Tải bản đầy đủ (.doc) (138 trang)

Phong cách nghệ thuật thơ nguyễn đình thi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (474.82 KB, 138 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh

Nguyễn Văn Đàn

Phong cách nghệ thuật thơ
Nguyễn Đình Thi

Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60.22.32

Tóm tắt Luận văn Thạc Sĩ Ngữ Văn


2

- Vinh 2006 -

Mục lục
Trang
1
2
3
4
5
6
7

Mở đầu
Lý do chọn đề tài..................................................................................
Lịch sử vấn đề.......................................................................................


Đối tợng và phạm vi nghiên cứu.........................................................
Phơng pháp nghiên cứu.......................................................................
Đóng góp của luận văn.........................................................................
Cấu trúc của luận văn............................................................................
Giới thuyết khái niệm...........................................................................
Nội dung

1
2
7
7
8
8
8

Chơng Một : quan niệm nghệ thuật và hành trình

1.1
1.1.1
1.1.2
1.1.3
1.2
1.2.1
1.2.2
1.2.3

sáng tạo thơ nguyễn đình thi..........................
Quan niệm nghệ thuật...........................................................................
Về khái niệm quan niệm nghệ thuật.....................................................
Quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Đình Thi.......................................

Từ những quan niệm đến thử nghiệm...................................................
Hành trình sáng tạo thơ Nguyễn Đình Thi............................................
Thơ Nguyễn Đình Thi trong kháng chiến chống Pháp.........................
Thơ Nguyễn Đình Thi trong kháng chiến chống Mỹ............................
Thơ Nguyễn Đình Thi trong những năm sau 1975...............................

11
11
11
12
18
22
22
26
31

Chơng hai : phong cách thơ nguyễn đình thi thể hiện
qua việc tổ chức nội dung trữ tình ...................

2.1
2.1.1
2.1.2
2.1.3
2.2
2.2.1
2.2.2
2.2.3

Cách chiếm lĩnh đề tài..........................................................................
Đề tài chiến tranh..................................................................................

Đề tài quê hơng đất nớc....................................................................
Đề tài tình yêu.......................................................................................
Hình tợng cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Đình Thi........................
Cái tôi ngời chiến sĩ cách mạng..........................................................
Cái tôi lặng thầm, suy t, chiêm nghiệm..............................................
Cái tôi giàu tình thơng yêu..................................................................

38
38
38
46
55
64
65
71
82

Chơng ba : Phong cách thơ Nguyễn Đình Thi thể hiện
qua việc lựa chọn hình thức thể hiện .................

3.1
3.2
3.3
3.4

Thể thơ Nguyễn Đình Thi.....................................................................
Ngôn ngữ thơ Nguyễn Đình Thi...........................................................
Hệ thống hình ảnh trong thơ Nguyễn Đình Thi....................................
Giọng điệu thơ Nguyễn Đình Thi.........................................................
Kết luận............................................................................................

Tài liệu tham khảo........................................................................

Mở đầu

90
90
100
110
119
134
138


3

1. Lý do chọn đề tài
Nguyễn Đình Thi tên khai sinh - đồng thời là bút danh. Ông sinh ngày
20/12/1924, tại Luang Prabang (Lào). Quê gốc: Làng Vũ Thạch, Hà Nội. Năm
1931 theo gia đình về nớc, Nguyễn Đình Thi học ở Hà Nội, Hải Phòng. Năm 1941
bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng. Năm 1943 tham gia Hội Văn hoá cứu
quốc. Cách mạng thành công, ông là đại biểu Quốc hội, Hội viên sáng lập Hội nhà
văn Việt Nam và trở thành một trong những ngời lãnh đạo chủ chốt Hội Văn học
nghệ thuật Việt Nam.
Bên cạnh công việc của ngời quản lý, Nguyễn Đình Thi không bao giờ xa rời
công việc sáng tác. Tài năng phát triển sớm và đa diện, ông vừa là ngời sáng tác,
vừa là nhà lý luận phê bình, vừa là nhạc sỹ lại vừa là nhà thơ, nhà văn, nhà viết
kịch. ở lĩnh vực nào ông cũng có những thành công xuất sắc để lại dấu ấn tài hoa
trong những tìm tòi sáng tạo. Tất cả góp phần quan trọng vào sự vận động, phát
triển của đời sống văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại nói chung.
Trong hơn 60 năm cầm bút, Nguyễn Đình Thi đã để lại một khối lợng tác phẩm

khá đồ sộ thuộc nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau: 2 bản nhạc, 4 tập lý luận
văn học, 10 vở kịch, 3 truyện ngắn, 4 tiểu thuyết và 6 tập thơ, trong đó nhiều tác
phẩm đã trở thành sự kiện trong đời sống văn nghệ, một số tác phẩm có vị trí quan
trọng trong nền nghệ thuật nớc nhà, nhận đợc sự yêu thích của đông đảo quần
chúng.
Riêng với thơ, lĩnh vực ông để nhiều tâm huyết, Nguyễn Đình Thi đã tạo một
phong cách hoàn toàn mới mẻ, vừa kế thừa tinh hoa cổ điển của cha ông, vừa phát
huy phẩm chất lãng mạn của Thơ mới, vừa tạo một cách t duy thơ hiện đại đậm
chất trí tuệ vừa giàu cảm xúc. Đúng nh nhận xét của Hoài Thanh: Một tiếng thơ
đậm đà phong vị thời đại và quê hơng là một đóng góp tích cực làm cho nền thơ
cách mạng trẻ tuổi của chúng ta thêm đa dạng [47]
Thơ Nguyễn Đình Thi mang bản sắc riêng rõ nét, tạo dấu ấn sâu sắc trong nền
thơ Việt Nam hiện đại. Tuy đã có một số công trình, bài báo nghiên cứu về thơ
ông dới nhiều góc độ khác nhau, nhng cha có một công trình nào tập trung nghiên


4

cứu một cách toàn diện, hệ thống về phong cách nghệ thuật thơ Nguyễn Đình Thi.
Vì vậy nghiên cứu Phong cách nghệ thuật thơ Nguyễn Đình Thi là một việc làm
cần thiết và có ý nghĩa. Thực hiện luận văn này chúng tôi cố gắng làm nổi bật
những đặc điểm độc đáo trong phong cách thơ Nguyễn Đình Thi, để từ đó khẳng
định những đóng góp và vị thế của ông đối với nền thơ dân tộc.
2. lịch sử vấn đề
2.1. Nguyễn Đình Thi là một nghệ sỹ đa tài. Ông hoạt động trên nhiều lĩnh vực
của đời sống văn hoá nghệ thuật. Chính điều này đã thu hút sự quan tâm của d
luận. Ngay từ những tác phẩm đầu tiên của Nguyễn Đình Thi, ở mỗi thể loại, thậm
chí có nhiều tác phẩm còn là hiện tợng gây nhiều tranh cãi găy gắt. Trong số đó
bàn về thơ Nguyễn Đình Thi là sôi nổi hơn cả.
2.2. Những nghiên cứu về thơ Nguyễn Đình Thi qua các thời kỳ:

Nguyễn Đình Thi bắt đầu làm thơ vào những năm đầu của cuộc kháng chiến
chống Pháp. Thơ ông xuất hiện dới dạng thức thơ không vần đã trở thành một đề
tài gây tranh cãi tại Hội nghị tranh luận văn nghệ Việt Bắc (9/1949) và Hội nghị
kiểm thảo văn nghệ Nam Bộ (10/1951), mặc dầu lúc này tác giả mới cho in 4 - 5
bài, song Nguyễn Đình Thi đã bị chỉ trích khá gay gắt. Nhìn chung cuộc tranh luận
gồm hai ý kiến:
Loại ý kiến thứ nhất: Phê phán và chỉ trích khá gay gắt thơ không vần Nguyễn
Đình Thi: trúc trắc, khô khan, từ ngữ quá tiết kiệm khó hiểu. Thơ phải có vần, thơ
không vần thì không phải là thơ. Thậm chí có ngời còn cho rằng thơ Nguyễn Đình
Thi là nguy hiểm", và đòi "đuổi thơ Nguyễn Đình Thi ra khỏi thơ kháng chiến
[17,222] .
Loại ý kiến thứ hai: thừa nhận thơ Nguyễn Đình Thi có một tâm hồn thơ,
một điệu thơ khác với các điệu thơ khác, toàn bộ thơ anh Thi chứa đựng một
điều lạ; Thế Lữ nhận xét thật ấn tợng: Anh Thi có một hồn thơ mãnh liệt mà
không dùng hình thức quen là muốn tìm cái mới. Tâm Trung cho rằng: Thơ anh
Thi có sức truyền cảm mạnh, chỗ này rung cảm, chỗ kia trí tuệ. Ngời bênh vực
hơn cả là Nguyên Hồng: Thơ anh Thi là một sự cần dùng, một sự tất yếu. Thơ


5

anh Thi qua nhiều rung cảm khác nhau trong một bài. Anh Thi tiêu biểu cho tâm
hồn rộng rãi. Tôi tin sẽ có những bài thơ kỳ diệu của dân tộc ở trong loại thơ đó
[17,216 - 227].
Nh vậy, qua hai loại ý kiến khác nhau ấy ta có thể thấy thơ Nguyễn Đình Thi
đã tạo ra một phong cách khác. Đúng nh Xuân Thuỷ nhận xét: Nhà thơ là ngời
nhiều tài, nhiều thông minh, thích tìm tòi những cái mới [17,224]. Đồng thời
nhiều ý kiến đã chỉ ra những chỗ còn cha đợc của ông.
Sau Hội nghị năm 1949 Nguyễn Đình Thi đã mạnh dạn nói lên suy nghĩ của
mình: Một thời đại mới của nghệ thuật bao giờ cũng tạo ra một hình thức mới

[60,74]. Tuy cũng thừa nhận sự "cha phải lúc của thơ không vần (Đó là thời kỳ
đất nớc trong thời kỳ nóng bỏng của cuộc kháng chiến), song Nguyễn Đình Thi
vẫn nghĩ: Không có vấn đề thơ tự do, thơ không vần, chỉ có thơ thực và thơ giả,
thơ hay và không hay, thơ và không thơ [60,73].
Những thập niên 50, 60, 70 của thế kỷ XX:
Thời gian này ý kiến về thơ Nguyễn Đình Thi không sôi nổi nh cuộc tranh luận
tại Việt Bắc mà có phần lắng lại. Mặc dầu trong thời gian này ông cho xuất bản
các tập thơ Ngời chiến sĩ (1956), Bài thơ Hắc Hải (1958), Dòng sông trong xanh
(1974). Vào năm 1969 Nguyễn Xuân Nam trong bài: Thơ Nguyễn Đình Thi trên
Tạp chí Văn học tháng 12/1969 nhận xét: Ngay từ khi mới xuất hiện, thơ Nguyễn
Đình Thi đã mang một cảm xúc kín đáo với dáng dấp khác lạ, Thơ anh Thi thờng hàm súc. Các bài thờng là những cảnh nọ liên quan đến cảnh kia, rồi từ bức
tranh sẽ toát ra t tởng. Thơ nh hoa lý hoa ngâu, ít sắc màu, dịu dàng thơm lâu
[17,230 - 246]. Vào năm 1970 Phan Cự Đệ lại cho rằng: Cảm hứng chủ đạo trong
sáng tác thơ Nguyễn Đình Thi là cảm hứng về dân tộc và Tổ quốc [11,49]. Năm
1976 Hoài Thanh trên tuần báo văn nghệ ngày 03/01/1976 đã viết: Tôi yêu cái
nhìn và tấm lòng Nguyễn Đình Thi đối với đất nớc, thơ Nguyễn Đình Thi : trớc
hết là nói với mình, nói chính mình. Những bài, thơ hay của Nguyễn Đình Thi là
những tiếng thơ đậm đà phong vị thời đại và quê hơng [47].


6

Sang thập niên 80 nhiều ý kiến bàn về thơ Nguyễn Đình Thi, song tiêu biểu
gồm: Tôn Phơng Lan, Chu Nga, Vũ Tuấn Anh. Nếu nh Chu Nga cảm nhận thơ
Nguyễn Đình Thi thiên về nội dung: mãnh liệt trong tính chất và sâu sắc trong
suy t [34, 43] thì Tôn Phơng Lan lại nhận xét: Nguyễn Đình Thi chủ trơng một
lối thơ triết lý, nhằm hớng cho thơ đi vào suy nghĩ [23, 289]. Còn Vũ Tuấn Anh
thì cho rằng: Thơ Nguyễn Đình Thi có xu hớng phá thể. Nhiều câu ở dạng suy
tởng và độc thoại. Sự phóng túng về hình thức và sâu kín về nội dung, hai điều
ấy Nguyễn Đình Thi kết hợp một cách khó khăn do đó có sự rời rạc trong ý thơ

[2, 200].
Vào những năm 1990 - 2000 có thêm hàng loạt bài nghiên cứu mang tính khái
quát về thơ Nguyễn Đình Thi: của Hà Minh Đức, Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Hữu
Tá, Nguyễn Văn Hạnh, Vơng Trí Nhàn, Chu Văn Sơn, Mai Hơng, Hoàng Cát, Đỗ
Minh Tuấn, Lê Thị Chính... Các tác giả đều có khuynh hớng đi sâu tìm hiểu phong
cách thơ Nguyễn Đình Thi. Cùng đối tợng và phạm vi nghiên cứu, nhng mỗi tác
giả đều có những cảm nhận khác nhau góp phần đánh giá và ghi nhận những đóng
góp của Nguyễn Đình Thi đối với quá trình vận động của nền thơ hiện đại Việt
Nam.
Những nhận xét thiên về hình thức thơ Nguyễn Đình Thi:
Trần Hữu Tá cho rằng: Tuy chững chạc trong thể thơ truyền thống (ngũ ngôn,
thất ngôn, lục bát, mực thớc trong thơ 8 chữ), Nguyễn Đình Thi thích hợp với hình
thức thơ tự do, phóng khoáng [46,39]. Nguyễn Đăng Mạnh lại có cảm nhận:
Mỗi chữ nh một giọt tâm hồn chắt ra từ đầu ngọn bút [35,330]. Đặc biệt Chu
Văn Sơn góp thêm một tiếng nói thanh toán món nợ oan ức từ trớc tới nay mà
Nguyễn Đình Thi phải chịu. Theo Chu Văn Sơn Nguyễn Đình Thi là một mầm
cây vừa trổ ra không gặp thì, không thuận tiết. Ông đã có cả một quan niệm có
tính hệ thống về thơ, đã ơm trồng thơ không vần một cách có ý thức, thành cơ sở
lý thuyết, chứ không phải nh Thơ mới. Sự tìm tòi thơ Nguyễn Đình Thi để lại
những ảnh hởng ở những lớp ngời sau và làm nên một diện mạo thơ của ta từ 1945
trở lại đây" [43,349]. Mai Hơng qua 2 bài viết Nguyễn Đình Thi và nỗ lực cách


7

tân nghệ thuật [20,161] và Nguyễn Đình Thi từ quan niệm đến thơ [20,168] đã
khẳng định những nỗ lực tiền khởi của tác giả trong nghệ thuật, đặc biệt là
những nỗ lực làm thơ mới. Mai Hơng lại thấy: Nguyễn Đình Thi không cầu kỳ
và không thích cầu kỳ. Lê Thị Chính trong bài Một vài đặc điểm ngôn ngữ thơ
Nguyễn Đình Thi in trong Diễn đàn văn nghệ Việt Nam tháng 5 - 6/2000, cho

rằng thơ Nguyễn Đình Thi là: Thơ trữ tình điệu nói, từ ngữ giản dị, giàu hình ảnh
và hàm súc, hình thức câu thơ phóng khoáng tự do và đặc biệt nhịp điệu là hình
thức đích thực của thơ [6,310-318].
Những nhận xét thiên về nội dung thơ Nguyễn Đình Thi:
Tôn Phơng Lan trong Tạp chí Văn học số 5 năm 1984 cho rằng: Nổi bật lên
nh một điểm sáng xuyên suốt trong thơ Nguyễn Đình Thi là sự quan tâm đối với
vấn đề hạnh phúc của con ngời, con ngời lao động, con ngời Việt Nam [23,290].
Còn Hoàng Cát trong bài Nguyễn Đình Thi nhà thơ hiện đại báo Giáo dục và thời
đại số 21 năm 1998 nhận xét: Mọi sáng tác của Nguyễn Đình Thi, dù ở bất kỳ
lĩnh vực nào nhng đặc biệt là với thơ bao giờ ông cũng gắn chặt với nỗi buồn vui
của nhân dân và đất nớc [3,250]. Hà Minh Đức khái quát: Với quan điểm nhất
quán về thơ, từ các tập Ngời chiến sỹ, Bài thơ Hắc Hải, Dòng sông trong xanh, đến
Tia nắng rồi Trong cát bụi, cảm hứng lớn trong thơ Nguyễn Đình Thi tập trung về
cảm hứng cách mạng, đất nớc trong chiến tranh và xây dựng. Trên cái nền đó là số
phận, niềm vui và hạnh phúc của nhân dân theo năm tháng của cuộc đời [17,21].
Và trong chuyên mục Cuối thế kỷ nhìn lại của Diễn đàn văn nghệ Việt Nam tháng
12/1999 Hà Minh Đức dành cho Nguyễn Đình Thi những nhận xét thật xác đáng:
Thơ Nguyễn Đình Thi hoà hợp đợc với nhiều phẩm chất: anh hùng, tình ca, vừa
sôi sục hùng tráng vừa thiết tha trữ tình, thơ ông có buồn nhng không bi luỵ, rất
riêng t nhng luôn có ý thức gắn vào cuộc đời chung [16, 9]. Đặc biệt trong thời kỳ
này Đỗ Minh Tuấn nhìn ra một Cõi tịch mịch trong thơ Nguyễn Đình Thi
[65,304]. Tác giả bài viết cho rằng: Thơ Nguyễn Đình Thi xuất hiện nh một
quãng lặng trong sự chuyển tiếp giữa hai nền thơ, hai chơng bản giao hởng mà giai
điệu là cái Tôi và cái Ta... và cả hai hoà cùng một bè trầm tao nhã của thơ cách


8

mạng và danh hiệu hiện đại dành cho nhà thơ Nguyễn Đình Thi là thoả đáng
[65,306].

Từ năm 2001- đến nay:
Năm 2001 khi tập thơ Sóng reo đợc Hội nhà văn cho xuất bản thì đến năm 2003
trên báo văn nghệ số 1+2, Vũ Quần Phơng cảm nhận: Tập thơ thấm thía và trong
trẻo nỗi bâng khuâng của con sông sắp về tới biển, quyến luyến những bờ lau
lách. Vẫn bút pháp biểu tợng kín và tơi của Nguyễn Đình Thi, nhng giọng thơ
thâm trầm nhỏ, ý thơ thành thật nh lời khấn của con ngời trớc cõi thiêng [42].
Ngày 18/4/2003 Nguyễn Đình Thi qua đời. Trong niềm thơng tiếc vô hạn của
một nghệ sỹ đa tài, cả cuộc đời cống hiến cho đất nớc, cho nền nghệ thuật cách
mạng, rất nhiều nghệ sĩ và đông đảo công chúng đã bày tỏ niềm ngỡng mộ đặc
biệt đối với Nguyễn Đình Thi, nhất là đối với thơ ông. Vì lẽ đó năm 2004 nhân kỷ
niệm một năm ngày mất của Nguyễn Đình Thi nhà xuất bản Hội nhà Văn cho ra
mắt cuốn: Nguyễn Đình Thi - Cuộc đời và sự nghiệp, mục đích để tỏ lòng biết ơn
một ngời trọn cuộc đời hi sinh và hiến dâng cho nền văn học nghệ thuật nớc nhà.
Trong đó có nhiều bài viết có những lời tặng cao quý đối với Nguyễn Đình Thi,
tiêu biểu có Vũ Quần Phơng, Chu Văn Sơn, Đỗ Lai Thuý.
Vũ Quần Phơng nhận xét: Đến nay công chúng yêu thơ đã nhận ra và yêu mến
cái vị riêng của thơ Nguyễn Đình Thi, và đặc biệt Nguyễn Đình Thi đã tạo ra
một phong cách thơ hoàn toàn mới mẻ, vừa kế thừa tinh hoa thơ dân tộc, vừa tạo
một t duy thơ hiện đại đậm chất trí tuệ và giàu nội tâm [36,184]
Chu Văn Sơn bổ sung thêm: Trong phần thành công nhất, thơ Nguyễn Đình
Thi tạo ra một điệu mới, nh tiếng reo trong lặng lẽ, tấu lên một thứ nhạc mới, trầm
lắng và rung ngân [44,100].
Còn Đỗ Lai Thuý nhấn mạnh: Thơ Nguyễn Đình Thi là cái mốc lớn trên lịch
trình đổi mới thơ sau 1945, và tác giả lấy làm tiếc, vì cái thời điểm một cánh én
có thể làm nên mùa xuân đã trôi qua cùng với 1949, và thơ Việt Nam lại nhỡ một
chuyến xuân [62].


9


2.3. Nhìn chung có thể thấy,các bài nghiên cứu phê bình trên đã nhìn nhận, đánh
giá thơ Nguyễn Đình Thi dới nhiều góc độ : Từ một tác phẩm cụ thể, một tập thơ,
đến việc tìm hiểu toàn bộ sáng tác của nhà thơ để tìm ra nét phong cách riêng,
giọng điệu riêng. ở một số bài viết tìm hiểu về vấn đề phong cách thơ Nguyễn
Đình Thi, nhng vẫn cha tách thành một hệ thống độc lập, mà chỉ mới là phơng
diện biểu hiện khi các tác giả đi vào khám phá nét đặc sắc thơ Nguyễn Đình Thi.
Luận văn từ việc kế thừa các ý kiến của những ngời đi trớc, tiếp tục tìm hiểu mở
rộng, phát triển và đi sâu tìm hiểu một cách có hệ thống về phong cách thơ Nguyễn
Đình Thi.
3. đối tợng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tợng nghiên cứu
Trong toàn bộ các tác phẩm của ông ở các thể loại, từ triết học đến âm nhạc; từ
thơ đến tiểu thuyết, truyện ngắn; từ tiểu luận, bút ký đến kịch bản văn học... luận
văn chỉ tập trung nghiên cứu thơ của Nguyễn Đình Thi.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Toàn bộ sáng tác thơ của Nguyễn Đình Thi từ sau Cách mạng tháng 8 - 1945
đến lúc ông qua đời năm 2003, cụ thể gồm các tập thơ: Ngời chiến sĩ (1958), Bài
thơ Hắc Hải (1960), Dòng sông trong xanh (1974), Tia nắng (1983), Trong cát bụi
(1993), Sóng reo (2001). Tất cả đã in chung trong Tuyển tập thơ Nguyễn Đình Thi,
do Nhà xuất bản Văn học Hà Nội ấn hành và ra mắt năm 2001.
4. Phơng pháp nghiên cứu
4.1 Tìm hiểu phong cách thơ Nguyễn Đình Thi. Đặt tác giả trong những mối quan
hệ đồng đại và lịch đại để phân xuất những nét khu biệt, vì vậy luận văn này sử
dụng phơng pháp so sánh.
4.2 Nghiên cứu phong cách thơ Nguyễn Đình Thi không thể tách rời sáng tác của
nhà thơ với hoàn cảnh lịch sử, nên luận văn sử dụng phơng pháp văn học sử.
4.3 Để làm nổi bật những đặc điểm phong cách thơ Nguyễn Đình Thi, luận văn sử
dụng các phơng pháp bổ trợ nh: thống kê, phân tích, tổng hợp.



10

4.4 Ngoài ra, để khảo sát các yếu tố làm nên Phong cách thơ Nguyễn Đình Thi,
luận văn còn vận dung thi pháp học.
5. Đóng góp của luận văn
5.1 Thực hiện luận văn này, chúng tôi mong muốn cung cấp một cái nhìn toàn
diện, khoa học, hệ thống về quan niệm nghệ thuật và hành trình sáng tạo và những
đặc điểm nổi bật trong Phong cách thơ Nguyễn Đình Thi xét từ phơng diện nội
dung trữ tình đến hình thức thể hiện. Từ đó góp thêm một tiếng nói khẳng định
những đóng góp và vị thế của nhà thơ trong tiến trình vận động và phát triển của
nền thơ Việt Nam hiện đại.
5.2 Chúng tôi cũng hi vọng rằng, những t liệu và kết luận của luận văn sẽ góp phần
vào việc giảng dạy thơ Nguyễn Đình Thi trong chơng trình Văn ở Trờng phổ thông
và nghiên cứu thơ Việt Nam hiện đại. Đây cũng có thể xem là sự tiếp tục thể
nghiệm cho sự nghiên cứu tác giả đơng đại ở góc độ phong cách.
6. Cấu trúc của luận văn
- Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo. Luận văn đợc triển khai
trong 3 chơng.
Chơng 1: Quan niệm nghệ thuật và hành trình sáng tạo thơ của Nguyễn Đình Thi.
Chơng 2: Phong các thơ Nguyễn Đình Thi thể hiện qua việc tổ chức nội dung
trữ tình.
Chơng 3: Phong cách thơ Nguyễn Đình Thi thể hiện qua việc lựa chọn hình
thức thể hiện.

Chơng 1

Quan niệm nghệ thuật


11


và hành trình sáng tạo thơ của Nguyễn Đình Thi
1.1 Quan niệm nghệ thuật
Quan niệm nghệ thuật là một khái niệm phức tạp và có tính trừu tợng. Chính vì
vậy cho đến nay khái niệm quan niệm nghệ thuật vẫn cha đợc thống nhất.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: Quan niệm nghệ thuật là nguyên tắc cắt
nghĩa về thế giới và con ngời vốn có của hình thức nghệ thuật, bảo đảm cho nó có
khả năng thể hiện đời sống với một chiều sâu nào đó; là cung cấp một mô hình
nghệ thuật về thế giới có tính chất công cụ thể hiện cuộc sống; là cung cấp một
điểm xuất phát để tìm hiểu nội dung của tác phẩm văn học cụ thể; là cung cấp
một cơ sở để nghiên cứu sự phát triển tiến hoá của văn học [18,273-274].
Theo các tác giả Lí luận văn học - Vấn đề và suy nghĩ: Nói đến quan niệm
nghệ thuật là nói đến ý hớng của các nhà văn đến thế giới và con ngời ngay trong
khi sáng tạo văn học. Không có ý hớng này thì không thể có tiền đề để biến thế
giới của vật - tự - nó thành thế giới của vật - cho - ta. Cùng với ý tởng đó, nhà văn
bộc lộ thái độ, trình độ nhận thức và cách lý giải của mình đối với thế giới và con
ngời [19,211-212].
ở tác giả nói trên, có những cách lý giải khác nhau, nhng về cơ bản đều thống
nhất ở một điểm là: khẳng định tầm quan trọng của quan niệm nghệ thuật trong
hoạt động sáng tạo của các nhà văn và đề cao tính chủ thể của quan niệm nghệ
thuật.
Trên cơ sở các ý kiến đó, chúng tôi hoàn toàn đồng ý với ý kiến cho rằng: quan
niệm nghệ thuật thực chất là cái nhìn của nhà văn về thế giới và con ngời
[10,22]. Cái nhìn đó thể hiện chiều sâu t tởng và sự nhạy bén của ngời nghệ sĩ,
và biểu hiện qua một hệ thống những quan niệm thể hiện rõ t duy nghệ thuật của
nhà văn, là hệ quy chiếu của tất cả các yếu tố trong quá trình sáng tạo của nhà văn
nh: Đề tài, chủ đề, kết cấu, giọng điệu, ngôn ngữ, hệ thống hình ảnh, thể loại...


12


Đây chính là một trong những yếu tố là nền móng, là xơng cốt của một thế giới
nghệ thuật. Vì vậy khi nghiên cứu phong cách nghệ thuật của một tác giả văn
học không thể không đề cập đến quan niệm nghệ thuật của họ.
1.1.1 Quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Đình Thi
Quan niệm nghệ thuật của nhà văn không phải là những vấn đề lý thuyết có
tính chất tiên nghiệm, giáo điều mà là một hình thái tinh thần cụ thể, nó nảy sinh
do sự cọ xát, va chạm một cách rất cụ thể giữa trí tuệ và tâm hồn ngời sáng tác với
hiện thực khách quan. Trong đó chủ thể đóng vai trò quyết định nên nó phong phú
đa dạng và phức tạp nh bản thân đời sống chủ thể của nhà văn vậy. Nhng trong
từng giai đoạn sáng tác hay trong cả hành trình sáng tạo của một nhà văn, thờng có
một quan niệm chủ đạo chi phối mạnh mẽ tới tất cả những quan niệm khác, liên
kết tất cả các quan niệm của nhà văn thành một chỉnh thể. Quan niệm của Nguyễn
Đình Thi không nằm ngoài quy luật này. Trong hơn 60 năm cầm bút, Nguyễn
Đình Thi không phải là không có những lúc tự mâu thuẫn, phủ nhận những quan
niệm của mình trớc đó. Khi nhìn lại tác phẩm của mình vào những năm đầu của
cuộc Cách mạng tháng Tám, trong bài Qua những tháng năm cầm bút, ông viết:
Cũng có những lúc tôi va chạm với những khó khăn do quan niệm xung quanh
không thuận, nhng sự khó khăn nhất vẫn là ở chổ phải luôn đánh vật với những
yếu kém của mình [56,374]. Nhng xét một cách toàn diện về cơ bản, quan niệm
nghệ thuật của Nguyễn Đình Thi nói chung, thơ nói riêng đợc phát biểu khá hệ
thống và rõ ràng trong bài Mấy ý nghĩ về thơ. Điều này giúp cho ngời nghiên cứu
về thơ ông có một chỗ dựa đáng tin cậy trong lý giải đặc điểm về nội dung cũng
nh hình thức trong các tác phẩm của ông.
Khi bàn về thơ, trớc hết ông nhấn mạnh: Thơ là tiếng nói của tâm hồn. Theo
ông, thơ phải có t tởng, phải có ý thức, nhng t tởng trong thơ là t tởng dính liền
với cuộc sống, ở trong cuộc sống. Mà đời sống ở đây đợc hiểu nh những hoạt động
mu sinh của sự sinh tồn. Mà đó là sự sống của tâm hồn, là trạng thái tâm lí đang
rung chuyển mạnh mẽ khác thờng. Cho nên, ông khẳng định: Thơ là tiếng nói



13

đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đua chạm với cuộc sống. Tóe lên ở nơi
giao nhau giữa tâm hồn với ngoại vật, trớc hết là những cảm xúc [56,72].
Đi sâu hơn ông cho rằng: Trong đời sống tâm hồn thì cảm xúc là quan trọng
nhất, cảm xúc là yếu tố quyết định những yếu tố tâm hồn. Vì thế Nguyễn Đình
Thi viết: Cảm xúc là phần xơng thịt hơn cả của đời sống tâm hồn. Do vậy bí
quyết truyền cảm của nhà thơ là cảm xúc mà đi thẳng vào sự suy nghĩ [56,72].
Quả là Nguyễn Đình Thi rất coi trọng cảm xúc, nhng cảm xúc ở đây là cảm xúc
thực đợc khơi nguồn từ nguồn sống thực. Ông đề nghị: Nhà thơ ngày nay không
đi tìm cái viễn vông bên ngoài cuộc sống của con ngời thực, cái thực cũng chỉ có
đợc khi nhà thơ xúc cảm thực, hồn nhiên, khi nhà thơ đối diện với chính mình.
Ông không thích Thơ nói ra tâm tình. Nó phải nói ra cảm xúc: Tai nghe mắt thấy,
mữi ngửi, tay sờ... tức là cảm thế nào nói thế ấy. Nh vậy, qua thơ ông ngời đọc có
thể hình dung rất rõ trạng thái cảm xúc của nhà thơ và cái hiện thực - đối tợng cảm
xúc của ông. Nguyễn Đình Thi đặc biệt nồng nàn trong cảm xúc về quê hơng, đất
nớc, một đất nớc gian nan Vất vả đau thơng, tơi thắm vô ngần và rất đỗi tự hào:
Đất nớc của những ngời áo vải - Đã đứng lên thành những anh hùng. Đất nớc
từ những năm đau thơng chiến đấu, đã Rũ bùn đứng dậy sáng loà. Ông đã dành
những cảm xúc đằm thắm, thiết tha, cho những vùng đất, vùng quê nơi ông từng
sống và gắn bó Lòng ta nặng nghĩa quê hơng. Và đau xót trớc cái chết thảm thơng của em bé gái Vân Đình trong buổi chiều chạng vạng, Phố cháy chìm dần
vào tối sau trận giặc nhảy dù. Nhng cũng có nét tơi vui, th thái trong một buổi
chiều xuân: Tôi đi nh nhảy múa - Trên cánh đồng lúa thơm - Mái nhà nào vàng
rơm - Chiều quê hơng đẹp quá. Tất cả đều là cảm xúc thực, bật nảy ở những nơi
giao nhau của tâm hồn nhà thơ với ngoại vật. Chính vì vậy cho nên khi đọc thơ
Nguyễn Đình Thi, đã đa ta đến với một thế giới cảm xúc, một điệu cảm xúc của
riêng ông. Đặc biệt cảm xúc đó đã đợc cá thể hoá cho nên thơ Nguyễn Đình Thi có
đợc cách nói riêng, ám ảnh ngời đọc, có sức truyền cảm mạnh và trực tiếp đến với
ngời đọc đúng nh ông mong muốn: Bài thơ là những lời diễn lên làm sống ngay

lên một tình cảm, một nỗi niềm trong lòng ngời đọc.


14

Bên cạnh cảm xúc, thơ Nguyễn Đình Thi còn đặc biệt chú trọng đến vị trí của
hình ảnh. Nhng hình ảnh đó đợc khơi nguồn từ đâu, theo Nguyễn Đình Thi đó là
nhờ cảm xúc. Ông quan niệm: Thơ không nói bằng ý niệm thuần tuý mà nói bằng
hình ảnh; Nhng hình ảnh thơ phải là những hình tợng sống động, nó là sự nảy
sinh cùng một lúc với t tởng nhuần nhuyễn với nhau nh hồn và xác [56,74-75].
Nh vậy, do nhận thức đợc vị trí của hình ảnh là hết sức quan trọng nên trong
thơ Nguyễn Đình Thi hầu nh nói bằng hình ảnh, và đầy ắp hình ảnh. Vừa có
những hình ảnh mang tầm vóc hoành tráng, mang âm hởng sử thi lại vừa mang
nhiều hình ảnh nhỏ nhoi bình dị. Song nhìn chung hình ảnh trong thơ ông không
cầu kỳ, mĩ lệ khó tìm. Hà Minh Đức nhận xét: Nguyễn Đình Thi không quan tâm
khai thác hình ảnh lạ. Anh muốn mọi ngời chú ý đến cuộc đời quen thuộc mà mỗi
lần lại có thể nhận ra một vẻ đẹp mới. Đặc biệt hình ảnh trong thơ Nguyễn Đình
Thi là hình ảnh thực. Ông quan niệm: Hình ảnh thực nảy lên trong tâm hồn khi ta
sống một cảnh huống hoặc một trạng thái nào đấy. Đụng chạm với hoạt động hàng
ngày, tâm hồn tự nảy lên bao nhiêu hình ảnh nh tia lửa lóe lên khi búa đập vào sắt
trên đe. Ngời làm thơ lợm những tia lửa ấy, kết nên thành một bó sáng, nó là hình
ảnh thơ [56,75]. Nguyễn Đình Thi quan niệm nh vậy không phải thơ ông không
có hình ảnh ảo, nhng quả thật loại hình ảnh ảo này không nhiều. Chúng chỉ xuất
hiện trong những bài thơ gắn với cảm hứng lãng mạn bay bổng mang màu sắc lí tởng đẹp đẽ của thời đại. Cái chú trọng nhất của Nguyễn Đình Thi vẫn là những
hình ảnh thực. Hình ảnh đó đợc ông thể hiện rất rõ: Từ những cánh đồng lúa
thơm, những mái nhà vàng rơm, nơi làng quê trù phú... cho đến những cửa ô tíu tít
gánh gồng chen nhau rộn ràng Đồng Xuân, Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Gai... nơi
phồn hoa đô hội; từ những ánh mắt trong trẻo của em gái, cho đến mắt ngời sáng
láng vầng sao thắm tơi... Tất cả đều là những hình ảnh thực, cụ thể nhng hết sức
sống động.

Không những thế ông còn nhấn mạnh thêm về hình ảnh: Đó là hình ảnh còn tơi nguyên, mà nhà thơ tìm thấy, bao giờ cũng mới mẻ, đột ngột lạ lùng. Vì nhà thơ
nhìn bằng con mắt của ngời đầu tiên. Đó là những hình ảnh mới tinh cha có vết
nhoà của thói quen'' [56,76].


15

Chính nhờ cái nhìn phát hiện này mà những hình ảnh chân thực ngoài đời vào
tác phẩm của Nguyễn Đình Thi thờng gợi cảm giác vừa quen vừa lạ, vì vậy ông đã
thổi vào mỗi hình ảnh một sự sống. Đó chính là những hình ảnh mới tinh cha có
vết nhoà của thói quen. Tóm lại hình ảnh thơ là hình hài của cảm xúc, là sự định
hình của những trạng thái tâm hồn. Vậy đây là nội dung của thơ.
Khi đã có nội dung việc làm thơ chỉ còn là dùng chữ và tiếng để ngôn ngữ
trạng thái đó mà thôi. Nhng chữ ở đây đợc ông rất chú trọng. Chữ và tiếng trong
thơ cần có một giá trị khác, ngoài giá trị ý niệm ngời chọn chữ và tiếng không phải
chỉ vì ý nghĩa của nó... Điều kỳ diệu của thơ là mỗi chữ ngoài ý nghĩa của nó...
bỗng phá tung mở rộng ra, gọi đến chung quanh những cảm xúc, những hình ảnh
không ngờ, toả ra quanh nó một vùng sáng động đậy. Sức mạnh của thơ là ở sức
gợi ấy [56,77-78]. Ông còn diễn giải thêm: Mỗi chữ nh một ngọn nến đang
cháy, những ngọn nến ấy xếp bên nhau thành một vùng sáng chung. ánh sáng
không những ở đầu ngọn nến, nó ở tất cả chung quanh [56,78]. Khi tìm ra đợc ý
nghĩa của chữ và tiếng. Nhng chữ và tiếng ở đây đợc chọn ra theo tiếng gọi nào?
áp lực nào? Và ông trả lời đó là nhịp điệu: Cái kỳ diệu của tiếng nói trong thơ,
khả năng gợi ra quầng sáng lung linh bao quanh chữ và tiếng. Có chăng ta tìm nó ở
nhịp điệu rung chuyển của tâm hồn, là nhịp điệu của cảm xúc, là sự sống rung lên
ở mỗi hình ảnh.
Nếu dừng lại đây e chừng có sự nhầm lẫn giữa nhạc đợc tạo ra do vỏ âm thanh,
ông gọi thứ nhạc bên ngoài và thứ nhạc bên trong. Ông nói : Thơ còn có một thứ
nhạc nữa, một thứ nhịp điệu của hình ảnh tình ý, nói chung là của tâm hồn
[56,79]. Đó là nhịp thành hình của những cảm xúc hình ảnh liên tiếp hoà hợp vào

những tiếng, những chữ gợi ra những ngân vang dài ngay những khoảng lung linh
giữa chữ, những khoảng im lặng cũng là nơi trú ngụ kín đáo của sự xúc động. Nhờ
vậy ''thơ Nguyễn Đình Thi có sức gợi, sức mở trong tâm thế tiếp nhận tích cực, dân
chủ của ngời đọc'' [20,35].
Trở lại với vấn đề nhịp điệu trong một đoạn khác, ông nhấn mạnh: Mỗi thể thơ
có một khả năng, một thứ nhịp điệu của nó nhng nếu theo dõi những thời kỳ cả


16

lịch sử thì một thời đại mới của nghệ thuật thờng bao giờ cũng tạo ra một hình
thức mới. Thơ của một thời mới trong những buổi đầu ít khi chịu những hình thức
đều đặn cố định [56,80].
Những ý kiến của Nguyễn Đình Thi, về mặt lý luận cũng phù hợp với thực tiễn
sáng tác của mình. Nhiều bài thơ của ông đợc viết một cách tự do, không quá lệ
thuộc vào vần điệu, không a sự nhịp nhàng của câu chữ. ý tởng đó đã hình thành
rất sớm trong những ngày đầu sáng tác của Nguyễn Đình Thi. Điều đó cũng chứng
minh rằng trong Hội nghị tranh luận về thơ của mình ở Việt Bắc vào năm 1949 trớc các nhà văn tên tuổi nh: Thế Lữ, Xuân Diệu, Xuân Thuỷ, Nguyên Hồng, Tố
Hữu... Nguyễn Đình Thi đã phát biểu rất thẳng thắn về hớng đi của sáng tác. Đặc
biệt với loại thơ không vần mà lúc đó nhiều ngời tỏ ra không mặn mà Nguyễn
Đình Thi nói rõ quan điểm của mình: Khi bỏ luật lệ rồi, đủ cảm xúc tự nhiên thì
cứ nói thành vần cũng đợc, không thì thôi. Nói nh lời nói thờng vậy... Tôi mong
muốn đi tới những câu thơ nh lời nói thờng mà đạt đến độ cảm xúc mãnh liệt. Nếu
cần nói một hơi dài dùng những câu dài, nếu hơi ngắn thì nói ngắn. Những hình
ảnh thơ mới bây giờ tôi tởng tợng nó cần phải khoẻ, gân guốc, xù xì, chất phác,
chung đúc tự nhiên. Những bài thơ cũ, cùng một nhịp đều đều tôi không chịu đợc
bài thơ chất phác kia động vào tâm hồn ta hơn [17,227-228].
Rõ ràng quan niệm trên đây có một sự nhất quán từ nội dung đến hình thức. Nó
cho thấy Nguyễn Đình Thi khu biệt đợc một đặc trng quan trọng nhất, cốt lõi nhất
của thơ. Quan niệm ấy đã giải phóng thơ ra khỏi sự cầm tù của vần điệu trói buộc

của luật lệ hà khắc. Nó cũng cho thấy việc Nguyễn Đình Thi chủ trơng thơ không
vần không phải chỉ là việc đột phá khâu hình thức chủ nghĩa! Việc tìm kiếm nhịp
điệu mới theo quan niệm trên đây rõ ràng đòi hỏi cảm xúc mới. Điều này cũng
khẳng định rằng: Nguyễn Đình Thi đã đứng lên đấu tranh cho quyền sống của một
loại thơ mới, đồng thời đem lại cho thơ không vần một địa vị bình đẳng. Đó là sự
cách tân trong quan niệm cũng nh trong thực tiễn sáng tác của mình.
Quả là, toàn bộ quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Đình Thi trên đây đợc thể
hiện một cách có hệ thống, có cơ sở, đã chi phối mạnh mẽ tới thực tiễn sáng tác


17

của ông. Vì lẽ đó khi tìm hiểu thơ Nguyễn Đình Thi trớc hết chúng ta phải nắm
vững hệ thống quan niệm trên để từ đó thấy đợc đặc sắc nghệ thuật thơ Nguyễn
Đình Thi. Nếu quan niệm rằng: Ngời đọc tìm hiểu nhà thơ là để hiểu một cách
sống, không phải chỉ hỏi ý tởng nh một nhà triết học, mà hỏi cách cảm xúc, cách
thơng, cách nhớ, cách giận, cách ghét nh với mọi ngời yêu (Chế Lan Viên)
[67,31] thì quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Đình Thi đã thực sự đem đến cho
ngời đọc một cách sống, cách sống đó không khó khăn phức tạp gì, nhng không
đơn giản để chuyển từ quan niệm thành suy nghĩ việc làm cụ thể. Muốn hiểu đợc ý
nghĩa này ta đi vào tìm hiểu quá trình từ quan niệm đến thực tiễn sáng tác của
Nguyễn Đình Thi .
1.1.2 Từ quan niệm đến thử nghiệm
Từ quan niệm nghệ thuật đến thực tiễn sáng tác là một công việc hết sức khó
khăn của Nguyễn Đình Thi nhng bằng tất cả trí thông minh và sự hiểu biết , cộng
thêm bản lĩnh của ngời luôn khát khao, tìm tòi, Nguyễn Đình Thi đã tiến hành một
cuộc thử nghiệm hết sức táo bạo, mà không cực đoan.
Nghiên cứu thơ Nguyễn Đình Thi thấy ông không tuyệt đối hoá thơ không vần,
không chỉ đi theo tiếng gọi một chiều của thơ không vần. Nói cách khác ông
không hoàn toàn vứt bỏ, đào thải vần điệu. Trong thực tế ông vẫn viết thơ có vần,

nhiều nữa là khác. Tuy nhiên, điều cần nói là những thử nghiệm của ông là loại thơ
không vần. ở đây cảm giác của Tố Hữu có thể xem là một cảm giác tiêu biểu của
ngời tiếp nhận. Tố Hữu cho rằng: Toàn bộ thơ anh Thi chứa đựng một điều lạ.
Đây là một điệu thơ khác của điệu thơ khác[17,220].
Nét khác trên đây là ở chỗ ông giảm thiểu vần điệu đến mức tối đa, tức là ít
quan tâm tới vần điệu và đặc biệt khai thác, phát huy nhịp điệu, nhất là nhịp điệu
bên trong đến mức cao nhất. Nhng một điều chúng ta cần phải biết: Việc giảm
thiểu vần điệu không phải đến Nguyễn Đình Thi mới là ngời đầu tiên mà đã có
trong Thơ mới. Cụ thể trong bài Màu thời gian nổi tiếng của Đoàn Phú Tứ:
Duyên trăm năm đứt đoạn
Tình một thuở của hơng


18

Hơng thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngắt.
Nhng phải đến Nguyễn Đình Thi việc theo đuổi ơm trồng thơ không vần mới đợc thực hiện có ý thức, thành cơ sở lý thuyết, khác xa với tính cách nghiêng về tự
phát trớc đó. Điều này cũng phù hợp với quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Đình
Thi rằng: Vần là một lợi khí đắc lực cho sự truyền cảm nhng không phải hết vần
là hết thơ. Khi làm thơ, thái độ của ngời làm là ghi lại cho đúng cảm xúc. Nếu cảm
xúc gặp đợc vần thì hay. Nhng khi gặp gò bó thì hãy vợt lên nó đã. [17,227]
Khi không coi vần là yếu tố quan trọng của thơ, khi hình thức câu thơ dài
ngắn... là do mạch cảm xúc thì vấn đề còn lại với Nguyễn Đình Thi là làm sao khai
thác, phát huy nhịp điệu ngôn ngữ đến mức cao nhất. Và nhịp điệu đó chính là
nhịp điệu bên trong, nhịp của tâm hồn. Nói nh vậy, không phải Nguyễn Đình Thi
không coi trọng nhạc ngoài tai - thứ nhạc đợc tạo nên bởi vỏ âm thanh của ngôn
ngữ, bởi bằng, trắc... Nhng việc tổ chức âm thanh vào hệ thống nhịp điệu nào đó
phải do cảm xúc gọi ra. Câu thơ Sáng mát trong nh sáng năm xa đợc viết toàn
bằng thanh ngang và thanh sắc, tạo nên một chuỗi âm thanh trong trẻo để diễn tả

cảm giác trong mát. Nhng gặp khi cảm xúc buồn, sâu lắng, hoặc trong những suy
t chiêm nghiệm, câu thơ gợi ra một thanh trầm hết sức tự nhiên:
Một khoảng trời xanh kia
Đâu phải chuyện đùa
(Một khoảng trời xanh kia)
Còn khi gặp tâm hồn vui, phơi phới thanh điệu thờng vang lên ở cung bậc cao:
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cời thiết tha.
(Đất nớc)


19

Và nhiều khi nhiệp điệu bên ngoài đời sống là cơ sở để tạo nên nhịp điệu bên
trong của cảm xúc. Câu thơ Hoa nghệ xôn xao nở tím hồng của ông vừa toát lên
tiếng nhạc xôn xao của hoa, lá, vừa có phần xúc động của thi sĩ trớc cuộc sống
bất diệt, nên thơ, tơi đẹp của thiên nhiên.
Tuy nhiên, Nguyễn Đình Thi cũng đặc biệt chú trọng tới sự hoà điệu của
tiếng nhạc trong thơ. Tiếng nói có nhịp điệu - nhịp điệu những âm thanh vật chất
của tiếng nói con ngời, và nhịp điệu của những ý nghĩ, cảm xúc tình tự hoà quyện
nối tiếp nhau [57,9]. Hay nói cách khác đó là sự hoà điệu giữa tình, ý, hình và sự
âm vang của lời và tiếng, chứ không phải sự phân chia về phơng diện tuyến tính
của ngữ âm. Sự hoà điệu đó vừa hữu hình vừa vô hình. Đọc nhiều bài thơ đợc xem
là thành công của Nguyễn Đình Thi ta thấy sự hoà điệu này: Nhớ, Đất nớc, Buổi
chiều Vàm Cỏ, Lá đỏ, Chia tay trong đêm Hà Nội, Tia nắng, Em gái Trờng Sơn...
Các thế hệ ban đọc yêu thơ Nguyễn Đình Thi thờng hay nhắc đến những câu thơ
mở đầu bài Đất nớc, là một trong những đoạn tiêu biểu cho sự hoà điệu giữa tình,

ý và âm vang của lời và tiếng.
Sáng mát trong nh sáng năm xa
Gió thổi mùa thu hơng cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
ở đây cái nhịp điệu man mác, cái nhịp vận động của hồn ngời đợc cất lên, đợc
phổ vào nhịp thơ. Có thể nói rằng toàn bộ khổ thơ nh một điệu hát của tâm hồn đợc tạo nên bởi: sự hoà điệu của nỗi nhớ mùa thu, hơng cốm, một buổi sáng mát
trong và gió ban mai của sáng năm xa và mùa thu đã xa rồi. Sự hoà điệu này cất
lên thành Nhịp điệu bên trong, nhịp điệu của tâm hồn, đó là cốt lõi của thơ.
Nhng nhịp điệu thơ không chỉ vang lên ở trong chữ, trong câu. Nó còn vang lên
ở khoảng cách giữa những chữ, những dòng và lắng nghe từ khoảng im lặng ta
sẽ dễ dàng nhận thấy tiếng dội vang rất đa dạng và tinh tế trong thơ Nguyễn Đình
Thi. Nếu nh bài thơ Đất nớc là những tiếng dội trầm sâu thì trong bài Ngời Hà Nội
lại mang âm hởng hùng tráng. Đặc biệt nếu trong bài Không nói đợc viết từ những


20

năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp tác giả đã vẽ nên nốt nhạc buồn mênh
mang mà cố nén:
Dừng chân trong ma bay
Ướt đầm mái tóc
Em nhìn đi đâu
Môi em đôi mắt
Còn ôm đây
Nhìn em nữa
Phút giây
Chiều mờ gió hút
Em
Bóng nhỏ
Đờng lầy.

Thì trong bài Trên con đờng nhỏ tác giả thể hiện tiếng dội vang dịu dàng, tha
thiết, tiêu biểu là ở đoạn:
Anh yêu em mỗi ngày nh dòng suối mới
Và đêm thành cánh đồng sao cho anh lợm đầy tay
Những nỗi vất vả thành niềm an ủi
Giọt nớc mắt thành giọt mặt trời
Anh yêu em vậy thôi - Anh có em trong đời
Em niềm thơng của anh, lo lắng của anh
Dòng sông không bao giờ yên của anh.
Và nhiều bài khác đi theo nhiều giai điệu khác nhau, tạo một sức lôi cuốn với
ngời đọc.
Cuối cùng ta cần thấy rõ âm vang trong thơ Nguyễn Đình Thi là âm vang của
thơ trữ tình điệu nói, nên thơ khó ngâm. Nó là thứ thơ để đọc, đọc bằng mắt, đọc
lên nh khi ta nói, hoặc trên nền nhạc. Nhiều bài thơ của ông, bề ngoài tởng nh văn
xuôi, nhng bên trong đầy d vang của chất nhạc. Thơ tự do, thơ không vần tạo cho


21

mỗi bài thơ của Nguyễn Đình Thi một vẻ đẹp riêng về nhịp điệu, một ấn tợng riêng
về âm nhạc.
Nh vậy, nhịp điệu bên trong nó là yếu tố quan trọng nhất của thơ, thơ chỉ cần
tựa vào đó có thể đứng vững. Chính vì thế mà nó đã trở thành một hiện hữu, một
đối tợng để các thi sĩ chiếm lĩnh một cách tự tin hơn. Có thể nói đây là một trong
những vệt mới và khác lạ trong diện mạo thơ. Nhng nó là sự thành công của
Nguyễn Đình Thi trong việc tìm tòi, cách tân và thể nghiệm.
1.2 Hành trình sáng tạo thơ của Nguyễn Đình Thi
Để thấy mối quan hệ giữa quan niệm nghệ thuật và thực tiễn sáng tác của nhà
thơ Nguyễn Đình Thi, không thể chỉ xem xét từng tác phẩm riêng biệt của ông,
mà còn phải nhận thấy sự nghiệp sáng tác của ông hơn 60 năm nh một hành trình

mà mỗi tác phẩm chỉ là một sự kiện, một mắt xích trong hành trình đó. Hớng tiếp
cận này sẽ cung cấp cho chúng ta cái nhìn tổng thể, là cơ sở quan trọng để đi sâu
khám phá về mối quan hệ giữa quan niệm nghệ thuật và thực tiễn sáng tác, cũng
nh tìm hiểu từng vấn đề cụ thể trong toàn bộ sáng tác của nhà thơ.
Do tác động của hoàn cảnh lịch sử và sự vận động trong ý thức của chủ thể nhà
văn, hành trình sáng tạo thơ của Nguyễn Đình Thi có thể chia làm 3 giai đoạn:
Thơ Nguyễn Đình Thi trong những năm kháng chiến chống Pháp; Thơ Nguyễn
Đình Thi trong những năm chống Mỹ cứu nớc; Thơ Nguyễn Đình Thi sau 1975.
Sở dĩ có sự phân chia nh vậy vì thực sự qua mỗi giai đoạn chúng ta thấy thơ
Nguyễn Đình Thi có những chuyển biến đáng kể. Sự chuyển biến đó thể hiện ở
các cấp độ: Đề tài, hình tợng nghệ thuật, thể loại, ngôn ngữ, hệ thống hình ảnh và
giọng điệu. ở những chơng sau của luận văn chúng tôi sẽ cố gắng chỉ rõ sự khác
biệt ấy. Nhng chúng tôi cũng xin lu ý rằng: Sự chuyển biến trong sáng tác thơ
Nguyễn Đình Thi qua các chặng chỉ là sự chuyển biến mang tính tiếp nối, không
phải là những bớc ngoặt đa thơ ông rẽ sang hớng đi khác mà đó là sự chuyển hớng tiến bộ hợp với xu thế thời đại lúc bấy giờ.
Trong phần này chúng tôi chỉ xin đề cập đến những nét chung nhất của thơ
ông.


22

1.2.1 Thơ Nguyễn Đình Thi trong kháng chiến chống Pháp
Trong những năm kháng chiến, ngời thanh niên tri thức say mê lý tởng đã đến
với cách mạng với thơ, văn trong niềm tha thiết. Trong cuộc sống với t cách là ngời
chiến sĩ trên mặt trận văn nghệ nh ngời bộ hành không mệt mỏi trên chặng đờng
dài, Nguyễn Đình Thi đã có những tìm tòi thể nghiệm trong thơ và đóng góp một
phần quan trọng cho nền văn học mới.
Vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, trong lúc một số nhà
thơ lớp trớc đang chuyển mình với cách mạng thì Nguyễn Đình Thi đã đem đến
cho thơ một tiếng nói mới với phong cách khác lạ. Ông là nhà thơ cách mạng

không quyến luyến với quá khứ tủi buồn nào. Ông đến với thơ từ triết học và văn
xuôi chính luận và đến với cuộc đời mới với những suy nghĩ hồn nhiên chân thật
của tâm hồn. Hơn đâu hết ông miêu tả cuộc sống trong vẻ tự nhiên dung dị của nó.
Chất thơ không cần tô điểm thi vị nhiều. Chất thơ chính là sự bình dị mà hết sức
gợi cảm.
Trong thơ ông cái quan trọng nhất không phải tìm đến các hình ảnh lạ mà ông
mong muốn ngời đọc chú ý tới cuộc sống quen thuộc mà mỗi lần có thể nhận ra
một vẻ đẹp mới. Một dòng sông quê hơng Thuyền ngợc chồm trên sóng - Gió
thổi phồng buồm nâu, một bầu trời trong xanh Trời thu thay áo mới - Trong
biếc nói cời thiết tha, một con đờng núi Lối mòn không dấu chân ... Dãi áo chàm
bay múa cho tới : "Những ngả đờng bát ngát - Những dòng sông đỏ nặng phù sa.
Và đất nớc đợc ông khái quát đẹp và nên thơ:
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trờng Sơn sớm chiều
(Bài thơ Hắc Hải)
Đất nớc tuy đẹp nhng còn nhiều vất vả gian lao :
Quê hơng biết mấy thơng yêu
Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thơng đau
Mặt ngời vất vả in sâu


23

Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn.
(Bài thơ Hắc Hải).
Và đất nớc qua những năm kháng chiến, ngời dân phải trải qua những năm
tháng ác liệt của vùng đất giặc chiếm đóng Ôi những cánh đồng quê chảy máu Dây thép gai đâm nát trời chiều Đất nớc. Những vất vả của ngời phụ nữ trong
chiến tranh: Suốt đêm trờng súng nổ - Em gánh con đi đâu?. Nh vậy, nỗi đau đất
nớc bị chiến tranh tàn phá đã trở thành nỗi ám ảnh nặng nề, nhức nhối trong nhiều

bài thơ của Nguyễn Đình Thi. Đau thơng trở thành một trong chủ âm của những
bài thơ và đất nớc trở thành điệp khúc bỏng rát trái tim ông. Bên cạnh đó đất nớc
có truyền thống lịch sử bất khuất. Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất - Những buổi
ngày xa vọng nói về. Và Đất nớc của những ngời áo vải - Đã đứng lên thành
những anh hùng. Bài thơ Đất nớc kết thúc bằng những hình ảnh chói lọi, kỳ vĩ với
giọng điệu tráng ca.
Súng nổ rung trời giận dữ
Ngời lên nh nớc vỡ bờ
Nớc Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà.
Những câu thơ ấy đã khắc, tạc vào thời gian một bức tợng đài hoành tráng trong
niềm tự hào sâu sắc về khí thế cách mạng vĩ đại và t thế vơn mình kì diệu của đất
nớc trong thời đại mới.
Nguyễn Đình Thi có ý thức chọn lọc những hình ảnh tiêu biểu để qua đấy thấy
đợc diện mạo của đời sống. Trong khuynh hớng chung của thơ kháng chiến đang
trở về gắn bó với hiện thực lớn của cuộc chiến đấu, Nguyễn Đình Thi đi sâu vào
đời sống chiến trờng. Ông không tham chất liệu, không kể lể trong thơ, không
miêu tả một đối tợng cụ thể nào, hình ảnh đợc chọn lọc và bố trí thoáng trong
mạch cảm nghĩ làm điểm tựa cho những liên tởng. Chính vì vậy cái thật của sự
sống trong chiến tranh đợc hiện lên một cách sống động. Đó là những khung cảnh
sinh hoạt kháng chiến vừa có hình ảnh của cuộc đời cụ thể, vừa lắng sâu tâm tình.
Cuộc chia li "không nói", chiều hành quân qua đờng số 4, nỗi nhớ trong xa cách


24

của ngời chiến sĩ trong tấm lòng đồng đội, không khí chuẩn bị cho ngày mai ra
trận, chiến sĩ Điện Biên - Bài ca lớn của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. "Ngời
chiến sĩ" trong thơ Nguyễn Đình Thi trong những năm kháng chiến chống Pháp
mang một vẻ đẹp riêng. Tuy còn ít những nét khắc hoạ cụ thể nhng họ có một đời

sống tâm hồn đẹp và tinh tế:
Gió cháy mặt ngời tử sĩ
áo rách phơi sờn tím lạnh
(Lá cờ)
Nhng cũng đầy hi sinh gian khổ:
Ngày nắng đốt theo đêm ma dội
Mỗi bớc đờng mỗi bớc hi sinh
(Đất nớc)
Họ ra đi vì nghĩa lớn:
Còn một em bé rách
Lòng ta vẫn bồn chồn
(Chào)
Mặc dầu hết sức gian khổ, đầy sự hi sinh mất mát nhng hình ảnh ngời lính lại
hiện lên thật là thơ mộng: Giữa súng đạn ngổn ngang bờ núi - Đoàn quân nằm
ngủ dới mây trời Bài thơ viết cạnh đồn Tây và cũng đầy lạc quan: Những tiếng
nói vang sông - Những mũ nan san sát - Một đoàn bộ đội đông... Nắng chiếu mặt
đỏ hồng - Các anh cời ha hả. Trong tình yêu, dới ngòi bút của Nguyễn Đình Thi
cũng đợc lí tởng hoá: Nh ánh sao sáng con đờng đi tới, tình yêu nh ngọn lửa sởi
ấm ngời ra trận. Và cao hơn là tình yêu ấy hoà quyện vào tình yêu đất nớc: Anh
yêu em nh yêu đất nớc - Vất vả đau thơng tơi thắm vô ngần Nhớ .
Trong khung cảnh kháng chiến Nguyễn Đình Thi cũng có những áng thơ thể
hiện những khung cảnh ác liệt:
Đất trời mờ sắt thép
Chớp giật xé ngày đêm
Và có những khoảnh khắc:


25

Cỏ ngập vào lối bản cũ

Đoàn dân công bớc động trời khuya
Nhng rồi những âm vang đã báo hiệu một ngày mới bắt đầu:
Đàn sơn ca bay lên gọi sáng
Tiếng hót vang trên cánh đồng
Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Đình Thi đi vào đời sống chiến
đấu trong nhiều năm với t cách là ngời lính. Thơ ông có những trải nghiệm của
cuộc đời. Đặc biệt ông đã đem vào thơ chất lí tởng và niềm mơ ớc. Trong thơ
Nguyễn Đình Thi thờng sử dụng yếu tố xác định kết hợp với cái không xác định.
Chính vì vậy bức tranh về cuộc sống không chỉ hiện ra ở một chiều. Nó hiện ra ở
nhiều góc độ khác nhau do đó hiện thực đợc mở ra thêm nhiều lớp mới. Bài thơ
Đất nớc là một sáng tác hay tiêu biểu cho phẩm chất trên. Chỗ mạnh trong thơ
Nguyễn Đình Thi là khả năng liên kết trên nhiều hình ảnh khác nhau về cuộc sống.
Ưu điểm trên đã tạo cho thơ sức liên tởng giữa không gian và thời gian. Đất nớc
trong quá khứ với những ngời cha bao giờ khuất. Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
- Những buổi ngày xa vọng nói về. Và với hiện tại trong đau thơng chiến đấu nhng đã Ngời lên nét mặt quê hơng. Đất nớc về những ớc vọng tơng lai Trán cháy
rực nghĩ trời đất mới - Lòng ta bát ngát ánh bình minh. Đó là thế mạnh của
Nguyễn Đình Thi trong việc khái quát hoá nghệ thuật. Điều này đợc thể hiện rõ
trong tập thơ Ngời chiến sĩ và sức khái quát nghệ thuật đó đợc rút ra từ những hình
ảnh bên trong.
Thơ Nguyễn Đình Thi trong những năm chống Pháp là loại thơ gây ấn tợng cho
độc giả. Sức mạnh của thơ Nguyễn Đình Thi vẫn là t tởng và tình cảm với những
vấn đề về đất nớc, dân tộc trong chiến tranh, tuy cha có sức bao quát toàn diện giai
đoạn này nhng Nguyễn Đình Thi đã thể hiện phong cách độc đáo và sau này chúng
ta khó tìm thấy trong lớp nhà thơ trẻ.
1.2.2 Thơ Nguyễn Đình Thi trong những năm chống Mỹ
Nếu trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Đình Thi đến với chiến trờng
ở độ tuổi còn tơi trẻ, thanh xuân thì những năm chống Mỹ cứu nớc, Nguyễn Đình



×