí hậu thích hợp vậy, từ thế kỷ
XIX tiểu thuyết đã trở nên một loại văn rất thích hợp với tinh thần nhân loại.
Đọc tiểu thuyết ngời ta thấy có cái thú vị nồng nàn là đợc sống sâu rộng hơn,
thấm thía hơn vì ở đời không một ai đợc sống trọn vẹn. Tiểu thuyết ở nớc ta
cũng đã gây đợc một mảnh đất thích hợp nh tiểu thuyết ở hầu hết các nớc trên
hoàn cầu, tiểu thuyết ở nớc ta cũng đã gần trở nên một thứ báo không phải thứ
báo thông tin hàng ngày mà là một thứ báo gọi các tính biết của ngời đời.
Phải nói rằng tiểu thuyết Việt Nam hiện đại hãy còn rất trẻ trung và tràn
đầy sức sống tuy nó đã đi qua một chặng đờng lịch sử gần nửa thế kỷ nay.
Những năm 20 là thời kỳ chuẩn bị hình thành một nền tiểu thuyết mới. Trớc
Cách mạng tháng Tám tiểu thuyết hiện đại phát triển theo nhiều khuynh hớng
khác nhau và đã ghi đợc nhiều thành tựu đáng kể trong thời kỳ Mặt trận dân
chủ. Sau năm 1945 đặc biệt là từ năm 1954 đến nay là những năm đợc mùa
lớn của tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Một số vấn đề cần phải đặt ra nh quan niệm thế nào là tiểu thuyết hiện
đại? Tại sao những mầm mống của tiểu thuyết hiện đại lại xuất hiện vào
những năm 20 của thế kỷ XX? Những cơ sở về mặt xã hội và ý thức hệ đã làm
nảy sinh những thể loại văn học hiện đại: tiểu thuyết, kịch nói, truyện ngắn?
Nh chúng ta đã biết cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là thời kỳ mà lịch
sử của dân tộc Việt Nam đang tiến nhanh vào thời kỳ hiện đại. Khi Việt Nam
đã thực sự biến thành thuộc địa của đế quốc Pháp, khi mà ánh sáng của Cách
= 15 =


mạng tháng Mời Nga rọi tới Phơng Đông thì Việt Nam không còn là một bán
đảo đứng chơ vơ ở địa đầu Đông Nam á nữa. Từ nay lịch sử dân tộc Việt Nam
sẽ gắn liền với phong trào cách mạng thế giới, với cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân và phong trào giải phóng dân tộc. Từ nay những trào lu văn học và

triết học hiện đại cuả thế giới sẽ tiếp tục tràn vào Việt Nam gây nên những
ảnh hởng hết sức mâu thuẫn và phức tạp. Bản thân văn học Việt Nam những
năm 20 cũng chuyển nhanh vào thời kỳ hiện đại để phục vụ cho những hình
thái mới của cuộc đấu tranh giai cấp. Tiểu thuyết với t cách là một thể loại
quan trọng trong đời sống văn học cũng không nằm ngoài vòng quay lịch sử
đó.
Trở lại với quan niệm thế nào là tiểu thuyết hiện đại? Theo Phan Cự Đệ
trong cuốn Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (tập 1) cho rằng quan niệm hiện
đại bao gồm cả hai yếu tố nội dung và hình thức. Tiểu thuyết hiện đại phải
phản ánh đợc t tởng, tình cảm của những giai cấp, những tầng lớp ngời trong xã
hội hiện đại, phải đặt ra đợc những vấn đề có ý nghĩa đối với thời đại chúng ta.
Tiểu thuyết hiện đại cũng có thể soi rọi ánh sáng vào những thời kỳ quá khứ xa
xa nhng với quan điểm lịch sử, với cách nhìn đánh giá của con ngời hiện đại.
Tiểu thuyết hiện đại phải đợc xây dựng theo kiểu kết cấu mới, phơng pháp điển
hình hoá mới (khác với những truyện Nôm và tiểu thuyết chơng hồi thế kỷ
XVIII và XIX), lối ngôn ngữ mới (không phải là thứ văn chơng biền ngẫu đầy
điển tích, điển cố nặng nề) và quan điểm thẩm mỹ mới.
Do vậy những quan niệm cũ lấy luân lý làm cốt truyện, lấy ly kỳ để
quyến rũ độc giả đều gạt bỏ. Các nhà văn ngày nay hiểu rằng muốn đợc lâu
dài phải hoặc lấy tâm lý làm gốc, giải phẫu tính tình dục vọng của cá nhân
hay toàn thể, hoặc làm cho ta suy nghĩ về những vấn đề lớn lao có quan hệ đến
đơid ngời. Cách dẫn truyện cũng khác hẳn, không còn những lối bắt buộc độc
giả phải theo dõi một nhân vật suốt cả cuộc đời, thu rút thời gian lại, các nhà
viết tiểu thuyết a gói ghém câu chuyện trong suốt quãng thì giờ ngắn ngủi, lúc
mà tình thế đến hồi bi kịch nhất. Lời văn cũng vì thế mà mềm mại hơn để diễn
tả hết những vẻ uyển chuyển của tâm hồn ngời ta.
Dựa vào những cơ sở lý luận trên mà ngời ta đa ra rất nhiều định nghĩa
khác nhau về khái niệm tiểu thuyết hiện đại, nhng cho đến nay khái niệm về
tiểu thuyết trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học của nhóm tác giả Lê Bá
Hán, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử là tơng đối đầy đủ và toàn diện hơn cả

vì đã dựa trên cơ sở nghiên cứu của M. Bakhtin khi ông đã rút ra đợc những
đặc trng cơ bản nhất của tiểu thuyết khi dựa trên sự đối sánh giữa tiểu thuyết
= 16 =


và sử thi: Tiểu thuyết là tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện
thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản
ánh số phận của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục đạo đức xã hội,
miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng [8,
268].
1.3.2. Khái quát các chặng đờng phát triển của tiểu thuyết hiện đại từ đầu
thế kỷ XX đến năm 1945.
Quá trình hiện đại hoá văn học nửa đầu thế kỷ XX trải qua hai giai
đoạn, từ đầu thế kỷ đến năm 1932 và từ 1932 - 1945, nh hai cấp độ khác nhau
của cùng một xu hớng vận động và phát triển. ở chặng đầu là những nhà văn
đóng vai trò chuẩn bị và những chặng sau là những ngời có sứ mệnh hoàn
thành. Ranh giới giữa hai chặng thời gian đó tởng nh ngẫu nhiên nhng lại là
ranh giới nghiệt ngã không phải ai cũng có thể vợt qua. Ba mơi năm đầu thế
kỷ là giai đoạn phôi thai của nền văn học mới và hơn một thập kỷ sau là giai
đoạn trởng thành của nó. Văn xuôi nghệ thuật với sự góp mặt của tiểu thuyết
cũng không đi chệch ra khỏi quy luật chung của tiến trình hiện đại hoá văn
học dân tộc.
Khảo sát sự vận động của tiểu thuyết Việt Nam trong những năm bản lề
giữa hai thế kỷ có thể nhận thấy sự chuyển biến và đổi mới của bản thân thể
loại qua từng thời đoạn văn học và trong tơng lai tiểu thuyết vẫn không ngừng
tìm tòi, đổi mới nhằm đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của ngời đọc hiện đại. Với
cách nhìn biện chứng mang tính dự báo, M. Bakhtin đã nhận đinh Tiểu
thuyết là thể loại văn chơng duy nhất đang biến chuyển và còn cha định hình
[3, 21].
Dẫu rằng tiểu thuyết là thể loại ra đời muộn hơn so với những thể loại

khác nhng với t cách là một thể loại hiện đại, tiểu thuyết đã chứng tỏ đợc sức
trẻ và sức sống của một thể loại đang trong qúa trình sinh thành và biến động.
Trong quá trình vận động ấy, tiểu thuyết vừa kế thừa các yếu tố kinh nghiệm
nghệ thuật truyền thống, vừa có khả năng vận dụng phơng thức nghệ thuật của
các thể loại khác. ở Việt Nam, tiểu thuyết đã hình thành từ những năm đẩu
của thế kỷ XX, một thể loại mà theo Vũ Ngọc Phan cho là Tiểu thuyết là một
loại văn đang thịnh hành ở nớc ta. Sự ra đời và phát triển của tiểu thuyết Việt
Nam cũng phù hợp với xu thế phát triển chung của nền văn học thế giới.
Trong quá trình phát triển của mình tiểu thuyết đã tạo ra những bớc vợt thoát
quan trọng về chất mà cái mốc đánh dấu bớc vợt thoát ấy chỉ thực sự đến ở
giai đoạn 1932-1945. Nhng trớc đó nó phải có một giai đoạn chuẩn bị 1930= 17 =


1932. Trong bớc chuẩn bị này văn xuôi nói chung và tiểu thuyết nói riêng phải
chấp nhận một cuộc đấu tranh quyết liệt, phức tạp để dẫn tới sự thay đổi về
chất và diện mạo của thể loại. Đó là cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới,
giữa yếu tố lực nội sinh và ngoại lực. Chỉ đến khi Tây học thắng thế thì văn
xuôi trung đại mới kết thúc sứ mệnh lịch sử của mình.
1.3.2.1. Tiểu thuyết Việt Nam trong chặng đờng đầu phát triển 1900-1932.
Tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX dù mới khởi động
cũng đủ làm thay đổi diện mạo văn học dân tộc trong buổi giao thời, đổi mới
theo xu hớng hiện đại hoá. Lâu nay vẫn tồn tại một thế ngộ nhận cho rằng tiểu
thuyết lần đầu tiên xuất hiện ở miền Bắc. Cha hẳn đã nh vậy, quá trình giao lu
văn hoá văn học Phơng Tây diễn ra sớm hơn ở miền Nam, đồng thời bản tính
ngời phơng Nam cởi mở, do đó tiểu thuyết đầu tiên xuất hiện ở miền Nam
cũng là dễ hiểu. Tiểu thuyết lúc đầu cha có cách tân gì đáng kể, dung lợng tác
phẩm còn nhỏ, kết cấu còn theo kiểu chơng hồi trung đại, thi pháp truyền
thống còn rõ với những tác phẩm,tác giả tác tiêu biểu nh Hoàng Tố Oanh
hàm oan (1910) của Trần Thiện Chung, Phan Yên ngoại sử (1910) của Trơng Duy Toản, Hà Hơng phong nguyệt (1915) của Lê Hoàng Mu và rất
nhiều tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh. Sau đó từ những năm 20 ở Nam Bộ xuất

hiện nhiều cuốn tiểu thuyết có chất lợng nghệ thuật cách tân khá rõ nh Nghĩa
hiệp kỳ duyên (1919) của Nguyễn Chánh Sắt, Tơ Hồng cay nghiệt (1923)
của Phú Đớc, Nghĩa tình khảng khái (1923) của Bửu Đình, Ân oán vì tình
(1925) của Phan Mỹ Yên. Đặc biệt Hồ Biểu Chánh từ những năm 20 đã cho
xuất hiện hàng loạt tiểu thuyết mang phong cách nghệ thuật mới: Ai làm đợc (1922), Chúa tàu kim quy (1922), Tỉnh mộng (1923), Một chữ tình
(1923), Cay đắng mùi đời (1925), Tiền bạc bạc tiền (1926), Cha con
nghĩa nặng (1929)... Hồ Biểu Chánh trong 50 năm viết văn để lại hơn 60
cuốn tiểu thuyết. Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh là một thứ Bách khoa toàn th
về đời sống xã hội và con ngời Nam Bộ trong ba thập niên đầu của thế kỷ XX.
Tiểu thuyết của ông kết hợp đợc hình thức cổ điển với hiện đại, có nơng dựa
vào Phơng Tây nhng vẫn đậm chất Nam Bộ, gần gũi với truyền thống tâm lý
nhân dân vùng đất mới (trọng nhân nghiã, thơng ngời hoạn nạn, thẳng thắn mà
thuỷ chung...). Ngôn ngữ chất phác, mộc mạc nh lời ăn tiếng nói thờng ngày
của ngời dân Nam Bộ. Tuy vậy, do hạn chế qua rõ, tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh
vẫn còn câu văn biền ngẫu trung đại, sử dụng dày đặc phơng ngữ Nam Bộ, xây
dựng nhân vật theo kiểu phân tuyến và tuyến tính trong văn chơng trung đại,
sử dụng nhiều yếu tố ngẫu nhiên. Cho nên tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh chỉ
= 18 =


chinh phục đợc ngời đọc trớc cái mốc 1932. Sau 1932 ông tiếp tục sáng tác
nhng độc giả của ông lại ít dần. Tuy nhiên tiểu thuyết Việt Nam thế kỷ XX
phải ghi nhận đóng góp đáng kể của Hồ Biểu Chánh tạo nền tảng vững chắc
cho tiểu thuyết phát triển rực rỡ ở giai đoạn sau.
Tiểu thuyết miền Bắc xuất hiện chậm hơn nhng sau đó lại có tốc độ
phát triển vợt trội. Ban đầu là tác phẩm của Tản Đà nh Giấc mộng con
(1916), sau là Đặng Trần Phất với Cành lê điểm khuyết (1921), Trọng
Khiêm với Kim Anh lệ sử (1924), Nguyễn Trọng Thuật với Quả da đỏ
(1925), Hoàng Ngọc Phách với "Tố Tâm" (1925). Trong mặt bằng tiểu thuyết
lúc đó "Tố Tâm" đã tỏ ra vợt trội, đánh dấu một bớc ngoặt trong lịch sử tiểu

thuyết Việt Nam hiện đại, "Tố Tâm" nh một trái bom nổ giữa khung trời tình
cảm[5, 603] lúc bấy giờ. Ngòi bút sáng tạo của Hoàng Ngọc Phách đã làm
một cuộc cách mạng trong văn xuôi, đi sâu vào khai thác thế giới nội tâm con
ngời với lối miêu tả thời gian tâm lý. Nhà văn đã khớc từ với kiểu tiểu thuyết
chỉ có một điểm nhìn trần thuật đơn điệu, theo đờng thẳng, xây dựng tác phẩm
theo dòng hồi tởng, khắc hoạ chân dung những tâm hồn. Giáo s Nguyễn Huệ
Chi đã chỉ ra cái mới trong quan niệm nghệ thuật của tiểu thuyết "Tố Tâm":
Tố Tâm đã chuyển hớng sáng tác từ môi trờng nhãn giới sang môi trờng tâm
giới, từ khuynh đạo lý sang khuynh hớng tâm lý, từ bút pháp chuyện kể sang
bút pháp tự thuật, từ loại hình tiểu thuyết lấy sự chỉ vẽ thói đời làm đối tợng
sang loại hình tiểu thuyết lấy sự mách bảo của con tim làm đối tợng, từ sự
động nhất đơn giản xung đột nghệ thuật với xung đột xã hội đến sự hoá thân
tinh tế xung đột xã hội trong xung đột nội tâm [5, 89]. "Tố Tâm" của Hoàng
Ngọc Phách khởi đầu một cuộc cách tân trong văn học, cho thấy sức mạnh
của tiểu thuyết hiện đại với hình bóng đích thực của cái tôi trong đời sống tinh
thần Việt Nam, đặt nhà văn vào vị trí mở đờng cho dòng văn xuôi lãng mạn
Việt Nam thế kỷ XX và cụ thể hơn là một đại biểu tiền thân xứng đáng của
Tự Lực văn đoàn (Vũ Bằng).
Nh vậy tiểu thuyết xuất hiện và đựoc hiện đại hoá dới ảnh hởng của tiểu
thuyết phơng Tây. Trong một khoảng thời gian ngắn từ bỏ những đề tài trung,
hiếu, tiết, nghĩa chú ý tới những điều xảy ra xung quanh, những truyện, những
vấn đề thế sự. Nhân vật trở thành trung tâm miêu tả và tâm lý nhân vật trở thành
đối tợng chủ yếu để khai thác. Thời gian nghệ thuật đa tuyến, đa chiều, kết cấu
mở, kết thúc bỏ ngỏ. Ngôn ngữ có tính dân chủ cao gắn với ngôn ngữ đời sống
hàng ngày. Cách trần thuật linh hoạt, có khi tác giả đứng ở ngôi thứ nhất, ngôi

= 19 =


thứ hai mà trần thuật. Quốc ngữ hiện đại Việt Nam đã phá vỡ hầu hết những

phạm vi cũ, mở ra hớng phát triển mới tự do và mạnh mẽ hơn.
1.3.2.2. Sự phát triển hoàn chỉnh của tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945.
Đây là chặng đờng đánh dấu sự phát triển rực rỡ của thể loại tiểu
thuyết. Từ năm 1932 với sự ra đời của Tự Lực văn đoàn đã mở ra con đờng
mới cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Theo giáo s Hoàng Xuân Hãn trong
Tạp chí Sông Hơng cho rằng: Tuy Tự Lực văn đoàn không phải là nhóm
duy nhất nhng lại là nhóm quan trọng nhất, nhóm cải cách đầu tiên của nền
văn học Việt Nam hiện đại. Tự Lực văn đoàn bắt đầu từ năm 1932 và kết
thúc vai trò lịch sử vào năm 1944 bao gồm tám nhà văn, nhà thơ: Nhất Linh,
Hoàng Đạo, Thạch Lam, Thế Lữ, Xuân Diệu, Tú Mỡ, Khái Hng, Trần Tiêu. Tự
Lực văn đoàn đã có những cách tân quan trọng trong nghệ thuật tiểu thuyết
hiện đại. Tính hiện đại hoá của thể loại đợc thể hiện rõ nhất trong việc nhà văn
tập trung khai thác thế giới nội tâm con ngời. Đây là một bớc tiến dài của tiểu
thuyết Việt Nam hiện đại. Trong khi đó văn xuôi trung đại lấy quá trình sự
kiện làm đối tợng trung tâm. Còn trớc đó tiểu thuyết "Tố Tâm" của Hoàng
Ngọc Phách cũng đã miêu tả nhân vật có chiều sâu song mới dừng lại ở tâm
lý trên mặt phẳng còn với tiểu thuyếtBớm trắng của Nhất Linh là hành
trình bên trong của nhân vật. Tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn đã thành công
trong nghệ thuật miêu tả hành trình tự ý thức của con ngời cá nhân trong văn
học Việt Nam hiện đại nửa đầu thế kỷ XX. Các nhà văn Tự Lực văn đoàn cũng
đã đóng góp về mặt ngôn ngữ làm trong sáng tiếng Việt với một lối văn xuôi
mộc mạc, tinh tế, khúc chiết đợc tạo ra từ lời nói thông thờng của con ngời.
Đến tiểu thuyết hiện thực phê phán, đặc biệt là Nam Cao, Vũ Trọng
Phụng thì quá trình hiện đại hoá tiểu thuyết mới đạt đến đỉnh cao, vơn tới mặt
bằng chung của tiểu thuyết hiện đại thế giới cùng thời kỳ. Với thái độ nhập
cuộc tiểu thuyết của họ đã đề cập đến thực trạng xã hội hiện thời, đến thân
phận con ngời phong phú, đa dạng hơn so với tiểu thuyết ở giai đoạn phôi thai
và với cả Tự Lực văn đoàn. Xây dựng không gian nghệ thuật phức tạp, đa
chiều, tạo dựng đợc nhân vật đám đông(đủ các tầng lớp, giai cấp) xây dựng đợc nhiều điển hình độc đáo để đời, kết cấu linh hoạt, ngôn ngữ đa thanh, đa
giọng. Mỗi nhân vật nói một giọng riêng theo tầng lớp, đẳng cấp, ngành nghề

rất sinh động. Đó là thứ ngôn ngữ đợc cá thể hoá một cách triệt để.
Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại vận động, phát triển theo một quy luật và
quy kết ở ba phơng diện sau:
= 20 =


Từng bớc thay đổi quan niệm nghệ thuật về con ngời, nhìn chung ngày
càng toàn diện hơn, sâu sắc hơn và nhân văn hơn.
Xu hớng tiểu thuyết ngày càng đi sâu khai thác thế giới nội tâm của con
ngời.
Ngôn ngữ đợc hiện đại hoá đi từ ngôn ngữ mang tính chất khẩu ngữ đến
ngôn ngữ trong sáng, gọt rũa đơn điệu và đến ngôn ngữ gần gũi với đời sống
thờng ngày của con ngời đa nó tiến dần tới hiện đại.
Chơng 2:

"Tố Tâm" nhìn từ góc độ thể loại tiểu thuyết
2.1. Giới thiệu khái quát về Hoàng Ngọc Phách và "Tố Tâm"
2.1.1. Hoàng Ngọc Phách.
Hoàng Ngọc Phách(1896-1973) tên huý là Tớc, tên trong giấy khai sinh
là Hoàng Ngọc Phách, khi bắt đầu cầm bút đặt biệt hiệu là Song An. Là con
thứ sáu trong một gia đình nhà nho có tám ngời con trai ở làng Đông Thái, xã
Yên Đồng(nay là xã Tùng ảnh), tổng Việt Yên, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh. 10
tuổi đã giã từ quê cha đất tổ theo bố mẹ ra sống hẳn ở ấp Đông Côi, huyện
Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh(Hà Bắc ngày nay). Dù vậy từ giọng nói đến tác
phong, lối sống Hoàng Ngọc Phách vẫn giữ nguyên cốt cách xứ Nghệ của
mình.
Sinh ra trong một gia đình nhà nho, bố lại là một ông đồ nho sẵn có ý
muốn giúp con tiến thủ bằng con đờng học vấn, các anh trai của Hoàng Ngọc
Phách tự lập sớm và thành công trên con đờng công danh sự nghiệp, nên con
đờng học tập của ông rất thuận buồm xuôi gió. Năm 1911 ra Hà Nội với hai

anh và theo học trờng cụ Bùi Đình Tá ở ấp Thái Hà. Năm 1912 nhân kỳ thi
khoá sinh mở, thi cả chữ Nho và chữ Quốc ngữ, ông đã đi thi và đỗ trờng này.
Năm 1914 đỗ bằng Tiểu học Pháp Việt tại Hà Nội. Cùng năm đó ông thi vào
trờng trung học Bảo hộ (trờng Bởi) và trúng tuyển. Nhờ học hành chăm chỉ,
ông đợc cấp học bổng vào lu trú.
Năm 20 tuổi ông lấy vợ tên là Phan Thị An kém ông hai tuổi.
Năm 1919 thi đỗ trờng Cao đẳng, năm 1922 tốt nghiệp và đợc bổ về
dạy học ở trờng thành chung Nam Định. Con đờng của một nhà giáo không
mấy bằng phẳng vì phải liên tục chuyển chỗ ở. Đến năm 1935, Hoàng Ngọc
Phách xin chuyển về Bắc Ninh và đây sẽ là nơi ông trụ lại lâu dài. Với uy tín
của một nhà giáo,ông đợc nhiều học sinh và đồng nghiệp kính trọng. Ông đợc
thăng Giáo s thợng hạng hạng nhất và lần lợt nhận nhiều phần thởng nh Hàn
= 21 =


lâm bội tinh của Pháp (1941), Hồng lô tự khanh (1942) và Kim tiền hạng
nhất(1943). Cách mạng tháng Tám thành công, Hoàng Ngọc Phách giữ nhiều
chức vụ quan trọng nh Giám đốc học khu Bắc Ninh, bầu vào Uỷ ban hành
chính tỉnh (1945), Hội đồng nhân dân tỉnh (1946)...
Hoàng Ngọc Phách là ngời có năng khiếu về văn chơng, lại ham mê đọc
sách, ông đã đọc rất nhiều loại sách nh luận thuyết, văn chơng truyền bá quan
điểm tự do bình đẳngcủa cách mạng t sản Pháp, sách triết học, tâm lý học... và
đặc biệt là thể văn lãng mạn thế kỷ XIX, mạnh nhất là trờng phái của Victor
Huy gô nên ông đã sáng tác thơ từ rất sớm và có lần đã đạt giải thứ tám trong
cuộc thi thơ, đây là giải thởng mở đầu cho cuộc đời cầm bút của ông.
Nhng phải đến năm 1918 thì thơ văn Hoàng Ngọc Phách lần đầu tiên
mới đợc đăng trên tờ Nam Phong tạp chí. Tên tuổi của ông trở nên nổi tiếng
và đợc nhiều ngời biết đến và trở thành một trong những nhà văn có vai trò, vị
trí quan trọng trong lịch sử văn học dân tộc phải chờ đến cuốn "Tố Tâm".
Hoàng Ngọc Phách đã tiếp thu những thành tựu của tiểu thuyết cổ điển, nâng

thể loại tiểu thuyết lên một bớc mới - tiểu thuyết tâm lý. Chính vì vậy ông đợc
xem là ngời khai mạc nền tiểu thuyết mới và văn xuôi lãng mạn Việt Nam
hiện đại. Có thể nói tài năng nghệ thuật của Hoàng Ngọc Phách đợc kết tinh ở
tiểu thuyết "Tố Tâm".
Số lợng tác phẩm mà Hoàng Ngọc Phách để lại không nhiều, có thể kể
một số tác phẩm tiêu biểu sau: tiểu thuyết "Tố Tâm" (1925), Thời thế với văn
chơng (1941), Đâu là chân lý (1941), Chuyện Trờng Bởi (1989),
Chuyện trờng cao đẳng s phạm (1989)...
2.1.2. Đề tài - chủ đề - nội dung t tởng của "Tố Tâm.
2.1.2.1. Trong lịch sử văn học chúng ta, có những cái mốc cứ ngỡ có thể
tuỳ tiện đặt ra hay bỏ đi mặc ý. Nhng đấy chỉ là trờng hợp những cái mốc hình
thành do ý muốn chủ quan của nhà nghiên cứu. Còn nếu quả thực tiến trình
khách quan của văn học đã báo hiệu một cái mốc nh vậy thì dù muốn hay
không cũng cứ phải chấp nhận. Ngày nay, sau 80 năm đọc lại "Tố Tâm" chúng
ta vẫn cảm đợc rất rõ nguồn sống tiềm tàng trong sách, tiếng nói thời đại hằn
lên từng trang vẫn không hề phai. Sức mạnh của "Tố Tâm" chính là ở đấy. Nhng nó không phải là một câu chuyện kể về nhân tình thế thái, ở đó có đủ mọi
cảnh đời mực thớc và đảo điên, có những con ngời lơng thiện và gian
trá,những số phận may mắn và bất hạnh... bện chặt lấy nhau, hoạt động nh
những trò rối trớc mắt độc giả. Những mô hình tiểu thuyết loại này vào đầu
những năm 20, nhìn trong thể tài và ngôn ngữ văn xuôi tiếng Việt thì đã có
= 22 =


phần mới mẻ, nhng về chủ đề và kết cấu không làm ai ngỡ ngàng cho lắm, vì
đã thấy phảng phất ở đâu đó rồi, t duy nghệ thuật truyền thống cũng đã từng
đả động đến nó rồi:
Gẫm cời hai chữ nhân tình éo le...
(Lục Vân Tiên-Nguyễn Đình Chiểu).
Đó là loại truyện thế sự mà Hoàng Ngọc Phách không làm. Ông không
có tham vọng phanh phui mọi ngóc nghách cuộc đời mà chỉ thu hẹp lại ở một

góc bức tranh xã hội: kể một câu chuyện tình. Đề tài của "Tố Tâm" là đề tài
tình yêu xuyên suốt từ đầu cho tới cuối tác phẩm. Nhng đây không phải là một
câu chuyện tình yêu gay cấn, ly kỳ thờng thấy trong các truyện thơ tài tử giai
nhân mà theo trình tự muôn thửơ cặp tình nhân trong truyện sẽ bị đẩy vào
mọi tình huống phức tạp: hội ngộ, trắc trở, lu lạc, đoàn viên... để thoả mãn trí
tò mò của ngời đọc. "Tố Tâm" trái lại là câu chuyện tình hết sức đơn giản của
hai ngời trẻ trung, tài sắc gặp gỡ quen biết và yêu nhau. Đạm Thuỷ là một sinh
viên Trờng cao đẳng rất yêu văn học, tâm lý học, xã hội học, có hoài bão
đem những khoa học ấy mà so sánh với lý tởng á Đông và lấy quốc văn mà
diễn ra một thứ luân lý s phạm... thích hợp với tính tình ngời Việt Nam [5,
182] và đã có thơ văn đăng báo. Sự mất ví của Đạm Thuỷ trong một chuyến về
quê và sự ân cần chu đáo của quan huyện sở tại đối vơí Đạm Thuỷ đã tạo cơ
hội cho chàng gặp Tố Tâm, con gái của bà án ở số nhà 58, phố X, Hà Nội. Cô
gái lúc còn bé học chữ Nho, sau học trờng Pháp-Việt, đỗ sơ học, yêu văn chơng sầu cảm lãng mạn và hay tập làm thơ sầu cảm lãng mạn đã thầm yêu Đạm
Thuỷ từ khi đọc văn thơ của chàng đăng trên báo, yêu chàng trớc khi biết mặt
chàng. Tình cờ hai ngời gặp nhau và tình trong nh đã mặt ngoài con e. Tình
yêu thầm lặng ấy kéo dài cho đến một hôm khi Đạm Thuỷ phát hiện đợc
mảnh giấy vẽ hai chữ viết tắt tên mình và của ngời yêu VL dới đáy tráp của
Tố Tâm thì hai ngời mới thật sự hiểu rõ lòng nhau. Đạm Thuỷ và Tố Tâm chỉ
mới thấy và thở hít khói hơng của ái tình nghi ngút bay. Có gì mạnh hơn
nh cảnh này Nàng gục đầu vào vai tôi nh sắp ngã xuống, tôi phải đỡ lấy
nàng. Nớc mắt nàng thấm ớt cả vai áo, đầm đìa chảy xuống ống tay và ớt cả
cavát vì nàng lấy lau mặt. Giữa họ, thì đó là lúc họ đang khổ đau vì ái tình.
Gia đình Đạm Thuỷ không biết tình yêu giữa Tố Tâm và Đạm Thuỷ nên đã
đính hôn cho chàng một cô gái ở quê mà hai gia đình lâu nay đã đi lại với
nhau, chỉ đợi Đạm Thuỷ học xong là cới. Còn gía đình Tố Tâm, bà án khi biết
tình yêu của hai ngời cũng chỉ ra ý giữ gìn chỉ vì Đạm Thuỷ không dạm hỏi
Tố Tâm, nên bà án khuyên Tố Tâm lấy cậu tú B, ngời dạm hỏi con gái bà và
= 23 =



đợc bà ng ý. Khi Tố Tâm kiên quyết từ chối cậu tú B, bà án định lấy oai con
nhà gia pháp, cha mẹ bảo phải vâng lời nhng rồi cũng nghĩ lại, không nỡ ép
con gái.Đạm Thuỷ lấy lời phải trái mà khuyên nàng vâng lời giáo huấn cũng
không lay chuyển đợc lòng Tố Tâm: Em đã yêu anh thì không thể yêu ai đợc
nữa, mà cũng không muốn yêu ai. Đã không yêu thì không lấy vì sợ làm phiền
cho một ngời nam nhi nữa [5, 235]. Nhng rồi bà án ốm nặng. Vì tình mẫu tử,
Tố Tâm đành phải nhận lời lấy cậu tú B, nhng ngay từ trớc hôm cới, nàng đã
nh ngời mất hồn. Tố Tâm ốm và ba mơi sáu ngày sau nàng chết. Mối tình tha
thiết của nàng đối với Đạm Thuỷ chỉ còn lại một cái tráp Nhật Bản đựng
những lá th và nhật ký của Tố Tâm. Trong di bút gửi lại cho Đạm Thuỷ, nàng
viết: Rồi đây, sau khi hơng tàn khói tỏa, có lúc nào anh qua chỗ em an giấc
ngàn năm này, nhờ anh đề hộ vào gốc cây, tảng đá hay bức tờng mấy chữ
rằng:
Đây là mồ một ngời bạc mệnh chết vì hai chữ ái tình[5, 281]

Những chuyện tình nh thế thông thờng hẳn không ai để ý làm gì bởi
trong văn học Việt Nam đã có biết bao nhiêu câu chuyện tình yêu nh vậy rồi
nhng vào tay Hoàng Ngọc Phách đã bất ngờ gây nên cả một làn sóng xúc cảm
dây chuyền và làm thay đổi cách nhìn độc giả. Độc giả không còn đứng ngoài
vận mệnh các nhân vật để xót thơng hay căm giận, để khen ngợi hay chê bai
mà tham gia vào câu chuyện nh một nhân vật hoá thân để có thể sống vui
buồn, hờn ghen cùng nhân vật. Vừa đọc đợc một phần đầu tâm hồn đã thấy
mê man chìm đắm với câu chuyện vui thú êm đềm hình nh mình đã bị bao bọc
trong một hoàn cảnh riêng đầy rẫy những tình yêu đằm thắm.
Sự thật Hoàng Ngọc Phách đã không chỉ kể một câu chuyện tình, ông
còn giúp bạn đọc mở một cánh cửa đi vào thế giới bí ẩn của tình yêu. Nói nh
Trúc Hà: Nay đã có ngời chịu khó đem ngọn bút tinh tế vẽ vời mọi nỗi u uẩn,
ly kỳ bí mật của ái tình ra một cách rõ ràng, sáng sủa, lắng nghe từ cái nhịp
của quả lòng để nhận hiểu cái ý nghĩa của nó khi mừng giận lúc thơng yêu,

tách bạch những mối tình cảm âm thầm thuở nay mình vẫn bị sự sai khiến của
nó mà không tự hiểu [5, 529].
Đã đành đó là cánh cửa không hẳn mới lạ đối với đại đa số ngời Việt
nh Truyện Kiều, Sơ kính tân trang chẳng đã mở rồi còn gì, nhng mới lạ ở
chỗ nó mở một cách đột ngột, trực diện, không có một duyên cớ gì khác bên
ngoài tình yêu dẫn dắt hoặc che khuất cõi lòng hai con ngời này. Chúng cứ thể
hiện ra với tất cả sự lạ lùng, với vẻ đẹp đơn sơ, chân chất và cả sự ngang trái
đa đoan đủ làm ngời ta say đắm.
= 24 =


2.1.2.2. Đề tài của tiểu thuyết "Tố Tâm" là câu chuyện tình yêu nam nữ,
rất quen thuộc và phổ biến nhng chủ đề phản ánh lại hoàn toàn mới mẻ, phù
hợp với xu thế của thời bấy giờ, đó là "Tố Tâm" đã đoạn tuyệt với loại truyện
đạo lý, bắt nhân vật phải biểu trng cho lòng trinh bạch và đức hạnh để bớc
sang loại truyện chống lại lề thói, lấy những việc làm bất hợp pháp và những
mối tình bị cấm đoán làm nội dung phô bày.
Do đó vấn đề trung tâm ở đây hiển nhiên là vấn đề ái tình. Ngời Tây và
sách Tây đem vào xã hội ta nhất là lớp thanh niên tân học một quan niệm mới
về tình yêu nam nữ, một quan niệm dồi dào, phức tạp, mãnh liệt cổ nhân ta cha từng biết tới. Tác giả lấy Đạm Thuỷ, Tố Tâm làm một trờng hợp tuy hơi sớm
đối với đại đa số nhng có thể coi là một thí dụ điển hình. Cái tình yêu Đạm
Thuỷ, Tố Tâm ở đây có gì đặc biệt? Đó là một tình yêu tri kỷ, bình đẳng. Họ
quý nhau vì tôn trọng nhau về đức, hợp nhau ở những ý hớng, những sở thích.
Không phải sự ham nhau ở đầu mày cuối mắt mà là sự hoà hợp của hai tâm
hồn tìm đến nhau trớc. Tố Tâm mới đọc văn Đạm Thuỷ mà đã thấy Sao anh
hợp tâm trí với em vậy, rồi từ khi biết ngời, đợc trò chuyện, trao đổi thì tởng
nh hai linh hồn trời sinh ra để quấn quýt bên nhau, giao hoà cùng nhau.
Đó là một tình yêu thơ mộng đợc nuôi dỡng trong hơng vị văn chơng tô
điểm bởi trí tởng tợng, đợc đặt vào những mỹ cảnh tạo vật, đợc nghệ thuật hoá
tới mức tối cao. Đạm Thuỷ và Tố Tâm đều là những tâm hồn thi nhân mà tình

yêu đến chính là một cơ hội tốt để rung động và tạo ra bao nhiêu mỹ cảm. Họ
tô vẽ cho nên một cảnh huống ly kỳ, thổi vào đó cái hồn cao sơn lu thuỷ đẩy
lên tới tầng trời lý tởng. Chúng tôi tởng tợng ra nh vũ trụ chỉ có hai ngời mà
thôi, bao nhiêu những thờng tình eo hẹp những thảm cảnh lôi thôi, bao nhiêu
tiếng khóc câu cời, đờng danh mối lợi ở chốn phồn hoa đã chìm đắm đâu mất
cả, trớc mắt chỉ còn thấy khói hơng của ái tình nghi ngút bay trong đám tít
mù, khiến cho hai ngời tơng tri đó tởng là đôi chim nhạn đơng cùng nhau tung
trời mà bay[5, 229]
Đó là một tình yêu đợc ý thức:những vai tuồng yêu đơng đây không
phải là những con cờ để mặc bản năng sai khiến. Tuy tình yêu cũng làm cho
họ say sa, nhng không phải nh ngời dốc cả bầu rợu một hơi để rơi vào chỗ vô
giác, vô tri. Khác thế họ nhắp từng miếng nhỏ, nghe ngóng cảm giác kiểm
soát đợc sự lan tràn từng làn nhiệt lợng. Đạm Thuỷ khi bớc vào biết đựơc
mình đi tới đâu, ghi nhân từng giai đoạn, từng biến đổi. Tố Tâm cũng vậy,
trong th tình và nhật ký cúi xuống tâm hồn mình hỏi han, phân tích. Đó là
những con ngời tri thức mới, bắt đầu làm quen với nếp sống bên trong. Cũng
= 25 =


×