Mở ĐầU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Phần lớn các nhà nghiên cứu đều cho rằng Thánh Tông di thảo mở
đầu cho truyện truyền kì Việt Nam, tuy nhiên, không phải tất cả các truyện
trong đó mà chỉ có 10 hoặc 13 truyện là truyện truyền kì đích thực. ý kiến về
Truyền kì mạn lục thống nhất hơn, ngời ta đều cho rằng đây là đỉnh cao của
truyện truyền kì Việt Nam. Nghiên cứu đề tài này nhằm nhận thức sự tiến
triển từ Thánh Tông di thảo đến Truyền kì mạn lục ở phơng diện nhân vật.
1.2. Thánh Tông di thảo và Truyền kì mạn lục là hai tác phẩm thuộc thể
loại truyện truyền kì. Giải quyết đề tài này nhằm góp phần minh định bản chất
của thể loại này.
1.3. Chất liệu chính để hai tác giả sáng tạo nên Thánh Tông di thảo và
Truyền kì mạn lục là truyện dân gian Việt Nam và truyện truyền kì Trung Quốc.
Giải quyết đề tài nhằm nhận thức ảnh hởng của truyện dân gian Việt Nam và
truyện truyền kì Trung Quốc đối với hai tác phẩm ở phơng diện nhân vật.
1.4. Hiện nay, việc hớng dẫn dạy- học loại tác phẩm truyền kì còn nhiều
hạn chế, chẳng hạn nh thái độ máy móc siêu hình đối với cái siêu thực, hễ thấy
nó là xếp vào mê tín dị đoan, hoặc không phân biệt rõ truyện truyền kì và truyện
dân gian Nghiên cứu đề tài góp phần khắc phục những hạn chế đó.
2. Mục đích, yêu cầu của việc giải quyết đề tài
2.1. Nhận thức đợc sự tiến triển trong nghệ thuật xây dựng nhân vật
truyện truyền kì từ Thánh tông di thảo đến Truyền kì mạn lục.
2.2. Qua việc đối sánh nhân vật trong Thánh Tông di thảo và Truyền kì
mạn lục, làm rõ thêm đặc điểm của nhân vật truyện truyền kì.
2.3. Nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ ảnh hởng của truyện dân gian Việt
Nam và truyện truyền kì Trung Quốc đối với hai tác phẩm ở phơng diện nhân vật.
3. Lịch sử nghiên cứu
Thánh Tông di thảo và Truyền kì mạn lục là hai tác phẩm văn xuôi
trung đại đợc nhiều nhà nghiên cứu lu tâm và viết nhiều công trình nghiên
cứu. ở đây, chúng tôi điểm qua một số ý kiến có liên quan đến đề tài nghiên
cứu.
Trong bài Thánh Tông di thảo- Bớc đột khởi trong tiến trình phát triển
của thể loại truyện ngắn Việt Nam trung cổ, PGS.TS. Vũ Thanh đã viết: ở
Thánh Tông di thảo các vấn đề xã hội và số phận của con ngời đã bắt đầu hé
mở để đến Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ chúng trở thành các vấn đề thời
sự nóng hổi [17; 502].
1
Nguyễn Đăng Na trong Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại viết:
Thánh Tông di thảo là tác phẩm đánh dấu sự chuyển biến đột khởi của văn
xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, có thể nói, lần đầu tiên văn xuôi tự sự lấy
con ngời làm đối tợng phản ánh và con ngời với sức mạnh trí tuệ của mình đã
trở thành chủ thể của vũ trụ trong văn học [12; 151]. Tác giả khẳng định:
Bằng Thánh Tông di thảo, đặc biệt là Truyền kì mạn lục, Lê Thánh Tông và
Nguyễn Dữ đã phóng thành công con tàu văn xuôi tự sự vào quỹ đạo nghệ
thuật: văn học lấy con ngời làm đối tợng và trung tâm phản ánh khi lấy con
ngời và trung tâm phản ánh, Lê Thánh Tông và Nguyễn Dữ đã phát hiện ra sức
mạnh của con ngời [12; 24]. Và tác giả nhấn mạnh, nếu Lê Thánh Tông hớng
văn học vào việc phản ánh con ngời, lấy con ngời làm đối tợng và trung tâm
phản ánh thì Nguyễn Dữ đi xa hơn một bớc: phản ánh số phận con ngời chủ
yếu là số phận mang tính chất bi kịch của ngời phụ nữ. Nhờ đó mà Nguyễn Dữ
mở đầu cho chủ nghĩa nhân văn trong văn học thời trung đại.
Trong công trình Lê Thánh Tông, vị hoàng đế anh minh, nhà văn hoá
lỗi lạc, một văn hào dân tộc, Bùi Duy Tân cho rằng trong Thánh Tông di thảo,
yếu tố h cấu đóng vai trò chủ đạo và sự thể hiện con ngời trong tác phẩm này
càng giàu đặc trng văn học nh Truyền kì mạn lục. Tác giả đã đánh giá cao
nghệ thuật xây dựng nhân vật trong hai tác phẩm Thánh Tông di thảo và
Truyền kì mạn lục. Nhà nghiên cứu khẳng định đó là bớc tiến trong lịch sử văn
học nhằm góp phần giải phóng truyện truyền kì thoát khỏi ảnh hởng thụ động
của văn xuôi lịch sử, các tác giả không còn ghi chép về tớc hiệu của các vị
thần nh tác giả trớc đó mà nhân vật đã có tính cách và số phận riêng.
Gần đây trong một hội thảo quốc tế, với bài Đóng góp của Nguyễn Dữ
cho truyện truyền kì Đông á, PGS.TS. Vũ Thanh đã bổ sung thêm cho ý kiến
của tác giả Bùi Duy Tân rằng: Các tác giả trớc đó thờng chỉ phản ánh những
hoạt động của các vị thánh, vua chúa, anh hùng dân tộc lấy trong các đền chùa
thì Thánh Tông di thảo và Truyền kì mạn lục đã phản ánh khá sâu sắc những
xung đột của xã hội, những cá nhân xã hội gần gũi đời thờng [22; 2].
Các công trình nghiên cứu riêng lẻ về Thánh Tông di thảo và đặc biệt
là Truyền kì mạn lục từ trớc đến nay có nhiều. Trong đó, các tác giả có nhắc
đến sự tiến triển ở phơng diện nhân vật trong văn học trung đại từ Thánh
Tông di thảo đến Truyền kì mạn lục nhng cha có công trình nghiên cứu nào
thật sự có quy mô về nhân vật từ Thánh Tông di thảo đến Truyền kì mạn lục.
Mặc dù vậy, kết quả của những công trình nghiên cứu trên là những gợi ý
quan trọng cho chúng tôi thực hiện đề tài này.
2
4. Phơng pháp nghiên cứu
Phơng pháp nghiên cứu chủ yếu của khoá luận này là phơng pháp so
sánh. Bên cạnh đó, chúng tôi còn sử dụng các phơng pháp nghiên cứu khác
nh phơng pháp thống kê, phơng pháp phân tích, tổng hợp
5. Bố cục của khoá luận
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, Nội dung chính trình bày trong
ba chơng:
Chơng 1: Sự tơng đồng và khác biệt ở phơng thức xây dựng nhân vật
trong hai tác phẩm
Chơng 2: Sự tơng đồng và khác biệt về chức năng nhân vật trong hai
tác phẩm
Chơng 3: Sự tơng đồng và khác biệt trong ảnh hởng truyện dân gian
Việt Nam và truyện truyền kì Trung Quốc đối với nhân vật hai tác phẩm
3
NộI DUNG CHíNH
Chơng 1
Sự tơng đồng và khác biệt xét ở phơng thức
xây dựng nhân vật trong HAI TáC PHẩM
1.1. Giới thuyết về phơng thức xây dựng nhân vật
Nhân vật văn học là con ngời đợc miêu tả, đợc thể hiện trong tác phẩm
bằng phơng tiện văn học. Nhân vật văn học là hình tợng nghệ thuật mang tính
ớc lệ, đó không phải là sự sao chụp đầy đủ mọi chi tiết của con ngời với những
đặc điểm nào đó. Nhân vật văn học có thể là những con ngời đợc miêu tả đầy
đặn cả ngoại hình lẫn nội tâm, có tính cách, có tiểu sử nh thờng thấy ở tác
phẩm tự sự, kịch. Đó có thể là những con ngời thiếu hẳn những nét đó nhng lại
có tiếng nói, giọng điệu, cái nhìn nh nhân vật trần thuật, hoặc chỉ có cảm xúc,
nỗi niềm, ý nghĩ, cảm nhận nh nhân vật trữ tình trong thơ trữ tình.
Khái niệm nhân vật thờng đợc quan niệm với một phạm vi rộng hơn
nhiều, đó không chỉ là con ngời có tên hoặc không có tên, đợc khắc họa sâu
đậm hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm mà còn có thể có những
nhân vật bao gồm cả quái vật, thần linh, ma quỷ ít nhiều mang bóng dáng,
tính cách con ngời, đợc dùng nh những phơng thức khác nhau để biểu hiện
con ngời. Qua nhân vật nhà văn thể hiện quan điểm nghệ thuật và lí tởng thẩm
mĩ của mình về xã hội và con ngời. Vì đợc miêu tả qua các biến cố, xung đột,
mâu thuẫn và các chi tiết nên nhân vật luôn gắn liền với cốt truyện. Nhân vật
là một chỉnh thể hoàn chỉnh vận động có tính cách đợc bộc lộ dần trong không
gian, thời gian và mang tính quá trình.
Phơng thức xây dựng nhân vật là một khái niệm dùng để chỉ con đờng,
cách thức nhà văn tạo dựng nên nhân vật. Có rất nhiều phơng thức để xây
dựng nhân vật, nhà văn có thể xây dựng nhân vật thông qua miêu tả ngoại
hình, phẩm chất, tính cách nhân vật; có thể xây dựng nhân vật thông qua miêu
tả nội tâm nhân vật hoặc thông qua việc tạo dựng tình huống để từ đó nhân vật
bộc lộ phẩm chất, tính cách Nhân vật là nhân tố quan trọng hàng đầu của tác
phẩm văn học, không có nhân vật thì không có tác phẩm. Vì vậy, nhà văn rất
chú trọng xây dựng nhân vật trong tác phẩm. Nhà văn xây dựng nhân vật bao
giờ cũng nhằm thể hiện một ý đồ nghệ thuật nào đó. Để xây dựng nhân vật
nhà văn cũng phải tìm phơng thức nghệ thuật thích hợp để cho nhân vật có
4
thể thực hiện đầy đủ chức năng của nó với mục đích là lột tả đợc tất cả những
ý nghĩa nghệ thuật mà nhà văn muốn chuyển tải.
1.2. Những sự tơng đồng trong phơng thức xây dựng nhân vật
1.2.1. Biểu hiện của sự tơng đồng
1.2.2.1. Xây dựng nhân vật thông qua miêu tả ngoại hình, phẩm chất và
tính cách nhân vật
Nhân vật văn học xuất hiện qua sự trần thuật, sự miêu tả bằng phơng
tiện nghệ thuật. Các phơng thức xây dựng nhân vật đa dạng nhng xây dựng
nhân vật thông qua miêu tả ngoại hình, phẩm chất, tính cách là cách xây dựng
nhân vật điển hình. Việc miêu tả nhân vật nh vậy giúp cho độc giả hình dung
đợc chân dung của nhân vật, đồng thời hé mở cho độc giả cánh cửa để đi vào
tìm hiểu về nhân vật. Trong Thánh Tông di thảo và Truyền kì mạn lục, cả hai
tác giả đều rất có ý thức và công phu trong việc miêu tả ngoại hình, phẩm
chất, tính cách của nhân vật.
Khảo sát Thánh Tông di thảo chúng tôi thấy rằng, các nhân vật chính đợc tác giả miêu tả rất kĩ về ngoại hình, phẩm chất, tính cách. Trong Truyện
yêu nữ Châu Mai, nhân vật yêu nữ đợc tác giả miêu tả chủ yếu về ngoại hình:
đến năm Hồng Đức thứ sáu, nó lại hiện thành một cô gái đẹp tuyệt trần, trạc
mời sáu tuổi, mắt long lanh nh nớc mùa thu, môi đỏ nh son vẽ, tóc mây mặt
hoa, cời nói duyên dáng, làm cho mọi ngời phải động lòng. Hay hai nhân vật
nữ chính trong Truyện hai gái thần cũng đợc tác giả miêu tả về ngoại hình rất
đẹp: nhìn kĩ dung nhan thì thấy một ngời khoảng ngoài bốn mơi, tóc xanh đã
điểm sơng trắng, mặt ngọc đã nhạt màu hồng, nhng cái vẻ phơng phi thuỳ mị
còn đủ làm cho thiên hạ xiêu lòng. Còn cô gái trẻ thì đơng tuổi cập kê, mặt
hoa da tuyết. Thực là:
Triệu Yến cùng xe hờn kém sắc,
Thôi Oanh đối diện thẹn thua xinh.
Các nhân vật chính trong Thánh Tông di thảo đa phần đợc tác giả rất
chú ý dụng công để khác hoạ ngoại hình nhằm làm nổi bật, gây sự chú ý đối
với ngời đọc. Bên cạnh đó, tác giả còn miêu tả kĩ về gia cảnh, phẩm chất, tính
cách của nhân vật chính để từ đó có thể dễ dàng hơn trong việc tiếp cận nhân
vật. Nhân vật Nho sinh trong Một dòng chữ lấy đợc gái thần đợc tác giả miêu
tả nh sau: làng Thần Khê có anh đồ kiết, cha mẹ mất sớm, anh trai không có,
tuổi hai mơi bốn vẫn cha có vợ. Nhà nghèo quá chỉ nhờ bút nghiên mà sống.
Ngời tính tình điềm tĩnh, ăn mặc xoàng xĩnh, trong một năm tiêu dùng không
tốn mấy nên nhiều ngời mến. Còn ngời hành khất trong Truyện ngời hành
5
khất giàu lại đợc miêu tả: ở Tam Thanh có một ngời đàn bà goá trạc ba mơi
tuổi, con cái không có, bố mẹ chồng mất cả, anh em cũng ít, một mình vò vọ,
gửi thân dới rào giậu nhà ngời ta giặt thuê nuôi thân.... ở những truyện có
tính chất truyền kì trong Thánh Tông di thảo, các nhân vật chính thờng hiện
lên với đầy đủ diện mạo về ngoại hình, phẩm chất, tính cách và hoàn cảnh
sống. Đây là một đặc điểm rất dễ nhận thấy khi ta tiếp cận với tác phẩm. Và
đó cũng chính là điểm tơng đồng với Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ.
Chuyện cây gạo là một trong những truyện hấp dẫn bạn đọc nhất không
chỉ bởi cốt truyện mà còn bởi nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo. Điểm
gặp gỡ giữa Thánh Tông di thảo và Truyền kì mạn lục trong phơng thức xây
dựng nhân vật là miêu tả nhân vật về ngoại hình, gia cảnh, phẩm chất, tính
cách ngay từ đầu tác phẩm. Nhân vật Trình Trung Ngộ trong Chuyện cây gạo
đợc miêu tả là một chàng trai đẹp ở đất Bắc Hà, nhà rất giàu, thuê thuyền
xuống dòng Nam buôn bán. Chỉ qua máy dòng chữ, ngời đọc có thể có
những hiểu biết ban đầu về nhân vật Trình Trung Ngộ. Về ngoại hình chàng đợc giới thiệu là một chàng trai đẹp, về gia cảnh là con nhà giàu.
Nếu nh nhân vật Trình Trung Ngộ đợc miêu tả chủ yếu về ngoại hình và
gia cảnh thì nhân vật Ngô Tử Văn trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên
và Phạm Tử H trong Chuyện Phạm Tử H lên chơi Thiên Tào lại chủ yếu đợc
miêu tả về phẩm chất, tính cách. Ngô T Văn tên là Soạn, ngời vùng Yên
Dũng, đất Lạng Giang. Chàng vốn khảng khái, nóng nảy, thấy sự gian tà thì
không thể chịu đợc, vùng Bắc ngời ta vẫn khen là ngời cơng phơng. Với tính
cách nóng nảy, cơng trực này chàng đã đốt ngôi đền của kẻ gian tà mà cả làng
cho là thiêng và ai cũng sợ hãi. Còn Phạm Tử H là ngời tuấn sảng hào mại
không a kiềm thúc. Theo học nhà xử sĩ Dơng Trạm. Dơng Trạm thờng răn Tử
H về tính hay kiêu căng. Từ đấy chàng cố sức sửa đổi trở nên ngời có đức tính
tốt. Cũng chính bởi đức tính tốt đẹp nên sau này chàng đợc gặp lại thầy mình
và đợc lên chơi Thiên Tào. Các nhân vật Chu sinh (Duyên lạ nớc Hoa), ngời
học trò (Ngời trần ở thuỷ phủ) trong Thánh Tông di thảo và Đào Hàn Than
(Chuyện nghiệp oan của Đào thị), Lệ Nơng (Chuyện Lệ Nơng), Thuý Tiêu
(Chuyện Thuý Tiêu) trong Truyền kì mạn lục đều đợc Lê Thánh Tông và
Nguyễn Dữ miêu tả về ngoại hình, tính cách, phẩm chất ngay từ đầu tác phẩm.
Nh vậy, phơng thức xây dựng nhân vật thông qua miêu tả ngoại hình, gia
cảnh, phẩm chất và tính cách nhân vật là phơng thức nghệ thuật phổ biến đợc
các tác giả thời trung đại sử dụng. Ngay từ đầu các tác phẩm, các nhân vật đã
đợc Lê Thánh Tông và Nguyễn Dữ khắc họa đầy đủ về ngoại hình, phẩm chất,
6
tính cách, gia cảnh, từ đó giúp cho độc giả có cái nhìn bao quát nhất về nhân
vật đó và đi vào tìm hiểu nhân vật một cách chính xác hơn.
1.2.1.2. Xây dựng nhân vật thông qua miêu tả nội tâm nhân vật
Cùng với việc sử dụng phơng thức xây dựng nhân vật thông qua miêu tả
ngoại hình, phẩm chất tính cách thì phơng thức xây dựng nhân vật thông qua
miêu tả nội tâm nhân vật cũng là một điểm tơng đồng giữa Lê Thánh Tông và
Nguyễn Dữ khi xây dựng nhân vật trong Thánh Tông di thảo và Truyền kì
mạn lục. Một trong những phơng diện thử thách tài năng nắm bắt và lí giải đời
sống, bộc lộ quan niệm về con ngời của nhà văn là miêu tả nội tâm nhân vật.
Đó là thế giới tâm lí và tinh thần của nhân vật, là những cảm giác, cảm xúc,
suy nghĩ của nhân vật về thế giới, về con ngời và về bản thân. Nhà văn có thể
trực tiếp biểu hiện nội tâm nhân vật bằng ngôn ngữ của ngời kể chuyện nhng
biện pháp hay sử dụng nhất là biểu hiện bằng độc thoại nội tâm và đối thoại
nội tâm của nhân vật. Với Lê Thánh Tông và Nguyễn Dữ, nội tâm nhân vật đợc biểu hiện chủ yếu bằng chính ngôn ngữ nhân vật. Nhân vật tự phơi bày
những diễn biến trong tâm trạng của mình qua những cảm xúc, suy nghĩ cụ
thể của mình.
Lê Thánh Tông không chỉ là một vị vua anh minh mà còn là một nhà
văn, nhà thơ tài năng. Các nhân vật trong tác phẩm của ông đợc thể hiện rất
phong phú về nội tâm chủ yếu thông qua sự đối thoại với các nhân vật khác.
Trong Truyện hai gái thần, nội tâm của hai nhân vật nữ chính đợc bộc lộ thông
qua sự đối thoại của hai nhân vật này với nhà nho già. Ngời đàn bà có tuổi nói:
tôi chính là cháu dâu Long Vơng. Năm xa vì chồng tôi thích hơng sen trắng,
bị chàng Kim Lân rủ rê cùng bơi đến hồ Dâm- đàm chơi, không ngờ gặp phải
ngày Vơng Thông đi xem đánh cá ở đó, bị nó bắt đợc, đem giết đi. Con trai tôi
xin Long Vơng đi báo thù cha. Bấy giờ cỡi ngựa không vẫy, rẽ nớc lên trần.
Khi con tôi dời thuỷ cung ra đi, tôi bảo nó rằng: con báo thù cha là con có
hiếu. Nhng mẹ đã già, khuya sớm thiếu ngời chăm nom, con phải hẹn cho
đúng ngày về. Con tôi khóc mà tha rằng: con đi chuyến này nếu báo đợc thù
cha thì đúng nửa giáp hoa sẽ về phụng dỡng mẹ. Nếu thù kia không trả đợc thì
con sẽ không có ngày về!. Từ đó đến nay đã ba mơi sáu năm, tựa cửa chờ
con, không nơi nơng tựa, tôi đành giả tiếng bói để tìm con. Ngời trẻ tuổi nói:
Thiếp không phải là ngời quái dị mà là vợ sơn thần Đông Ngu. Khi
Hoàng Phúc làm quan trấn phủ, tính hay đào xẻ núi non, đã làm đoạn thơng
long mạch núi Mẫu sơn. Phu quân thiếp giận lắm, thờng sai ngời rình đợi xe
Hoàng Phúc đi qua thì quăng đá cho gãy nát bánh xe để báo thù. Phúc đoán
7
biết việc ấy, không dám qua đó nữa. Phu quân thiếp bèn cỡi hổ thần lên hầu
quan Nam Tào, hỏi việc dới nhân gian toan mu tính trả thù. Tinh quan đem
sách Thái ất ra tính và nói: rồi đây Hoàng Phúc về triều, Vơng Thông ra trấn,
nhng sau hơn mời năm nữa sẽ có ngời họ Lê tên Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn,
Phúc sẽ cầm quân sang cứu viện đến ải Lê- quan thì bị Lê Lợi bắt sống. Từ
đấy thiên hạ đại định. Phu quân thiếp mừng lắm, liền thác sinh vào nhà họ
Bùi. Lúc chia tay thiếp khóc xin theo: vợ chồng hai ngời nh một, lang quân
liều chết vì mẫu thân, thiếp đem kim chỉ xin tòng quân. Phu quân thiếp
ngoảnh lại bảo: ngời xa nói: đàn bà ở trong quân, binh khí sợ không mạnh,
giang sơn này, thần dân này, khanh hãy ở lại một mình làm chủ. Đợi ba năm
sau khi đại định, lại sẽ cùng nhau chăn gối nh xa. Nay theo đi làm gì? . Nói
xong đi ngay. Thiếp hằng ngày ở trong thạch động, bấm đốt tay, đến nay đã
hai mơi bốn năm. Lòng những e chồng mắc mồi phú quý ở trần gian mà quên
lời ớc cũ, thiếp mới mợn cớ bói toán, ca hát, tìm khắp nơi nơi, may ra phu
quân thiếp nghe thấy tiếng ca mà động lòng chăng. Thế mà đã ba bốn tháng
nay không dò đợc tung tích. Qua lời đối thoại giữa hai ngời ta thấy họ đều là
những ngời mang nỗi buồn đau vì gia cảnh. Một ngời là mẹ đi tìm con, một
ngời là vợ đi tìm chồng. Ngời đàn bà lớn tuổi vì thơng nhớ con mà giả dạng
làm bói toán để đi tìm tung tích con trai, ngời thiếu nữ trẻ tuổi vì nhớ chồng,
sợ chồng quên lời ớc hẹn cũ mà mợn cớ bói toán, ca hát để tìm chồng. Lời nói
của họ chất chứa bao nỗi buồn đau.
Ngời con gái trong Truyện chồng dê có nội tâm phức tạp hơn. Cô còn
trẻ nhng vì phụng dỡng mẹ già nên không muốn lấy chồng, đến khi mẹ mất thì
lại quyết để tang ba năm. Trong ngày tết thanh minh, đã hết tang mẹ cô thầm
nghĩ: ngày tháng thoi đa, phút chốc mẹ đã khuất mặt vắng lời, chỉ thấy cỏ
xanh một nắm, không biết linh hồn nơng tựa vào đâu? Đau đớn biết nhờng
nào! Lại nghĩ: năm nay mình đã hai mốt tuổi, con gái khó lòng ở một mình, vờn xuân rồi sẽ có chủ, thì ngày này năm sau, biết ai là ngời ra mộ cúng bái?
Thơng cảm biết bao! Lo buồn trăm ngả, thổn thức không nên lời. Lời độc
thoại của cô gái cho ta biết đợc tấm lòng hiếu thảo của cô đối với mẹ già. Lúc
mẹ còn sống thì cô ở vậy chăm nom, khi mẹ mất thì để tang khóc thảm thiết,
nay hết tang lại lo nếu mình lấy chồng thì không ai hơng khói. Thật là một
tấm lòng hiếu thảo biết nhờng nào!
Các nhân vật trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ cũng đợc miêu tả
về nội tâm phong phú. Có khi nội tâm của nhân vật đợc biểu hiện thông qua
độc thoại, nhân vật tự giãi bày cảm xúc với chính mình; có khi nội tâm đợc
8
biểu hiện thông qua lời đối thoại với các nhân vật khác. Nhân vật Nhị Khanh
trong Chuyện ngời nghĩa phụ ở Khoái Châu là ngời phụ nữ thuỷ chung, tiết
liệt. Khi cha chồng nàng bị đẩy vào vùng Nghệ An chống giặc, chồng nàng có
ý lu luyến không muốn đi, nàng liền khuyên giải: ngay nghiêm đờng vì tính
nói thẳng mà bị ngời ta ghen gét, không để ở lại nơi khu yếu, bề ngoài vờ tiến
cử đến chốn hàng phiên, bên trong thực dồn đuổi vào chỗ tử địa. Chả lẽ để cha
ba đào muôn dặm, lam chớng nghìn trùng, hiểm nghèo giữa đám kình nghê,
cách trở trong vùng bò mán, sớm hôm săn sóc, không kẻ đỡ thay? Vậy chàng
nên chịu khó đi theo. Thiếp dám đâu mối khuê tình để lỗi bề hiếu đạo. Mặc
dầu cho phấn nhạt hơng phai, hồng rơi tía rụng, xin chàng đừng bận lòng đến
chốn hơng khuê. Vì yêu chồng, thơng chồng, muốn chồng giữ trọn đạo hiếu,
nàng chấp nhận ở lại một mình, khuyên chồng theo hầu cha. Lời nói của nhân
vật toát lên tấm lòng hiếu thảo. Cha mẹ mất, bị ngời ta ép gả, nàng một mực từ
chối. Khi vợ chồng gặp nhau đoàn tụ nào ngờ chồng cờ bạc đến nỗi phải gán
vợ, nàng vỗ vào lng con, đau đớn vô cùng và nói:
Cha con bạc tình, mẹ đau buồn lắm. Biệt li là việc thờng thiên hạ, một
cái chết với mẹ khó khăn gì? Nhng mẹ nghĩ thơng các con mà thôi. Câu nói
cho thấy Nhị Khanh đang đau đớn đến tột cùng. Nàng thà chấp nhận cái chết
còn hơn phải bỏ chồng để ở cùng tên lái buôn Đỗ Tam tham lam, háo sắc kia.
Nàng Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo cũng có nội tâm phức tạp do
quan niệm sống rất đặc biệt. Qua lời đối thoại giữa nàng với Trình Trung Ngộ,
quan niệm sống của nàng đợc bộc lộ rõ. Nàng nói: thân tàn một mảnh, cách
với chết chẳng bao xa. Ngày tháng quạnh hiu, không ngời săn sóc. Nay dám
mong quân tử quạt hơi dơng vào hang tối, thả khí nóng tới mầm khô, khiến
cho tía rụng hồng rơi, đợc trộm bén xuân quang đôi chút, đời sống của thiếp
nh thế sẽ không phải phàn nàn gì nữa. Hay một lần nàng nói: ngời ta sinh ra
ở đời, cốt đợc thoả chí, chứ văn chơng thời có làm gì, chẳng qua rồi cũng nắm
đất vàng là hết chuyện. Đời trớc những ngời hay chữ nh Ban Cơ, Sái Nữ nay
còn gì đâu nữa. Sao bằng ngay trớc mắt, tìm thú vui say, để khỏi phụ xuân tơi
tốt. Đoạn đối thoại này cho ta thấy rõ nội tâm của nhân vật Nhị Khanh.
Nguyễn Dữ đã xây dựng đợc nhân vật nữ có nội tâm vô cùng phong phú, có
sức sống mãnh liệt, có quan niệm sống táo bạo, khát vọng đợc sống, đợc yêu,
đợc hởng hạnh phúc. Triết lí sống của nàng thể hiện khát khao mãnh liệt về
tình yêu. Nó nh là một sự thách thức đối với xã hội phong kiến khi mà trong
xã hội đó ngời phụ nữ luôn bị trói buộc vào những cơng thờng khắt khe. Và đó
cũng phần nào thể hiện quan niệm của tác giả.
9
Một phơng diện quan trọng đợc cả hai tác giả Lê Thánh Tông và
Nguyễn Dữ sử dụng một cách nhuần nhuyễn, linh hoạt để biểu hiện nội tâm
nhân vật đó chính là xen thơ, phú, từ, văn tế vào văn xuôi cốt để tâm trạng con
ngời đợc biểu hiện rõ nhất. Có những lúc mà ngôn ngữ văn xuôi không thể
biểu đạt đợc hết, đợc rõ nội tâm nhân vật thì thơ, từ, phú, văn tế lại phát huy
tác dụng. Các nhân vật trong Thánh Tông di thảo và Truyền kì mạn lục đều rất
hay làm thơ, từ, phú, văn tế và thông qua đó thế giới tinh thần của họ đợc
bộc lộ rõ. Trong truyện Truyện hai gái thần, hai nhân vật nữ chính, một ngời
đi tìm con, một ngời đi tìm chồng đã giả dạng bói toán để đi tìm ngời thân.
Hàng ngày họ đến chợ từ sớm, trải hai chiếc chiếu cói, trên đặt một bộ sách số
và một con rùa bề ngang độ một tấc, trên treo mảnh vải đỏ có viết chữ mực:
Bói toán không thần- Ba đồng một quẻ. Bày xong hai ngời cùng ngồi xuống
chiếu và cất tiếng hát. Ngời nhiều tuổi hát rằng:
Ngựa không vẩy, ngựa không vẩy
Con báo thù cha ai rằng không phải
Thấm thoắt giáp hoa gần nửa đấy
Mẹ vậy, mẹ vậy
Gió cuốn không thể nhờ
Cánh bay không thể cậy
Mối hận kim lân dốc sông ngòi
Đêm ngày tóc bạc lo ngay ngáy
Ngựa không vẩy, ngựa không vẩy.
Cô gái trẻ hát:
Đông Ngu, Đông Ngu
Đã trải ba thu
Ba thu chữ độc nặng căm thù
Núi có cây dâu, thiếp có hiền phu
Thế nào ru, thế nào ru?
Khua ngọc chơi đế đô
Cha thể chừa cơn lên thiên cù
Lên thiên cù cùng hoạn ngu
Kìa kìa đỉnh núi tợng nàng Tô.
Từ lời hát của hai nhân vật, ngời nghe có thể hiểu đợc nỗi lòng của họ.
Ngời nhiều tuổi đang mang nỗi đau mất con. Bà có ngời con trai vì báo thù
cha mà từ biệt mẹ ra đi đã qua giáp hoa gần nửa vẫn không về để cho bà:
đêm ngày tóc bạc lo ngay ngáy. Còn cô gái trẻ lại mang nỗi buồn xa chồng.
Chồng cô vì trả thù cho mẹ mà đầu quân vào nghĩa quân Lam Sơn, hẹn ba
10
năm sau sẽ trở về nhng đã hai mơi t năm vẫn cha về để cô ngày đêm mong
nhớ. Trong lời hát của họ chứa đựng biết bao nỗi niềm, nỗi đau, nỗi buồn của
ngời mẹ, ngời vợ đi tìm con, tìm chồng.
Nhân vật Ngoạ Vân trong Truyện lạ nhà thuyền chài vì cứu gia đình
nhà chồng nên buộc phải để lộ thiên cơ và phải vĩnh viễn rời xa hạnh phúc của
mình. Trớc khi từ biệt chồng nàng hát:
Từ ngày thay áo lạy cô chơng
Cách tháng về nhà chồng,
Trăm năm ân ái, ngày còn trờng.
Bỗng đâu cơn bão táp,
Biển cả sang điên cuồng
Rào rạt mênh mang
Thời ấy, thế ấy
Không lấy thân đơng
Thì cô chơng, thì hiền lang
Chôn trong bụng cá rất bi thơng
Thiên cơ đã lộ
Lại e cha mẹ mắc tai ơng
Làm sao giữ đợc cảnh đồng sàng
Trời một phơng!
Ghi nhớ trong tâm trờng:
Trớc song chẳng quản trăng soi bang
Nhắn nhủ hoa mai tự chủ trơng
Ông xanh, ông xanh sao phủ phàng.
Lời hát của nhân vật chất chứa nỗi đau vô hạn. Vốn là một nữ học sĩ ở
Long Cung, lấy chàng Thúc Ng nhng tai ơng bỗng từ đâu ập đến, Ngoạ Vân
phải lộ thân phận để cứu gia đình chồng và phải vĩnh viễn lìa xa họ. Ngời đọc
cảm nhận đợc nỗi đau đớn khôn cùng của nhân vật trong lời thơ. Đó là nỗi đau
của một ngời sắp phải rời xa chồng, lìa xa hạnh phúc mà lâu nay mình đã đắp
xây.
Nội tâm nhân vật không chỉ đợc thể hiện trong đoạn thơ, lời hát mà còn
đợc biểu hiện qua những bài phú, bài văn tế do nhân vật làm nh bài phú trong
truyện Ngời trần ở thuỷ phủ, Gặp tiên ở hồ Lãng Bạc Qua những bài thơ, bài
phú ngời đọc phần nào nắm bắt đợc nội tâm của nhân vật trong tác phẩm.
Cũng giống nh Thánh Tông di thảo, các nhân vật trong Truyền kì mạn
lục cũng hay làm thơ, từ, phú, văn tế để thể hiện nội tâm của mình. Trong
những bài thơ, từ này ta thấy nội tâm nhân vật hiện lên vô cùng sống động mà
11
ngôn ngữ văn xuôi không có đợc. Nhân vật Trọng Quỳ trong Chuyện ngời
nghĩa phụ ở Khoái Châu đã phạm phải nhiều lỗi lầm khiến vợ chàng phải tự
tử. Đau đớn và hối hận, chàng đã làm một bài văn tế để bày tỏ nỗi lòng mình:
Hỡi ôi nơng tử
Khuê nghi đáng bậc
Hiền đức vẹn mời
Tinh thần nhã đạm
Dáng điệu xinh tơi
Khi về với ta
Vợ chồng thân thiết
Ai biết giữa đờng
Phút nên li biệt
Cha làm quan xa
Ta theo hầu hạ
Trải sáu năm d
Bặt tin nhạ cá
Buồng xuân trớng lạnh
Hạc oán vợn sầu
Than ôi đờng trớc
Gieo neo đến đâu
Bên giời góc bể
Nệm khách lẻ loi
Tin nhà chợt đến
Ngựa về quất roi
Sắt cầm dìu dặt
Lại gắn keo loan
Vừa vui sum họp
Phút bỗng lìa tan
Ta sao bạc quá
Nàng đáng thơng thay
Nói năng gì nữa
Đã đến thế này
Hoa bay trớc viện
Quế rụng giữa trời
Phù dung ủ rũ
Dơng liễu tả tơi
Phong cảnh còn đây
12
Ngời đã xa chơi
Lấy gì độ em?
Một lễ lên chùa
Duyên sau đền bù
Non mòn bể cạn
Mối hận khôn khuây
Hỡi ôi nơng tử
Hâm hởng thế này.
Lời lẽ trong bài văn tế thể hiện sự xót đau vô cùng của Trọng Quỳ.
Chàng vừa ca ngợi đức hạnh của vợ mình vừa biểu thị sự hối hận, sự ăn năn về
tội lỗi .
Trong Chuyện Thuý Tiêu, các nhân vật khi không thể nói bằng ngôn
ngữ bình thờng những suy nghĩ, những cảm xúc của mình, nỗi lòng của mình
cũng đã dùng thơ để gửi dòng tâm sự tới ngời yêu. Chàng D Nhuận Chi viết:
Kiệu qua dới liễu hôm nào
Vội vàng chẳng kịp đa trao một lời
Trông ai nớc mắt thầm rơi
Tấc gang bỗng cách đôi nơi mịt mùng
Cửa hầu sâu thẳm nghìn trùng
Sớm hôm khách những riêng lòng ngẩn ngơ
Tình xa kể đến bao giờ
Cảm sầu mọi mối nh tơ rối bời
Thơ ngâm nhớ bữa tiệc mời
Giọng ca lanh lảnh để ngời nh say
Cung đàn nào đã so dây
Giai nhân bỗng đợc trao tay rớc về
Tình sâu cha kịp giãi giề
Bắc nam vội đã chia lìa khá thơng
Chim hồng buồn bã kêu sơng
Mây tần thăm thẳm xa buông tối mù
Ngời nơng trớng gấm êm ru
Ngời ôm một mảnh chăn cù giá đông
Ham vui nệm tía màu hang
Biết chăng kẻ chốn th phòng thơng đau
Ma tờng dế vách hoạ nhau
Nhạn tan khóc sớm, địch sầu thổi khuya
Lặng ngồi gấp sách ủ ê
13
Lòng này cảnh ấy khuây đi đợc nào
Côn Nô, Hứa Tuấn nơi nào
Tìm hơng trả bích còn ao ớc gì
Mảnh tiên viết gửi trao đi
Đau thơng kể nỗi vân vi với ngời.
Lời thơ chứa đựng nỗi buồn đau. Buồn vì phải chia li với ngời mình
yêu. Nàng Thuý Tiêu khi bắt đợc th cũng đau xót vô cùng, nàng làm một bài
thơ gửi lại trong đó chất chứa bao nỗi niềm:
Thiếp xa con gái gái nhà nghèo
Lớn lên ca xớng học theo bạn thầy
Phong lu quen thú Hà Tây
Cha tờng án Mạnh ngang mày nh ai
Tiệc hoa một bữa khuyên mời
Mối manh duyên khéo an bài tự đau
Tràng Khanh cha gảy phợng cầu
Mến tài Đỗ Mục bởi câu hoa đờng
Duyên kim phận cải xe vơng
Những mừng giây sắn đợc nơng bóng tùng
Thiên Thai một cuộc kì phùng
Thú vui lửa đợm hơng nồng cha bao
Chơng Đài cành liễu nghiêng chao
Biệt li mang nặng biết bao oán ssầu
Duyên may hoá rủi ngờ đau
Ngậm hờn nuốt tủi chịu rầu cho xong
Bẽ bàng đổi khác t dong
Tóc xanh biếng chải, môi hồng biếng tô
Thơng xuân vách phấn đèn lu
Trông gơng ngấn lệ mơ hồ ngại soi
Tiện hồng th mới tới nơi
Chia loan càng xót xa đời biệt li
Liễu Hàn tạm bẻ vin đi
Nhng châu Hợp Phố phải về quận xa
Nỗi lòng trăm mối tơ vò
Th dài đến mấy vẫn cha hết lời..
Dờng nh nàng đang dốc cạn nỗi lòng cùng ngời yêu, mong muốn ngời
yêu hiểu thấu nỗi lòng của mình, hiểu cho hoàn cảnh của nàng.
14
Nh vậy, cả Thánh Tông di thảo và Truyền kì mạn lục đều có điểm tơng
đồng trong miêu tả nội tâm nhân vật đó là dùng ngôn ngữ của nhân vật để bộc
lộ nội tâm, đồng thời dùng thơ, văn, từ, phú để lột tả nội tâm nhân vật. Phơng
thức xây dựng nhân vật thông qua miêu tả nội tâm là phơng thức chủ yếu đợc các
tác giả văn học hiện đại sử dụng để xây dựng các nhân vật trong tác phẩm của
mình. Ta biết rằng, nhân vật trong các tác phẩm văn học trớc Thánh Tông di
thảo và Truyền kì mạn lục chủ yếu đợc miêu tả chủ yếu thông qua hành động
chứ ít đợc miêu tả nội tâm. Điều này cho thấy sự tiến bộ của hai tác giả Lê Thánh
Tông và Nguyễn Dữ trong nghệ thuật xây dựng nhân vật theo đúng đặc trng
của văn chơng.
1.2.1.3. Xây dựng nhân vật bằng yếu tố kì
Yếu tố kì ảo vốn đợc sử dụng rộng rãi trong nhiều tác phẩm văn xuôi tự
sự thời trung đại. Yếu tố kì ảo là sản phẩm của lối t duy trung đại, đợc các nhà
văn mặc nhiên thừa nhận là một phơng diện nghệ thuật có tính đặc thù. Theo
quan niệm truyền thống, văn chơng muốn đi xa phải đợc chắp đôi cánh của
cái kì, cái lạ. Nghê Trác nói: vô truyền bất kì, vô kì bất truyền. Trong loại
hình văn xuôi trung đại, yếu tố kì ảo đóng một vai trò quan trọng trong việc tổ
chức cũng nh tạo cho tác phẩm cái vẻ riêng, hấp dẫn, có một sức mê hoặc kì
lạ.
Trong truyện truyền kì, đặc điểm lớn nhất chi phối các đặc điểm khác là
tính chất khác lạ của ngời, sự vật, hiện tợng đợc phản ánh. Ngời xa gọi đó là
tính chất kì (thần kì, quái dị). Xa nay trong các định nghĩa tiêu biểu về thể
loại không thể thiếu chữ này. Đây đợc xem là thể văn thuật kì chí dị (thuật
điều kì lạ, ghi chép sự khác thờng- Lăng Vân Hàn), kì văn dị sự (văn lạ,việc
lạ) phi kì bất truyền (không kì lạ thì không lu truyền). Có nhiều thủ pháp để
tạo ra cái kì, tựu trung là xoá nhoà ranh giới mà con ngời định ra, thay đổi
những tính chất của sự vật, hiện tợng vẫn đợc hình dung theo lẽ phải thông thờng với các quan hệ đợc mô phỏng từ cõi trần. Ví dụ, trong truyện truyền kì,
nhân vật có thể sống ở thuỷ cung (Chuyện ngời con gái Nam Xơng) hay sống ở
âm phủ Chuyện chức phán sự đền Tản Viên) hoặc tiên giới (Chuyện Từ Thức
lấy vợ tiên).
Trong truyện truyền kì con ngời có khả năng giao tiếp với thế giới siêu
nhiên, một thế giới thiên hình vạn trạng, phổ biến nhất là ma quỷ. Các tác giả
quỷ vật giả thác dĩ tác hiếu kì (lấy ma quỷ để gợi tính hiếu kì). Cỏ cây,
muông thú, ma quỷ và thần linh đều đợc nhân hoá, sự nhân hoá này có khi có
cả ở phần xác lẫn phần hồn, hoặc chỉ ở phần hồn. Thế giới phi nhân đó hoặc
15
hoà hợp hoặc đối địch với con ngời làm nên bức tranh cuộc sống đặc thù. Hiện
trạng này kết quả tổng hoà của nhiều nhân tố: t duy khoa học cha phát triển,
thế giới quan của các tôn giáo, sự trởng thành của ý thức thẩm mĩ và t duy
nghệ thuật
Cho đến nay, nhiều ngời cho rằng Thánh Tông di thảo là tác phẩm mở
đầu cho truyện truyền kì ở nớc ta, Truyền kì mạn lục là tác phẩm đạt đỉnh cao
của truyện truyền kì Việt Nam. ở cả hai tác phẩm này đều sử dụng phổ biến
yếu tố kì để xây dựng nhân vật. Yếu tố kì tạo nên sức hấp dẫn cho câu
chuyện, với cách xây dựng nên nhân vật theo con đờng riêng, nhuốm màu sắc
h ảo, thần kì làm nên vẻ đẹp nội tại cho câu chuyện. Sự có mặt của yếu tố kì
và vai trò tích cực của nó đối với việc xây dựng nhân vật là bản chất của truyện
truyền kì. Các nhân vật trong hai tác phẩm phần lớn đều là những nhân vật mang
màu sắc kì lạ, h ảo. Sử dụng yếu tố kì để xây dựng nhân vật, các tác giả đã tạo
nên cho các nhân vật của mình một đời sống riêng.
Nhân vật Ngọa Vân ở Truyện lạ nhà thuyền chài đợc Lê Thánh Tông
thể hiện bằng yếu tố kì lạ. Nàng là nữ học sỹ ở Long cung, gặp chàng Thúc
Ng con ông thuyền chài và kết duyên cùng chàng. Ngọa Vân sống ở nhà
chồng đúng đạo làm dâu, là ngời vợ hiền đảm đang nh một ngời thờng. Tai
họa ập đến: nớc biển dâng to, chỗ nào cây nớc đổ xuống là làng nớc sạch
nhẵn. Dù có mọc lông mọc cánh cũng không bay ra khỏi nớc đợc. Tác giả
đã sáng tạo ra chi tiết thần kì: trớc tình hình nguy bách quá, Ngọa Vân vội
giơ tay bắt quyết, hô to một tiếng: Biến tức thì nàng hoá ra một con cá to, độ
dài ngàn thớc, mình ớc lớn tới khoảng ba quầng, nằm chắn chỗ ngọn nuớc tràn
vào. Vợ chồng ông chài và Thúc Ng vin ngay vào cá trèo lên. Nhờ có Ngoạ
Vân biến thành cá mà cả nhà ông chài cứu thoát khỏi cơn nguy nan. Đặc biệt
là chi tiết kì ảo: Ngoạ Vân từ biệt gia đình ông thuyền chài và hoá rồng, theo
phơng tây Bắc bay đi, cho thấy tấm lòng của nhân vật Ngọa Vân đối với gia
đình thuyền chài. Nàng đã không tiếc tính mạng của mình, sẵn sàng làm lộ
thiên cơ mặc dù biết mình sẽ vĩnh viễn mất đi hạnh phúc để cứu gia đình
chồng. Lê Thánh Tông đã sáng tạo ra chi tiết thần kì để tô đậm thêm nét đẹp
trong tâm hồn nhân vật.
Vũ Thị Thiết trong Chuyện ngời con gái Nam Xơng là hình tợng ngời phụ
nữ đợc tác giả Nguyễn Dữ xây dựng rất thành công. Nàng là ngời phụ nữ thuỳ
mị, nết na lại thêm t dung tốt đẹp, thuỷ chung với chồng, hiếu thảo với mẹ
chồng, thơng yêu con. Chừng ấy đức tính tốt đẹp những tởng nàng có cuộc sống
hạnh phúc, nào ngờ đâu số phận bi kịch. Vũ Nơng đã tự tử để chứng minh tấm
16
lòng trinh bạch, thuỷ chung của mình. Tình tiết này có ý nghĩa khắc hoạ vẻ đẹp
nhân phẩm của nàng, vì lòng tự trọng thà chết oan uổng chứ không chịu đợc sự
nhục mạ, ruồng rẫy của ngời chồng cạn nghĩ, hay ghen tuông. Vũ Nơng là nhân
vật đợc xây dựng có số phận riêng với t cách con ngòi chịu trách nhiệm trớc
việc làm của mình. Nguyễn Dữ đã sử dụng yếu tố kì làm chất liệu xây dựng
nhân vật Vũ Nơng. Cuộc đời nàng không kết thúc ở việc tự tử, nàng đợc sống ở
thuỷ cung và hiện lên gặp chồng. Mặc dù không sống tiếp ở cõi trần nhng tình
tiết Vũ Nơng hiện lên gặp chồng từ cõi tiên minh chứng cho tấm lòng trinh
bạch của nàng. Tác giả đã sử dụng yếu tố kì nhằm mục đích gửi gắm vào tác
phẩm giấc mơ hạnh phúc. Vũ Nơng bất hạnh ở cõi trần nhng nàng sẽ về miền bất
bất tử. Sử dụng yếu tố kì làm phơng thức xây dựng nhân vật, nhà văn có cơ hội
khám phá thêm những nét mới trong tâm hồn nhân vật. Tấm lòng trong sáng của
Vũ Nơng nh viên ngọc không tì vết, toả sáng ở nơi không tồn tại bất công, oan
nghiệt nh xã hội nàng sống.
Các tác giả đã mợn những chi tiết, sự kiện mang màu sắc thần kì, h ảo
để xây dựng nhân vật. Những yếu tố kì ảo ấy mang màu sắc siêu nhiên, hoang
đờng, có phần xa lạ với truyền thống bất ngữ quái, lực, loạn, thần của nhà
nho. Để phục vụ cho sáng tác của mình, hai tác giả đã sử dụng yếu tố ấy một
cách có ý thức. Nhiều tình tiết ảnh hởng của thần linh chủ nghĩa, của Phật
giáo và của tín ngỡng dân gian. ở Thánh Tông di thảo và Truyền kì mạn lục,
thế giới ngời cùng tồn tại với thế giới thần, tình tiết thực lẫn tình tiết ảo, ngời
quan hệ với cả thần linh, ma quỷ. Các nhân vật nh yêu nữ (Yêu nữ Châu Mai),
Mộng Trang (Duyên lạ nớc Hoa) trong Thánh Tông di thảo và nhân vật Nhị
Khanh (Chuyện cây gạo), Hàn Than, Vô Kỉ (Chuyện nghiệp oan của Đào thị)
trong Truyền kì mạn lục đều đợc các tác giả xây dựng thông qua sử dụng yếu tố
kì. Việc sử dụng yếu tố kì vừa giúp cho hình tợng nhân vật thêm sinh động,
nhiều màu sắc vừa giúp cho câu chuyện tăng thêm phần lôi cuốn, hấp dẫn, khơi
gợi sự hiếu kì của ngời đọc đối với tác phẩm.
1.2.2. Lý giải sự tơng đồng
Thánh Tông di thảo và Truyền kì mạn lục là hai tác phẩm thuộc loại
hình văn học trung đại. Một trong những phơng thức xây dựng nhân vật phổ
biến của văn xuôi trung đại là giới thiệu đầy đủ về ngoại hình, tính tình, phẩm
chất của nhân vật ngay từ đầu tác phẩm để định hớng cho ngời đọc, gây ấn tợng đối với ngời đọc ngay từ đầu tác phẩm. Hai tác phẩm đều thuộc thể loại
truyện truyền kì cho nên việc sử dụng yếu tố kì để xây dựng nhân vật là một
tất yếu. Sử dụng yếu tố kì để xây dựng nhân vật, hai tác giả đã tạo nên cho
17
tác phẩm của mình sức hấp dẫn riêng. Nội tâm nhân vật là một trong những
phơng diện quan trọng của nhân vật mà bất kì tác giả nào khi sáng tạo cũng
cần chú ý đến. Lê Thánh Tông và Nguyễn Dữ là hai tác giả có tài trong việc
khám phá tâm hồn con ngời, bởi vậy, họ đã thể hiện nội tâm nhân vật trong tác
phẩm của mình một cách sinh động.
1.3. Những sự khác biệt trong phơng thức xây dựng nhân vật của
hai tác phẩm
1.3.1. Biểu hiện của sự khác biệt
Bên cạnh những điểm tơng đồng về phơng thức xây dựng nhân vật thì
nhân vật trong Thánh Tông di thảo và Truyền kì mạn lục có nhiều điểm khác
biệt làm nên hai phong cách khác nhau của hai tác giả.
1.3.1.1. Nhân vật trong Thánh Tông di thảo thờng mang tính phiếm chỉ
còn nhân vật trong Truyền kì mạn lục tất cả đều đợc miêu tả cụ thể
Khảo sát nhân vật của hai tác phẩm chúng tôi thấy có một điểm khác biệt lớn
và dễ nhận thấy. Nhân vật trong Thánh Tông di thảo, ngoài một số có tên riêng còn
lại chủ yếu là phiếm chỉ hoặc tên các loài vật . Ta có thể thấy rõ qua bảng sau:
TT
Tên tác phẩm
Nhân vật
1
Yêu nữ Châu Mai
Ng Nơng, Lơng Nhân
2
Bài kí dong dõi con thiềm thừ
Cóc, ếch
3
Hai Phật cãi nhau
Phật gỗ, Phật đất
4
Truyện ngời hành khất giàu
Ngời hành khất
5
Truyện hai gái thần
Ngời đàn bà có tuổi, cô gái trẻ
6
Phả kí sơn quân
Sơn quân
7
Bức th của con muỗi
Muỗi đồng, muỗi nhà
8
Duyên lạ nớc Hoa
Chu sinh, Mộng Trang, Quốc mẫu
9
Phụ lục: Truyện con tằm vàng
Tằm vàng
10
Trận cời núi Vũ Môn
Lê Thánh Tông, cua, ếch, lơn, chạch,
cá rô, tôm, cá chép, Ngọc Hoàng
11
Ông bà thuyền chài, Ngoạ Vân,
Truỵên lạ nhà thuyền chài
Thúc Ng
12
Lê Thánh Tông, anh điếc, anh mù
Lời phán xử cho anh điếc và
anh mù
13
Sơn thần, Thuỷ thần, Ngọc Hoàng,
Ngọc nữ về tay chân chủ
18
con ngời
14
Hai thần hiếu đễ
Nguyễn Tử Khanh, các thần
15
Truyện chồng dê
Cô gái, ngời chồng dê
16
Ngời trần ở thuỷ phủ
Ngời học trò, vợ học trò, tớng quân
dới âm phủ
17
Gặp tiên ở hồ Lãng Bạc
Lê Thánh Tông, tiên thổi địch
18
Bài kí một giấc mộng
Lê Thánh Tông, yêu khí cây chuông
và cây đàn
19
Truyện tinh chuột
Anh chồng, chị vợ, tinh con chuột
20
Một dòng chữ lấy đợc gái thần
Anh đồ, cô gái thần
Quan sát bảng thống kê này ta thấy, trừ một số truyện nhân vật có tên
cụ thể nh Hai thần hiếu đễ, Yêu nữ Châu Mai còn đa số các truyện còn lại
các nhân vật trong đó đều hoặc không có tên cụ thể hoặc có tên nhng chỉ là
phiếm chỉ hoặc nhân vật chính là các con vật. Chẳng hạn, tên hai nhân vật
Thúc Ng và Ngoạ Vân trong Truyện lạ nhà thuyền chài mang tính phiếm chỉ.
Tên hai nhân vật Thúc Ng và Ngoạ Vân mang những ý nghĩa nhất định, nó có
liên quan nhất định đến nội dung cốt truyện chứ không phải là ngẫu nhiên.
Hai vợ chồng nhà thuyền chài do sáu mơi tuổi mới sinh hạ đợc một đứa con
trai mà hôm đứa bé sinh lại đánh đợc một con cá mè to nên đặt tên là Thúc
Ng. Còn Ngọa Vân có nghĩa là cỡi mây. Cuối truyện Ngọa Vân hoá rồng bay
theo phơng Bắc bay đi.
Những truyện còn lại, tên các nhân vật chung chung, phiếm chỉ. Ví nh,
ngời đàn bà goá (Truyện ngời hành khất giàu), ngời đàn bà có tuổi và ngời đàn
bà trẻ tuổi (Truyện hai gái thần), anh đồ, cô gái thần (Một dòng chữ lấy đợc
gái thần), ngời học trò, vợ ngời học trò (Ngời trần ở thuỷ phủ) Có một số
truyện viết về loài vật tên nhân vật trong truyện là các con vật nh: muỗi đồng,
muỗi nhà (Bức th của con muỗi), cua, ếch, lơn, tôm, cá ( Trận cời núi Vũ
Môn)
19
Khác với Thánh Tông di thảo, trong Truyền kì mạn lục tất cả các nhân
vật chính đều là những nhân vật có tên tuổi cụ thể, không có nhân vật nào
phiếm chỉ cả. Đó là Hồ Tông Thốc, Hạng Vơng (Câu chuyện ở đền Hạng Vơng), là Nhị Khanh, Trình Trung Ngộ (Chuyện cây gạo), là Hà Nhân, Đào,
Liễu (Cuộc hội ngộ ở trại Tây), Thuý Tiêu, Lệ Nơng, Phạm Tử H, Đào Hàn
Than, Vô Kỉ Những nhân vật này có thể là những nhân vật lịch sử, cũng có
thể là những hồn ma, một ngời bình thờng hay là tinh loài vật biến thành nhng tất cả họ đều có lai lịch, họ tên rất cụ thể, rõ ràng.
Sự khác nhau này giữa hai tác phẩm Thánh Tông di thảo và Truyền kì
mạn lục là sự khác nhau trên bề mặt mà ta dễ nhận ra. Nó cũng là một phơng
diện để ta khẳng định đến Truyền kì mạn lục nhân vật đợc cá thể hoá hơn.
1.3.1.2. Nhân vật trong Thánh Tông di thảo có nội tâm đơn giản hơn
nhân vật trong Truyền kì mạn lục
Xây dựng nhân vật thông qua miêu tả nội tâm là một trong những điểm
gặp gỡ cơ bản giữa Thánh Tông di thảo và Truyền kì mạn lục. Tuy nhiên, trong
sự giống nhau đó vẫn có những điểm khác nhau lớn giữa hai phong cách tác
giả. Nội tâm nhân vật là một phơng diện quan trọng mà khi khám phá bất kì
một tác phẩm văn học nào ta cũng phải lu tâm.Thế giới nội tâm con ngời
phong phú và phức tạp không dễ nhận biết đợc ngay từ đầu. So sánh nhân vật
giữa Thánh Tông di thảo và Truyền kì mạn lục chúng tôi nhận thấy có một sự
khác biệt là nội tâm nhân vật trong Thánh Tông di thảo đợc miêu tả còn đơn
giản hơn rất nhiều so với nội tâm của nhân vật trong Truyền kì mạn lục.
Thánh Tông di thảo có mời chín truyện nhng một phần ba trong số đó
không phải là truyện truyền kì. Trong những tác phẩm không phải là truyện
truyền kì thì các nhân vật chính chủ yếu là con vật nh các truyện Bài kí dòng
dõi con thiềm thừ, Bức th của con muỗi Bởi vậy, trong các truyện này nhân
vật không đợc tác giả chú ý xây dựng ở phơng diện nội tâm mà chủ yếu đợc
miêu tả qua các sự kiện và hành động. ở một số bài có tính chất tạp kí nh Gặp
20
tiên ở hồ Lãng bạc, Bài kí một giấc mộng tác giả chủ yếu ca ngợi cảnh đất nớc thịnh vợng, thái bình của thời đại. Các truyện mang tính chất truyền kì, nhà
văn cũng chú trọng đến phơng diện nội tâm của nhân vật, song không đợc
miêu tả sâu sắc nh trong Truyền kì mạn lục. ở truyện Hai Phật cãi nhau tác
giả tái hiện lại nội dung cuộc cãi nhau giữa tợng Phật gỗ và tợng Phật đất để
tranh giành ngôi thứ, nội tâm nhân vật không đợc thể hiện rõ. ở truyện Duyên
lạ nớc Hoa, Chu sinh là nhân vật chính trong truyện nhng lại ít đợc miêu tả về
những cảm xúc, suy nghĩ . Nhân vật chủ yếu đợc tác giả miêu tả qua những sự
kiện diễn ra trong cuộc đời. Trong truyện có nhân vật Quốc mẫu và Mộng
Trang là đợc tác giả chú ý khắc họa nội tâm nhng cũng không nhiều và không
sâu sắc nh nhân vật trong Truyền kì mạn lục.
Nếu nh chúng ta đối sánh nhân vật trong Thánh Tông di thảo và Truyền
kì mạn lục về mặt nội tâm thì thấy nội tâm của nhân vật Truyền kì mạn lục
phong phú và phức tạp hơn nhiều. Bằng tài năng của mình, Nguyễn Dữ đã
khắc họa nội tâm nhân vật rất thành công. Hà Nhân (trong Cuộc hội ngộ ở trại
Tây) là học trò theo học cụ ức Trai. Hàng ngày đi học gặp cô Đào, cô Liễu rồi
cùng hai cô vui vầy, tình tứ. Đào, Liễu thực ra cũng chỉ là những tinh thực vật
biến thành nhng cũng đợc tác giả miêu rất kĩ về nội tâm. Chỉ vì có một lần Hà
Nhân kéo Liễu vào lòng mà ấp ủ, đùa bảo rằng:
- Vẻ kiều diễm của em Liễu thật là tột bậc, có thể xứng đáng với câu thơ
cổ: Mĩ nhân nhan sắc đẹp nh hoa, mà Đào lặng lẽ cúi đầu có dáng hổ thẹn,
rồi từ đấy luôn trong mấy hôm không đến. Khi Hà Nhân hỏi Liễu mới biết
chỉ vì chàng khen Liễu đẹp mà không khen Đào làm Đào xấu hổ không dám
đến và gửi tặng Hà Nhân một bài thơ:
Băng sơng cốt cách tuyết tinh thần
Nhị mới cành mềm đã xứng cân
Khá trách Đông Hoàng thiên vị lắm
Một cành bỏ héo một cành xuân.
21
Hà Nhân buồn rầu hồi lâu rồi làm thơ họa lại, từ đó Đào lại đi lại nh trớc. Chỉ
là tinh thực vật biến thành nhng hai nhân vật Đào, Liễu có những suy nghĩ,
tình cảm phức tạp.
Nhân vật Lệ Nơng và Phật Sinh trong Chuyện Lệ Nơng cũng đợc nhà
văn khắc họa nội tâm sâu sắc. Lệ Nơng và Phật Sinh từ nhỏ đã chơi thân với
nhau và đợc hai gia đình đính ớc từ lâu. Nhng lớn lên Lệ Nơng bị bắt vào
cung, trớc khi vào cung nàng để lại cho Phật Sinh một bức th. Th viết:
Thiếp nghe:
Trời có âm dơng, đạo trời mới đủ
Ngời có chồng vợ, đạo ngời mới thành
Đôi ta vì đâu?
Lỡ làng đến vậy
Tâm tình buổi trớc, đã kết mối dây!
Li biệt ngày nay, bao khuây nguồn cảm
Bóng trớc lầu đã rụng
Xuân trong viện đành giam
Những e, gơng ly loan bóng múa hững hờ
Đàn Biệt hạc tiếng vang ai oán
Thành xuân trời tối, liễu lả cành dới ngọn đông phong
Ngòi ngự nớc trôi, ruột đứt khúc bao ngời cung nữ
Luống những mạch sầu đợt đợt
Sóng lệ trùng trùng
Nguồn xa tan nát nghĩ mà đau
Kiếp ấy lỡ làng sinh cũng uổng
Ước Liễu thị mong gì hảo hội
Duyên Ngọc Tiêu đâu chắc tái sinh
Xin chàng trân trọng lấymình
Liệu kết nhân duyên chốn khác
Đừng vì tình một buổi
Để lỡ kế trăm năm
Man mác nỗi lòng
Th khôn xiết tả
Cha biết ý chàng
Trớc xin bày tỏ.
22
Lời lẽ trong th bày tỏ một nỗi lòng đau xót khi phải biệt li. Không đợc ở
cùng nhau nàng mong muốn ngời mình yêu sẽ đợc hạnh phúc, không vì nàng mà
lỡ duyên trăm năm. Phật Sinh đau đớn vô cùng, quyết tâm đi tìm Lệ Nơng. Khi
gặp nhau thì Lệ Nơng đã chết nhng hồn nàng đã hiện về để gặp Phật Sinh vợ
chồng cùng nhau âu yếm trò chuyện y nh lúc sống. Sinh nói:
Nàng đã không may, vậy anh đem linh thấn về, khỏi uổng một chuyến
đi không lại trở về rồi.
Lệ Nơng nói: thiếp rất cảm tấm thân tình ấy. Song thiếp cùng hai vị mĩ
nhân gần gụi lâu ngày, giao tình thân mật, không nỡ một sớm bỏ đi. Phơng chi
chốn này nớc non trong sáng, mây khói vật vờ, thần yên phách yên, bất tất
phiền chàng. Mặc dù rất yêu chàng Phật Sinh nhng không nỡ để hai ngời con
gái đã chết cùng nàng ở lại một mình nên nàng đã không để Phật Sinh mang
linh thấn về. Còn Phật Sinh vì yêu Lệ Nơng nên sau này không lấy ai nữa.
Thật là một tấm lòng hiếm có.
Nguyễn Dữ là một tác giả tài năng, khi xây dựng nhân vật ông không
đơn thuần tái hiện lại đời sống nhân vật qua những cử chỉ, hành động, sự kiện
diễn ra trong cuộc đời nhân vật mà quan trọng hơn đó là ông đã có sự đi sâu
vào tái hiện nội tâm nhân vật, để cho nhân vật phơi bày nội tâm. Các nhân vật
Đào Hàn Than (Chuyện nghiệp oan của Đào thị), Nhị Khanh (Chuyện cây
gạo), Nhị Khanh (Chuyện ngời nghĩa phụ ở Khoái Châu)đều là những nhân
vật đợc nhà văn chú ý khắc họa nội tâm rất đậm nét. Những suy nghĩ, tâm t,
tình cảm, nỗi lòng của nhân vật đợc nhà văn thể hiện rất thành công, bộc lộ
một tài năng đặc biệt trong việc miêu tả tâm hồn con ngời.
1.3.1.3. Trong Thánh Tông di thảo không phải truyện nào cũng có nhân vật
kì ảo trong khi đó tất cả các truyện trong Truyền kì mạn lục đều có nhân vật kì ảo
Trong Thánh Tông di thảo có mời chín truyện, tuy nhiên không phải tất
cả các truyện đều là truyện truyền kì mà chỉ 13/19 truyện là truyện truyền kì.
Bởi vậy, cũng không phải truyện nào cũng xuất hiện nhân vật kì ảo. Ta có thể
theo dõi qua bảng thống kê sau:
23
TT
Tên tác phẩm
1
Yêu nữ Châu Mai
2
3
Bài kí dòng dõi con thiềm thừ
Hai phật cãi nhau
4
5
6
7
Truyện ngời hành khất giàu
Truyện hai gái thần
Phả kí sơn quân
Bức th của con muỗi
8
Duyên lạ nớc Hoa
9
Trận cời núi Vũ Môn
10
Truyện lạ nhà thuyền chài
11
Lời phán xử cho anh điếc
và anh mù
Ngọc nữ về tay chân chủ
Hai thần hiếu đễ
Truyện chồng dê
Ngời trần ở thuỷ phủ
12
13
14
15
16
17
18
19
20
Nhân vật
Thực
Lê Thánh Tông,
chủ nhà hát
Cóc, ếch
Lê Thánh Tông
Ngời đàn bà goá
Nhà nho già
Con hổ
Muỗi đồng, muỗi
nhà
Chu sinh, vợ chồng
ngời chú
ếch, lơn, trạch,
tôm, cá chép
Thúc Ng, ông bà
thuyền chài
Lê Thánh Tông,
anh điếc, anh mù
Con ngời
Nguyễn Tử Khanh
Cô gái
Học trò và ngời vợ
Kì ảo
Yêu nữ ( Ng
Nơng), Lơng Nhân
Tợng Phật gỗ, tợng
Phật đất, Phật Thích Ca
Hai cô gái thần
Mộng Trang, Quốc
mẫu
Ngoạ Vân
Sơn thần, Thuỷ thần
Anh trai Tử Khanh
Ngời chồng dê
Tớng quân dới âm
phủ
Lê Thánh Tông
Tiên thổi địch
Gặp tiên ở hồ Lãng Bạc
Lê Thánh Tông
Yêu khí cây đàn và
Bài kí một giấcmộng
cây chuông
Anh học trò, ngời vợ Tinh con chuột
Truyện tinh chuột
Cô gái thần
Một dòng chữ lấy đợc gái thần Anh đồ
Tằm vàng
Phụ lục:truyện con tằm vàng
24
Theo dõi bảng thống kê trên về nhân vật Thánh Tông di thảo và đối
sánh với nhân vật trong Truyền kì mạn lục thì ta thấy có sự khác biệt. Trong
Thánh Tông di thảo có một số truyện tác giả viết nhằm mục đích ngụ ngôn
cho nên không cần sự xuất hiện của lực lợng thần kì, chẳng hạn nh các truyện
Bức th của con muỗi, Lời phán xử cho anh điếc và anh mù, Bài kí dòng dõi
con thiềm thừ Ngợc lại, Truyền kì mạn lục gồm 20 truyện và tất cả đều là
truyện truyền kì. Ngay tên gọi của tập truyện Truyền kì mạn lục (ghi chép tản
mạn những truyện kì lạ) cũng nói lên điều đó. Truyền kì mạn lục đã mang đầy
đủ đặc điểm của thể loại truyện truyền kì. Vì thế, ở tất cả các truyện ta đều có
thể thấy nhân vật kì ảo. Sự xuất hiện của nhân vật kì ảo làm tăng thêm tính lôi
cuốn, hấp dẫn cho câu chuyện.
1.3.2. Lý giải sự khác biệt
Nếu làm một phép so sánh chúng ta thấy rằng, nhân vật trong Truyền kì
mạn lục đợc sáng tạo bởi một nghệ thuật điêu luyện và công phu hơn rất nhiều
so với Thánh Tông di thảo. Hiện nay, ngời ta coi Thánh Tông di thảo là tác
phẩm mở đầu cho thể loại truyện truyền kì còn Truyền kì mạn lục là tác phẩm
đạt đến trình độ đỉnh cao của thể loại truyện truyền kì Việt Nam. Do là tác
phẩm mở đầu nên Thánh Tông di thảo còn có sự pha trộn giữa những truyện
mang tính chất truyền kì và những truyện mang tính chất ngụ ngôn, tạp kí.
Cũng chính bởi thế nên các nhân vật trong tác phẩm đợc xây dựng còn đơn
giản hơn về ngoại hình và nội tâm. Mặt khác, tác phẩm ra đời trong thời kì văn
học viết còn chịu sự chi phối của văn học dân gian.Văn học viết thời kì
Nguyễn Dữ sống và sáng tác vẫn còn chịu nhiều ảnh hởng của văn học dân
gian, tuy nhiên, nó không chịu sự tác động mạnh mẽ nh văn học trớc đó. Bản
chất tác phẩm là thể loại truyện truyền kì cho nên trong các truyện của
Truyền kì mạn lục đều xuất hiện các nhân vật kì ảo. Nguyễn Dữ cũng là một
tài năng văn học, ông rất chú trọng xây dựng nhân vật của mình nhất là phơng
diện nội tâm. Đó chính là một phần làm nên thành công của tác phẩm.
25