1
Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh
--------------
NGUYễN THị THủy
Phong cách thơ
tản đà
Chuyên ngành: văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34
Luận văn thạc sĩ ngữ văn
Vinh - 2009
2
Mở ĐầU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Vào những năm hai mơi của thế kỷ XX trên thi đàn Việt Nam, xuất
hiện một hiện tợng độc đáo và phức tạp: Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Tản Đà
xuất hiện trong một giai đoạn đầy biến động - cũ mới giao nhau, á Âu xáo trộn.
Con ngời và sự nghiệp của Tản Đà mang đậm dấu ấn của thời đại ấy. Việc tìm
hiểu về tác giả là một nhu cầu thiết yếu, lâu dài trong lịch sử văn học.
1.2. Tản Đà để lại cho nền văn học nớc nhà một khối lợng tác phẩm lớn, với
nhiều thể loại: thơ, văn, kịch, tiểu thuyết, dịch thuật với nội dung phong phú, sâu
sắc, mỗi thể loại đều có lối đi riêng biệt, tuy nhiên thơ vẫn là lĩnh vực độc đáo
hơn cả, thể hiện rõ một phong cách thơ độc đáo. Nhng phong cách thơ Tản Đà là
gì? Có thể nói, cho đến nay, câu hỏi này vẫn cha có lời đáp thoả đáng.
1.3. Tản Đà là tác giả có một vị trí quan trọng trong lịch sử văn học dân tộc.
Ông là ngời có tính chất chuyển tiếp, vạch nối của hai thời đại văn học trung đại
và hiện đại. Ông đã thổi một cơn gió lạ vào tâm hồn ngời Việt lúc bấy giờ.
Ông đã làm bật nứt một cái tôi trong văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX. Trong
thơ mình ông đã khẳng định một cái tôi độc đáo với những nét ngông, mộng, đa
tình, xê dịch... Thơ văn Tản Đà cũng chính là cuộc đời ông - chất liệu thơ ca đợc
chắt lọc từ cuộc sống bản thân, nét độc đáo trong phong cách của Tản Đà cũng
bởi cá tính mà nhà thơ biểu hiện, gửi gắm, đó là một tâm hồn thi sĩ, một tâm
hồn dệt bằng tất cả màu sắc của núi, sông, hoa cỏ, bằng chua cay mặn chát của
thế tình, bằng tất cả mộng đẹp của yêu đơng, bằng tất cả nhạc điệu. Cuộc đời,
thơ văn Tản Đà đã hấp dẫn bao thế hệ bạn đọc, thu hút giới nghiên cứu văn học.
Việc tìm hiểu vấn đề phong cách nghệ thuật của thơ ông một cách hệ thống,
khoa học sẽ phục vụ cho việc dạy - học Tản Đà trong nhà trờng đợc tốt hơn, trớc
hết là cho tác giả luận văn.
1.4. Tản Đà cũng là tác giả mà bản thân thấy tâm đắc.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
3
2.1. Lịch sử nghiên cứu về Tản Đà nói chung
2.1.1. Lịch sử nghiên cứu về Tản Đà đã có ngót gần một thế kỷ với
những bớc thăng, trầm
Lịch trình nghiên cứu về Tản Đà đã đợc Nguyễn Đức Mậu khái quát trong
cuốn Tản Đà về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2003. Ta có thể thấy
rõ ở hiện tợng độc đáo này đợc nghiên cứu với những bớc thăng trầm.
Năm 1916 Tản Đà bớc vào làng văn với Khối tình con đã gây đợc sử ảnh hởng mạnh mẽ mà Phạm Quỳnh cho là đã Dựng ra một văn phái mới, Quốc
dân nhiều ngời cổ võ bởi ông đã đem đến giọng mới, ý lạ. Nhng khi Giấc
mộng con của ông xuất hiện thì lại bị chính Phạm Quỳnh phê phán Không
những có ích mà còn có hại, là đánh thuốc độc cho cả nớc, là phạm tội diệt
chủng... và Nguyễn Văn Ngọc không cho đó là văn chơng. Lúc bấy giờ họ chỉ
quan tâm đến văn có ích (văn luân lý, giáo huấn).
Khi Thơ mới xuất hiện, nhiều nhà thơ muốn Thơ mới thắng thế đã công
kích Tản Đà, Lu Trọng L khinh mạn Nàng thơ ấm Hiếu mũi thò lò.
Đến 1939, sau khi Tản Đà mất, giới nghiên cứu mới nhìn nhận đúng
đóng góp của Tản Đà, đề cao ông, khẳng định đóng góp của Tản Đà cho văn học
hiện đại. Xuân Diệu cho rằng Tản Đà là ngời mở đầu cho thơ Việt Nam hiện
đại, dám có một cái tôi, dám cho trái tim và linh hồn đợc có quyền sống cái đời
riêng của chúng. Lu Trọng L, Nguyễn Tuân, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan,
Khái Hng đã viết chân dung Tản Đà với cá tính ngang tàng, phóng túng, tài hoa,
dị thờng.
Năm 1942, Hoài Thanh, Hoài Chân, Vũ Ngọc Phan, Dơng Quảng Hàm đều
ghi nhận giá trị và giới hạn của Tản Đà. Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam
nhận xét: Tản Đà là ngời của hai thế kỷ, đã dạo những bản đàn mở đầu cho một
cuộc hoà nhạc tân kỳ đơng sắp sửa, cái sầu, khát vọng thoát ra ngoài khuôn sáo
cũng đợc tác giả khẳng định.
Năm 1974, trong cuốn Giáo trình văn học Việt Nam giai đoạn giao thời
1900 -1930, Trần Đình Hợu đặt Tản Đà vào giai đoạn giao thời Đông - Tây, giải
quyết các vấn đề yêu nớc, giai cấp, t tởng cải lơng đặt ra trớc đó.
4
Cuối những năm 70, 80, Tản Đà không đợc bàn thêm trên báo chí. Năm
1983, Xuân Diệu khẳng định công của thi sĩ Tản Đà đó là đã đa cái tôi cá nhân
vào văn học. Năm 1984, trong Từ điển văn học tập II, xuất bản năm 1984,
Nguyễn Huệ Chi khẳng định Tản Đà là một hiện tợng độc đáo, đột xuất, là một
cây bút phóng khoáng, một nhà thơ giao tiếp giữa hai thế hệ cổ điển và Thơ mới.
Năm 1988, kỷ niệm 100 năm sinh Tản Đà, khoa Văn Đại học Tổng hợp
hội thảo khoa học đã có thêm những tác giả mới đến với Tản Đà, quan tâm nhiều
mặt hơn nh các thể loại, quan niệm, vị trí của Tản Đà.
Năm 1989, hội nghị khoa học về Tản Đà do Viện văn học tổ chức tại Hà
Nội đã mở rộng sự quan tâm hơn về Tản Đà. Tại đây nhiều vấn đề đợc đặt ra, đợc xem xét lại và đợc giải quyết sâu hơn.
2.1.2. Các chặng đờng nghiên cứu về Tản Đà với những thành công và
hạn chế
Tản Đà đã đợc giới nghiên cứu và công chúng quan tâm, tuy nhiên ở những
chặng đờng khác nhau có những thành công và hạn chế.
Từ 1954 đến 1975, các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm đến văn chơng và
vị trí thi sĩ Tản Đà với nền văn học Việt Nam hiện đại. ở miền Nam xuất hiện
nhiều chuyên luận, chuyên khảo nh: Tản Đà thực và mộng; Luận đề về Tản Đà,
khảo luận về Tản Đà Ngoài ra, hằng năm đều có các bài viết về Tản Đà in
trên các báo. ở các công trình đó khẳng định đóng góp của Tản Đà ở cái Tôi, cá
tính và t tởng Tản Đà. Các khía cạnh của hình thức đợc bình phẩm phân tích,
nhất là ở phơng diện câu và từ. ở Việt Nam văn học giảng bình nói về Tản Đà
ngông, u hoài, đa sầu
Bên cạnh các chuyên luận, khảo luận mang tính thao tác nghiên cứu, phần
lớn các bài phê bình mang tính chất chủ quan. Hệ thống lập luận, chứng minh ở
đôi bài viết không đủ sức nặng, bảo đảm cho những nhận định nghiêng về cảm
thụ. Bên cạnh các bài viết nhìn nhận đúng đóng góp của Tản Đà thì cũng có các
bài viết có cái nhìn cha thoả đáng về con ngời, sự nghiệp của ông.
2.2. Lịch sử nghiên cứu thơ và phong cách thơ Tản Đà
2.2.1. Về thơ Tản Đà
5
Thơ Tản Đà đã đợc quan tâm, nghiên cứu nhiều. Có thể kể các công trình
tiêu biểu nh: Tản Đà thơ và đời của Nguyễn Khắc Xơng; Cung chiêu anh hồn
Tản Đà của Hoài Thanh - Hoài Chân; Công của thi sĩ Tản Đà của Xuân Diệu;
Cái hay của thơ Tản Đà của Trơng Tửu; Tính dân tộc, hiện đại truyền thống và
cách tân qua nhà thơ Tản Đà của Trần Ngọc Vơng; Nhà thơ lãng mạn của Phạm
Thế Ngũ. Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu của Trần Đình Hợu, Lê Chí Dũng; Tản
Đà- một văn nho tài tử và lãng mạn, một nhà thơ giữa hai thế kỷ của Phạm Văn
Diêu; Nghệ thuật thơ văn Tản Đà của Nguyễn Đình Chú, Viết về Tản Đà của
Huỳnh Phan Anh
các phơng diện của thơ Tản Đà đã đợc giới nghiên cứu đề cập đó là: Vị trí
của Tản Đà trong lịch sử văn học dân tộc: Tản Đà mở đầu cho thơ Việt Nam
hiện đại, dám có cá tính, dám có một cái tôi(Xuân Diệu); tính chất giao thời của
Tản Đà; dựng lên chân dung Tản Đà, Tản Đà bộc lộ chân dung nh ngông, đa
tình, xê dịch, mộng, sầu. Lê Chí Dũng chú ý đến: Thể loại trong sáng tác của
Tản Đà hứng thú của thi sĩ núi Tản sông Đà hớng vào phong thi, hát nói, ca lý,
xẩm, hát giặm đò, vào các bài thơ Đờng luật; thể loại ông tự đặt ra nh thơ tự do;
ngôn ngữ dân tộc; giọng điệu trữ tình, Tính hiện đại và truyền thống, những cách
tân qua thơ Tản Đà, phong cách dân gian ở thơ ông
Nhìn chung, giới nghiên cứu đều đánh giá cao về thơ Tản Đà : là ngời của
hai thế kỷ, mở đầu cho thơ hiện đại, đóng góp một cái tôi độc đáo cho văn học,
khẳng định Tản Đà tiếp thu truyền thống thơ ca dân tộc và cách tân cho thơ, là
nhà thơ có phong cách riêng.
2.2.2. Về phong cách thơ Tản Đà
Phong cách thơ Tản Đà là gì? - Cho đến nay vấn đề này vẫn còn nhiều bỏ
ngỏ. Cha có công trình nào tập trung tìm hiểu vấn đề này.
2.3. Có thể nói luận văn này là công trình tập trung tìm hiểu phong cách thơ
Tản Đà với cái nhìn hệ thống.
3. Đối tợng nghiên cứuvà phạm vi, giới hạn của đề tài
3.1. Đối tợng
Phong cách thơ Tản Đà.
6
3.2. Phạm vi, giới hạn của đề tài
Luận văn khảo sát toàn bộ thơ Tản Đà, các thể loại khác của nhà thơ chỉ là
đối tợng để tham chiếu.
Tài liệu mà luận văn lựa chọn khảo sát là các văn bản của Tản Đà đợc tập
hợp trong: Tản Đà toàn tập (5 tập) do tác giả Nguyễn Khắc Xơng su tầm, biên
soạn và giới thiệu, Nxb Văn học, Hà Nội, 2002.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
4.1. Phân tích, tìm hiểu, xác định những cơ sở hình thành phong cách thơ
Tản Đà.
4.2. Xác định t tởng và cái nhìn nghệ thuật của Tản Đà, xem đây nh là yếu
tố tiên quyết trong sự hình thành phong cách thơ Tản Đà.
4.3. Tìm hiểu, phân tích, xác định đặc điểm của phong cách thơ Tản Đà trên
phơng diện bút pháp, giọng điệu và ngôn ngữ.
Cuối cùng rút ra một số kết luận về phong cách thơ Tản Đà.
5. Phơng pháp nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề này luận văn sử dụng nhiều phơng pháp khác nhau,
trong đó có những phơng pháp chính: Phơng pháp thống kê - phân loại, phơng
pháp phân tích - tổng hợp, phơng pháp so sánh - loại hình, phơng pháp cấu trúc hệ thống.
6. Đóng góp và cấu trúc của luận văn
6.1. Đóng góp
Luận văn là công trình tập trung tìm hiểu, xác định phong cách thơ Tản Đà
với cái nhìn hệ thống.
Kết quả của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc dạy học,
tìm hiểu, nghiên cứu thơ Tản Đà.
6.2. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, nội dung chính của luận văn gồm 3 chơng:
Chơng 1. Hiện tợng Tản Đà trong lịch sử thơ ca Việt Nam và sự hình thành
phong cách thơ Tản Đà
Chơng 2. T tởng nghệ thuật và cái nhìn của Tản Đà về con ngời và thế giới
7
Chơng 3. Bút pháp, giọng điệu và ngôn ngữ thơ Tản Đà
Chơng 1
hiện tợng tản đà trong lịch sử thơ ca việt nam
và sự hình thành một phong cách thơ
8
1.1. Hiện tợng Tản Đà trong lịch sử thơ ca Việt Nam
1.1.1. Tản Đà - con ngời, cuộc đời và thơ
Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu (1889 - 1939), sinh tại làng Khê Thợng, huyện Bất Bạt, Tỉnh Sơn Tây, một làng nhỏ bên Sông Đà, cách núi Tản
Viên 10 km. Chính dòng sông, ngọn núi ấy đã khơi nguồn, theo suốt văn nghiệp
ông.
Sinh trởng trong nền học vấn nho gia của gia đình, đợc ảnh hởng của thân
mẫu có học thức, hát hay, thơ giỏi, hơn thế nữa lại đợc hai ngời anh cùng cha
khác mẹ là Nguyễn Tái Tích và Nguyễn Mạn đều thuộc vào loại thời danh nuôi
nấng là điều kiện tốt để Tản Đà phát triển tài năng. Ông đã mang trong mình hy
vọng tiến sĩ, đại khoa để kế chí phụ huynh.
Tản Đà là ngời học giỏi nhng thi cử gặp nhiều trở ngại. Năm 1912, ông lều
chõng đi thi nhng đến ngày xem bảng, bảng không tên. Theo ông sự thất bại đó
là bởi có sự vênh nhau giữa tài năng của ông không hợp với khuôn mẫu quan trờng, đó là do sự hỏi mẹo bẩn thỉu, và cho rằng:
Bởi ông hay quá ông không đỗ
Không đỗ ông càng tốt bộ ngông.
(Tự trào)
Chí lớn không thành, hy vọng tiến sĩ đại khoa nhng mộng ớc đó của ông đã
thất bại. Sự học của ông lại có quan hệ với tình duyên. Trong thời gian học ở Trờng Quy Thức, cậu ấm Hiếu có mối tình đầu với cô gái họ Đỗ ở phố hàng Bồ là
ngời nhan sắc, dịu dàng, lễ phép, biết chữ Nho và và chữ Quốc ngữ (nàng muốn
xe duyên cùng cử nhân, tri huyện). Tản Đà càng hăm hở học hành để toại
nguyện đôi đờng. Nhng khi thất bại trong công danh cũng là lúc Tản Đà đau xót
chứng kiến cảnh ngời đẹp lên xe hoa. Rồi tiếp đến ông lại có các mối tình khác
(mối tình thứ hai, là mối tình đẹp nhng tuyệt vọng, mối tình thứ ba là yêu cô đào
hát, đợc sản sinh dới ánh đèn sân khấu, mối tình thứ t là với ngời con gái ở Vĩnh
Yên). Nhiều mối tình nhng có lẽ mối tình đầu vẫn là sự đeo đẳng trong cuộc đời
ông, ảnh hởng đến cách nhìn đời và văn chơng của ông.
Tản Đà là ngời đã tự nhận về mình cái trách nhiệm là gánh cái tài tình của
cặp tài tử giai nhân của thân mẫu và thân phụ ông để lại.
9
Gặp cảnh gia đình éo le từ nhỏ, mất bố từ năm lên ba, bốn tuổi thì mẹ trở về
quê cũ với nợ lầu hồng với tiếng cời câu hát, Tản Đà cho là không chính đáng
nên u uất, buồn rầu. Điều này trở thành nỗi đau tê tái trong suốt cuộc đời ông.
Tình duyên trắc trở, tình mẫu tử bị chia lìa từ tấm bé, thất chí, thất tình, đã để lại
nỗi buồn đau này bàng bạc trong sáng tác của Tản Đà.
Lớn lên gặp cảnh Thực dân Pháp đặt ách cai trị, đô hộ, giày xéo đất nớc,
Tản Đà nhận thấy giang sơn gấm vóc nay chỉ còn là mảnh bản đồ rách Sao đến
bây giờ rách tả tơi. Tản Đà vốn đa sầu đa cảm: Đêm trờng tôi đứng ngồi sầu
thảm. ở ông đeo đẳng một nỗi sầu, tơng t, buồn chán, mơ mộng, khao khát tình
cảm, khát khao tri kỷ.
ông cố quên nỗi buồn, tìm đến vùng sơn cớc, rồi tế Chiêu Quân:
ái ân thôi có ngần này,
Thề nguyền non nớc đợi ngày tái sanh.
Thất vọng, Nguyễn Khắc Hiếu đến ở nhà anh rể Nguyễn Thiện Kế sống nhng đợc anh khuyên nhủ đọc Tân th ở nhà họ Bạch, tiên sinh đã có sự thay đổi
trong suy nghĩ, bắt đầu một lý tởng mới, từ bỏ con đờng cử nghiệp.
Một trang sử mới mở ra, Tản Đà bắt đầu cới vợ, sinh con, phải lăn lộn nuôi
sống vợ con và dùng văn thơ để mu sinh.
Tản Đà viết báo, hợp tác với tờ Đông Dơng tạp chí, viết tuồng, viết văn
xuôi, thơ... Ông vào Nam ra Bắc, xoay đủ nghề để kiếm sống, thế nhng rồi: Cái
nghèo khôn xiết, cái lo khôn cùng.
Và ông vẫn lấy điều đó để mà tự trào:
Ngời ta hơn tớ cái phong lu
Tớ cũng hơn ai cái sự nghèo.
(Sự nghèo)
Nghèo nhng Tản Đà vẫn theo đuổi sự nghiệp văn chơng, dù việc viết văn
gặp nhiều khó khăn, đồng tiền có hạn, đồng lơng eo hẹp, thu không đủ chi, lo
văn ế... Ông viết thuê vở chèo ở các rạp hát rồi xoay ra nghề viết báo, mở báo
kiếm ăn. Làm báo, ông lại không đủ phơng tiện làm một ông chủ báo, không thể
10
đủ trang trải để điều khiển một tờ báo cho đợc hoàn bị. An Nam tạp chí mở ra
rồi đóng lại, cái khó bó cái khôn, ông phải lăn lộn:
Chốn ba đào phong vũ vẫn cời reo
Thuyền một lái một chèo ai với nớc.
(Cảm hoài ANTC lại ra đời)
Tản Đà tâm sự Việc đáng vài ba nghìn làm đợc ở mình thời nếu chỉ có
một trăm là đủ làm mà không thể nào có, ở đời thật có những lúc đáng buồn
Giấc mộng lớn. Nghề báo không nuôi sống đợc làng văn, gia đình đông ngời,
cuộc sống của tiên sinh càng thêm túng quẫn:
Quanh năm gạo chịu tiền vay
Vợ chồng lo tính hôm này hôm mai.
(Cảnh vui nhà nghèo)
Cuộc sống tạm bợ, nay đây mai đó, một túp lều trú chân cũng không yên ổn:
Nhà ở thuê chật hẹp quanh co
Tạm yên đủ ấm vừa no
Cái buồn khôn xiết cái lo khôn cùng.
(Cảnh vui nhà nghèo)
Ông đã phải kêu lên với trời rằng Trần gian thớc đất cũng không có. Lại
còn nợ nần, lãi suất ảnh hởng đến hứng thú sáng tác Bây giờ nhà xiêu vách nát vợ
đói con rét, dễ anh ngồi sao yên; Hết tháng ba qua tháng chín, bao nhiêu cái lo
phiền khốn nhục (Gửi ngời tri âm). Nghèo túng lại còn thuê mớn, gặp bọn chủ
nhà in bóc lột, một ớc mơ thật bình dị nhng đối với ông vẫn chỉ là mơ:
Ước sao tháng tháng sẵn tiền
Tiền nhà cứ tháng ta liền đóng ngay.
Rồi ra thơ nghĩ mới hay
Tri âm ai đó mới say vì tình.
(Ngẫu hứng)
Ông viết về cái nghèo của mình một cách thành thực, cay đắng. Dẫu nghèo,
Tản Đà vẫn không chịu cấu kết với bọn phản quốc, không chịu bợ đỡ Tây, không
luồn cúi, dựa dẫm. Tản Đà nghèo nhng thanh bạch. Ông luôn trăn trở về thiên lơng về vận mệnh của đất nớc. Ông dồn hết tâm lực vào văn chơng, sáng tác
không chỉ vì lẽ mu sinh mà là lẽ sống Tuy nó là cái nghề bạc bẽo nhng phải
11
thành tâm với nó thì mới đợc. Có thành tâm với nghề thì mới thành nghề đợc.
Bây giờ đi buôn gỗ lãi ngay tiền vạn, Hiếu đây cũng không buôn, bổ đi làm tổng
đốc lơng tháng bốn trăm, Hiếu đây cũng không làm, Hiếu chỉ phụng sự nghề văn
mà thôi (Lâm tuyền khách - một tháng với Tản Đà. Ngày nay số 17). Ông
không bận tâm đến cách lập thân khác giữa xã hội ba đào.
Cuộc đời của Tản Đà là cuộc đời của một con ngời sinh ra trong gia đình
dòng dõi nhng lại ít gặp may mắn, tình duyên không toại nguyện, cái tài không
đợc khẳng định nhng ở ông vẫn giữ đợc khí tiết của một con ngời thanh cao, bản
lĩnh, phóng túng .
Trong xã hội thực dân nửa phong kiến lúc này, nền khoa học hiện đại đang
phát triển, xã hội đang đô thị hoá, những sinh hoạt của nền văn học hiện đại
đang từng bớc hình thành, công chúng đã đợc mở rộng, nhất là ở thành thị, điều
kiện in ấn, xuất bản thay đổi... tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà văn chú tâm
vào việc sáng tác văn chơng, cho phép các nhà văn lựa chọn sáng tác văn chơng
làm sự nghiệp chính của đời mình. Làm văn cũng giống nghề nghiệp, nó cũng
giống nh bao nghề khác, nó đã cứu sống đợc cho các nhà Nho đang ở giai đoạn
thất thế trong đó có Tản Đà. Gia đình trông chờ vào ngọn bút của ông. Tản Đà từ
một nhà Nho tài tử đã ra thành thị viết văn để kiếm sống.
Ông để lại một gia tài văn học phong phú, khối lợng tác phẩm đồ sộ với
nhiều thể loại, thơ, văn xuôi, dịch thuật, tuồng, chèo, chú giải truyện Kiều, viết
báo. ở thể loại nào Tản Đà cũng đạt đợc những thành tựu nhất định.
Nhận xét về văn nghiệp Tản Đà, Xuân Diệu cho rằng Phải đọc kỹ lại văn
xuôi của ông mới hiểu hết bản lĩnh của ông. Văn tài của Tản Đà phát tiết nhiều
nhất trong thơ ông. Thơ ca là lĩnh vực đa ông lên vị trí chói rực trên thi đàn Việt
Nam đầu thế kỷ. Ông là ngời đi tiên phong trong việc phá bỏ những rào chắn của
văn học trung đại, mở đờng cho văn học hiện đại phát triển. Trong sáng tác của
mình, Tản Đà đã thể hiện cái tôi bản lĩnh, lãng mạn, cái ngông riêng.
Ông để lại một khối lợng thơ lớn, đa dạng về thể loại, có thể loại vay mợn
Trung Hoa nh thơ tứ tuyệt, thất ngôn bát cú Đờng luật, thơ trờng thiên..., một số
lợng khá lớn viết theo thể thơ dân tộc nh hát nói, lục bát, song thất lục bát, và
một số bài không định thể.
12
Ông vừa đa thể thơ dân tộc lên đỉnh cao, vừa là ngời mạnh dạn có những
cách tân, phá vỡ dần tính quy phạm, chọn thể loại ít gò bó, dùng ít điển tích điển
cố, có những bài thơ hình thức cũ nhng nội dung, ý tởng mới lạ phù hợp với tâm
lý, thị hiếu chung của thời đại nh Tơng t, Nhớ mộng...Thơ Tản Đà thể hiện rõ
một cái tôi đa tình, cái tôi xê dịch và cái tôi ngông và tập trung nhất ở cái tôi đa
tình. ở đây ông luôn cảm thấy cô đơn, sầu, khát khao giao cảm, muốn giải sầu,
muốn lấp chỗ trống của tâm hồn bằng tình cảm của ngời tri kỷ, nhng ngời tri kỷ
hợp với Tản Đà lại là ngời phụ nữ, ngời đẹp. Lấy tình cảm luyến ái làm thứ thuốc
tiêu sầu, Tản Đà nhìn tri kỷ bằng tình yêu nam nữ, ở ông điều đó hình nh thành
một thứ lăng kính để nhìn thế giới.
Với thể thơ dân tộc Tản Đà đã thu hút đợc sự chú ý ở ngời đọc bởi nó đã thể
hiện đợc một giọng nói dịu dàng, trong trẻo, nhẹ nhàng, có duyên, một tấm lòng
chân thành, một hồn thơ đằm thắm.
ở những bài thơ không định thể, hình thức thơ tự do và gần với những bài
thơ mới nh: Cảm thu, Tiễn thu, Tống biệt.
Ông cũng thành công trong thể thơ dịch. ở đây, Tản Đà đã thể hiện đợc ý tởng , nội dung nguyên tác vừa thể hiện đợc cái hồn dân tộc vừa thể hiện đợc cái
riêng độc đáo của một nhà thơ tài năng (nh dịch Hoàng Hạc Lâu, thơ của Thôi
Hiệu, một nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc).
Nhìn chung thơ Tản Đà dù ở thể loại nào cũng thể hiện một phong cách
riêng, một hồn thơ độc đáo. ở đó hiển diện một cái tôi riêng, một chân dung của
con ngời mang một nỗi buồn thấm thía trớc cảnh tang thơng của đất nớc, sự phức
tạp của xã hội ba đào, của một con ngời đa tài đa tình, nhạy cảm với mọi biến
thái của xã hội đang trong sự chuyển mình - xã hội giao thời. ở xã hội đó ông
quan tâm đến mọi kiếp ngời bất hạnh đặc biệt là số phận những con ngời tài tử,
giai nhân với lòng cảm thông chia sẻ... và ông đã chọn cho mình một cách viết
riêng với thể loại, giọng điệu phù hợp với cái ý tởng của mình.
Tiếp xúc với cuộc đời, thân thế, cá tính của Tản Đà, có nhà nghiên cứu cho
rằng con ngời Tản Đà là bài thơ hay nhất trong sự nghiệp Tản Đà.
13
Đến với văn nghiệp Tản Đà ta hiểu đợc con ngời ông Một tâm hồn thi sĩ,
một tâm hồn dệt bằng tất cả màu sắc của núi, sông, hoa, cỏ, bằng chua cay, mặn
chát của thế tình, bằng tất cả mộng đẹp của yêu đơng, bằng tất cả nhạc điệu
[64, 44].
1.1.2. Tản Đà Ngời của hai thế kỷ , Nhà nho tài tử trong xã hội t sản
Tản Đà là tác giả khá đặc biệt của văn học Việt Nam. ông là ngời mang sắc
màu của hai thời đại. Ông vừa là quá khứ vừa là hiện đại, vừa cổ học, vừa tân
học, là một nhà nho mà cũng là một tiểu t sản thị dân [24, 62]. Tản Đà đã
làmbật nứt cái tôi của chủ nghĩa lãng mạn với cái buồn, cái sầu, cái mộng, cái
đa tình với nhiều màu sắc. Sáng tác của ông vừa cổ điển vừa hiện đại. Nó vừa
tải đạo nh việc giáo dục thiên lơng, nó mang dáng dấp của các nhà nho, lại
chứa đựng những nét tân kỳ hấp dẫn .
Thấm sâu về truyền thống gia đình, sự đào tạo của Nho giáo với đạo lý
Khổng - Mạnh, vốn Hán học phong phú, Tản Đà ớc mơ làm ngời học trò
Khổng Phu Tử ở á Đông suốt đời day dứt về việc trời giao đem thiên luơng của
nhân loại xuống thuật cho đời hay, ông muốn có cái đời dài gấp 3,4 đời ngời
thờng và cái số tiền nh tiền của chính phủ để truyền bá Khổng học, và sửa đổi
những khuôn vàng thớc ngọc của nho giáo. Tản Đà quan niệm: Thiên hạ hữu
đạo tắc hiện, vô đạo tắc hiện (Thiên hạ có đạo thì ra, thiên hạ không có đạo cũng
cứ ra làm việc với đời) Dụng chi tắc hành, xã chi bất tàng (Đời dùng thì đem ra
làm, đời bỏ cũng chẳng xếp lại). Ông yêu thích cuộc sống nhàn tản, cuộc sống
tao nhã, đạo nghĩa. Cũng xuất phát từ chỗ cho rằng tiêu chí của ngời quân tử là
lập đức, lập công và lập ngôn, Tản Đà dồn tâm huyết với sự nghiệp văn chơng.
Đó là sứ mệnh, sự nghiệp và cũng là thú bất tận của tiên sinh.
Ông lại lớn lên trong cơn bão táp của lịch sử, thực dân Pháp xâm lợc, cũ
mới giao nhau, á Âu xáo trộn, lại đợc học ở trờng Quy Thức do Pháp mở nên
Tản Đà ảnh hởng của hai nền văn hoá, văn học Đông Tây, truyền thống và hiện
đại.
Tản Đà thông thạo các thể loại văn học truyền thống, sáng tác theo tính quy
phạm nhng ông cũng đặt những bớc chân đầu tiên để mở ra một nền văn học
hiện đại đó là khẳng định bản ngã, viết về tình cảm riêng t sâu kín của chính
14
mình, góp phần mở đờng cho chủ nghĩa lãng mạn của văn học Việt Nam. Ông đã
sử dụng thể thơ không định thể, thể loại thơ cha có trong truyền thống, thích hợp
với những nội dung mới của thời đại.
ở Tản Đà có sự đan xen giữa ý thức hệ phong kiến và t sản, t tởng cũ và
mới, sáng tác của ông vừa ảnh hởng của Hán học vừa ảnh hởng của văn học phơng Tây nhng phần Hán học vẫn chủ yếu. Chính ông đã dạo những bản đàn mở
đầu cho cuộc hoà nhạc tân kỳ đơng sắp sửa (Hoài Thanh). Ông đợc xem là
Ngời của hai thế kỷ là nhà nho tài tử trong xã hội t sản.
Tản Đà đa tài, đa tình nhng khi cử tú không, rể cũng không, thất chí, thất
tình Tản Đà tìm đến những thú vui riêng nh sáng tác văn chơng, và thú xê dịch,
thú vui chơi, tìm đến thiên nhiên, sông núi:
Túi thơ đeo khắp ba kỳ
Lạ chi rừng biển thiếu gì gió trăng.
(Thú ăn chơi)
ở điểm này Tản Đà mang cốt cách của các nhà nho ẩn dật có màu sắc
phóng túng, vô vi của Lão Trang. Ông cũng là đồ đệ của Lu Linh, Lý Bạch về
thơ rợu:
Trăm năm thơ túi rợu vò
Nghìn năm thi sĩ tửu đồ là ai.
(Thơ rợu)
và có dáng dấp của Tú Xơng, Yên Đổ. ông yêu thích, ca tụng ông L Thoa, cuộc
chơi kỳ thú, những cuộc tình không bến đậu, mạnh dạn đa ra một cái tôi ngông
rất nhân bản.
Xã hội mà Tản Đà sống là xã hội giao thời. Phía trớc là sáng tác của các
nhà nho mang tính quy phạm riêng, trong sáng tác của họ có sự giống nhau giữa
đề tài, nội dung, phơng pháp sáng tác. Cũng có khi trong sáng tác của một tác
giả lại có sự khác nhau, cùng một tác giả lại sáng tác cả chữ Hán và chữ Nôm
nh Nguyễn Du, hay Cao Bá Quát sáng tác cả thơ chữ Hán và hát nói. Nhà nho
hành đạo gắn văn với đạo, lý (văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí), quan tâm đến chức
năng giáo hoá của văn học. Nhà nho ẩn dật có lối sống tự do tự tại, họ muốn
thoát khỏi sự ràng buộc khắt khe của xã hội phong kiến và Nho giáo, nhng cách
15
xử thế của họ cũng dựa trên Đạo, vẫn hợp với thánh hiền. ẩn dật hay hành đạo
thì vẫn là sự thống nhất trong mỗi ngời, nó không phải là sự đối lập. Lại có một
mẫu nhà nho đối lập với hai mẫu nhà nho trên đó là nhà nho tài tử. Họ xem tài và
tình làm nên giá trị của con ngời. Tản Đà là ngời thuộc mẫu nhà nho này.
Xuất thân từ một nhà nho, đợc đào tạo trong nhà trờng Khổng học, con đờng mà Tản Đà lựa chọn cũng là học hành - thi cử - đỗ đạt - làm quan. Ông đèn
sách đi thi nhng hỏng thi ở Nam Định, thi vào trờng Hậu bổ cũng trợt vấn đáp.
Thất bại ở khoa cử, cay cú bởi không đợc kế chí phụ huynh, và lại liên quan đến
tình duyênn hng Tản Đà vẫn tự hào về văn chơng của mình: Xuống ngọn bút ma sa gió táp, Vạch câu thơ quỷ thảm thần kinh. Mặc đầu thi hỏng nhng đối với
ông đó là điều kiện khách quan, do xã hội, do chế độ thi cử, do không hợp thời,
còn bản thân ông vẫn tự xem hơn ngời là có tài:
Vùng đất Sơn Tây này một ông
Tuổi chửa bao nhiêu văn rất hùng.
Sông Đà núi Tản ai hun đúc
Bút thánh câu thần sớm vãi vung.
(Tự trào)
Bất mãn với thực tại, ông trở nên ngông nghênh với đời, thách thức với
đời.
Ông có những giấc mộng lên tiên thoát khỏi cảnh trần gian tù túng, gò bó,
không có ngời tri kỷ, mơ lên hầu trời và đợc:
Trời lại phê cho Văn thật tuyệt,
Văn trần nh thế chắc có ít.
(Hầu trời)
ông muốn có sự nghiệp để xứng với tài năng, thế nhng xã hội không cho
ông thực hiện mộng khoa cử, chế độ thi cử không hợp với ngời phóng túng nh
ông:
Bởi ông hay quá ông không đỗ
Không đỗ ông càng tốt bộ ngông.
(Tự trào)
16
Ông muốn sống một cuộc sống tự do, tự tại, theo sở thích cá nhân. Trong
sinh hoạt đời thờng Tản Đà có lối sống riêng khiến có lúc ngời ta thấy khó chịu.
Trong văn chơng, cách viết, nội dung cũng bộc lộ bản lĩnh của mình, muốn giải
phóng cá nhân, tình cảm trần thế. Thơ, rợu, những cuộc chơi kỳ thú là những thú
vui bất tận, là đề tài chính trong sáng tác của ông:
Chơi cho biết mặt sơn hà
Cho sơn hà biết ai là mặt chơi
(Chơi Huế)
Trớc Tản Đà đã có một loạt nhà nho tài tử nh Cao Bá Quát Uống mấy chung
lếu láo cho tiêu sầu, hay Nguyễn Công Trứ:
Thú gì hơn nữa thú ăn chơi
Chi giàu khó sang hèn là phận cả
Đủ lếu láo với ngời thiên hạ
Tính đã quen đài các bấy lâu
Đan một cung, cờ một cuộc, thơ một túi, rợu một bầu
Khi đắc chí phiêu du ờ cũng phải.
(Thích ngao du)
Nhng ở Nguyễn Công Trứ dù dõng dạc tuyên bố về công danh, sự nghiệp,
ăn chơi, hởng lạc, nhàn tản... thì cuối cùng ông vẫn thực hiện Nghĩa vua tôi cho
vẹn đạo sơ chung . Cái thú đó ở Tản Đà lại có nét độc đáo riêng. Cái ngông của
trích tiên, cái ngông không phá phách. Cái chơi cũng đợc ông miêu tả tỉ mỉ
vào thơ văn Thú ăn chơi, Còn chơi...
Ông lại tự nhận mình là ngời đa tình, cái tình của ông cũng riêng, ông đề
vào thơ:
Ngời đâu cũng giống đa tình,
Ngỡ là ai, lại là mình với ta.
(Nói chuyện với ảnh)
Trong cuộc sống ông cũng nặng lòng với mối tình không thành, mộng
thành danh để kết duyên cùng ngời đẹp tan vỡ đã khiến ông vô cùng thất vọng:
Vì ai cho tớ phải lênh đênh
Nặng lắm ai ơi một gánh tình.
17
(Chơi Hoà Bình)
Trong sự nghiệp ông đã dành nhiều trang viết cho cái tình, nhìn sự vật hiện
tợng qua lăng kính phong tình ân ái. Cái tình mà ông đem ra cũng qua cách nhìn
mới mẻ, của một con ngời phóng túng, muốn phá cách là tình yêu ngoài hôn
nhân, không bị ràng buộc bởi lễ giáo phong kiến:
Nhác thấy không đành mắt
Cho nên tiếc của đời.
()
Tôi thấy ngời ta sao lại nói:
Có chồng càng lại dễ hơn cha.
(Tiếc của đời)
Ông làm thơ Th đa ngời tình nhân không quen biết, Th lại trách ngời tình
nhân không quen biết, mơ về cuộc gặp gỡ với Tây Thi, Chiêu Quân...và cũng lần
đầu tiên trong văn chơng Việt Nam nói đến tình yêu ngoài hôn nhân và đối lập
với hôn nhân.
Tài tình, ông coi trọng, đề cao nó. Nó đã tạo nét riêng, khác biệt cho thơ
ông, nhng trong hoàn cảnh này nó có số phận ra sao?
Sống trong môi trờng thành thị t sản hoá, chủ nghĩa cá nhân có mảnh đất
phát triển. Nhng cũng ở đây đồng tiền là thớc đo của các giá trị. Đối với Tản Đà
thì giá trị lại ở thiên lơng. Thị hiếu thẩm mỹ của công chúng khác trớc, kinh tế
và mọi điều kiện thay đổi. Tản Đà cũng ôm mộng lập nghiệp bằng văn chơng:
Quyết đem bút sắt mà mài lòng son (Xuân sầu). Dù sao tài tình của ông vẫn khó
đợc đối đãi tử tế nhng Tản Đà không kiêu ngạo thị tài nh Nguyễn Công Trứ và
Cao Bá Quát. Tuy đa tình nhng cũng không quá khó tính đến mức cố chấp [10,
174]. Cái ngông của Tản Đà cũng không đến nỗi phá phách nh các nhà nho tài tử
trong xã hội phong kiến mà cái ngông ấy cũng hiền lành hơn. Ông chỉ sống theo
sở thích riêng, mơ mộng về mỹ nhân, phóng túng, hởng lạc. Ông lên tiếng:
Rủ nhau quang gánh với đời
Mặc cho thiên hạ chê cời cũng hay.
Tản Đà sống bắt nhịp đợc với thời đại mới đó là coi trọng cái tôi cá nhân,
thế nhng không mang lối sống thực dụng, ích kỷ của lối sống t sản. Ông đồng
18
cảm, xót thơng cho những ngời tài tình nhng bất hạnh. Bài thơ Thăm mả cũ bên
đờng đã thể hiện rõ tâm sự đó. Ông cũng cho rằng: Trong cái sớng chung, thờng
lại có ngậm một chút luỵ, trong cái sớng cao cách thờng có ngậm một chút sầu.
Ông lại không nhập cuộc đợc với cuộc sống t sản. Ông vẫn giữ khí tiết
thanh cao, không để tài tình bị mua chuộc mặc dầu cuộc sống trăm bề khổ cực.
Nên trong tình hình đó cái tài và tình ông cũng phải cất lên rằng: Tài tình luỵ
lắm bạn tình ơi.
Đúng nh Trần Ngọc Vơng nhận xét: Nếu nh Tản Đà chỉ lặp lại những chủ
đề, đề tài, cũng nh sử dụng lại các thể loại, phong cách bút pháp ... của các nhà
Nho tài tử trớc đây thì đâu còn là nét riêng, nét độc đáo, mới lạ trong sáng tác
của Tản Đà nữa [64, 416].
Tóm lại, Tản Đà là một nhân vật khá đặc biệt, là con ngời của hai thế kỷ, là
nhà nho tài tử cuối cùng đã kế thừa các thành tựu của các nhà thơ tài tử Việt
Nam và kết thúc một kiểu tác giả của văn học thời kỳ giao thời mà mãi sau này
những năm 30 - 45 ta thấy tiếp nối nét tài tử ấy ở nhà văn Nguyễn Tuân.
1.1.3. Vị trí củaTản Đà trong lịch sử thơ ca dân tộc
Đối với lịch sử thơ ca Việt Nam, Tản Đà có một vị trí đặc biệt. Với tài năng
độc đáo ông để lại một khối lợng tác phẩm lớn, đạt đợc những thành tựu nhất
định trên nhiều thể loại. Đặc biệt văn chơng Tản Đà đã phản ánh đợc giai đoạn
giao thời - giai đoạn mà văn học Việt Nam đang chuyển mình để thay đổi từ
phạm trù văn học trung đại sang văn học hiện đại. Tản Đà chính là chiếc cầu nối
của hai thời đại văn học ấy.
Ông có tài về việc sử dụng các thể thơ ca dân tộc. Là ngời học trò đi thi,
Tản Đà am hiểu thơ văn phú lục, văn chơng chữ Hán, thông thạo ca trù, thơ song
thất lục bát, tuồng chèo, ca lý. Nhà thơ Xuân Diệu đánh giá Tản Đà là thi sĩ rất
An Nam. Ông lại là ngời mạnh dạn đặt những bớc chân đầu tiên mở đầu cho
một nền văn học hiện đại. Khi văn chơng quốc ngữ đang ở giai đoạn phôi thai,
bớc đầu tìm các cuộc thử nghiệm thì ngòi bút của ông đã xông xáo trên mọi lĩnh
vực... Ông sáng tác những bài thơ với những vần điệu phóng túng, ý tởng mới lạ,
trong bài Thơ mới ông khẳng định:
Nếu không phá cách vứt điệu luật
19
Khó cho thiên hạ đến bao giờ.
Từ những bứt phá đầu tiên đó ông đã ơm mầm cho thể thơ tự do sau này .
Đã có nhiều ý kiến bàn luận khác nhau nhng đều khẳng định về vấn đề ấy.
Ngô Tất Tố đánh giá về Tản Đà: Trong cái trang thi sĩ của cuốn Việt Nam
văn học sử này, dầu sao mặc lòng, ông Tản Đà vẫn là ngời đứng đầu của thời đại
này. Và điều làm cho ông có thể đứng đầu đó theo Xuân Diệu là Tản Đà là thi
sĩ đầu tiên mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại. Tản Đà là ngời thứ nhất đã có can
đảm làm thi sĩ một cách đờng hoàng, bạo dạn, dám giữ một bản ngã, dám có một
cái tôi. Nguyễn Tuân cũng cho rằng Trong chốn tài tình, Tản Đà xứng đáng
ngôi hội chủ... ai dám ngồi chung chiếu với Tản Đà... Không phải ngẫu nhiên
mà Hoài Thanh trong bài tổng luận về phong trào Thơ mới 1932 - 1945 đã cung
chiêu anh hồn Tản Đà và khẳng định Tản Đà là con ngời của hai thế kỷ, là ngời
dạo bản đàn mở đầu cho một cuộc hoà nhạc tân kỳ đơng sắp sửa. Tản Đà là nhà
nho trong xã hội t sản, nhà văn chuyên nghiệp đầu tiên xem văn chơng là một
nghề.
Tản Đà đã kết thúc một thế kỷ thơ ca trung đại, là ngời mở đầu cho thơ Việt
Nam hiện đại. Ông là ngời đã bắt đợc nhịp cầu truyền thống của thơ văn Nguyễn
Du, Phạm Thái, Hồ Xuân Hơng, Chu Mạnh Trinh, Tú xơng, với lớp sau nh Thế
Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Bích Khê, Hàn Mặc Tử... Hoài Thanh khẳng định Có
tiên sinh ngời ta sẽ thấy rõ chúng tôi không phải là những quái thai của thời đại,
những đứa thất cớc không có liên lạc với quá khứ giống nòi [50, 12].
Ông đã góp một tiếng nói riêng vào diễn đàn văn học đầu thế kỷ, vào tiến
trình lịch sử văn học Việt Nam một bản ngã, cái tôi cá nhân, đã cắm một cái
mốc cho bớc ngoặt tiến trình văn học (Nguyễn Khắc Xơng). Xuân Diệu cho
rằng: thi sĩ Tản Đà những chục năm đầu của thế kỷ 20 đã làm cái nắp xì hơi cho
xã hội, đã là ngời tiêu biểu nhất đa ra cái nỗi Buồn, cái Sầu của chủ nghĩa lãng
mạn, và đã đa ra bằng những văn thơ hay mà những thi sĩ cùng thời không ai bì
nổi.
Khi xã hội Việt Nam đang đi vào con đờng t sản hoá, ở Tản Đà mặc dầu
vẫn tồn tại trong mình dấu vết của nhà nho song đã mang dấu ấn của cái tôi tiểu
t sản. Ông đa vào thơ ca một hơi thở mới, nó là sự trỗi dậy của một thứ tình cảm
20
không chịu đựng đợc sự chật chội của khuôn khổ, muốn bộc bạch, phơi trải,
không giấu giếm mọi tâm tình. Đó là điều đã bắt nhịp đợc với bao tâm hồn của
thế hệ thanh niên lúc bấy giờ. Ông là ngời đầu tiên nói đến cái sầu của cá nhân
một cách thành thực, mạnh mẽ: Sầu không có mối, chém sao cho dứt. Sầu
không có khối đập sao cho tan.
Tản Đà đã nói lên đợc cái sầu bàng bạc trong đất trời, tiềm tàng trong tim
gan con ngời. Đó cũng chính là cái mầm của căn bệnh thế kỷ của phong trào
thơ mới sau này.
Tản Đà lại mạnh dạn nói đến cái tình một cách táo bạo so với văn học trung
đại. Ông cho rằng mình là kẻ đa tình, thuộc tình chủng. Gặp thất vọng trong
tình duyên, ông tìm đến ngời tình trong mộng, đó là những ngời đẹp, giai nhân
mỹ nữ. Đây là điều đã chi phối trong đề tài sáng tác, hình tợng nghệ thuật thơ
Tản Đà, tạo nên nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật thơ ông. Ông nói đến
tình yêu ngoài hôn nhân, nhìn tình yêu một cách phóng khoáng hơn so với các
nhà nho phong kiến: có nhớ mong, tơng t, giận hờn vô cớ. Đó là nhu cầu tình
cảm của bao thế hệ mà đến bây giờ mới đợc tìm sự đồng điệu trong thơ Tản Đà.
Sau này đề tài đó là đề tài tiểu biểu của thơ ca Việt Nam những năm 1930 1945, tiêu biểu nh ở ông hoàng thơ tình Xuân Diệu, hay ở những năm 80 với nữ
sĩ Xuân Quỳnh - tình yêu đợc thể hiện nồng nàn, cuồng nhiệt, dữ dội hơn.
Thơ Tản Đà viết về cái mộng, cái ngông, cái say một cách say sa. Đó chính
là thể hiện một cái tôi muốn khẳng định, muốn vợt thoát khỏi rào chắn của cái ta
phi ngã. Nh vậy Tản Đà chính là ngời mở màn cho trào lu lãng mạn của văn học
Việt Nam.
Với cá tính, cái tôi ấy Tản Đà sử dụng một cách thức thể hiện phù hợp, ông
vẫn sử dụng các thể thơ dân tộc và đã đem vào chất phóng túng gần với lối thơ
mới sau này. Chính Tản Đà là ngời đã dạo những bản đàn cho một cuộc hoà
nhạc tân kỳ đang sắp sửa (Hoài Thanh).
1.2. Sự hình thành phong cách thơ Tản Đà
1.2.1. Khái niệm phong cách và phong cách thơ
21
Phong cách (Style) là một trong những khái niệm đợc sử dụng rộng rãi, bàn
luận nhiều. Nét chung, nghĩa phổ quát của phong cách là chỉ cấu trúc với kiểu,
vẻ riêng, với những đặc trng khá ổn định, bền vững, mang tính độc đáo.
Trong văn học, khái niệm này đợc hiểu theo nhiều nghĩa nh phong cách tác
phẩm, phong cách tác giả, phong cách thể loại văn học, phong cách thời đại
Nó đợc dùng từ rất sớm, ngay từ thời cổ đại, ở phơng Tây với các đại biểu nh
Platon, sau đó là phơng Đông với đại biểu xuất sắc là Lu Hiệp. Cho đến thời kỳ
hiện đại khái niệm này là khái niệm trung tâm của nghiên cứu văn học.
Phong cách (tiếng Hi Lạp cổ: Stylos, tiếng La tinh: Stylus), từ chỗ đơn
nghĩa, chỉ dụng cụ viết, trong quan niệm của ngời Hi Lạp, La Mã đến chỗ phát
triển nghĩa, chỉ nét chữ, cách viết rồi bút pháp, văn phong bao hàm cả những đặc
điểm ngôn ngữ và văn thể mà ngời Pháp đã quan niệm (Style). Buffon cũng quan
niệm phong cách chính là bản thân con ngời, và chỉ có t tởng tạo nên phong
cách, phong cách chỉ là trật tự và sự vận động mà ngời ta đặt vào t tởng
Theo Từ điển thuật ngữ Văn học: Phong cách nghệ thuật là một phạm trù
thẩm mỹ, chỉ sự thống nhất tơng đối ổn định của hệ thống hình tợng của các phơng tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một
nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào lu văn học hay văn học dân tộc
phong cách là quy luật thống nhất các yếu tố của chỉnh thể nghệ thuật, là một
biểu hiện của tính nghệ thuật. Không phải bất cứ nhà văn nào cũng có phong
cách, chỉ những nhà văn tài năng, có bản lĩnh mới có đợc phong cách riêng độc
đáo. Cái nét riêng ấy thể hiện ở các tác phẩm và đợc lặp đi lặp lại trong nhiều tác
phẩm của nhà văn làm cho ta có thể nhận ra sự khác nhau giữa nhà văn này và
nhà văn khác.
Tác giả Biện Minh Điền trong cuốn Phong cách nghệ thuật Nguyễn
Khuyến khẳng định có sự gặp nhau ở nhiều ý kiến khi xác định phong cách đó
là: Phong cách là biểu hiện độc đáo của tài năng sáng tạo nghệ thuật, có tính
thống nhất và tơng đối ổn định, đợc lặp đi lặp lại trong nhiều tác phẩm của nhà
văn, thể hiện cái nhìn và sự chiếm lĩnh nghệ thuật độc đáo của nhà văn đối với
con ngời và thế giới [11, 38].
22
Chỉ có những nhà văn có tài năng, có bản lĩnh mới có phong cách riêng độc
đáo.
Nh vậy, nói đến phong cách là nói đến những đặc trng độc đáo có ý nghĩa
thẩm mỹ và mang tính quy luật, thể hiện qua sáng tác của nhà văn. Một nhà văn
có phong cách là nhà văn có t tởng nghệ thuật, cái nhìn riêng về con ngời và thế
giới, có bút pháp, giọng điệu và ngôn ngữ nghệ thuật riêng.
1.2.2. Cơ sở hình thành phong cách thơ Tản Đà
Nói đến phong cách thơ Tản Đà chúng ta cần tìm hiểu đến các yếu tố ảnh hởng quan trọng đó là thời đại mà ông sống, những truyền thống văn học dân tộc
và sự ảnh hởng của văn học phơng Tây để xác định nét thống nhất trong sự lựa
chọn của ông là gì.
Thời đại Tản Đà sống và sáng tác văn học là thời đại xã hội Việt Nam có
nhiều biến động lớn. Nớc Việt Nam cũng nh á Châu, Đông Nam á đang ở thời
kỳ đầu của quá trình Âu hoá. Thực dân Pháp khai thác thuộc địa, chế độ thực
dân nửa phong kiến đợc xác lập, với quan hệ sản xuất mới khác trớc: quan hệ sản
xuất t bản mang hình thức thuộc địa. Cơ cấu xã hội thay đổi, nhiều tầng lớp mới
xuất hiện (công nhân, nông dân, tiểu t sản, t sản... ), kinh tế thay đổi, thành thị
mọc lên nh nấm, giai cấp tiểu t sản hình thành với sự phân hoá phức tạp, có bộ
phận yêu nớc, có bộ phận quay lng với dân tộc lại có bộ phận lng chừng, không
tham gia cách mạng mà tìm nơi lẩn tránh vào văn chơng. Những năm 1920, ý
thức hệ t sản có mặt ở Việt Nam ... Xã hội Việt Nam bị xáo trộn, chuyển biến
mạnh mẽ.
Xã hội Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX là xã hội giao thời. Trên
nền xã hội ấy mọi hiện tợng có sự biến đổi. Về chính trị, chính quyền thực dân
Pháp đợc củng cố còn chính quyền phong kiến Việt Nam trở thành bù nhìn, tay
sai. Còn về kinh tế thì kinh tế nông nghiệp lạc hậu vẫn tồn tại bên cạnh kinh tế t
bản chủ nghĩa đã xâm nhập vào Việt Nam nên nó chi phối vào đời sống xã hội,
văn hoá. Về văn hoá, thì nền văn hoá Khổng Mạnh từ lâu tồn tại ở Việt Nam giờ
đây bị nền văn hoá t bản chủ nghĩa xâm nhập và làm đảo lộn.
Những biến động trong đời sống chính trị, xã hội nhanh chóng đợc phản
ánh vào văn học, tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển của văn học. Khi cơ
23
cấu xã hội thay đổi, nhiều tầng lớp mới xuất hiện, tâm lý xã hội thay đổi, thị hiếu
của công chúng cũng khác trớc. Các t tởng dân chủ tự do xuất hiện. Lúc bấy giờ
cái tôi cá nhân cá thể cựa mình. Sự giao thoa của xã hội đó đã khúc xạ vào văn
học. Màu sắc trong văn học cũng phức tạp, muôn màu nh cuộc sống hiện thực.
Văn học Việt Nam có sự giao thoa giữa cái cũ và cái mới. Cái cũ tuy đã lỗi thời
nhng không dễ dàng bị loại bỏ. Cái mới hình thành nhng ở trạng thái ngỡ
ngàng cha dễ dàng đợc chấp nhận.
Tản Đà là minh chứng tiêu biểu cho sự phức tạp của thời đại. ở ông có sự
phức tạp trong t tởng, phức tạp ở cá tính, đa dạng trong thể loại, có giọng điệu
riêng biệt không trộn lẫn, tạo thành một phong cách độc đáo vào bậc nhất trong
lịch sử văn học Việt Nam.
Tản Đà tiếp thu truyền thống văn hoá văn học dân tộc, tiếp nhận văn hoá
văn học từ nhiều luồng khác nhau đầu thế kỷ XX. Thơ văn Tản Đà vừa nằm
trong sự chi phối của hệ thống văn học cổ điển, vừa chịu ảnh hởng của các yếu tố
cũ vừa chịu ảnh hởng của yếu tố mới. Thế nhng nguồn ảnh hởng chính đối với
sáng tác của Tản Đà là vốn Hán học, Đờng thi... Tản Đà học chữ Hán từ nhỏ.
Trong thơ mình, Tản Đà đã nói về tình hình ấy. Từ lúc năm tuổi Tản Đà đã học
Tam tự kinh, ấu học ngũ ngôn thi...
Cuối năm lên sáu ta về Khê
Đà giang, Tản lĩnh nớc non quê.
Sách Nho học truyện lại học sử
()
Quốc ngữ cũng mới làu a, b.
(Ngày xuân nhớ xuân)
Cái lãng mạn ở Tản Đà cũng chịu ảnh hởng từ Trung Quốc truyền sang qua
các bậc tiền bối Nguyễn Du, Phạm Thái, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát.
Tản Đà đi nhiều, có thú phiêu du lãng tử và trong cái thú xê dịch đó ông
cũng có dịp tiếp thu lời ăn tiếng nói những ngời bình dân, gần gũi với đời sống
của họ đã tạo chất liệu trong sáng tác của ông. Trong thể loại thơ lục bát, hát nói,
24
phong dao..., đề tài về thiên nhiên Việt Nam, cuộc sống hiện thực..., ngôn ngữ
dân tộc, giọng điệu dân tộc thể hiện đậm nét. Nhà thơ dùng nhiều h từ, dùng từ
đa nghĩa mơ hồ, âm điệu ca dao... tạo thành những tác phẩm đạt đến đỉnh cao
nghệ thuật.
Tản Đà đã kết hợp đợc hai nền văn chơng bác học và văn học bình dân, chất
uyên bác của văn chơng bác học và chất duyên dáng, tự nhiên của văn chơng
bình dân tạo nên nét hấp dẫn của thơ ông.
Tản Đà viết về hiện thực xã hội Việt Nam, mô tả nó, tố cáo, đả kích bọn
bán nớc hại dân, mỉa mai trò lố bịch ở đời (Sự đời, Nhắn Từ Đạm, Cảm đề). ở
đây ông đã nối tiếp các nhà thơ dân tộc nh Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xơng.
Bên cạnh chịu ảnh hởng của yếu tố truyền thống, Tản Đà còn chịu ảnh hởng
của văn học phơng Tây.
Nếu trớc thế kỷ XX, văn học nớc ta chủ yếu chịu ảnh hởng của văn hoá, văn
học trong khu vực thì đến đầu thế kỷ XX, văn học có chịu ảnh hởng của văn học
phơng Tây (chủ yếu là văn học Pháp). Mặc dầu cuối thế kỷ XIX nớc ta đã có
điều kiện tiếp xúc với văn hoá phơng Tây bởi cuộc khai thác thuộc địa của thực
dân Pháp nhng vẫn đang trong sự dè dặt. Đến giai đoạn này văn hoá phơng Tây
du nhập vào nớc ta bằng nhiều con đờng. Lối sống, tâm lý của ngời dân thành thị
khác trớc. Cùng với sự tiếp xúc với các tác phẩm của văn học phơng Tây với các
tác giả tiêu biểu nh V.Huygô, Môlie, La Phôngten... chữ quốc ngữ đợc sử dụng
rộng rãi, điều kiện in ấn, xuất bản phát triển...
Những điều kiện đó đã ảnh hởng tới sáng tác của Tản Đà. Ông lại đợc học
tập tiếng Pháp đến trình độ sơ học:
Hà thành qua trải một đời xuân
Học chẳng cao thêm cũng rộng dần
Mới học Pháp văn từ lúc ấy
ấy năm Thành Thái sang Duy Tân.
(Ngày xuân nhớ xuân)
Tản Đà cũng chịu ảnh hởng của nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục mang
khuynh hớng t sản hoá. Đợc tiếp xúc với nền văn minh học thuật Âu Tây qua
25
Tân th Trung Quốc nên trong Tản Đà đã có yếu tố của một nền văn hoá văn học
mới đặc biệt ở tinh thần đổi mới về ý thức, cái tôi cá nhân đợc bộc lộ một cách
đậm nét, thành thực, công khai. Tản Đà đem tình cảm của con ngời cá nhân vào
văn học, đó là nỗi buồn, niềm vui, sự lo âu, niềm hi vọng, những khao khát yêu
đơng vào sáng tác của mình. Nhà thơ đã đem ngọn gió mới ấy vào văn học tạo
tiền đề cho sự ra đời của trào lu văn học lãng mạn Việt nam 1930 - 1945. Điều
này làm cho thơ ông hấp dẫn công chúng thị dân. Thơ ông đã diễn tả đợc cái
tâm trạng của một trí th ức phong kiến hết thời, vừa pha thêm màu sắc của một
cái tôi t sản buổi đầu.
Ông là cây bút vừa lãng mạn, vừa hiện thực. Hai yếu tố đó tồn tại trong một
nhà thơ. Tuy nhiên mâu thuẫn này có thể lý giải đợc. Vậy nét thống nhất là ở
đâu? hiện thực hay lãng mạn? Tuy nhiên Tản Đà vẫn là nhà văn lãng mạn. Có
điều ở thơ ông, lãng mạn không tách rời hiện thực. Có thể thấy một thế giới
mộng, lãng mạn, sơng khói, mây nớc huyền ảo trong sáng tác của tiên sinh nhng
đều có cội rễ từ hiện thực. Ông có thể tìm vào mộng, lên tiên giới, thoát ly nhng
không bao giờ quay lng với hiện thực thời đại mình.
Tất cả những yếu tố trên cùng với sự năng động trong lựa chọn hớng sáng
tác đã tạo nên phong cách thơ Tản Đà.
Chơng 2
T tởng nghệ thuật và cái nhìn về con ngời,
thế giới của tản đà
2.1. T tởng nghệ thuật của Tản Đà
2.1.1. Khái niệm t tởng nghệ thuật
Trong Phong cách Nguyễn Khuyến, Biện Minh Điền khẳng định: Một nhà
văn lớn bao giờ cũng có t tởng thẩm mỹ riêng, cái nhìn riêng độc đáo về con ngời và thế giới[11,103].