Trờng Đại Học Vinh
Khoa Ngữ Văn
====***====
Khóa luận tốt nghiệp
Chuyên ngành Văn học Việt Nam trung đại
Niên khóa: 2004 2009
Hình tợng ngời phụ nữ
trong truyện Nôm bình dân và truyện Nôm
bác học
Giáo viên hớng dẫn: ThS. Thạch Kim Hơng
Sinh viên thực hiện:
Lê Phơng Thảo
Vinh, 5 - 2009
2
Lời cảm ơn
Luận văn đợc hoàn thành là nhờ sự hớng dẫn nhiệt tình và chu đáo của cô
giáo Thạch Kim Hơng , sự góp ý chân thành của quý thầy cô giáo và sự cố gắng
tìm tòi , khám phá của bản thân tôi.
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều nhng do thời gian , nguồn t liệu và năng lực
bản thân có hạn. Hơn nữa đây là lần đầu làm quen với công việc nghiên cứu
khoa học nên không thể tránh khỏi những bỡ ngỡ và thiếu sót. Chính vì thế
chúng tôi rất mong nhận đợc sự đóng góp ý kiến của thầy cô cũng nh bạn bè
trong khoa.
Qua đây , chúng tôi cũng muốn bày tỏ sự biết ơn chân thành đối với cô
giáo hớng dẫn Thạch Kim Hơng và bạn bè đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn
này.
Vinh , tháng 5 năm 2009
Sinh viên: Lê Phơng Thảo
Mục lục
Trang
A. Phần mở đầu......................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài..................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu...............................................................................................2
3. Phạm vi và đối tợng nghiên cứu...........................................................................5
4. Phơng pháp nghiên cứu........................................................................................5
5. Bố cục của luận văn..............................................................................................6
B. Phần nội dung....................................................................................................7
Chơng 1. Giới thuyết chung về truyện Nôm.......................................................7
1. Khái niệm truyện Nôm.........................................................................................7
1.1. Đặc trng thi pháp...............................................................................................8
1.2. Phân loại truyện Nôm........................................................................................9
1.3. Giới thuyết chung về hình tợng ngời phụ nữ trong văn học Việt Nam.............12
1.3.1. Vẻ đẹp hình thể , một vẻ đẹp mang đầy hơng sắc thiên nhiên...................13
1.3.2. Những biểu hiện của vẻ đẹp tâm hồn..........................................................14
1.3.2.1. Những ngời phụ nữ có tài, có tình, có ý chí và nghị lực..........................16
1.3.2.2. Hiện thân của những nỗi thống khổ........................................................18
1.3.2.3 Khát vọng chống đối, vợt lên số phận......................................................22
Chơng 2. Hình tợng ngời phụ nữ trong truyện Nôm bình dân và truyện
Nôm bác học..........................................................................................................25
2.1. Những nét tơng đồng trong việc miêu tả hình tợng ngời phụ nữ ở truyện
Nôm bình dân và truyện Nôm bác học..................................................................25
2.1.1. Về dung mạo, hình thể.................................................................................25
2.1.2. Tình yêu tự do vợt ngoài khuôn khổ lễ giáo phong kiến............................27
2.1.3. Tình yêu chung thủy son sắt........................................................................31
2.2. Những sự khác biệt trong việc miêu tả hình tợng ngời phụ nữ trong truyện
Nôm bình dân và truyện Nôm bác học..................................................................37
2.2.1. Tinh thần đấu tranh, phản kháng................................................................37
2.2.2. Số phận bi kịch của ngời phụ nữ..................................................................44
5
Chơng 3. Nghệ thuật thể hiện hình tợng ngời phụ nữ trong truyện Nôm bình
dân và truyện Nôm bác học................................................................................53
3.1. Những nét tơng đồng......................................................................................53
3.1.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật......................................................53
3.1.2. Nghệ thuật xây dựng nội tâm nhân vật........................................................54
3.2. Những sự khác biệt.........................................................................................58
3.2.1. Nghệ thuật miêu tả.......................................................................................58
3.2.1.1. Nghệ thuật miêu tả kết hợp giữa tự sự và trữ tình....................................58
3.2.1.2. Thiên nhiên phơng tiện nghệ thuật đặc thù thể hiện hình tợng nhân
vật phụ nữ................................................................................................................61
3.2.2. Ngôn từ, giọng điệu miêu tả........................................................................65
C. Phần kết luận...................................................................................................71
Tài liệu tham khảo...............................................................................................74
A Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Chúng tôi chọn đề tài Hình tợng ngời phụ nữ trong truyện Nôm bình
dân và truyện Nôm bác học trớc tiên là do bản thân thấy tâm đắc với đề tài.
1.2 Hơn nữa Hình tợng ngời phụ nữ luôn là một đề tài hấp dẫn các nhà
nghiên cứu văn học. Ngời phụ nữ đã trở thành hình tợng trung tâm của văn học
giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX một giai đoạn lịch sử
đầy biến động. Những ngời phụ nữ có tài, có sắc, có bản lĩnh dám đứng chéo
thế lực cờng quyền, là ngời dám bộc lộ khát vọng tình cảm chính đáng của họ
mặc cho quản bao miệng thế lời chênh lệch...
1.3 Xung quanh đề tài này đã có biết bao công trình nghiên cứu về nó. Tuy
nhiên, đối với đề tài Hình tợng ngời phụ nữ trong truyện Nôm bình dân và
truyện Nôm bác học thì cha có một ai quan tâm đến nh một vấn đề chuyên
biệt. Vì thế chọn đề tài trên ngoài việc giúp cho bản thân có sự tích lũy thêm
kiến thức, chúng tôi cũng muốn đợc đóng góp một phần nhỏ bé những suy nghĩ
của mình để hiểu hơn về thân phận ngời phụ nữ trong thế giới truyện Nôm nói
riêng và trong nền văn học rộng lớn nói chung. Qua đó, hiểu đợc tấm lòng nhân
đạo của các nhà Nho, thấy đợc cảm hứng nhân văn đợc thể hiện sâu sắc trớc
cuộc đời của những ngời phụ nữ tài hoa.
1.4 Trong khuôn khổ của một khóa luận, chúng tôi chọn ra một tác phẩm
thuộc truyện Nôm bình dân đó là đó là Phạm Tải Ngọc Hoa và một tác phẩm
thuộc truyện Nôm bác học là Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, nhằm chỉ
ra những sự tơng đồng, những sự khác biệt về nội dung và nghệ thuật biểu hiện
hình tợng ngời phụ nữ ở một số phơng diện để từ đó lý giải những sự tơng đồng
và những sự khác biệt đó. Hoàn thành luận văn này cũng nhằm tạo ra một cái
nhìn sâu sắc, đúng đắn hơn, có hệ thống hơn về Hình tợng ngời phụ nữ Đồng
thời đề tài cũng sẽ góp phần bổ trợ cho việc giảng dạy ở trờng phổ thông về sau.
2. Lịch sử nghiên cứu
7
2.1 Liên quan đến nội dung đề tài, từ trớc đến nay có khá nhiều tài liệu và
công trình nghiên cứu nh:
Lê Hoài Nam có bài viết: Phạm Tải Ngọc Hoa một truyện Nôm
khuyết danh có giá trị in trong Nghiên cứu văn học số 8/1960
Đặng Thanh Lê với bài: Nhân vật phụ nữ qua một số truyện Nôm, đăng
trên Tạp chí văn học, số 2/1968
Bùi Văn Nguyên có bài: Truyện Nôm khuyết danh một hiện tợng đặc
biệt của văn học Việt Nam đăng trên Nghiên cứu văn học, số 7/1960
Hoài Thanh có bài: Quyền sống của con ngời trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du, in trong Nguyễn Du về tác giả tác phẩm
Ngoài ra còn có một số công trình nghiên cứu nh: Văn học Việt Nam nửa
cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX của Nguyễn Lộc hay Mấy vấn đề thi
pháp của Trần Đình Sử... cũng có điểm qua vấn đề ngời phụ nữ trong truyện
Nôm khuyết danh.
Khi bàn về vấn đề ngời phụ nữ, các nhà nghiên cứu đã đa ra một số nhận
xét sau:
Trong bối cảnh trào lu nhân văn, truyện Nôm sinh ra để nói về ngời phụ
nữ, truyện Nôm nh là thể loại thể hiện tốt nhất, đầy đủ nhất về đề tài ngời phụ
nữ, trong mọi quan hệ xã hội rộng lớn (7 ; 233 234)
Ngời phụ nữ trớc đây là nạn nhân của nạn mua bán, cha mẹ kết gắn với
ngời nào thì phải nghe theo nhng đến thời kỳ này trong các truyện Nôm họ lại là
ngời đại diện cho sức mạnh, cho các thế lực mà chế độ phong kiến phải chấp
nhận và nếu bị ngăn trở, họ sẽ đấu tranh cho đến cùng để thực hiện cho bằng đợc
tình yêu của họ .
Trong việc xây dựng và giữ gìn hạnh phúc lứa đôi vai trò ngời phụ nữ rất
đợc đề cao. Họ đóng vai trò chủ động đấu tranh cho chính nghĩa, cho tình yêu,
cho tình thủy chung , giải quyết nhiều khó khăn giúp ngời yêu thoát nạn. Ngời ta
thấy nhiều khi bản lĩnh của ngời phụ nữ còn vững vàng hơn cả phía đàn ông
(17 ; 11)
8
Bên cạnh tài sắc, đặc trng cho tính cách Thúy kiều còn là cái ý thức làm
ngời của nàng nữa. Có thể nói trong văn học quá khứ Việt Nam, hiếm có một
nhân vật thứ hai nào ý thức về cuộc sống, ý thức làm ngời rõ rệt sâu sắc nh Kiều.
Thúy Kiều là nhân vật luôn tự ý thức để nhận thức cho đúng mọi quan hệ xã hội
đồng thời không ngừng vơn vơn lên ở đỉnh cao nhất của giá trị làm ngời (10 ;
384)
Sức sống của con ngời Kiều đã làm rạn nứt cái khuôn chật hẹp của phong
kiến. Thân thế trầm luân của Thúy Kiều lại là lời tố cáo những gì nhơ nhớp độc
ác trong trật tự phong kiến. Giữa xã hội phong kiến ném ra một con ngời nh vậy
quả là một chuyện rất phiền cho phong kiến ( 10 ; 74)
Trong cuốn Nguyễn Du tác gia tác phẩm của nhiều tác giả, Nxb GD ,
1999 cũng có đoạn viết: Truyện Kiều không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của ngời phụ
nữ, ca ngợi tài năng của con ngời trong xã hội cũ mà còn đề cao khát vọng làm
ngời, khát vọng yêu thơng, đợc hởng hạnh phúc thông qua nhân vật Thúy Kiều
một ngời tài sắc vẹn toàn mà cuộc đời cứ xô đẩy, nhấn chìm nàng xuống đáy
xã hội .
Trong lời nói đầu cuốn Nguyễn Du toàn tập Tập 1, Nxb VH, 1996, Mai
Quốc Liên có nhận xét: Ngời ta nói Nguyễn Du trân trọng ngời phụ nữ. Đó là
nét nổi trội của chủ nghĩa nhân đạo mọi thời, từ Đông sang Tây, từ phục hng đến
thế kỷ XIX. Nguyễn Du cảm thơng vô hạn trớc những số phận phụ nữ. Cha có ai
viết hay về Tiểu Thanh, Dơng Phi, ngời ca kỹ La Thành... nh Nguyễn Du. Cha có
ai nói mình là ngời cùng hội cùng thuyền với nỗi oan của Tiểu Thanh... nh
Nguyễn. Những mạch nguồn nhân đạo ấy đã tích tụ lại và đã thành Kiều, đại dơng mênh mông của chủ nghĩa nhân đạo. Nàng Kiều dù trong nhơ đục vẫn trong
trắng, vẫn vơn lên trên kiếp ngời của mình, đứng cao hơn nó và có lúc Nguyễn
Du đã đi tới đầu mút của chủ nghĩa nhân đạo: Đục trong thân cũng là thân. Cái
quý nhất của con ngời là chính bản thân con ngời vậy: Con ngời là thực thể cao
nhất, con ngời là thợng đế của bản thân con ngời
Nguyễn Lộc cũng có nhận xét: Thúy Kiều không còn là một con ngời
bình thờng mà phải là một nhân cách, một thớc đo, một nguyên lý cuộc sống để
9
mọi giá trị thực hay giả của đời sống đối chiếu với nó hay soi mình vào đó sẽ bộc
lộ tất cả những bản chất tuyệt vời, cao đẹp hay bỉ ổi, xấu xa không thể ngụy
trang che dấu đợc
Lê Đình Kỵ trong bài viết Nguyễn Du và đạo đức phong kiến (qua nhân
vật Thúy Kiều), TCVH số 9/1965 có viết: Dành lấy quyền sống cho một ngời
nh Thúy Kiều, bảo vệ những giá trị mà Kiều là đại diện. Truyện Kiều đã biện hộ
cho quyền sống của ngời phụ nữ và đã đạt tới một chiều sâu rộng của sự khái
quát cha từng thấy trong văn học thời kỳ phong kiến (10 ; 83)
Trong báo văn nghệ tháng 11 / 1965, tác giả Bùi Xuân Quý đã viết: Ngời
ta thờng nói tới thái độ của Nguyễn Du đối với ngời phụ nữ, nhất là đối với ngời
ca kỹ - những hạng ngời bị khinh rẻ nhất trong xã hội cũ. Không bao giờ Nguyễn
Du nhìn thấy những ngời phụ nữ nh những thứ đồ chơi mà luôn luôn có thái độ
trân trọng, đồng tình, đồng điệu với họ .
Nguyễn Du đã đa ra một mẫu ngời phụ nữ bị xã hội dồn lên đầu tất cả
những nỗi nhục nhã ê chề mà ngời đàn bà thời trớc có thể chịu đựng, nhng cũng
chính ngời phụ nữ ấy trong cuộc đời cay đắng của mình vẫn giữ đợc đạo làm ngời, vẫn bảo vệ đợc nhân phẩm và trong hoàn cảnh của mình đã hành động một
cách xứng đáng, không chê vào đâu đợc ( 10 ; 84)
2.2 Qua khảo sát chúng tôi thấy, nhìn chung các công trình nghiên cứu về
Hình tợng ngời phụ nữ trong truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học
chắc chắn còn rất nhiều. ở đây chúng tôi chỉ lựa chọn một số các công trình có
liên quan đến đề tài. Chúng tôi nhận thấy rằng cha có công trình nào đi sâu
nghiên cứu hình tợng về ngời phụ nữ ở cả hai thể loai tác phẩm mà chúng tôi vừa
nêu trên hoặc cũng mới chỉ nghiên cứu về truyện Nôm khuyết danh, về tác phẩm
Phạm Tải Ngọc Hoa , về tác phẩm Truyện Kiều ở những khía cạnh khác,
hoặc cũng chỉ mới dừng lại ở mức chung chung khi nói về ngời phụ nữ, chứ cha
đi sâu vào nghiên cứu đề tài này một cách cụ thể và toàn diện, cha làm nổi bật đợc Hình tợng ngời phụ nữ trong truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học
.
10
Và trong số các công trình nghiên cứu trên thì bài viết Quyền sống của
con ngời trong Truyện Kiều của Nguyễn Du in trong Nguyễn Du về tác gia
tác phẩm của Hoài Thanh; bài viết Phạm Tải Ngọc Hoa, một truyện Nôm
khuyết danh có giá trị , đăng trên Nghiên cứu văn học, số 8 /1960 của Lê
Hoài Nam và bài viết Nhân vật phụ nữ qua một số truyện Nôm đăng trên
Tạp chí văn học số 2 3 /1986 của Đặng Thanh Lê, đợc xem là gần với đề
tài luận văn nhất. Nói nh vậy không có nghĩa là các nhà nghiên cứu không làm
đợc mà họ cha đặt ra vấn đề đó một cách khu biệt. Đây vừa là những khó khăn
nhng cũng tạo đợc những điều kiện thuận lợi cho chúng tôi thực hiện đề tài của
mình. Khó khăn vì sự ít ỏi của tài liệu sẽ làm cho việc xác định hớng đi của đề
tài không dễ dàng gì. Nhng mặt khác, đó sẽ tạo thành điều kiện để chúng tôi phát
huy tối đa những sáng tạo của bản thân mình.
2.3 Luận văn trên cơ sở tiếp thu các thành tựu của các nhà nghiên cứu trớc,
chúng tôi chọn đề tài này để tìm hiểu và mở rộng đề tài về chiều sâu lẫn chiều
rộng: khảo sát, khám phá hai truyện, cố gắng đa ra những kiến giải của mình
nhằm nêu ra những nét nổi bật nhất về hình tợng ngời phụ nữ.
3. Phạm vi nghiên cứu và đối tợng nghiên cứu
3.1 Phạm vi nghiên cứu của luận văn là Hình tợng ngời phụ nữ trong
truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học
3.2 Nhng vì truyện Nôm có khối lợng tác phẩm rất lớn nên chúng tôi chỉ
chọn một tác phẩm thuộc truyện Nôm bình dân và một tác phẩm thuộc truyện
Nôm bác học để khảo sát và nghiên cứu.
Cụ thể là tác phẩm Phạm Tải Ngọc Hoa in trong cuốn Kho tàng truyện
Nôm khuyết danh Việt Nam, tập 1, NxbVH, 2000 do Bùi Văn Nguyên chủ
biên.
Và Truyện Kiều của Nguyễn Du, do có rất nhiều bản Kiều đợc lu hành nên
trong khóa luận này chúng tôi chọn bản của Đào Duy Anh.
4. Phơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này chúng tôi chủ yếu sử dụng các phơng pháp sau
Phơng pháp khảo sát , thống kê
11
Phơng pháp phân tích , tổng hợp
Phơng pháp so sánh , đối chiếu
Sử dụng những phơng pháp trên để tìm ra sự tơng đồng và những nét sáng
tạo mới khi xây dựng hình tợng ngời phụ nữ từ truyện Nôm bình dân đến truyện
Nôm bác học.
Tất cả những phơng pháp trên đều đợc chúng tôi đứng trên quan điểm lịch
sử để soi chiếu và nghiên cứu.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo. Nội dung của luận văn
đợc trình bày trên ba chơng:
Chơng 1. Giới thuyết chung về truyện Nôm.
Chơng 2. Hình tợng ngời phụ nữ trong truyện Nôm bình dân và truyện
Nôm bác học.
Chơng 3. Nghệ thuật xây dựng hình tợng ngời phụ nữ trong truyện Nôm
bình dân và truyện Nôm bác học.
12
B Phần nội dung
Chơng 1. Giới thuyết chung về truyện Nôm
1. Khái niệm truyện Nôm
Về thuật ngữ nhằm định danh thể loại này có rất nhiều ý kiến khác nhau.
Trong bài Khảo cứu truyện Song Tinh bất dạ của Đông Hồ gọi là Truyện diễn
ca. Hoàng Thiếu Sơn trong bài Tôn Giáo ca Việt Nam thì lại gọi truyện Nôm là
Truyện Nôm. Cao Huy Đỉnh trong bài Vai trò lịch sử của truyện thơ Nôm thì
muốn gọi rõ là Truyện thơ Nôm một thể loại Truyện thơ viết bằng chữ
Nôm để phân biệt với truyện viết bằng chữ Hán. Tuy có rất nhiều ý kiến khác
nhau, nhng nhìn chung, ý kiến phổ biến nhất hiện nay vẫn gọi thể loại này là
Truyện Nôm một tên gọi gần gũi, quen thuộc trong dân gian.
Dơng Quảng Hàm là ngời đầu tiên dùng thuật ngữ Truyện Nôm, trong phần
tổng kết sách Việt Nam văn học sử yếu mục Việt văn, tác giả ghi rõ: Truyện
Nôm là tiểu thuyết viết bằng văn vần. Đây là định nghĩa sơ lợc đầu tiên về
truyện Nôm.
Trong Truyện Kiều và thể loai truyện Nôm, Đặng Thanh Lê đã mở rộng khi
cho rằng Truyện Nôm nằm trong hệ thống tác phẩm phản ánh cuộc sống bằng
phơng thức tự sự (phân biệt với các tác phẩm phản ánh cuộc sống bằng phơng
thức trữ tình kiểu Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc và các thể loại trữ tình
khác nh ca dao, Đờng luật) có nghĩa là phản ánh cuộc sống xã hội thông qua sự
trình bày miêu tả có tính chất hoàn chỉnh vận mệnh một nhân vật và trên cơ sở
đó, sự phát triển có tính chất hoàn chỉnh của một tính cách nhân vật (trong mối
quan hệ với nhiều vận mệnh nhiều tính cách nhân vật khác) (12 ; 55). Theo tác
giả, truyện Nôm chính là một hình thức của thể loại Truyện, tức tiểu thuyết
trong ý nghĩa cổ xa của từ này, với hai đặc điểm (1)Nguồn gốc sự việc xuất phát
từ cuộc sống xã hội rộng rãi và (2) nội dung đề cập đến những câu chuyện dung
tục (bỉ sự) thiếu tính chất trang nghiêm, tao nhã (12 ; 66 67).
Nhìn chung, những định nghĩa khác nhau về truyện Nôm đã đợc nêu ra trên
đây đều xuát phát từ những hớng nghiên cứu khác nhau của các tác giả. Tuy
13
nhiên, những quan niệm đó, đều dựa trên cơ sở chính là đặc trng thi pháp của
truyện Nôm nên tuy khác nhau vẫn thống nhất ở một số điểm chung. Qua tập
hợp các ý kiến vừa nêu, chúng tôi thống nhất cho rằng: Truyện Nôm là thể loại
tự sự bằng thơ dài của văn học cổ điển Việt Nam (phát triển mạnh vào cuối thế
kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX) do viết bằng tiếng Việt ghi bằng chữ Nôm nên đợc
gọi là Truyện Nôm.
1.1. Đặc trng thi pháp
Truyện Nôm bản thân nó đã là một hiện tợng văn học khá phức tạp. Vì vậy,
việc xác định những đặc trng thi pháp của thể loại này có rất nhiều ý kiến khác
nhau, thậm chí đối lập nhau.
Trần Đình Sử trong Thi pháp Truyện Kiều, khi bàn về truyện Nôm đã cho
rằng: bản chất văn học viết và bản chất của truyện Nôm bình dân không hề loại
trừ nhau. Tác giả đặt ra vấn đề: vậy truyện Nôm là hai thể loại thể loại truyện
kể dân gian và thể loại tiểu thuyết thuộc hai loại hình văn học hay là một thể loại
mà hai loại hình thuộc văn học viết (18;85). Tác giả khẳng định: Truyện Nôm
là thể loại ra đời trên cái nền nhu cầu diễn âm, diễn ca, diễn Nôm, tức là
truyền thống tự sự rất phổ biến của xã hội, trên cơ sở chữ Nôm và rất có thể tên
gọi truyện Nôm có cội nguồn từ chữ nôm của nó, nghĩa là có chữ Nôm rồi mới
có truyện Nôm và có rồi mới có tên truyện Nôm. Ông cho rằng: Truyện Nôm
là truyện viết ra để đọc, xem hoặc ngâm nga trong th trai, phòng văn, không có
chữ Nôm thì không thể có truyện Nôm..., viết truyện Nôm để ngâm nga, một
thú chơi nghệ thuật ngôn từ của ngời Việt. Đó là loại kể, để xem, để ngâm nga
giải trí (18; 86 89). Trong Truyện Nôm lịch sử phát triển và thi pháp thể
loại, ngay từ phần mở đầu Kiều Thu Hoạch đã nhấn mạnh: Việc chỉ xem xét
truyện Nôm nh đối tợng của folklore học cũng là một nguyên nhân quan trọng
dẫn tới những nhận định và những luận điểm có phần thiếu khách quan, không
đúng với bản chất của thể loại. tác giả đã phủ định quan niệm xem truyện Nôm
là văn học viết, là thể loại tự sự và có xu hớng xem đó là văn học dân gian. Tác
giả viết: Truyện Nôm là một thể loại sinh thành và phát triển từ cội nguồn và
văn hóa dân gian, sáng tác theo khuôn hình cốt truyện văn học dân gian, kết cấu
14
kết thúc có hậu với yếu tố thần kỳ nhân vật nhiều loại tính hơn là cá tính, tác
phẩm mang đậm t duy cổ tích, nội dung truyện Nôm bắt nguồn từ các truyện cũ,
tích cũ, sử dụng phổ biến các mô típ dân gian.
Từ những ý kiến trên, chúng tôi thấy rằng: Truyện Nôm thuộc vào phạm trù
văn học viết dân tộc, tuy nhiên chịu ảnh hởng ít nhiều của văn học dân gian. Đó
là thể loại tự sự bằng thơ dài tức phản ánh cuộc sống bằng phơng thức tự sự.
Chính vì vậy, về mặt thi pháp, truyện Nôm mang tất cả những đặc trng thi pháp
của loại tác phẩm tự sự. Ta có thể đa ra các đặc trng của truyện Nôm dựa trên cốt
truyện, nhân vật, ngôn ngữ, nghệ thuật trần thuật...
1.2. Phân loai truyện Nôm
Cũng nh khái niệm truyện Nôm, cách phân loại truyện Nôm cũng đang còn
nhiều ý kiến khác nhau. Có ngời chia truyện Nôm thành truyện Nôm hữu danh
và truyện Nôm khuyết danh; có ngời chia truyện Nôm bình dân và truyện Nôm
bác học; có ngời chia thành truyện Nôm Tài tử - Giai nhân và các loại truyện
Nôm khác. Nguyễn Lộc trong cuốn Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX cho
rằng: Trớc nay, nói đến truyện Nôm, các nhà nghiên cứu thờng chia ra làm hai
loại: truyện Nôm hữu danh và truyện Nôm khuyết danh. Truyện Nôm hữu danh
là truyện Nôm biết rõ tên tác giả, còn truyện Nôm khuyết danh là truyện Nôm
cha biết rõ tên tác giả là ai. Thực ra lối phân chia này có tính hình thức, mà
không nói lên một đặc điểm nào về nội dung hay thể loại.Từ đó tác giả khẳng
định: Thực tế trong kho tàng truyện Nôm tồn tại song song hai loại truyện còn
đợc nghiên cứu riêng nh hai chủng loại của một thể thống nhất. Một loại là
truyện Nôm kiểu: Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống trân Cúc Hoa, Ph ơng Hoa,
Hoàng Trừu... Một loại là những truyện Nôm kiểu: Truyện Kiều, Hoa Tiên, Sơ
kính tân trang, Nhị độ mai, Phan Trần, Tây Sơng...Loại trên có thể gọi là truyện
Nôm bình dân, loại dới có thể gọi là truyện Nôm bác học. Đinh Gia Khánh trong
cuốn Văn học dân gian thừa nhận có truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác
học. Tác giả cho rằng: Truyện Nôm nói chung là loại tác phẩm bắc cầu giữa
văn học dân gian và văn học bác học. Có những truyện gọi là truyện Nôm bình
dân thì gần với văn học dân gian hơn. Có những truyện thì ở hoặc trung gian, lại
15
có truyện thì gần với văn học bác học hơn hoặc là hoàn toàn có tính chất là tác
phẩm văn học bác học.
Qua một số ý kiến tìm hiểu về vấn đề phân loại truyện Nôm nh trên, chúng
ta thấy nổi lên hai khuynh hớng cơ bản: một là phân chia truyện Nôm thành
truyện Nôm khuyết danh và truyện Nôm hữu danh; một là phân chia truyện Nôm
thành truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học. Khuynh hớng phân loại
truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học rõ ràng là chiếm u thế và đợc nhiều
ngời chấp nhận.
Truyện Nôm bình dân
Truyện Nôm bình dân là sáng tác của nhà Nho không thành đạt sống gần
gũi với nhân dân, quần chúng lao động. Hình thức nghệ thuật đơn giản, nội dung
thể hiện đạo đức trung hiếu tiết nghĩa và cuộc đấu tranh bảo vệ tình yêu hạnh
phúc gia đình. Đó là những truyện nhTống Trân Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc
Hoa, Thạch Sanh, Thoại Khanh Châu Tuấn... Đây là những tác phẩm mang
đậm đặc điểm t duy và sinh hoạt của ngời bình dân, rất lành mạnh, giản dị, giàu
tinh thần đấu tranh và tình nhân ái. Truyện Nôm bình dân đã có đời sống đặc
biệt trong lịch sử văn học dân tộc. Về đặc điểm cốt truyện, nhiều truyện Nôm
bình dân mợn cốt truyện của truyện cổ dân gian. Về cơ bản nó giữ lại cái sờn cốt
truyện của truyện cổ. Nhng nhìn chung cốt truyện Truyện Nôm đợc triển khai
rộng rãi và sâu sắc hơn truyện cổ dân gian. Đến truyện Nôm thì truyện cổ đợc
tiểu thuyết hóa ở mức độ nhất định, tình tiết phức tạp hơn, dung lợng cốt truyện
mở rộng hơn, cốt truyện là phơng tiện bộc lộ chủ đề, song tính cách nhân vật lại
đóng vai trò đáng kể. Về nhân vật, không thể phủ định rằng nhân vật trong
truyện Nôm bình dân vẫn cha thoát khỏi những khuôn mẫu của nhân vật truyện
cổ tích, do đó mà thế giới nhân vật của truyện Nôm bình dân có tính chất lý tởng
hóa, công thức hóa hơn là hiện thực, nhân vật loại tính hơn là cá tính. ở truyện
Nôm bình dân yếu tố tiểu thuyết mới là một xu hớng manh nha, thì ở truyện
Nôm bác học chất tiểu thuyết đã đậm dần lên và có một số truyện đạt đến trình
độ tiểu thuyết bằng thơ nh Truyện Kiều
16
Truyện Nôm bác học
Truyện Nôm bác học là những truyện Nôm có nội dung t tởng và tính nghệ
thuật cao , nội dung chính là giải phóng tình cảm , tình yêu tự do vợt khỏi khuôn
khổ lễ giáo phong kiến. Tác giả của loại truyện Nôm này là những nhà Nho có
học vấn cao. Xét ở góc độ cảm hứng sáng tác và chủ đề có thể chia truyện Nôm
bác học thành hai nhóm. Một nhóm gồm những tác phẩm có nội dung luyến ái tự
do nh Truyện Song Tinh, Ngọc Kiều Lê, Hoa Tiên, Phan Trần, Sơ kính tân trang,
Truyện Tây Sơng,Truyện Kiều... Một nhóm khác gồm những tác phẩm có nội
dung trung hiếu tiết nghĩa nh Nhị độ mai, Lục Vân Tiên... , loại tác phẩm này về
phơng diện tình yêu đôi lứa không đợc khắc họa sâu.
Về cốt truyện, hầu hết loại truyện này đều dựa theo những cốt truyện trong
văn học Trung Quốc, cá biệt mới có cốt truyện đợc nhà thơ h cấu, sáng tác. Các
nhân vật trong truyện Nôm bác học là những nam thanh nữ tú đa tình, tài hoa.
Họ gặp nhau, rung động từ con tim, đến với nhau bởi sự thôi thúc của tình yêu
đôi lứa và trong quá trình đến với tình yêu, bảo vệ tình yêu, họ đã vợt lên trên
hầu hết những ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến. Thành tựu của truyện
Nôm bác học không chỉ biểu hiện ở cái mới trong các yếu tố hình thức nghệ
thuật đợc sáng tạo bởi các nhà thơ tài năng mà còn bộc lộ trong những t tởng
mới, quan niệm và cách nhìn mới về con ngời, về thời đại với nhiều đặc điểm
mới mẻ và táo bạo, so với văn học truyền thống. Đó là tình yêu tự do vợt ngoài lễ
giáo phong kiến, mà hình tợng trung tâm hoặc hình tợng chính là ngời phụ nữ
với nhiều khám phá mới mẻ và phong phú. Hình tợng ngời phụ nữ với tình yêu
say đắm, vợt mọi ràng buộc của lễ giáo hủ tục đã trở thành một chủ đề trung
tâm, quán xuyến toàn bộ giai đoạn văn học này. Nói cách khác: nếu nh trớc đó,
ngời ta nói đến tình yêu chỉ nhằm thể hiện một một quan niệm đạo đức hay bộc
lộ một mong ớc về những điều tốt đẹp, thì đến thời kỳ này, tình yêu với tất cả
những biểu hiện phong phú, tinh tế có thực của nó đã trở thành đối tợng và mục
đích của sự miêu tả và khám phá trong văn học. Trong hoàn cảnh những yếu tố
nhân đạo, dân chủ đang trở thành trào lu t tởng chung của thời đại, các nhà Nho
đã sáng tác những tác phẩm có nội dung tình yêu tự do của các tài tử giai nhân.
17
Qua đó, họ muốn bày tỏ tâm sự, muốn gửi gắm cả nỗi đau và khát vọng, muốn
bộc lộ đồng cảm trớc những vấn đề xã hội. Đó là vấn đề tự do cá nhân, vấn đề
vận mệnh con ngời, vấn đề tài năng... , nói chung là vấn đề về quyền sống của
con ngời. Những hình tợng nhân vật phụ nữ nh Dao Tiên, Quỳnh Th, Kiều Liên,
Thúy Kiều ... và những mối tình say đắm của họ hoàn toàn không bị ràng buộc
trong khuôn mẫu lễ giáo. Thực ra, ngoài lễ nghĩa truyền thống nh một đờng viền
mỏng manh , ở những mối tình đó toát lên những nét tự do, thanh tao, trong sáng
và tinh tế, những biểu hiện của một đời sống và khát vọng tinh thần mới mẻ,
phong phú trong một nền văn hóa đang phát triển theo chiều sâu nhân văn của nó.
Truyện Nôm bác học đã tiến xa hơn hẳn trong việc khám phá thế giới nội tâm con
ngời, những trạng thái cảm xúc xung quanh tình yêu tự do. Những yếu tố mới xuất
hiện trong cách nhìn nhận về cái đẹp, cái tài, sự gắn bó giữa tài và tình nh một giá
trị của con ngời. Qua những mối tình giai nhân tài tử, các tác giả đã đa vào văn
học những quan niệm mới so với quan niệm truyền thống, về tình yêu tự do, về
thái độ tôn trọng tài sắc ngời phụ nữ, về hạnh phúc, lòng chung thủy, về biểu hiện
tinh tế có chiều sâu của những tâm hồn đang yêu. Các nhân vật mang những nét
mới đó, chính là kết quả của sự kết hợp nét đẹp của đạo đức truyền thống với âm
vang của đời sống tinh thần mới, của t tởng thị dân trong những khía cạnh tích cực
của nó, đang hình thành và phát triển khá mạnh trong xã hội. Tất cả những đặc
điểm và nhân tố mới đó đã làm cho văn học thời kỳ này mang ý nghĩa nhân bản và
có giá trị nhân đạo sâu sắc.
1.3. Giới thuyết chung về hình tợng ngời phụ nữ trong văn học Việt Nam
Hình nh đã trở thành một quy luật phổ biến là bất cứ một nền văn học nào
khi ra đời trào lu nhân văn chủ nghĩa thì vấn đề ngời phụ nữ lại đợc đặt lên hàng
đầu, đợc đề cao, nhấn mạnh.Đối với các nhân vật phụ nữ trong văn học giai đoạn
nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX, thái độ của các nhà thơ nói chung
là thông cảm, bênh vực và ca ngợi. Họ không chỉ ca ngợi ngời phụ nữ ở mặt đảm
đang, chịu khó, chung thủy với tình yêu hay có hiếu đối với bố mẹ, nghĩa là ca
ngợi những đức tính mà đạo đức phong kiến trên một xuất phát điểm khác cũng
18
có thể chấp nhận và ngợi ca đợc, mà còn thông cảm và ca ngợi những đức tính
nhiều khi đối lập gay gắt với đạo đức phong kiến.
Tuy vẫn biết rằng trong cuộc đời cũ, đau khổ chẳng phải là phần riêng dành
cho phụ nữ. Nhng cái đau khổ của ngời phụ nữ bao giờ cũng có khía cạnh chua
xót tái tê riêng của nó. Tuy nhiên ở ngời phụ nữ bao giờ cũng toát lên vẻ đẹp về
nhân phẩm cao quý. Ngời phụ nữ đợc các tác giả đề cao vì bản thân họ luôn ý
thức một cách đầy đủ nhất về đức hạnh của mình và họ sẵn sàng bằng mọi giá để
bảo vệ nó.
1.3.1. Vẻ đẹp hình thể, một vẻ đẹp mang đầy hơng sắc thiên nhiên
Trong nền văn học trung đại Việt Nam, vẻ đẹp hình thể của ngời phụ nữ là
đề tài không thể thiếu đợc. Nó luôn đợc ca ngợi đầu tiên, ngay từ khi ngời phụ
nữ mới xuất hiên trong tác phẩm.Không chỉ có một tâm hồn thanh khiết mà
những ngời phụ nữ trong văn học trung đại Việt Nam còn mang một vẻ đẹp hình
thể xinh tơi mơn mởn đầy sức sống. Họ là những cô gái:
Chị cũng xinh mà em cũng xinh
Đôi lứa nh in tờ giấy trắng
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh.
Vẻ đẹp của họ còn khiến cho những kẻ đợc xem là quân tử, đợc đào tạo
trong môi trờng cửa Khổng sân Trình vẫn phải dùng dằng đi chẳng dứt.
Đó là Bạch Viên sang trọng, mơn mởn xuân xanh:
Mấy đoạn sở vân xuôi tóc phợng
Nửa vòng thu nguyệt vạnh mày nga.
Hay ngời ca kỹ ở đất La Thành:
Cành hoa đẹp thắm từ cõi tiên xuống
Sắc đẹp uyển chuyển làm rung động sáu thành
Là Quỳnh Th:
Mày ngang bán nguyệt miệng chào trăm hoa
Nửa chiều cung quế hằng nga
Hay nàng cung nữ trong Cung oán ngâm khúc với tài sắc không ai bì kịp:
Trộm nhớ thuở gây hình tạo hóa,
Vẻ phù dung một đóa khoe tơi...
19
Một sắc đẹp tuyệt vời:
Chìm đáy nớc cá lờ đờ lặn,
Lửng da trời, nhạn ngẩn ngơ sa.
Hơng trời đắm nguyệt say hoa,
Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình.
Và nàng Thúy Vân với vẻ đẹp:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cời ngọc thốt đoan trang
Mây thua nớc tóc, tuyết nhờng màu da.
Một vẻ đẹp cao quý, phúc hậu, Thúy Vân không những là một ngời con gái
thùy mị, đoan trang mà lại còn có sắc đẹp tóc xanh hơn mây , da trắng hơn
tuyết. Vẻ đẹp khiến cho con ngời đến tạo hóa đều phải kính nhờng .
Tựu trung lại, các nhân vật nữ trong văn học trung đại Việt Nam thờng
mang một vẻ đẹp ớc lệ tợng trng. Nó không đợc vẽ ra bằng những đờng nét cụ
thể mà nó đợc các tác giả hòa quyện với vẻ đẹp kỳ ảo của thiên nhiên, dung mạo
của họ đợc thể hiện bằng những sắc màu rực rỡ của thiên nhiên, đất trời, cỏ cây,
hoa lá. Nó khiến cho hình tợng ngời phụ nữ trong văn học trung đại trở nên
huyền diệu hơn, thanh khiết hơn, say đắm lòng ngời hơn.
1.3.2. Những biểu hiện của vẻ đẹp tâm hồn
Nếu nh hình thức là cái đợc tạo bởi dáng vẻ bên ngoài thì tâm hồn là đời
sống tinh thần bên trong của mỗi con ngời.Những ngời phụ nữ luôn có ý thức giữ
gìn bảo vệ tình yêu, trọn lòng với hai tiếng thủy chung. Nàng Vũ Nơng trong
Chuyện ngời con gái Nam Xơng trớc sự ép buộc của tớng giặc để giữ lòng thủy
chung với chồng mà tìm đến cái chết thơng tâm. Hay nàng Viên Thị trong Lâm
Tuyền Kỳ Ngộ trớc sau giữ trọn Bền lòng vàng đá với chồng trong cõi đời
Quen thói mây ma thế tục nhiều cho đến khi phải quay về tiên giới, vẫn không
quên đợc cuộc sống nơi trần thế, đến nỗi Phai đào ủ nguyệt vì thơng nhớ
chồng con. Nàng Cúc Hoa trong Tống Trân Cúc Hoa, khi Tống Trân từ chối
lấy công chúa con vua nên bị đày đi xứ sự mời đông . Mời mấy năm trời biệt
20
âm tin chồng nhng nàng vẫn luôn kiên tâm chờ đợi chồng và nuôi mẹ chồng.
Tình cảm đó, vợt qua đợc muôn ngàn thử thách để cuối cùng họ đợc đoàn viên
bên nhau.
Trớc cuộc đời đầy đau khổ, ngời phụ nữ không hề kêu ca, than phiền mà
cam chịu, chấp nhận số phận nghiệt ngã để vơn lên khẳng định sự kiên trinh,
chung thủy:
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
Kính Tâm trong Quan Âm Thị Kính là ngời phụ nữ có tài, có sắc, có đức.
Vốn dĩ nàng phải có một cuộc sống hạnh phúc. Nhng bao sự cố éo le chà đạp lên
hạnh phúc của nàng. Bị gia đình chồng vu cho là hạng trộm hơng cắp phấn ,
Kính Tâm vẫn nhẫn nhục chịu đựng dù ai phụ bạc cùng nhau . Nàng đã xuất
gia đi tu, nơng nhờ cửa Phật tởng đợc yên thân, nào ngờ lại bị Thị Màu vu tội
thông dâm. Kính Tâm vẫn một lòng chịu đựng:
Chữ rằng nhẫn nhục nhiệm hòa
Nhẫn điều khó nhẫn mới là chân tu
Thị Màu bắt Kính Tâm phải nuôi con, nàng vẫn không hề có phản ứng, vẫn
tiếp tục chịu đựng Phúc thì làm phúc dơ đành chịu dơ .
Và dù ở trong hoàn cảnh nào ngời phụ nữ vẫn không hề chịu khuất phục trớc số phận, luôn có khát vọng vơn lên. Ngời phụ nữ luôn đấu tranh không biết
mệt mỏi, không hề né tránh trớc những bất công, những phũ phàng trong cuộc
sống. Trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều ngời cung nữ cũng
phản kháng quyết liệt thực tại cuộc sống cung cấm, vua chúa để dành lại hạnh
phúc mình từng có. Nàng không chỉ muốn kêu một tiếng cho dài kẻo căm mà
còn muốn vạch trần bản chất trụy lạc, vô nhân đạo của bọn vua chúa:
Đuốc vơng giả chí công là thế
Chẳng soi cho đến khóe ân nhai
Muôn hồng nghìn tía đua tơi
Chúa xuân nhìn hái một hai bông gần
21
Ngay cả khi không đợc làm chủ số phận của mình nhng vẫn luôn giữ đợc
một tấm lòng kiên trinh tiết hạnh. Ngời cung nữ đã không hề muốn lợi dụng sắc
đẹp tuyệt trần mà tạo hóa đã ban tặng để có đợc danh vọng mà nàng chỉ nghĩ về
một tình yêu son sắt, thủy chung:
Chữ đồng lấy đấy làm ghi
Mợn điều thất tịch mà thề bách niên
1.3.2.1. Những ngời phụ nữ có tài, có tình, có ý chí và có nghị lực
Trong văn học trung đại Việt Nam đã có không ít tác giả tập trung ca ngợi
tài hoa trí tuệ của ngời phụ nữ.Trong tác phẩm thơ Nôm nổi tiếng Thiên nam
ngữ lục, tác giả đã ca ngợi những chiến công lừng lẫy của hai chị em bà Trng
trong công cuộc dẹp giặc ngoại xâm, đánh tan Tô Định, giành lại độc lập cho
dân tộc:
ầm ầm tả đột hữu xông
Chém Tô trong trận nh rồng cuốn mây
Đó quả thật là những ngời phụ nữ có bản lĩnh, có khả năng lãnh đạo, đã trở
thành những nữ anh hùng huyền thoại làm gơng sáng cho ngời đời soi chung:
Gái tay cao mấy tài gái Triệu,
Trục quân Ngô chân bó tay co.
Buông uy chớp giật sớm khuya,
Nh bằng bẻ héo cành khô một chồi.
Vắt hai vú lên vai cả lét,
Dễ sợ hùm chạy biệt đòi nơi.
Để cho má phấn ra tài,
Thấy trai thời ấy chẳng ai anh hùng.
Hay cô Cầm với tài đàn ca bậc nhất ở Long Thành, tiếng đàn của cô đợc ví
nh tiếng đàn thuộc về đất trời, là cái đẹp, nó tự nở nh một bông hoa. Là thiên
nhiên chứ không phải do con ngời sắp đặt. Đây là tiếng đàn:
Tiếng khoan thoảng thông ngàn gió thổi
Tiếng trong nh hạc gọi xa xăm
Mạnh nh Tiến Phúc sét gầm
22
Buồn nh tiếng Việt, Trạng nằm đau rên.
Nàng cung nữ trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều với những
tài nghệ vô song:
Câu cẩm tú đàn anh họ Lí,
Nét đan thanh bậc chị chàng Vơng.
Cờ tiên rợu thánh ai đang,
Lu Linh, Đế Thích là làng tri âm
Hình ảnh ngời phụ nữ trong Truyền kỳ tân phả , một tác phẩm ghi chép
những chuyện hoang đờng của Đoàn Thị Điểm đã có những nét tiêu biểu cho ngời phụ nữ thời kỳ này.
Và đặc biệt trong các truyện Nôm bình dân các cô gái đều có ý chí, có nghị
lực lớn. Nàng Ngọc Hoa trong Phạm Tải Ngọc Hoa cũng nh nàng công chúa
trong truyện Lý Công đã dũng cảm đơng đầu với tất cả những thế lực đen tối phá
hoại tình yêu của họ. Nàng Phơng Hoa trong truyện Phơng Hoa lại giả trai đi thi
để gặp vua tố cáo tội ác của tên Tào trung úy và minh oan cho ngời chồng cha cới của nàng. Và nàng Kiều của Nguyễn Du không phải chỉ có hoạn nạn nh chị
Thúy Kiều mà còn là một ngời rất giỏi thi họa ca ngâm, lại biết điều khiển cả
một phiên tòa xử tội những kẻ gây ra tội ác. Thúy Kiều là một con ngời luôn
luôn có ý thức về mình và về xung quanh, biết tình yêu là ánh sáng trong xã hội
đầy bóng tối, đồng thời cũng biết hy sinh vì một lẽ cao quý hơn.
Ngoài ra, trong thơ Nôm Hồ Xuân Hơng, chúng ta thấy nhân vật phụ nữ tài
hoa đợc bà ca ngợi, khẳng định với những ý chí, bản lĩnh không kém gì nam
giới:
Ví đây đổi phận làm trai đợc
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu
Thậm chí những ngời phụ nữ ấy còn mạnh dạn khẳng định tài năng của
mình bằng cách chê bai những đấng sĩ tử kém cỏi:
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây cho chị dạy làm thơ
23
Có thể thấy ngời phụ nữ trong thơ Nôm Hồ Xuân Hơng thì lúc nào cũng nh
thách thức với xã hội, có bản lĩnh, giỏi thơ phú, biết mình có khả năng không
kém gì đàn ông, chỉ vì xã hội không chấp nhận nên không thi thố đợc. Bản lĩnh,
lòng tự tin vào tài năng của chính mình, không nhắm mắt buông theo số phận
an bài nh những tiếng thở dài não nuột mà ta thờng gặp. Có khi lại tự khẳng
định một cách mạnh mẽ
Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài.
Ngay cả những ngời phụ nữ xấu trong văn học giai đoạn này cũng là những
ngời phụ nữ có bản lĩnh, có cá tính. Chẳng hạn nh Hoạn Th:
ở ăn thì nết cũng hay
Nói điểu ràng buộc thì tay cũng già
Và cái ghen của Hoạn Th thật là đàn bà thế ấy cũng âu một ngời . Với
Thị Màu, thì đằng sau sự lẳng lơ ấy là một hành động dũng cảm đã vợt qua lễ
giáo phong kiến để theo đuổi tình yêu tự do của mình.
1.3.2.2. Hiện thân của những nỗi thống khổ
Bên cạnh việc đề cao, ngợi ca các tác giả văn học trung đại đã dựng lên vô
vàn những nỗi đau, sự bất hạnh của ngời phụ nữ. Trong xã hội phong kiến, ngời
phụ nữ là ngời bị áp bức nặng nề nhất. Họ không những bị áp bức về phơng diện
giai cấp mà còn bị áp bức về phơng diện giới tính. Không chỉ ngời phụ nữ nghèo
mới khổ mà nhiều khi nhng ngời phụ nữ xuất thân trong tầng lớp giàu có vẫn
khổ. Họ không phải chỉ khổ về vật chất mà nhiều khi còn rất khổ nhục về tinh
thần, tình cảm.
Ca dao thờng có câu lặn lội thân cò , một cách nói tô đậm nét đẹp trong
phẩm cách của ngời phụ nữ. Họ phải tảo tần đòn tre chín dạn hai vai để nuôi
sống gia đình, đó không phải là việc dễ dàng.Trên con đờng ấy là bao lo toan vất
vả của việc mu sinh. Điều ấy thật không đơn giản! Thế nhng không hề có lấy
một tiếng than vãn, sự hy sinh thầm lặng ấy hiện ẩn ở những thân cò lặn lội. Có
thể nói rằng niềm sung sớng hạnh phúc của họ không phải cho bản thân, cho
24
riêng mình mà tất cả hòa trong niềm vui của chồng con, trong khi bản thân mình
thật tội nghiệp:
Cái cò đi đón cơn ma
Tối tăm mù mịt ai đa cò về.
Sự tội nghiệp nằm trong cái côi cút, cô đơn lẻ loi.... có khi chỉ riêng mình
họ cảm nhận, hứng chịu không có lấy một lời chia sẻ động viên. Ngời phụ nữ
mang thân phận của giới, mang giới hạn của giới là cúi mặt trớc thế giới phong
kiến, cho nên suốt một đời không đi ra ngoài mái đình bến nớc. Và cứ thế họ lại
càng trở nên nhỏ bé, tội nghiệp.
Trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, có nhiều câu chuyện
viết về số phận đau khổ, bất hạnh của những ngời phụ nữ. Tiêu biểu là truyện
Ngời con gái Nam Xơng. Câu chuyện đã làm cảm động lòng ngời về một số phận
bi ai của những ngời phụ nữ, một câu chuyện đầy thơng tâm và nớc mắt. Vũ Thị
Thiết trong Chuyện ngời con gái Nam Xơng có một ớc mơ rất bình dị là lấy
chồng sinh con cái. Nhng ớc mơ hạnh phúc ấy chỉ cho nàng toại nguyện trong
một thời gian ngắn ngủi, cuộc sống đã đa đẩy nàng đến những bi kịch. Binh đao
đã làm cuộc đoàn viên cha đợc mấy lâu thì nhà nớc có việc đi đánh Chiêm
Thành, bắt đến nhiều lính tráng . Cuộc chiến tranh đã bắt Vũ Nơng phải xa
chồng, đó là điểm khởi đầu của hàng loạt biến cố xảy ra dồn dập với nàng sau
này: chia ly, mẹ chồng chết, bị chồng nghi oan đến mức phải tự vẫn... Sống
trong một xã hội mà ngời phụ nữ hoàn toàn không có tiếng nói, chỉ biết sống lầm
lũi, và phải hoàn toàn phục tùng mọi mệnh lệnh của chồng thì cho dù có thần
linh có thể chứng giám cho tấm lòng trinh bạch của Vũ Nơng nhng không thể
cứu nàng khỏi sự oan nghiệt của cõi đời, không thể làm cho nàng sống lại, hạnh
phúc tan vỡ thì không thể hàn gắn, níu kéo trở lại. Cùng lúc chịu sự chi phối, đàn
áp của chế độ thần quyền và cờng quyền khiến ngời phụ nữ luôn phải sống trong
cảnh bơ vơ trơ trọi, giữa những lời giăng gió cợt trêu, khiến họ luôn luôn
phải chịu sự dày vò, những thiệt thòi nhiều khi đến mức tàn nhẫn.
Bớc sang thế kỷ XVII XIX thời kỳ suy vong của chế độ phong kiến, số
phận ngời phụ nữ càng trở nên bi thảm hơn. Song văn học thời kỳ này lại có cái
25