Bộ giáo dục và đào tạo
Trườngưđạiưhọcưvinh
--------------
Trần thị ngọc
Nghệ thuật tự sự trong giàn thiêu
Của võ thị hảo
ư
Chuyên ngành: văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ ngữ văn
Vinh - 2010
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................Error: Reference source not found
1. Lý do chọn đề tài.............................................Error: Reference source not found
2. Lịch sử vấn đề..................................................Error: Reference source not found
3. Đối tượng nghiên cứu................................................................................5
4. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu...........................................................5
5. Phường pháp nghiên cứu..........................................................................6
6. Đóng góp của luận văn..............................................................................6
7. Cấu trúc của luận văn...............................................................................6
Chương 1
GIÀN THIÊU TRÊN HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO CỦA VÕ THỊ HẢO....Error:
Reference source not found
1.1. Võ Thị Hảo - một gương mặt nữ tiêu biểu của văn xuôi đương đại....Error:
Reference source not found
1.1.1. Hành trình sáng tạo của Võ Thị Hảo.....Error: Reference source not found
1.1.2. Tiểu thuyết của Võ Thị Hảo....................Error: Reference source not found
1.1.3. Giàn thiêu trong sự nghiệp sáng tác của Võ Thị Hảo.......Error: Reference
source not found
1.2. Giàn thiêu trong cảm hứng viết về lịch sử của văn học từ đổi mới......Error:
Reference source not found
1.2.1. Văn học viết về lịch sử thời kỳ đổi mới...Error: Reference source not found
1.2.2.
Những thành tựu chủ yếu của tiểu thuyết lịch sử thời kỳ đổi mới..Error:
Reference source not found
1.2.3 Thuận lợi và thách thức của Võ Thị Hảo khi viết Giàn thiêu..............Error:
Reference source not found
1.2. Nhìn chung về thế giới nghệ thuật của Giàn thiêu....Error: Reference source
not found
1.3.1. Những cứ liệu lịch sử..............................Error: Reference source not found
1.3.2. Những hư cấu trên cứ liệu lịch sử..........Error: Reference source not found
3
Chương 2
QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC
CỐT TRUYỆN VÀ XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG GIÀN THIÊU.....Error:
Reference source not found
2.1. Quan niệm nghệ thuật về con người..........Error: Reference source not found
2.1.1. Con người với khát vọng hiện sinh.........Error: Reference source not found
2.1.2. Con người - nạn nhân của lịch sử..........Error: Reference source not found
2.1.3. Con người cô đơn, lưu đày.....................Error: Reference source not found
2.2. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện.....................Error: Reference source not found
2.2.1. Cốt truyện biên niên................................Error: Reference source not found
2.2.2. Cốt truyện phiêu lưu...............................Error: Reference source not found
2.2.3. Cốt truyện đầu cuối tương ứng...............Error: Reference source not found
2.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật....................Error: Reference source not found
2.3.1. Xây dựng nhân vật bằng ngôn ngữ người trần thuật........Error: Reference
source not found
2.3.2. Xây dựng nhân vật bằng đối thoại..........Error: Reference source not found
2.3.3. Xây dựng nhân vật bằng miêu tả quá trình tâm lý. Error: Reference source
not found
Chương 3
BÚT PHÁP, NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU TỰ SỰ TRONG GIÀN THIÊU
............................................................................... Error: Reference source not found
3.1. Bút pháp tự sự..............................................Error: Reference source not found
3.1.1. Bút pháp hiện thực..................................Error: Reference source not found
3.1.2. Bút pháp “sử kí”.....................................Error: Reference source not found
3.1.3. Bút pháp huyền thoại..............................Error: Reference source not found
3.2 Ngôn ngữ kể chuyện trong Giàn thiêu........Error: Reference source not found
3.2.1. Ngôn ngữ cổ xưa.....................................Error: Reference source not found
3.2.2. Ngôn ngữ của đời sống...........................Error: Reference source not found
3.2.3 Ý nghĩa nghệ thuật của sự pha trộn các bè ngôn ngữ trong Giàn thiêu
...........................................................................Error: Reference source not found
3.3. Giọng điệu trong Giàn thiêu........................Error: Reference source not found
3.3.1. Giọng thuật sự điềm tĩnh lạnh lùng........Error: Reference source not found
3.3.2. Giọng trữ tình tha thiết...........................Error: Reference source not found
3.3.3. Giọng bi kịch...........................................Error: Reference source not found
KẾT LUẬN..........................................................Error: Reference source not found
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong lịch sử văn học thế giới, văn học sáng tạo trên đề tài lịch sử đã
trở thành mảng đề tài truyền thống và đã đạt được những thành tựu đáng kể. Văn
học Việt Nam cũng vậy. Qua mỗi thời kỳ phát triển, các tác phẩm viết về đề tài
lịch sử có những diện mạo riêng. Sau 1975, đặc biệt là sau năm 1986, các tác phẩm
văn xuôi viết về đề tài lịch sử không chỉ xuất phát từ cảm hứng về lịch sử, mà
trong đó còn thể hiện cảm hứng về đời tư, thế sự và những triết lý nhân sinh. Các
nhân, vật sự kiện nhiều khi là cái cớ để nhà văn thể hiện quan điểm của mình trước
cuộc sống hiện tại. Điều đó thể hiện rõ nhất qua một loạt các tác phẩm viết về đề
tài lịch sử mươi năm lại nay như Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng ngàn của Nguyễn Xuân
Khánh, Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh, Bão Táp Triều Trần của Hoàng
Quốc Hải, Giàn thiêu của Võ Thị Hảo… Việc tìm hiểu các tác phẩm viết về lịch sử
rất có ý nghĩa bởi qua đó chúng ta sẽ nhận thấy thái độ của các tác giả khi đứng
trước một sự kiện lịch sử, một nhân vật lịch sử hay một triều đại lịch sử đã qua như
thế nào, mặt khác tìm hiểu các tác phẩm này cũng giúp có một cái nhìn về tư duy
của tiểu thuyết khi xử lí đề tài lịch sử.
1.2. Giàn thiêu là một tác phẩm có vị trí đáng kể trong sự nghiệp sang tác
của Võ Thị Hảo – một trong những nhà văn nữ đã để lại được những dấu ấn nhất
định trong văn học Việt Nam sau 1986. Đây cũng là một tiểu thuyết đã khiến Võ
Thị Hảo đã vượt qua được định kiến rằng, tiểu thuyết lịch sử là thể loại thường
khiến các nhà văn nữ phải ngoảnh mặt làm ngơ “và không mấy nhà văn nữ nào ghi
điểm với nó”. [44] .Tìm hiểu Giàn thiêu là góp thêm tiếng nói khẳng định bản lĩnh
của nhà văn, tìm hiểu những quan niệm của chị về lịch sử, về cuộc đời, giúp có cái
nhìn chính xác hơn về sáng tác của Võ Thị Hảo, đồng thời góp thêm tư liệu vào
việc nghiên cứu đặc điểm văn xuôi Việt Nam sau 1975.
1.3. Tự sự cho đến thời điểm này đang là vấn đề được lý luận quan tâm và
việc nghiên cứu Giàn thiêu của Võ Thị Hảo trên nguyên tắc của lý thuyết tự sự là
góp phần làm sáng tỏ ít nhiều về các vấn đề của lý thuyết tự sự trong quan hệ với
6
thực tiễn sáng tác của nhà văn để góp phần nhận diện, đánh giá những thành tựu
của văn học nước ta thời kỳ đổi mới.
1.4. Trong quá trình tiếp xúc nghiên cứu các tác phẩm của nhà văn chúng
tôi nhận thấy Võ Thị Hảo là một nhà văn tài năng, trải nghiệm ngòi bút ở nhiều thể
loại, khởi nghiệp là thể loại truyện ngắn nhưng gặt hái được thành công nhất là thể
loại tiểu thuyết lịch sử. Tìm hiểu Giàn thiêu để thấy được nét riêng phong cách tiểu
thuyết lịch sử của Võ Thị Hảo trong bức tranh chung của tiểu thuyết lịch sử Việt
Nam hiện đại. Đồng thời góp thêm tư liệu cần thiết cho việc nghiên cứu, học tập và
giảng dạy văn học lịch sử trong nhà trường được thuận lợi hơn.
2. Lịch sử vấn đề
Võ Thị Hảo là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn xuôi đương
đại. Khi mới bước vào nghề văn chưa lâu, chị đã nhanh chóng được giới phê bình,
nghiên cứu và người đọc biết đến. Chị được xếp vào hàng những cây bút sắc sảo
và giàu nữ tính. Là cây bút tài năng thành công trong cả truyện ngắn và tiểu thuyết
nhưng truyện ngắn của Võ Thị Hảo nhiều khi chưa được chú ý đúng mức vì trên
thực tế chỉ có một số công trình nghiên cứu, bài báo, bài phỏng vấn, tiểu luận quan
tâm tới. Nhưng khi tiểu thuyết Giàn thiêu ra đời “Võ Thị Hảo đã bứt phá khỏi lối
đi đã quen chân” tiến tới những thành công. Tác phẩm là một bước tiến trong sự
nghiệp cầm bút của nhà văn, gần đây tiểu thuyết Giàn thiêu đã dành được giải
thưởng cao nhất của hội nhà văn Hà Nội. Có lẽ vì thế mà Giàn thiêu đã chinh phục
người đọc cũng như giới phê bình, nghiên cứu bởi ngòi bút sắc sảo, tinh tế, mạnh
mẽ và tài hoa. Nghiên cứu về Giàn thiêu có thể kể đến một số bài viết, bài báo và
một số công trình nghiên cứu sau:
Trong Buổi toạ đàm về sáng tác của Võ Thị Hảo, các nhà nghiên cứu Phạm
Xuân Nguyên, Hoàng Ngọc Hiến cùng chung một nhận xét có thể coi là một lời
khen ngợi rất đáng kể: “Giàn thiêu là một tiểu thuyết, trước hết là một tiểu thuyết,
nghĩa là Giàn thiêu trước hết không phải là một “truyện lịch sử”, không phải là
minh hoạ lịch sử, mà là một tiểu thuyết tư duy lại lịch sử bằng phương pháp tiểu
thuyết”. Đồng thời nhấn mạnh rằng “tác giả Võ Thị Hảo đã khá thành công trong
cấu trúc của cuốn tiểu thuyết” [79]
Cũng Phạm Xuân Nguyên đã viết trong lời giới thiệu về cuốn tiểu thuyết
Giàn thiêu: “văn Võ Thị Hảo không chỉ là những dòng chữ, không chỉ là những
truyện ngắn hay tiểu thuyết mà văn Võ Thị Hảo có nhiều tầng hình tượng…đó là
lối văn được tác giả thổi linh hồn, tạo những câu văn huyền ảo, mê hoặc thậm chí
7
ma quái”… “Có người nói rằng Võ Thị Hảo đã quá bạo gan khi dám lật ngựoc lại
nhân vật Ỷ Lan nguyên phi. Ý kiến và sự so sánh thì có nhiều, nhưng có một điều
khá thống nhất là khi cầm “Giàn thiêu” trên tay, đa số người đọc phải đọc một
mạch. Nhiều người đã thức trắng một đêm để đọc bằng xong hơn 500 trang của
cuốn tiểu thuyết này”. [62]
Trong bài Không được phép quay đầu do Thu Hà thực hiện đã viết: “kiệt
sức hơn hai năm trời cho cuốn tiểu thuyết đầu tay và Giàn thiêu đã không phụ
công của chị. Mới đây, tác phẩm đã dành được giải thưởng cao nhất của hội
nhàvăn Hà Nội, được đánh giá là sự kết hợp tuyệt vời giữa chính sử và huyền tích,
một sự bứt phá của nữ nhà văn tài năng này. Và nhấn mạnh “Võ Thị Hảo đã bứt
phá khỏi lối đi đã quen chân”. [27]
Bàn về ngôn ngữ trong tiểu thuyết lich sử những năm gần đây trong bài:
Vấn đề ngôn ngữ trong lịch sử Việt Nam đương đại. Tác giả Đỗ Hải Ninh nhận
xét: “Sự thành công nổi bật trong sáng tạo ngôn ngữ nghệ thuật của tiểu thuyết lịch
sử đương đại là đã kết hợp được các yếu tố văn hoá, lịch sử, tôn giáo trong một hệ
ngôn ngữ tiểu thuyêt thống nhất và đa dạng. Có thể tìm thấy trong nhiều tiểu
thuyết dấu ấn của ngôn ngữ nhà phật, ngôn ngữ của tầng lớp nho học. Và chỉ ra
Giàn thiêu là cuốn tiểu thuyết chồng xếp nhiều lớp trầm tích: lịch sử, tôn giáo,
huyền thoại… Bởi vậy, ngôn ngữ có cái ảo diệu, mê hoặc mang mầu sắc tôn giáo,
gần gũi với tín ngưỡng dân gian. Viết về lịch sử thời Lý với nhân vật trung tâm là
Từ Lộ (Từ Đạo Hạnh) trải qua ba kiếp trầm luân, ngôn ngữ trong tiểu thuyết Giàn
thiêu mang đậm nét nhân sinh quan Phật giáo. [71]
Lại Nguyên Ân trong bài Tiểu thuyết và lịch sử đã nhận xét về nghệ thuật
của Giàn thiêu như sau: Đọc Giàn thiêu của Võ Thị Hảo một điều tôi dần dần nhận
thấy rõ là tác giả hiểu và dồn sức vào những nhiệm vụ thực sự của tiểu thuyết khi
tiếp cận một đề tài quá khứ. Trong “Giàn thiêu Võ Thị Hảo đã tận dụng những sử
liệu của Đại Việt sử ký toàn thư, đặc biệt là những sự kiện trong thời đoạn 1088 –
1138, dưới hai triều vua là Lý Nhân Tông và Lý Thần Tông, đồng thời tác giả đã
tận dụng các truyền thuyết về Từ Đạo Hạnh trong Thiền tuyển tập anh, lại cũng
dày công hư cấu, “thiết kế lại quá khứ”, từ núi sông cây cối đến thác nước sông
Gâm…tạo nên da thịt liền mạch cho đời sống quá khứ được dựng lại trong tác
phẩm”. Đồng thời đưa ra nhận định: “tác giả khó có thể thành công nếu như không
đưa ra một kiến giải mới mẻ và khả chấp về nhân vật lịch sử đồng thời là nhân vật
truyền thuyết Từ Đạo Hạnh”. [4]
8
Cũng trong bài này, Lại Nguyên Ân viết “Tôi không dám nói tiểu thuyết
Giàn thiêu của Võ Thị Hảo hơn hay kém so với những cuốn cụ thể trong một loạt
tiểu thuyết lịch sử ra mắt mươi năm gần đây. Điều tôi dám khẳng định là: “sử liệu
và truyền thuyết xưa đã được tác giả Giàn thiêu khai thác theo đúng cung cách của
cuốn tiểu thuyết chứ không lạc hướng sang các kiểu truyện có hơi hám sử thi”.
Phương hướng làm việc của tác giả Giàn thiêu cố nhiên không đơn độc, trái lại
đang cùng một số tác giả khác làm nên một chuyển động bên trong dòng sáng tác
về văn xuôi lịch sử hiện nay. Nó cho thấy người sáng tác về đề tài lịch sử cũng
phải gắn với hiện tại, phải từ những vấn nạn của hiện tại mà tìm thấy chất liệu
trong quá khứ lịch sử. Có điều, nhà tiểu thuyết phải tìm tòi để thấy đâu là vấn nạn
của hiện tại thay vì nghe ai đó xúi giục, mách nước…[4]
Phạm Xuân Thạch trong Suy nghĩ từ những tiểu thuyết mang chủ đề lịch sử
viết: “Lạc lối trong những câu hỏi về “sự thực lịch sử” và “tính chân thực của lịch
sử”, băn khoăn về một nền chính trị công chính và chỗ đứng của người tri thức
trong cơn bão lịch sử. Vấn đề đặt ra rong tiểu thuyết Giàn thiêu là “sẽ nhận thức
được điều gì đây về triều đại trị vì của những vị vua Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông
và những nhân vật lịch sử như Từ Đạo Hạnh hay Nguyên Phi Ỷ Lan? Có lẽ không
nhiều,vấn đề là từ một hư cấu tiểu thuyết buộc người đọc phải suy tư về sự giải
thoát, về niềm tin tôn giáo và những tham vọng hạnh phúc, về thân phận và quyền
lực con người”. [75]
Trong bài viết: Những thông điệp từ lửa và nước, Trần Khánh Thành nhận
xét về tiểu thuyết Giàn thiêu của Võ Thị Hảo như sau: “…Mở trang đầu đã gặp hai
chữ “Giàn thiêu”- ấn tượng chói và bỏng rát, ngột và xót xa đã xâm chiếm lòng
người… Viết với Võ Thị Hảo là truyền lửa từ trái tim đến bạn đọc…” [74]
Báo Người đại biểu nhân dân nhận xét: “Giàn thiêu - mặc dù rất hấp dẫn
nhưng là một cuốn tiểu thuyết không dễ đọc. Cũng như những truyện ngắn của Võ
Thị Hảo, cuốn tiểu thuyết này đang đi theo con đường riêng của nó, ngấm dần vào
trái tim người ta và những tầng lớp ngữ nghĩa cũng như những hình tượng nghệ
thuật của cuốn tiểu thuyết này thường trở đi trở lại và ám ảnh người đọc”. [67]
Báo Thể thao & văn hoá - số 53-4/7/2004” nhận xét về nghệ thuật xây dựng
nhân vật của nhà văn có đoạn viết: “Trong Giàn thiêu “chị đưa ra nhân vật “quá
khổ” kiểu như như người đàn bà có nhan sắc mê hoặc cả Diêm Vương, hoặc có
người thánh thiện như Phật sống…” [37]
9
Còn bản thân tác giả, khi nói về cuốn tiểu thuyết của mình, khẳng định đó là
“câu chuyện của ngày hôm nay được khoác chiếc áo bào lịch sử và dã giã sử cách
đây cả ngàn năm” [38; 299]
Phạm Thị Ngọc trong Lịch sử và hư cấu trong tiểu thuyết Giàn thiêu của Võ
Thị Hảo đã đưa ra nhận xét rất xác đáng: “Võ Thị Hảo đã thành công khi khéo léo
kết hợp giữa lịch sử và hư cấu, giữa chính sử và dã sử để làm nên những câu chuyện
vừa mang tính lịch sử vừa có chất tiểu thuyết”… người viết đồng thời nhấn mạnh:
“thành công của tác giả là đã bứt phá khỏi cái khung truyền thống và những chế độ
ngặt nghèo kìm hãm sự sáng tạo của người nghệ sĩ, thoát khỏi ý thức trung thành
tuyệt đối với chính sử và dã sử, đem đến những quan niêm mới mẻ, hiện đại”. [61]
Nhìn chung, cho đến nay, những nghiên cứu về sáng tác của Võ Thị Hảo
nói chung và Giàn thiêu nói riêng là không còn ít. Tuy nhiên, trong phạm vi tư liệu
mà chúng tôi đã cố gắng tìm được, ngoài một số luận văn Thạc sĩ và luận văn tốt
nghiệp Đại học, chủ yếu những nghiên cứu về Võ Thị Hảo mới chỉ dừng lại ở
những bài viết ngắn, dường như chưa có công trình nào đi sâu vào nghiên cứu
mang tính chất qui mô, và chưa có một công trình nào đặt vấn đề tìm hiểu nghệ
thuật tự sự trong Giàn thiêu với tư cách là một đối tượng độc lập. Tuy nhiên,
những kết quả nghiên cứu đã có sẽ góp phần gợi dẫn cho chúng tôi trên một số vấn
đề trong quá trình hoàn thành luận văn này.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Nghệ thuật tự sự trong Giàn
thiêu của Võ Thị Hảo
4. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu
4.1. Nhiêm vụ nghiên cứu
Đề tài này hướng tới các nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu vị trí của tiểu thuyết Giàn thiêu trên hành trình sáng tạo của
Võ Thị Hảo
- Tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người, nghệ thuật tổ chức cốt
truyện và xây dựng nhân vật trong Giàn thiêu
- Tìm hiểu bút pháp, ngôn ngữ và giọng điệu trong Giàn thiêu
4.2. Mục đích nghiên cứu
Võ Thị Hảo sáng tác trên nhiều thể loại: Truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch
bản phim. Nhưng thành công nhất là thể loại tiểu thuyết lịch sử. Các tác
10
phẩm khác của nhà văn cũng được tìm hiểu sơ bộ ở những phương diện hữu
quan để góp phần làm sáng tỏ vấn đề mà luận văn cần giải quyết. Đồng thời
chúng tôi cũng sẽ tìm hiểu thêm một số cuốn tiểu thuyết lịch sử cùng thời
khác như: Bão táp Triều Trần của Hoàng Quốc Hải, Tây Sơn bi hùng truyện
của Lê Đình Danh…để hiểu thêm về nghệ thuật trong các tiểu thuyết đương
đại. Từ đó có sự đánh giá, nhìn nhận đúng về tài năng nghệ thuật của nhà
văn Võ Thị Hảo.
5. Phường pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này luận văn của chúng tôi sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:
5.1. Phương pháp phân tích - tổng hợp
5.2. Phương pháp thống kê - phân loại
5.3. Phương pháp so sánh - đối chiếu
Và vận dụng một số khái niệm cụ thể của lý luận văn học, tự sự học,
thi pháp học… vào nghiên cứu đề tài này.
6. Đóng góp của luận văn
Chúng tôi chọn đề tài: Nghệ thuật tự sự trong Giàn thiêu của Võ Thị
Hảo, nhằm nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện trong tính hệ thống, góp phần
kiến giải sức sống của văn xuôi hiện đại nói chung và tiểu thuyết lịch sử nói
riêng. Đồng thời, luận văn góp phần khẳng định đóng góp của nhà văn vào
nghệ thuật tiểu thuyết đương đại. Đây cũng là một cách tìm hiểu quy luật vận
động của văn xuôi nước ta vài thập niên cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn được
triển khai trong ba chương:
Chuơng 1: Giàn thiêu trong hành trình sáng tạo của Võ Thị Hảo
Chương 2: Quan niệm nghệ thuật về con người, nghệ thuật tổ chức
cốt truyện và xây dựng nhân vật trong Giàn thiêu
Chương 3: Bút pháp, ngôn ngữ và giọng điệu trong Giàn thiêu
11
Chương 1
GIÀN THIÊU
TRÊN HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO CỦA VÕ THỊ HẢO
1.1. Võ Thị Hảo - một gương mặt nữ tiêu biểu của văn xuôi đương đại
1.1.1. Hành trình sáng tạo của Võ Thị Hảo
Võ Thị Hảo sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Diễn Châu - Nghệ An - mảnh
đất chịu nhiều thiệt thòi bởi sự hà khắc của thiên nhiên, với những dấu vết văn hóa
có tính đặc thù rõ rệt. Chính những điều đó là ngọn lửa ngầm luôn đốt cháy lên
những đam mê và thắp sáng tài năng Nghệ An ở nhiều lĩnh vực trong đời sống. Khi
nhớ và nghĩ về quê hương mình, nhà văn thường nói: “Tôi cảm ơn những kỷ niệm,
mà đau khổ là nhiều hơn hạnh phúc, vì chính chúng đã tạo ra tôi… làm nên Võ Thị
Hảo - người viết nên những câu văn vừa bạo liệt vừa huyễn hoặc” [23;558]
Đến năm mười sáu tuổi chị trở thành sinh viên văn khoa, Trường Đại học
Tổng Hợp Hà Nội, tốt nghiệp chị trở về công tác ở Nhà xuất bản văn hoá Dân tộc
trong vai trò người biên tập. Với mười bảy năm kinh nghiệm, Võ Thị Hảo đã góp
công rất lớn trong việc cho ra đời nhiều “đứa con tinh thần” của các nhà văn khác.
Đây cũng chính là cái duyên đưa chị đến với văn chương. Võ Thị Hảo đã từng nghĩ
mình sẽ trở thành nhà thơ nhưng rồi chị lại viết văn và thành danh với văn xuôi. Khi
văn chương đã trở thành “cái nghiệp”, thành niềm đam mê ăn sâu trong máu thịt của
mình thì chị đã đốt cháy mình cho niềm đam mê ấy cho dù chị phải trải qua rất
nhiều khó khăn, khổ cực về kinh tế và tinh thần. Và cái tên Võ Thị Hảo đã từng gây
ấn tượng mạnh mẽ trên văn đàn vào những năm 90 của thế kỷ XX bởi những truyện
ngắn lạ như: Người sót lại của rừng cười, Biển cứu rỗi, Vườn yêu, Goá phụ đen…
“chị được xếp vào hàng những cây bút sắc sảo và giàu nữ tính” [41; 238].
Khi nhận xét về Võ Thị Hảo, nhiều người thiên về ý kiến “Võ Thị Hảo là
người kể chuyện cổ tích giữa đời thường”. Đọc truyện ngắn của chị “ta thấy không
12
khí của truyện cổ tích dân gian vẫn bàng bạc. Điều đó, được tạo nên bởi ý nghĩa
ngợi ca cái đẹp, cái thiện với triết lý ở hiền gặp lành, với giọng kể nhỏ nhẹ tâm
tình xen vào đó là sự tham gia của các yếu tố kỳ ảo đã làm cho truyện ngắn của chị
có sức hấp dẫn, lôi cuốn người đọc một cách kỳ lạ” [48; 22 - 30]. Nhưng Võ Thị
Hảo không kể chuyện cổ tích giữa đời thường “người phụ nữ nhỏ bé và khiêm
nhường ấy” chỉ mượn không khí cổ tích, tái hiện yếu tố kỳ ảo trong truyện cổ tích
xưa để nói chuyện hôm nay - những chuyện mà cuộc sống hàng ngày con người
đang đối diện. Bởi vậy, “truyện cổ tích" của Võ Thị Hảo bao giờ cũng khoác một
chiếc áo mới, mới ở tư tưởng, ở chiều sâu triết lý. Qua việc tìm hiểu các truyện
ngắn của chị ta dễ dàng nhận thấy “dù ngợi ca những điều tốt đẹp của con người,
của cuộc đời hay phê phán những hiện tượng tiêu cực của xã hội thì Võ Thị Hảo
vẫn luôn giữ được cái nhìn khá điềm tĩnh - sự điềm tĩnh của một người dám nhìn
thẳng vào sự thật ở đời. Đồng thời, cũng thể hiện được sự bao dung độ lượng và
niềm tin bất diệt vào bản tính tốt đẹp của con người” [48].
Mới đây, chị lại làm sửng sốt độc giả, những người yêu văn chương bởi
cuốn tiểu thuyết dã sử đậm chất “liêu trai” với cái tên mang cảm giác mạnh: “Giàn
thiêu” [37;552]. Tác phẩm đã dành được giải thưởng cao nhất của Hội Nhà văn Hà
Nội. Đặc biệt tác phẩm đánh dấu sự bứt phá của nữ nhà văn tài năng này. Chuyển
từ thể loại “tay quen” truyện ngắn sang thể loại tiểu thuyết - tiểu thuyết lịch sử một thể loại thường khiến các nhà văn nữ ở nước ta phải “ngoảnh mặt làm ngơ”.
Khi được hỏi: “rẽ lối sang tiểu thuyết - lại là tiểu thuyết lịch sử, liệu chị có tự cho
đó là một thái độ cầm bút dũng cảm? Chị đã tự tin trả lời: “không hẳn là rẽ lối mà
là bước tiếp. Khi cảm thấy truyện ngắn dường như quá chặt chội thì tiểu thuyết
chính là thảo nguyên rộng lớn để cho phép mình được làm những cú nhảy của mèo
hoang” [42].
Năm 2002, khi tiểu thuyết Giàn thiêu ra mắt độc giả, Võ Thị Hảo đã được
đánh giá là người “bứt phá khỏi lối đi đã quen chân của chính mình” bước tiếp
vào “thảo nguyên rộng lớn” của thể loại tiểu thuyết lịch sử để thể hiện tài năng của
mình và năm 2004 Võ Thị Hảo đã đạt giải thưởng cuộc thi tiểu thuyết thường niên
13
do hội nhà văn Hà Nội tổ chức với tiểu thuyết đầu tay “Giàn thiêu” - Đó là “sự kết
hợp tuyệt vời giữa chính sử với huyền tích” [26]. Với huyền tích và những dữ liệu
vắt ra từ lịch sử cộng với trí tưởng tượng phong phú, nhà văn đã tái hiện bức tranh
sinh động về một giai đoạn lịch sử trong triều Lý khiến nó trở nên vừa hiện thực
vừa huyền ảo.
Gần đây nhất vào tháng 11 năm 2006, Nhà xuất bản Hội nhà văn cho ra mắt
bạn đọc cuốn kịch bản phim truyện của nhà văn, và nghệ sĩ nhân dân Huy Thành
đã nhận xét “Đây là lần đầu tiên tôi được đọc kịch bản phim của một nhà văn Việt
Nam viết rất có nghề, độc đáo cả về chủ đề, câu chuyện, bối cảnh, cấu trúc và nhân
vật. Ngôn ngữ điện ảnh nhuần nhuyễn với những chi tiết hiển thị đắt giá. Đặc biệt
cả ba kịch bản đều mênh mang không khí tâm linh, huyền bí rất quyến rũ, rất văn
chương… những nét riêng biệt trong các tác phẩm văn học của nữ nhà văn tài năng
này” [45].
Như vậy, trong khoảng hơn 20 năm cầm bút từ lòng đam mê cùng với tài
năng nghệ thuật, nhà báo, nhà văn Võ Thị Hảo đã cho ra đời nhiều bài báo, nhiều
tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Đọc tác phẩm của chị chúng
ta luôn cảm nhận được sự “mỏng manh đến điệu đà, nhạy cảm đến mức khắt khe…
còn ẩn đằng sau những câu chữ trau chuốt là những tâm sự day dứt khôn nguôi về
số phận con người, về cuộc đời và nhân tình thế thái. Đọc truyện của Võ Thị Hảo,
người ta thường buồn. Một nỗi buồn có lẫn ngọt ngào và cay đắng” [41; 209-210].
Điều này thể hiện rất rõ qua 7 tập truyện ngắn, các tiểu thuyết Giàn thiêu, Dạ tiệc
Quỷ của nữ nhà văn.
1.1.2. Tiểu thuyết của Võ Thị Hảo
Nhìn vào thực tế sáng tác văn học từ xưa đến nay cho thấy số các nhà văn
viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít, nhất là các nhà văn nữ
trải nghiệm ngòi bút của mình ở thể loại này lại càng hiếm bởi người viết tiểu
thuyết lịch sử một mặt cần phải có kiến thức uyên thâm và am hiểu lịch sử một
cách sâu sắc, cặn kẽ. Mặt khác, khi lấy lịch sử làm chất liệu sáng tác, các nhà văn
phải nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo và hư cấu sao cho lịch sử phải sống động như nó
14
đã từng, đồng thời, qua đó phải chuyển tải được ý nghĩa thời sự đến với cuộc sống
hiện tại. Đã có một thời, khi lựa chọn lịch sử làm chất liệu sáng tác các nhà văn
phải chịu nhiều áp lực bởi lịch sử là cái đã có và được nhiều người biết đến nên
“không được khinh xuất khi động đến lịch sử”, lịch sử như một ngôi đền thiêng mà
chỉ được phép ngắm nhìn từ bên ngoài. Đối với một dân tộc mà quá khứ, lịch sử
luôn luôn được ghi nhớ trong một quan niệm, một thái độ hết sức thành kính như
dân tộc Việt thì việc đưa ra cái nhìn mới, “phá bỏ bức màn linh thiêng” che phủ
một số nhân vật lịch sử rất dễ trở thành một hành động xúc phạm hay khiêu khích
và trên thực tế đã có nhà văn phải chịu ít nhiều, thậm chí rất nhiều tai tiếng vì dám
“bắn súng lục vào lịch sử”. Vì thế, nền văn xuôi viết về đề tài lịch sử trước năm
1975 thường quan tâm khai thác các sự kiện,biến cố lịch sử nhằm dựng lên không
khí lịch sử hào hùng, mang đến cho người đọc cảm giác tự hào về truyền thống
dân tộc, nghĩa là văn học thời kỳ này nhìn lịch sử dưới góc độ của một sử gia.
Sau năm 1975, lịch sử được văn học xem xét trong cái nhìn đa chiều, soi rọi
từ nhiều góc độ làm cho bối cảnh lịch sử hiện lên thật sinh động, xoá đi những
“điểm trắng” của lịch sử. Cho nên các tác phẩm văn xuôi viết về đề tài lịch sử
mươi lăm năm trở lại đây rất độc đáo, đặc sắc nên đã thu hút được sự quan tâm,
chú ý của công chúng cũng như giới nghiên cứu, phê bình. Có thể kể đến một loạt
cá tác phẩm tiêu biểu như: Hồ Quý Ly, Mẫu thượng ngàn (Nguyễn Xuân Khánh),
Sông Côn mùa lũ Nguyễn Mộng Giác), Gió lửa, Đất trời (Nam Dao), Vằng vặc
sao Khuê (Hoàng Công Khanh), bộ tiểu thuyết đồ sộ Bão táp Triều Trần (Hoàng
Quốc Hải) … Trong số các tác phẩm, tác giả tiêu biểu đó xuất hiện một gương mặt
nữ tiêu biểu với cuốn tiểu thuyết dã sử đậm chất “liêu trai” với cái tên mang cảm
giác mạnh : Giàn thiêu.
“Võ Thị Hảo, một trong những cây bút viết truyện ngắn nổi bật với những
tác phẩm “đóng đinh” trong trí nhớ người đọc như : Người sót lại của rừng cười,
Biển cứu rỗi, Hồn trinh nữ, Goá phụ đen … đã bất ngờ bước sang thể loại tiểu
thuyết lịch sử - thể loại lâu nay vốn được coi là lãnh địa của các nhà văn nam” [41;
238]. Bằng tâm huyết và niềm đam mê chị đã cho ra mắt bạn đọc tiểu thuyết Giàn
15
thiêu làm xôn xao văn đàn và giới nghiên cứu, phê bình bởi lối văn chương “mê
hoặc và huyền bí”.
Theo lời kể của nhà văn “sau khi được gợi ý của một người bạn, rằng nhân
vật này, đề tài này là rất hợp với cách viết của tôi, tôi bắt đầu đặt tay lên những
cuốn chính sử và tôi nhìn thấy họ. Tôi bèn đuổi theo họ. Tôi chồng lên họ một lớp
ký ức dã sử, trong mờ như những con sứa cộng thêm lôgic đời sống … Thời Lý Trần có rất nhiều nhân vật có tính cách đa diện, đủ để tạo cảm hứng lớn cho tiểu
thuyết [27]. Và tôi bắt tay vào viết.
Khi được hỏi tại sao chị lại chọn nhân vật chính cho cuốn tiểu thuyết là Từ
Đạo Hạnh - Thần Tông mà không phải một nhân vật nào khác như : Nguyên phi Ỷ
Lan ? Võ Thị Hảo đã nói : “Từ Đạo Hạnh - Thần Tông là một nhân vật đa diện, rất
nhiều lầm lạc và rất nhiều những khát vọng – khát vọng quyền lực, ham hố lạc thú
và sự yếu đuối của ông ta trong việc trị nước đã làm khổ nhiều người và làm khổ
chính mình … Ông là nhân vật có thực, nhưng không thực đến độ đóng khung làm
nghèo nàn trí tưởng tượng. Tôi cần ông vì ông có những khoảng trống mà tôi có
thể bù đắp và đưa ông trở lại thế giới này, với những thiết tha, bổi hổi của cõi
người - của ngày hôm nay. Tôi lại còn cần ông hơn nữa vì ông là thanh nam châm
hút theo những nhân vật lịch sử nổi tiếng khác như: Nguyên phi Ỷ Lan, Lý
Thường Kiệt, Lý Đạo Thành …[44].
Trong tác phẩm của mình nhà văn đã xây dựng những nhân vật khác với
nguyên mẫu trong chính sử khi được hỏi chị có ngại không khi xây dựng những
nhân vật như thế? Chị đã tâm sự một cách chân thành, thẳng thắn rằng : “không
hoàn toàn khác, nhưng nếu quả thực họ đã khác với chính sử thì đó là lôgíc nội tại,
tôi không ngán ngại gì”. Tôi từng trả lời một bài báo rằng: “ người viết văn không
có trách nhiệm phong thánh” [27].
Viết tiểu thuyết về đề tài lịch sử đã là một khó khăn đối với các nhà văn,
việc tiếp nhận các tác phẩm văn xuôi viết về đề tài này lại càng khó bởi đề tài lịch
sử không gây được ấn tượng mạnh trong lòng độc giả thời nay cho dù lịch sử dân
tộc rất hào hùng và đáng tự hào. Có người đã hỏi chị, “chị có nghĩ tới việc cuốn
16
tiểu thuyết này sẽ là món ăn khó nhằn khiến người đọc phải mệt ? Chị trả lời : “Có,
Tôi biết người đọc mệt nhưng khi đọc xong sẽ khoẻ. Trách nhiệm của tôi không
phải là đem một thứ dễ hiểu đến cho người đọc, mà là đem lại cho họ một cái gì đó
đáng đọc [27]. Cho nên “khi cầm Giàn thiêu trên tay đa số người đọc phải đọc một
mạch. nhiều người đã thức trắng một đêm để đọc bằng xong hơn 500 trang của
cuốn tiểu thuyết này [62; 9].
Sau hơn hai năm với bao tâm huyết và quyết tâm chị đã cho ra đời cuốn tiểu
thuyết đầu tay “Giàn thiêu”, khi xuất hiện tác phẩm đã được độc giả cũng như giới
nghiên cứu, phê bình đón nhận nồng nhiệt. “Tác phẩm đã dành giải thưởng cao
nhất của Hội nhà văn Hà Nội và được đánh giá là cuốn tiểu thuyết có sự kết hợp
tuyệt vời giữa chính sử với huyền tích, một sự bứt phá của nữ nhà văn tài năng
này” [27].
1.1.3. Giàn thiêu trong sự nghiệp sáng tác của Võ Thị Hảo
Trong số các cây bút trẻ, Võ Thị Hảo được biết đến với tư cách là một tác
giả nữ có nhiều đóng góp cho truyện ngắn. Với những tác phẩm “đóng đinh” vào trí
nhớ người đọc như : Người sót lại của rừng cười, Biển cứu rỗi , Hồn trinh nữ, Goá
phụ đen, Hành trang của người đàn bà Âu Lạc… “chị được xếp vào hàng những
cây bút sắc sảo và giàu nữ tính” [41; 238]. Trong 4 tập truyện ngắn gồm 52 truyện
được tập hợp và được Nhà xuất bản Phụ Nữ cho ra mắt bạn đọc vào năm 2005,
chúng ta thấy Võ Thị Hảo hướng ngòi bút của mình đến rất nhiều số phận, những
mảnh đời khác nhau. Hầu hết các truyện ngắn của chị tập trung vào các đề tài: cuộc
sống của những con người tham gia chiến tranh sau khi đất nước đã hoà bình với
hiện thực tâm hồn đầy bi kịch “đã tan chiến nhưng chưa tàn chiến”. Mà ẩn sâu trong
cuộc sống tưởng như yên bình đó là “những cuộc chiến còn nhức nhối bên trong”
mà không thể ngày một ngày hai có thể kết thúc được. Điều đặc biệt nữa là trong các
tác phẩm của chị, ta luôn bắt gặp những người phụ nữ với những khát vọng về một
tình yêu trọn vẹn, một cuộc sống bình dị và qua đó ta luôn bắt gặp sự sẻ chia, cảm
thông của tác giả với số phận của họ bằng tất cả tấm lòng chân thành và yêu thương.
17
Nhìn chung, ở thể loại truyện ngắn Võ Thị Hảo đã gặt hái được những
thành công đáng kể với lối văn nhẹ nhàng nhưng quyết liệt, đằm thắm và yêu
thương, các tác phẩm của chị đã đi sâu và ngấm dần vào trái tim bạn đọc.
Đến năm 2002, khi cuốn tiểu thuyết Giàn thiêu được xuất bản và cho ra mắt
bạn đọc “chị lại làm sửng sốt độc giả - những người yêu văn chương bởi cuốn tiểu
thuyết dã sử đậm chất “liêu trai”. Và “Giàn thiêu đã không phụ tâm huyết của chị.
Mới đây, tác phẩm dành được giải thưởng cao nhất của Hội nhà văn Hà Nội, cuốn
tiểu thuyết được đánh giá là sự kết hợp tuyệt vời giữa chính sử với huyền tích, một
sự bứt phá của nữ nhà văn tài năng này” [27]. Giàn thiêu rất hấp dẫn, cuốn hút độc
giả bởi nhân vật trong tác phẩm vừa mang tính hiện thực vừa mang tính dã sử,
huyền tích. Bởi vậy, đã có tới mấy chục bài báo, rất nhiều trang web, các bài
nghiên cứu, phê bình về cuốn tiểu thuyết này. Nhìn chung, đều là các lời khen ngợi
như: Phạm Xuân Nguyên, Hoàng Ngọc Hiến đều nhận xét: “Giàn thiêu là một tiểu
thuyết, trước hết là một tiểu thuyết, nghĩa là Giàn thiêu trước hết không phải là
“một truyện lịch sử”, không phải là minh hoạ lịch sử, mà là một sự tư duy lại lịch
sử bằng phương pháp tiểu thuyết [79]….
Và khi được hỏi: “Trong những đứa con tinh thần của chị, Giàn thiêu được
xếp ở vị trí thứ bao nhiêu? Chị nói: thứ nhất nếu không, tôi đã không đủ kiên nhẫn để
viết nhiều chữ đến thế” [79]. Điều này đã được kiểm chứng bởi khi Giàn thiêu ra đời
Võ Thị Hảo được xem là người đã có “cuộc bứt phá ra khỏi lối đi đã quen chân” tạo
ra những tầng suy tư không bằng phẳng, một giọng điệu tự nhiên và bình dị hơn. tạo
nên tiếng vang lớn trên văn đàn, thu hút được sự chú ý của bạn đọc và giới nghiên
cứu, phê bình. Tác phẩm đã khẳng định được vị trí của nhà văn trong nền văn xuôi
đương đại nói chung, trong mảng tiểu thuyết lịch sử nói riêng. Bởi tiểu thuyết lịch sử vốn đã được một số người coi là lãnh địa của các nhà văn nam. Võ Thị Hảo đã vượt
qua được ranh giới đó và khẳng định được tài năng, vị thế của mình trên văn đàn.
1.2. Giàn thiêu trong cảm hứng viết về lịch sử của văn học từ đổi mới
1.2.1. Văn học viết về lịch sử thời kỳ đổi mới
18
Văn học Việt Nam sau năm 1986 đã có những đổi mới mang tính đột phá cả
về nội dung lẫn hình thức trên xu thế và nền tảng của sự đổi mới trong nhiều lĩnh
vực của đời sống chính trị - văn hóa - xã hội. Công cuộc đổi mới đã từng bước đưa
con người ra khỏi trạng thái trì trệ kéo dài, và nhận thức lại đã trở thành một trong
những nét căn bản của ý thức con người sau một thời gian trong tình trạng tư duy
bao cấp. Đây là một trong những nguyên nhân khiến việc tìm đến đề tài lịch sử trở
thành một xu thế hết sức quan trọng trong đời sống văn học.
Trên một góc nhìn khác, việc tìm đến đề tài lịch sử trong văn học có thể
được giải thích bằng nguyên nhân từ chính lịch sử. Việt Nam là một đất nước có
lịch sử đầy biến động, đặc biệt là trong thời gian hàng trăm năm lại nay, kể từ khi
nhà Lê lâm vào suy thoái, các tập đoàn phong kiến cát cứ bắt đầu hình thành, đất
nước luôn trong tình trạng bị chia cắt hoặc ngoại xâm, hoặc sự nổi dậy của các lực
lượng lao động đối lập với chính quyền mà các sử gia hoặc gọi là quân tạo phản
hoặc gọi là khởi nghĩa nông dân. Điều này xảy ra dường như liên tục cho đến tận
khi dừng lại được các cuộc chiến tranh biên giới phía nam và phía bắc của Tổ
quốc. Trong tình hình này, có lẽ những nỗi đau ấy âm thầm chảy suốt trong kí ức
cộng đồng và khi có điều kiện sẽ phát tiết ở những người nhạy cảm và có trách
nhiệm, là các nhà văn, trong đó có Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Xuân Khánh,
Hoàng Quốc Hải, Võ Thị Hảo, Lưu Sơn Minh, Hoàng Công Khanh…
Mặt khác cũng cần phải nhắc lại một điều đã được nói đến khá nhiều, đấy là
sự trỗi dậy của cảm hứng đời tư, thế sự với tư cách là nguồn cảm hứng quan trọng
bậc nhất, mà sự chi phối của nó biểu hiện gần như tất cả mọi thể loại, mọi suy tư
của văn học. Chính những trăn trở, suy ngẫm về thân phận con người, số phận của
dân tộc và các giá trị cũng chi phối một cách ráo riết đến những tác phẩm viết về
đề tài lịch sử. Như vậy viết về đề tài lịch sử trong văn học sau 1986 là kết quả của
sự đan cài, hòa quyện những trăn trở của con người về chính lịch sử, về hiện tại, về
cộng đồng và cả những số phận cá nhân. Tiểu thuyết và truyện viết về đề tài lịch
sử trong thời kì này, vì thế, không chỉ là những câu chuyện lịch sử, mà còn là câu
chuyện của đời sống còn tươi mới với bao trăn trở trong mối liên hệ chằng chịt, sự
19
đối thoại nhiều khi đến gay gắt của nhiều ý thức, và các vấn đề thường được soi rọi
từ hoặc bởi nhiều góc nhìn, nhiều thái độ đánh giá khác nhau.
Các tác giả văn học thời kỳ này nhìn nhận về lịch sử, quan niệm về lịch sử ở
cái nhìn đa chiều hơn. Lịch sử không còn là “những xác chết và những sự cố biên
niên u lì” nữa mà được thổi vào đó tinh thần, hơi thở của cuộc sống hiện tại với
con mắt của những nhà nghệ sĩ tài ba. Với họ lịch sử trở thành chất liệu để họ tự
do thể hiện tài năng sáng tạo nghệ thuật của mình.
Từ những năm 80, 90 của thế kỷ XX, văn học Việt Nam chứng kiến sự xuất
hiện của hàng loạt các tác phẩm viết về đề tài lịch sử với cách thể hiện hoàn toàn
mới lạ. Ngoài cảm hứng lịch sử, các tác phẩm viết về lịch sử thời kỳ này còn có
cảm hứng về đời tư, thế sự và những triết lý nhân sinh. Nhân vật, sự kiện lịch sử,
dường như chỉ là cái cớ để “tạo lên những điểm tương đồng giữa quá khứ và hiện
tại và qua đó làm sáng tỏ hiện tại [21]. Nghĩa là lịch sử không còn là “ngôi đền
thiêng” chỉ được phép ngắm nhìn từ bên ngoài mà cho phép mỗi tác giả được thổi
vào đó hơi thở của thời đại, đươc đi sâu tìm hiểu, khai thác và sáng tạo sao cho lịch
sử trở nên sống động, gần gũi và hấp dẫn hơn.
Nhìn chung, trong những sáng tác thuộc nhiều thể loại viết về đề tài lịch sử,
thì các tác phẩm chủ yếu tập trung ở hai thể loại là: thể loại tiểu thuyết và thể loại
truyện ngắn. Ở thể loại truyện ngắn viết về đề tài lịch sử thời kỳ này chiếm số
lượng khiêm tốn hơn tiểu thuyết nhưng không kém phần đặc sắc. Đặc biệt, nó còn
mang tính chất mở đường cho một hướng đi mới của văn xuôi viết về lịch sử mà
những tác giả sau này ít nhiều đều chịu ảnh hưởng. Gương mặt tiêu biểu nhất, phải
kể đến là nhà văn Nguyễn Huy Thiệp với bộ truyện ngắn “giả lịch sử”: Phẩm tiết,
Kiếm sắc, Vàng lửa và Nguyễn Thị Lộ, Mưa Nhã Nam…
Bộ truyện ngắn “giả lịch sử” này, đặc biệt là các truyện Phẩm tiết, Kiếm
sắc, Vàng lửa và Nguyễn Thị Lộ khi đăng báo đã gây cơn sốt trên văn đàn và làm
tốn không ít giấy mực của giới phê bình. Dư luận trong nước xôn xao trước một
hiện tượng lạ. Lạ ở cách cảm, cách nhìn của nhà văn về các nhân vật anh hùng
20
trong lịch sử, khiến văn đàn một dạo rộn lên bởi những đánh giá trái chiều về các
tác phẩm và tác giả này.
Tiếp thu ảnh hưởng từ sự cách tân nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Huy
Thiệp, cá tác giả sau đó đã chịu ảnh hưởng, chi phối cách tư duy mới mẻ của nhà
văn về lịch sử, từ đó vận dụng vào các sáng tác của mình như Nguyễn Việt Hà với
Cơ hội của Chúa, Lưu Minh Sơn với Nước mắt trúc, Trần Vũ với Mùa mưa gai
sắc …
Tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử thời kỳ này có số lượng lớn và đạt được
nhiều thành tựu. Sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật đã đem lại cho các nghệ sĩ cái
nhìn mới mẻ và đầy màu sắc, lịch sử chỉ là cái cớ để các nhà văn tự do thể hiện tài
năng và sự sáng tạo nên bắt đầu từ những năm 90 của thế kỷ XX chúng ta chứng
kiến sự xuất hiện của hàng loạt các tiểu thuyết lịch sử với lối viết khác lạ và khi
các tác phẩm được trình làng đã chinh phục được cả những bạn đọc khó tính và thu
hút nhiều sự chú ý của giới ngiên cứu, phê bình. Trong đó có những tác phẩm đạt
giải thưởng cao như: Mẫu thượng ngàn, Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh,
Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, Vằng vặc sao Khuê của Hoàng Công
Khanh, Bão táp Triều Trần của Hoàng Quốc Hải, Tây Sơn bi hùng truyện của Lê
Đình Danh, Giàn thiêu của Võ Thị Hảo cũng nằm trong số đó …
Với những hướng tìm tòi mới, thể nghiệm táo bạo, các nhà văn thời kỳ này
đã viết ra các tác phẩm thật ấn tượng thu hút được sự quan tâm, chú ý của bạn đọc
và dư luận. Rất nhiều những bài báo, các hội thảo, các buổi toạ đàm để đưa ra
những nhận xét, đánh giá về các tác phẩm cụ thể như:
Khi tiểu thuyết Vằng vặc sao Khuê của Hoàng Công Khanh ra đời và đạt
giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội năm 1999, đã được Trần Cư đánh giá rất cao
về: “bản lĩnh trong việc xây dựng nhân vật Nguyễn Trãi đạt tới tầm cỡ lịch sử, trên
nhiều bình diện, trong đời sống chung và cả đời sống riêng tư” [12].
Tác giả Nguyễn Xuân Khánh, trong vòng sáu năm đã cho ra đời hai cuốn
tiểu thuyết với dung lượng lớn và chất lượng cao là Hồ Quý Ly, Mẫu thượng Ngàn.
Trong đó, tác phẩm Hồ Quý Ly đã đạt giải chính thức cuộc thi tiểu thuyết 1998 –
21
2000 do Hội nhà văn tổ chức và giải 200 – 2001 của Hội Nhà văn Hà Nội và tiểu
thuyết Mẫu thượng ngàn đạt giải thưởng của Hội nhà văn Hà Nội năm 2006. Qua
các cuộc hội thảo, các tác phẩm đã được nhìn nhận ở nhiều phương diện, nhất là
phương diện thể loại. Đáng chú ý là lời nhận xét của nhà văn Hoàng Quốc Hải
“Đây là một cuốn tiểu thuyết lịch sử viết rất nghiêm túc, bám sát chính sử. Văn
chương mượt mà, có sức cuốn hút, đọc hết 800 trang vẫn muốn đọc lại [64].
Lại Nguyên Ân trong bài “ Hồ Quý Ly” đăng trên Tạp chí Nhà văn số 6 năm
2000, đã nhận định: “Tác giả Nguyễn Xuân Khánh, vừa khai thác tối đa các nguồn
sử liệu, văn liệu hiện vẫn còn, vừa phóng khoáng trong những hư cấu tạo ra một
thực tại tiểu thuyết vừa tương đồng với những thông tin còn lại về một thời đại đã
lùi xa vừa in dấu cách hình dung và trình bày riêng của tác giả” [64].
Hay trong bài viết “Hồ Quý Ly và những giải pháp mới cho tiểu thuyết lịch
sử nước nhà” nhà văn Trung Trung Đỉnh viết: sức hấp dẫn của tác phẩm “không
chỉ ở văn mạch mà cái chính là tác giả đã lựa chọn cho mình một thế đứng với tư
thế của một nhà tiểu thuyết trên vấn đề hôm qua và hôm nay” [24].
Nhà văn Hoàn Quốc Hải, khi cho ra đời bộ tiểu thuyết lịch sử có quy mô đồ
sộ “Bão táp Triều Trần” gồm 4 cuốn : Bão táp cung đình, Thăng Long nổi giận,
Huyền Trân công chúa và Vương Triều sụp đổ. Với bộ tiểu thuyết này, nhà văn đã
tái dựng lại cả một bức tranh lịch sử lớn vừa hào hùng vừa đau khổ để lại cho hậu
thế nhiều bài học quí giá. Bộ tiểu thuyết này không chỉ “ phục diện lại diện mạo
đích thực của nhà Trần, mà còn lấp được những lỗ hổng, những kiến giải thiếu
khách quan đối với những nhân vật chính trong lịch sử như : Hồ Quý Ly, Trần Thủ
Độ. Đồng thời, biểu dương được công trạng, trí tuệ của nhiều nhân tài mà trong sử
ký chỉ lược qua như : Trần Nhân Tông, Chu Văn An, lại còn chỉ ra được nguyên
nhân và hậu quả tai hại của những kẻ bán nước và làm sụp đổ cả vương Triều
như : Trần Dụ Tông, Trần Ích Tắc, Trần Kiện [65; 9]. Thông qua bộ tiểu thuyết
lịch sử này chúng ta nhận thấy nhà văn không chỉ có sự hiểu biết về lịch sử mà còn
thể hiện được tài năng hư cấu nghệ thuật độc đáo đã bổ sung được những chi tiết
mà lịch sử còn bỏ ngỏ, tăng thêm sức sống cho lịch sử.
22
Tiểu thuyết Giàn thiêu của Võ Thi Hảo, khi xuất hiện cũng thu hút được sự
quan tâm, chú ý của dư luận. Tác phẩm đã dành được giải thưởng cao nhất của Hội
nhà văn Hà Nội năm 2004. Đạo diễn Đỗ Minh Tuấn có ý định xây dựng Giàn
thiêu thành phim. Bởi ông nhận thấy “đây là cuốn tiểu thuyết về triều Lý hấp dẫn
về tư tưởng, về không gian văn hoá. Đặc biệt, Giàn thiêu có tính điện ảnh cao” và
“Giàn thiêu có cách nhìn lịch sử gai góc, đa diện” [77]. Cùng chung ý kiến này
Nghệ sĩ nhân dân - đạo diễn điện ảnh Huy Thành nhận xét: “Đây là lần đầu tiên tôi
được đọc một kịch bản phim của một nhà văn Việt Nam viết rất có nghề, độc đáo
cả về chủ đề, câu chuyện, bối cảnh cấu trúc và nhân vật. Ngôn ngữ điện ảnh nhuần
nhuyễn với những chi tiết hiển thị đắt giá. Đặc biệt, kịch bản mang không khí tâm
linh, huyền bí rất quyến rũ, rất văn chương…” [45].
Khi tác phẩm Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh xuất hiện, dư luận
có nhiều ý kiến trái ngược nhau. Nhưng nhìn chung, đa số các ý kiến đều tán đồng,
xem đây là một đóng góp quan trọng của nhà văn. Nhà văn Hoàng Minh Tường
trong lời mở đầu cuốn tiểu thuyết cho đây là “cuốn tiểu thuyết hấp dẫn và bổ ích”
cùng với lời giới thiệu như sau :“phàm là người đam mê lịch sử và văn chương,
cầm cuốn sách này khó có thể dứt ra được. Rất giống như cảm giác thủa học trò
đọc Tam Quốc Diễn nghĩa hay Thuỷ Hử, bạn sẽ bị cuốn sách lôi cuốn ngay cả khi
đang ăn hay trước khi đi ngủ” và “cách kể chuyện như lùa người đọc vào hết mê
hồn trận này đến những kí sử kia” [78].
Bên cạnh các tác phẩm được sáng tác trong nước, các nhà văn đang sống ở
hải ngoại cũng có những đóng góp cho văn học nước nhà với nhiều tác phẩm có
giá trị thu hút được sự quan tâm của dư luận. Tiêu biểu như bộ ba tiểu thuyết: Gió
lửa, Đất trời, Bể dâu của Nam Dao, Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác …
Qua các tác phẩm viết về đề tài lịch sử mươi lăm năm trở lại đây chúng ta
nhận thấy: quan niệm của các nhà văn về lịch sử đã có nhiều đổi mới. Lịch sử
không còn là “ngôi đền thiêng chỉ được chiêm ngưỡng từ bên ngoài” nữa mà mỗi
nhà văn có quyền xử lý chất liệu lịch sử theo ý đồ nghệ thuật của mình làm cho
“tiểu thuyết lịch sử trở thành ấn tượng và suy tư cá nhân, cá nhân trở thành trung
23
tâm của tự sự [53]. Nghĩa là, mỗi nhà văn có thể đề xuất một cách nhìn mới về sự
kiện lịch sử đã qua, họ cũng có thể mượn lịch sử để trình bày những vấn đề của
hiện tại, hay họ có thể tìm hiểu để xoá đi những “điểm trắng” mà sử liệu không
ghi, hoặc những điều trong quá khứ còn ít người biết đến … Từ đó, tạo ra sức sống
mới cho lịch sử. Nhìn chung, văn xuôi viết về lịch sử từ sau đổi mới đạt được
những thành tựu đáng kể và còn nhiều hứa hẹn ở phía trước.
1.2.2. Những thành tựu chủ yếu của tiểu thuyết lịch sử thời kỳ đổi mới
Nhìn một cách tổng quát, chúng ta thấy mảng tiểu thuyết viết về lịch sử thời
kỳ đổi mới đã gặt hái được những thành công đáng kể ở cả hai phương diện: số
lượng và chất lượng. Điều này được minh chứng cụ thể là: Bắt đầu từ những năm
90 của thế kỷ XX, với sự xuất hiện liên tục của các tiểu thuyết mang chủ đề lịch sử
và khi ra đời đã gây được sự quan tâm, chú ý của bạn đọc cũng như giới nghiên
cứu, phê bình. Có thể kể đến những tác phẩm như: Vằng vặc sao Khuê (Hoàng
Công Khanh), Hồ Quý Ly, Mẫu thượng ngàn (Nguyễn Xuân Khánh), Sông Côn
mùa lũ (Nguyễn Mộng Giác), Gió lửa, Đất trời (Nam Dao), Bão táp Triều Trần
(Hoàng Quốc Hải), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Tây Sơn bi hùng truyện (Lê Đình
Danh), Mười hai sứ quân, Bắn rụng mặt Trời, Hào kiệt Lam Sơn (Vũ Ngọc Đĩnh),
Vua Minh Mạng (Hoài Anh), Mạc Đăng Dung (Lưu Văn Khúc), Đàn Đáy (Trần
Thu Hằng), Vực thẳm chốn thâm cung (Duy Phi), Vương miện lưu đày (Mai Thục)
… Với sự xuất hiện của hàng loạt các tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử đã chứng tỏ
rằng các nhà văn giai đoạn này với việc mở rộng biên độ sáng tạo đã tự tin hơn khi
đối diện với lịch sử và lấy lịch sử làm chất liệu sáng tạo, họ không bị ràng buộc
vào việc phải tôn vinh thần tượng hay tìm ở quá khứ những bài học giáo huấn, mà
nhà văn hôm nay phải phân tích những bí ẩn của lịch sử, đưa ra những giả định để
đối thoại, để tiếp tục nhận thức về lịch sử từ đó thấy được mọi mặt của sự việc đã
qua như nó vốn có nên lịch sử được phản ánh trong các tác phẩm thời kỳ này sinh
động hơn, đa dạng hơn, chân thực hơn. Cho nên đã thu hút và lôi cuốn được sự
quan tâm của độc giả và làm hài lòng cả những độc giả chuyên nghiên cứu về lịch
sử.
24
Phải kể thêm rằng, để tạo được sự thành công, sức sống cho tiểu thuyết
mang chủ đề lịch sử từ sau đổi mới còn có sự đóng góp không nhỏ công sức của
các nhà văn khi đi tìm hiểu, nghiên cứu về lịch sử, về các nguồn sử liệu xưa để viết
về lịch sử một cách chân thực nhất, vừa giữ được lòng tự tôn của dân tộc vừa phản
ánh được lịch sử trong tính đa chiều khiến cho tiểu thuyết lịch sử thực sự là tiểu
thuyết lịch sử chứ không phải là sự minh hoạ lịch sử, để làm được điều đó không ít
các nhà văn đã phải bỏ ra hàng mấy chục năm trời tìm hiểu nghiên cứu các nguồn
sử liệu mới có thể cho ra đời những cuốn tiểu thuyết lịch sử hấp dẫn như tác giả
Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Xuân Khánh…
Bằng sự cảm nhận tinh tế, nhạy bén với các vấn đề trong quá khứ cộng với
tài năng hư cấu, sáng tạo nghệ thuật các nhà tiểu thuyết lịch sử đã đem lại cho độc
giả nhưng hiểu biết mới về lịch sử, khiến độc giả khi tiếp xúc với tác phẩm xong
có sự liên tưởng, đối thoại, “nhận thức lại” quá khứ và qua đó gợi mối liên hệ với
các vấn đề hiện tại như vấn đề sử dụng tri thức, vấn đề đổi mới, vấn đề con đường
phát triển của đất nước …
Văn xuôi Việt Nam sau năm 1986 nói chung, tiểu thuyết mang chủ đề lịch
sử nói riêng đã có nhưng diện mạo mới, bắt đầu bằng việc các nhà văn thay thế
cảm hứng minh hoạ bằng cảm hứng nhận thức trong các sáng tác đã tạo được tính
chân thực và hấp dẫn cho mỗi tác phẩm. Nhìn một cách khách quan chúng ta dễ
dàng nhận thấy: Văn học Việt Nam trước 1986, luôn có sự nhất quán trong tư duy
- đó là tư duy sử thi, với cảm hứng khẳng định ngợi ca. Tiểu thuyết lịch sử giai
đoạn này cũng nằm trong mạch cảm hứng đó nên thường được viết đúng như
những gì sử liệu ghi lại, nên lịch sử trở thành “ngôi đền thiêng, mà nhà tiểu thuyết
chỉ được phép đứng từ xa mà chiêm nghiệm. Tâm thức văn hoá của thời đại và tâm
thế sáng tạo của nhà văn cùng gặp gỡ ở quan điểm : phải tôn trọng, kính cẩn trước
lịch sử” [53]. Sau khi đất nước thống nhất, đặc biệt là sau 1986 văn học được cởi
trói, nhà văn được tự do sáng tạo để phản ánh phù hợp với xu thế của hiện tại nên
các nhà văn viết về đề tài lịch sử thời kỳ đổi mới cũng có cái nhìn, cách cảm nhận
mới về lịch sử. Với họ “lịch sử không chỉ là thế giới dành riêng cho các bậc vua
25
chúa, không chỉ là nhữnh sự kiện hào hùng mà còn có cả những dân chúng vô
danh, bé nhỏ và những chuyện đời thường xoay quanh cuộc sống của họ. Các vị
vua chúa, vị tướng lĩnh không chỉ có những mặt tốt đẹp, uy nghiêm đĩnh đạc như
bề ngoài họ thể hiện mà bên cạnh đó họ còn là một con người sinh học, cũng biết
buồn vui, cũng khao khát quyền lực và đam mê sắc dục [57; 30]. Như nhân vật
Nguyên Phi Ỷ Lan trong Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, đã luôn được chúng ta biết
đến với cương vị một người đàn bà tài giỏi, đảm đang, đã có công lớn trong việc
giúp vua cai trị đất nước nhưng đã mấy ai biết bà đã từng bức tử Hoàng Hậu họ
Dương và chôn 76 cung nữ theo nhà vua khi ông băng hà? Hay Nguyễn Huệ một
vị vua với tài thao lược, có tư tưởng tiến bộ nhưng mặt khác Nguyễn Huệ dưới sự
nhìn nhận của Nam Dao, Nguyễn Mộng Giác cũng có những thói hư, tật xấu như
ăn nói: thô lỗ, cuồng dâm và luôn cảm thấy cô đơn vì nhận thấy chính quyền lực
đã đẩy ông xa dần mọi người …Như vậy, bằng việc phản ánh lịch sử ở cái nhìn đa
chiều, các tác giả tiểu thuyết viết về lịch sử thời kỳ này đã cho chúng ta thấy lịch
sử không chỉ là những sự kiện khô khan mà trái lại nó vô cùng sinh động và ẩn
chứa trong đó những bí ẩn mà khi khám phá ra nó có sức hút mạnh mẽ tới tất cả
chúng ta.
Truyền thống sáng tác văn học về đề tài lịch sử ở nước ta trước đây thường
đặt trọng vấn đề phản ánh chân thực lịch sử. Nhưng trong thời kỳ đổi mới những
tác phẩm mang đề tài này đã có sự thay đổi. Đó là việc không ít các nhà văn chỉ
lấy lịch sử làm cái cớ qua để qua đó họ chuyển tải thông điệp của mình đến bạn
đọc, hay thể hiện cái nhìn của thời đại hoặc xem họ như một phương tiện để gửi
gắm những ý nghĩ về cuộc sống. Tạo nên các tác phẩm có chiều sâu và gây được
ấn tượng mạnh trong lòng độc giả như nhà văn Võ Thị Hảo trong tiểu thuyết Giàn
thiêu đã lấy nhiều nhân vật lịch sử như: Đạo Hạnh - Thần Tông, Nguyên Phi Ỷ
Lan, Đạo Thành ..., các nhân vật này không chỉ được nhà văn miêu tả ở những mặt
tốt đẹp, thánh thiện hay tài ba mà trong họ còn tồn tại cả sự tốt - xấu, thiện – ác,
họ cũng biết vui biết buồn, có khát khao quyền lực và đam mê sắc dục… và qua đó
chúng ta sẽ có cái nhìn đầy đủ hơn, khách quan hơn về lịch sử, về các nhân vật lịch