Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

So sánh từ loại phụ từ trong tiếng việt và tiếng thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.29 KB, 86 trang )

1

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................

5

1. Lí do chọn đề tài.....................................................................................

5

2. Đối tượng, mục đích và nhiệm vụ của luận văn.....................................

5

3. Lịch sử vấn đề..................................................................................... ...

6

4. Phương pháp nghiên cứu........................................................................

12

5. Cái mới của đề tài...................................................................................

12

6. Bố cục của luận văn................................................................................

12


NỘI DUNG................................................................................................

14

Chương 1: Những giới thuyết liên quan tới vấn đề phụ từ trong
tiếng Việt và tiếng Thái............................................................................

14

1.1. Các khái niệm......................................................................................

14

1.1.1. Khái niệm về tiếng Việt....................................................................

14

1.1.2. Khái niệm về tiếng Thái...................................................................

15

1.1.3. Đặc trưng của ngôn ngữ loại hình đơn lập.......................................

16

1.1.4. Quan niệm về phụ từ trong tiếng Việt..............................................

17

1.1.5. Quan niệm về phụ từ trong tiếng Thái..............................................


18

1.2. Vị trí của phụ từ...................................................................................

19

1.2.1. Phụ từ đi trước động từ và tính từ.....................................................

19

1.2.2. Phụ từ đi sau động từ và tính từ........................................................

21

1.2.3. Nhóm phụ từ vừa có khả năng đứng trước và vừa có khả năng
đứng sau động từ và tính từ..............................................................

21

1.3. Đặc điểm về mặt ý nghĩa của phụ từ...................................................

21

Chương 2 : So sánh phụ từ đi trước động từ và tính từ trong tiếng Việt và
tiếng Thái..................................................................................................

26

2.1. Về vấn đề phụ từ đi trước động từ và tính từ trong tiếng Việt và

tiếng Thái............................................................................................

26

2.2. Miêu tả phụ từ đi trước động từ và tính từ trong tiếng Việt và
tiếng Thái............................................................................................

28


2
2.2.1. Nhóm phụ từ chỉ ý nghĩa về thời gian..............................................

28

2.2.2. Nhóm phụ từ chỉ ý nghĩa tiếp diễn của hoạt động, trạng thái..........

35

2.2.3. Nhóm phụ từ chỉ ý nghĩa thống nhất, tiếp diễn tương tự của
hoạt động trạng thái..........................................................................

38

2.2.4. Nhóm phụ từ chỉ ý nghĩa lặp lại nhiều lần của hoạt động,
trạng thái...........................................................................................

39

2.2.5. Nhóm phụ từ chỉ ý khẳng định hay phủ định....................................


41

2.2.6. Nhóm phụ từ chỉ ý nghĩa cầu khiến..................................................

43

2.2.7. Nhóm phụ từ đi trước tính từ để chỉ ý nghĩa mức độ........................

44

2.3. Sự đồng nhất và khác biệt giữa phụ từ đi trước động từ và tính từ
trong tiếng Việt và tiếng Thái..............................................................

46

2.3.1. Sự đồng nhất giữa phụ từ đi trước động từ trong Việt và tiếng
Thái....................................................................................................

46

2.3.2. Sự khác biệt giữa phụ từ đi trước động từ trong Việt và tiếng
Thái....................................................................................................

52

Chương 3 : So sánh phụ từ đi sau động từ và tính từ trong tiếng
Việt và tiếng Thái......................................................................................

55


3.1. Về vấn đề phụ từ đi sau động từ và tính từ trong tiếng Việt và
tiếng Thái.............................................................................................

55

3.2. Miêu tả phụ từ đi sau động từ và tính từ trong tiếng Việt và
tiếng Thái.............................................................................................

57

3.2.1. Nhóm phụ từ chỉ ý nghĩa cầu khiến..................................................

57

3.2.2. Nhóm phụ từ chỉ ý nghĩa kết quả......................................................

58

3.2.3. Nhóm phụ từ chỉ ý nghĩa kết thúc.....................................................

61

3.2.4. Nhóm phụ từ có ý nghĩa chỉ hướng...................................................

63

3.2.5. Nhóm phụ từ có ý nghĩa tự lực..........................................................

73


3.2.6. Nhóm phụ từ có ý nghĩa cùng chung của hoạt động, trạng thái........

74

3.2.7. Phụ từ chỉ ý nghĩa tương hỗ..............................................................

75

3.2.8. Nhóm phụ từ biểu thị sự duy trì trong thời gian...............................

76

3.2.9. Nhóm phụ từ chỉ ý nghĩa mức độ....................................................

78


3
3.3. Sự đồng nhất và khác biệt giữa phụ từ đi sau động từ và tính từ
trong tiếng Việt và tiếng Thái...........................................................

80

3.3.1. Sự đồng nhất giữa phụ từ đi sau động từ và tính từ
trong tiếng Việt và tiếng Thái...........................................................

80

3.3.2. Sự khác biệt giữa phụ từ đi sau động từ và tính từ

trong tiếng Việt và tiếng Thái...........................................................

80

KẾT LUẬN............................................................................................

85

TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………

87


4

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong hệ thống từ loại tiếng Việt, phụ từ là những từ loại thuộc
mảng hư từ. Phụ từ đi kèm danh từ, động từ và tính từ để bổ sung ý nghĩa ngữ
pháp cho các từ này. Phụ từ được các nhà ngôn ngữ quan tâm nghiên cứu từ
nhiều góc độ khác nhau nhưng cho đến nay, việc nghiên cứu phụ từ tiếng Việt
bằng cách đối chiếu và so sánh nó với nhóm phụ từ trong tiếng Thái chưa có
công trình nào đề cập tới. Vì vậy chúng tôi chọn đề tài này nhằm đi vào tìm
hiểu vai trò và hoạt động của phụ từ giữa hai ngôn ngữ. Qua đó rút ra sự đồng
nhất và khác biệt giữa chúng.
Hiện nay, việc nghiên cứu và giảng dạy tiếng Việt tại Thái Lan cũng
như việc giảng dạy tiếng Thái tại Việt Nam khá phổ biến. Tuy nhiên các công
trình khoa học đề cập tới vấn đề so sánh, đối chiếu giữa hai ngôn ngữ Việt Nam
– Thái Lan vẫn còn rất ít. Chúng ta cần có sự tìm hiểu sâu về nhiều mặt (ngữ
âm, ngữ pháp, từ vựng) đặc biệt là sự hoạt động của các lớp từ loại trong thực

tế giao tiếp của cả hai ngôn ngữ. Đề tài của chúng tôi nhằm tới mục đích này.
Bàn về các phụ từ, các nhà ngôn ngữ học đã cho rằng, tiếng Việt và tiếng
Thái cùng thuộc nhóm ngôn ngữ đơn lập mà lớp phụ từ có vai trò rất quan
trọng trong việc biểu hiện ý nghĩa về thức, thời, và mức độ của động từ, tính từ.
Tuy nhiên biểu hiện của chúng trong giao tiếp lại có sự đa dạng, phong phú và
có nhiều nhóm ý nghĩa khác nhau. Việc đi vào tìm hiểu các nhóm ý nghĩa này
sẽ giúp cho việc giảng dạy phụ từ trong hai ngôn ngữ Việt – Thái được tốt hơn.
2. Đối tượng, mục đích và nhiệm vụ của luận văn
2.1. Mục đích của luận văn
Đề tài của chúng tôi hướng tới hai mục đích bao gồm : Nghiên cứu phụ
từ trong tiếng Việt so sánh với tiếng Thái để khẳng định giá trị, vai trò ngữ
pháp của phụ từ trong ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập như tiếng Việt và tiếng
Thái Lan.


5
Trên cơ sở miêu tả, đối chiếu – so sánh vai trò và hoạt động của phụ từ
trong tiếng Việt và tiếng Thái, chúng ta có thể rút ra nét tương đồng và khác
biệt giữa phụ từ trong hai ngôn ngữ để phục vụ cho việc giảng dạy tiếng Việt
và tiếng Thái.
2.2. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đề tài này chọn đối tượng nghiên cứu là các phụ từ tiếng Việt và tiếng
Thái trong thực tế giao tiếp. Chúng tôi đã thu thập 1.500 phiếu tư liệu từ các
lưu học sinh Việt Nam và sinh viên Thái Lan đang học tại trường Đại học
Nakhonphanôm, vương quốc Thái Lan.
2.3. Nhiệm vụ của luận văn
Thống kê, phân loại, quy nhóm các phụ từ đi trước và sau động từ và
tính từ trong tiếng Việt và tiếng Thái Lan. Miêu tả hoạt động ngữ pháp và vai
trò của từng phụ từ trong tiếng Việt và tiếng Thái Lan. So sánh cách sử dụng
phụ từ đi trước và sau động từ và tính từ tương đương giữa hai ngôn ngữ Việt

Nam – Thái Lan để qua đó rút ra những nét tương đồng và khác biệt giữa phụ
từ trong tiếng Việt và tiếng Thái.
3. Lịch sử vấn đề
Việc nghiên cứu phụ từ trong tiếng Việt, từ trước đến nay đã có nhiều
công trình đề cập tới. Đó là công trình của các tác giả như : Lê Văn Lý, Nguyễn
Kim Thản, Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Anh Quế, Đinh Văn Đức, Diệp Quang
Ban, Nguyễn Hữu Quỳnh, Đỗ Thị Kim Liên...
Nguyễn Kim Thản trong cuốn “Động từ trong tiếng Việt” đã viết về loại
phụ từ đi kèm động từ. Trong chương viết về “Hư từ của động từ tiếng Việt”.
Ông xếp phụ từ vào các nhóm :
(1.) Mức độ : Rất, hơi, khí, khá, lắm, quá...
(2.) Tính đồng nhất : Cũng, cùng, đều...
(3.) Thể trạng và thời gian : Đã, đang, sẽ, vẫn, vừa, mới, rồi...
(4.) Sự khẳng định hay phủ định : Chưa, không, chẳng, đừng, chớ...
(5.) Phương hướng: Ra, vào, lên, xuống...
(6.) Sự lặp lại : Đi, lại, ra, vào...


6
(7.) Kết quả : Được, mất, phả...
(8.) Định hướng : Cho, lấy...
Trong đó, các nhóm 1, 2, 3, 4 ông quy vào loại “phó từ”. Đặc điểm ngữ
pháp chung của những từ này là bao giờ cũng phụ thuộc vào vị từ. Các nhóm
còn lại (5, 6, 7, 8) ông gọi là “phó động từ”. Những phụ từ này chỉ phục vụ
động từ, và là những phụ từ đặc biệt của động từ [29, 63].
Nguyễn Anh Quế cũng đã đề cập tới phụ từ trong cuốn “Hư từ trong
tiếng Việt hiện đại”. Trong công trình này, ông xếp phụ từ vào nhóm các hư từ
chuyên dùng làm thành tố phụ đoản ngữ.
Nguyễn Anh Quế chia phó từ ra thành các nhóm :
(1.) Nhóm biểu thị ý nghĩa tiếp diễn : Cũng, vẫn, còn, cứ, đều (thường

đứng trước động từ và tính từ).
(2.) Nhóm biểu thị ý nghĩa thời gian : Đã, đang, sẽ, vừa, mới (thường
đứng trước vị từ trung tâm).
(3.) Nhóm biểu thị ý nghĩa phủ định : Không, chưa, chẳng (vị trí đứng
sát liền trước động từ).
(4.) Nhóm biểu thị ý nghĩa cầu khiến : Hãy, đừng, chớ (vị trí đứng sát
liền trước động từ.
(5.) Nhóm biểu thị mức độ : Rất, hơi, khí, khá, lắm, cực kỳ, vô cùng
(nhóm này hay bổ sung ý nghĩa cho tính từ nhiều hơn động từ).
(6.) Nhóm biểu thị ý nghĩa tiếp diễn : Luôn, mãi, bỗng, dần, dần dần,
mãi mãi ,luôn luôn, thỉnh thoảng (thường đứng sau động từ, tính từ).
(7.) Nhóm phó từ biểu thị ý nghĩa kết thúc : Xong, rồi.
Nguyễn Anh Quế coi những phó từ trong nhóm 1-6 là những phó từ đặc
biệt vì quan hệ giữa các phó từ này với động từ, tính từ khá lỏng lẻo, dường
như chỉ là quan hệ tạm thời. Ông cho rằng sở dĩ có tình hình đó là vì so với các
nhóm khác, nhóm này ngoài ý nghĩa ngữ pháp còn có một sắc thái ý nghĩa từ
vựng nhất định, tuy hết sức mờ nhạt. Về vị trí : Nhóm từ này không thật xác
định, nhìn chung là khá tự do.


7
Đinh Văn Đức trong cuốn “Ngữ pháp Tiếng Việt” (từ loại) không nghiên
cứu phụ từ như một chương riêng mà đặt trong mỗi quan hệ với động từ, tính từ
mà ông gọi là : “Động ngữ”, “tính ngữ”. Trong động ngữ ông lại chia ra phần
đầu của động ngữ và phần cuối của động ngữ. Phần đầu của động ngữ, theo
ông có những nhóm phụ từ tiêu biểu sau :
(1.) Những từ chỉ sự tồn tại của hoạt động và quan hệ của hoạt động đội
với thời gian : Đã, sẽ, đang, từng, còn, chưa, sắp.
(2.) Các từ phủ định : Không, chẳng, chưa.
(3.) Các từ chỉ đặc điểm của hoạt động trong quan hệ với chủ thể : Cũng,

vẫn, đều, lại, cứ, hay, chỉ.
(4.) Nhóm các từ với ý nghĩa cách thức diễn tiến của vận động : Cũng,
vẫn, đều, cứ...
(5.) Nhóm các từ với ý nghĩa ngăn cản, khuyên bảo : Đừng, chớ, hãy,
phải, cần, nên.
(6.) Nhóm các từ với ý nghía mức độ của vận động : Rất, hơi, khí, quá.
Ngoài ra cũng còn một vài nhóm khác nữa với những khía cạnh khác
nhau về mặt ý nghía, có nhóm chỉ gồm có một từ (chẳng hạn như từ “tự” với
sắc thái nhấn mạnh là vận động được hoàn thành bởi chủ thể).
Về các thành tố phụ ở phần cuối động ngữ, theo Đinh Văn Đức, ngoại trừ
những thực từ có khả năng phát triển, mở rộng, còn lại là các từ thiên về ngữ
pháp với những nhóm khác nhau, cụ thể là :
(1.) Nhóm chỉ hướng, chỉ kết quả : Ra, vào, lên, xuống, về, lại...
(2.) Nhóm chỉ sự tiếp nhận, biến mất : Được, phải, thấy, mất.
(3.) Nhóm chỉ sự kết thúc của hoạt động : Xong, nốt, hết.
(4.) Nhóm bổ sung đặc điểm của hành động : Nhau, lấy [12, 128 -132].
Các thành tố phụ của tính từ trong khuôn khổ cấu trúc tính ngữ, theo ông
cũng có thể phân ra các kiểu loại. Trước hết có thể thấy :
(1.) Các từ phụ của tính từ cũng đồng thời là từ phụ của động từ.
(2.) Các từ phụ chuyên dụng của tính từ.


8
Trong danh sách các từ phụ của động từ, tính từ có thể kết hợp với hầu
hết các nhóm, ngoại trừ nhóm từ phụ với ý nghĩa mệnh lệnh, khuyên bảo
(đứng, chớ ,hãy) khá hạn chế.
Còn nhóm các từ phụ chuyên dụng của tính từ trước hết phải kể đến
nhóm từ chỉ mức độ : Rất, hơi, khí, quá, cực kỳ, thật, vô cùng, tuyệt, tương đối,
thêm, hơn, hẳn [12, 161].
Như vậy nhóm từ chỉ mức độ của Đinh Văn Đức phong phú hơn các tác

giả khác.
Cũng như một số tác giả, Nguyễn Hữu Quỳnh trong cuốn “Tiếng Vịêt
hiện đại” gọi phụ từ với tên gọi là “phó từ”. Theo ông, căn cừ vào ý nghĩa ngữ
pháp, phó từ có thể chia ra các nhóm sau :
(1.) Nhóm phó từ biểu thị ý nghĩa về số 1ượng toàn thể hay riêng lẻ,
thường dùng làm từ kèm danh từ : Những, các, mọi, mới ,một ,từng...
(2.) Nhóm phó từ biểu thị ý nghĩa thời gian thường đi kèm với động từ,
tính từ : Đang(đương), đã, vừa, mới, sẽ.
(3.) Phó từ biểu thị ý nghĩa phủ định thường đi kèm với động từ, tính từ :
Không, chưa, chẳng...
(4.) Phó từ biểu thị ý nghĩa yêu cầu, sai khiến, khích lệ thường đặt trước
động từ : Hãy, đi, đừng, chớ...
(5.) Phó từ biểu thị ý nghĩa đồng nhất hay liên tục thường đặt trước động
từ ,tính từ : Cũng, đều, vẫn, còn, lại, cứ...
(6.) Nhóm phó từ chỉ mức độ thường đi kèm tính từ : Rất, khá, hơi, khí,
quá, lắm, cực kỳ, vô cùng...
(7.) Nhóm phó từ biểu thị sự diễn biến của quá trình hoặc trạng thái hành
động thường đi kèm động từ, tính từ : Càng, lại, luôn, mãi, bèn, bỗng, thường,
dần, dần dần, mãi mãi, luôn luôn, thỉnh thoảng...
(8.) Phó từ biểu thị ý nghĩa kết thúc hành động thường đặt sau động từ :
Xong, rồi [25, 168].
Diệp Quang Ban, trong cuốn “Ngữ pháp Tiếng Việt” (tập 2) đã đưa ra
danh sách những phụ từ làm thành phần phụ trong cụm động từ phong phú hơn


9
các tác giả khác. Theo ông, ở cụm động từ, các phụ từ làm thành tố phụ trước
động từ có thể chia thành nhiều nhóm nhỏ với những ý nghía ngữ pháp riêng
như sau :
(1.) Những từ chỉ sự tiếp diễn, tương tự của hoạt động, trạng thái như :

Đều, cũng, vẫn, cứ, còn...
(2.) Những từ chỉ quan hệ thời gian của hoạt động, trạng thái như : Từng,
vừa, mới, đã, sẽ, đang...
(3.) Những từ chỉ tần số (số lần) khái quát của sự xuất hiện hoạt động,
trạng thái, như : Thường, hay, năng, ít, hiếm...
(4.) Những từ chỉ mức độ của trạng thái nhu : Rất, hơi, khí, khá...
(5.) Những từ nêu ý nghĩa khẳng định hay phủ định như : Có, không,
chưa, chẳng...
(6.) Những từ nêu ý sai khiến, khuyên như : Hãy, đừng, chớ.
Theo ông, các phụ từ làm thành tố phụ sau cụm động từ gồm các nhóm :
(1.) Nhóm từ chỉ sự kết thúc gồm có : Rồi, xong.
(2.) Nhóm từ chỉ ý cầu khiến (mệnh lệnh, mời mọc, rủ rê) dùng với
người ngang hàng hoặc bề dưới gồm có : Đi, nào, thôi...
(3.) Nhóm từ chỉ kết quả gồm có : Được, mất, phải.
(4.) Từ “lấy”chỉ sự tự lực.
(5.) Nhóm từ chỉ sự cùng chung gồm có : Với, cùng.
(6.) Từ “nhau” chỉ sự qua lại, tương hỗ.
(7.) Nhóm từ chỉ hướng như : Ra, vào, tới, lui, quá, lại.. đi với động từ
không chỉ sự di chuyển để nêu diễn biến của hoạt động có liên quan đến hướng
một cách trừu tượng và tinh tế.
(8.) Nhóm từ chỉ mức độ như : Lắm, quá.
(9.) Nhóm từ chỉ cách thức diễn ra trong thời gian của hoạt động, trạng
thái, gồm có : Ngay, liền, tức khắc, tức thì, dần, dần dần, từ từ...
So với một số tác giả Diệp Quang Ban thêm một số nhóm từ như :
- Nhóm từ chỉ sự cùng chung.
- Nhóm từ chỉ sự qua lại tương hỗ.


10
Đỗ Thị Kim Liên trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt” đã nhận định “Phụ

từ không mang ý nghĩa từ vựng chân thực mà chỉ đi kèm danh từ, động từ, tính
từ để bổ sung ý nghĩa phụ cho danh từ, động từ và tính từ”.
Tác giả đã chia phụ từ thành các tiểu nhóm bằng cách dựa vào khả năng
làm thành tố phụ cho danh từ, động từ, tính từ như sau :
“Định từ” là những từ chuyên đi kèm trước danh từ :
(1.) Định từ “cái” chỉ xuất.
(2.) Định từ chỉ lượng gồm có từ : Mỗi, từng, mọi, mấy.
(3.) Định từ chỉ ý nghĩa số : Những, các, một.
“Phó từ” đứng trước động từ, tính từ :
(1.) Nhóm phó từ chỉ thời gian của hành động : Đã, sẽ, đang, sắp, vừa,
mới, bỗng, còn...
(2.) Nhóm phó từ chỉ sự tiếp diễn của hành động : Đều, cũng, vẫn, cứ,
còn, lại, luôn, dần, thỉnh thoảng...
(3.) Nhóm phó từ chỉ sự phủ định của hành động : Không, chưa, chẳng,
chỉ, có...
(4.) Nhóm phó từ chỉ sự cầu khiến : Hãy, đừng, chớ...
(5.) Nhóm phó từ chỉ mức độ thường đi với tính từ hoặc nhóm động từ
tình thái, động từ trạng thái : Quá, rất, hơi, cực kì, vô cùng, tuyệt, khá, khí...
(6.) Nhóm phó từ chỉ sự diễn biến bất ngờ của hành động : Bỗng, bỗng
nhiên, bỗng dưng, chợt...
“Phó từ” đứng sau động từ-tính từ :
(1.) Nhóm phó từ chỉ sự kết thúc hành động : Xong, rồi.
(2.) Nhóm phó từ chỉ kết quả của hành động : Được, mất, ra, nổi...
(3.) Nhóm phó từ chỉ hành động tự mình : lấy...
(4.) Nhóm phó từ chỉ hướng hành động : Ra, vào, lên, xuống, sang,
qua,
về, lại, tới, lui...
(5.) Nhóm phó từ chỉ sự tiếp tục : Nữa, mãi, hoài, luôn...
(6.) Nhóm phó từ chỉ sự tương hỗ : nhau.



11
Ngoài ra, Đỗ Thị Kim Liên còn chia phó từ ra thành một nhóm nữa là
nhóm phó từ vừa có khả năng đứng trước vừa có khả năng đứng sau động từ
và tính từ : Mãi, vô cùng, tuyệt, cực kì, luôn luôn, mãi mãi, quá, luôn, dần, liền.
Trong đề tài của chúng tôi, khái niệm phụ từ mà chúng tôi sử dụng chỉ
trùng với nhóm phó từ của tác gỉa Đỗ Thị Kim Liên, có nghĩa là chỉ khảo sát
nhóm phụ từ đi trước và sau động từ, tính từ (trong cấu trúc cụm từ).
Ngoài ra, còn có các công trình nghiên cứu khác như “Ngữ pháp tiếng
Việt” của “Uỷ ban khoa học xã hội”, “Tiếng Việt thực hành” của Hữu Đạt...
Nhìn chung, việc nghiên cứu phụ từ trong tiếng Việt của những tác giả nêu trên
đã đạt được kết quả nhất định trong những việc sau :
(1.) Nghiên cứu phụ từ với tư cách là một từ loại trong tiếng Việt thường
đi kèm với động từ, tính từ để bổ sung ý nghĩa cho chúng.
(2.) Phân loại và quy nhóm các phụ từ.
(3.) Miêu tả ý nghĩa của phụ từ.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu phụ từ bằng cách so sánh, đối chiếu với phụ
từ trong tiếng Thái thì chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện việc so sánh, đối chiếu phụ từ giữa tiếng Việt và tiếng
Thái, chúng tôi sử dụng các phương pháp : Thống kê và phân loại, phương
pháp miêu tả, phương pháp so sánh và đối chiếu, phương pháp phân tích tổng
hợp.
5. Những đóng góp của đề tài
Trên cơ sở tiếp thu các thành tựu của những người đi trước, chúng tôi đi
vào nghiên cứu so sánh và đối chiếu phụ từ trong tiếng Việt và tiếng Thái. Từ
đó, rút ra những giá trị ngữ pháp, nét đồng nhất và khác biệt để giúp cho việc
giảng dạy, nghiên cứu và dịch thuật giữa hai ngôn ngữ. Đồng thời chứng minh
giá trị của phụ từ trong ngôn ngữ loại hình đơn lập như tiếng Việt và tiếng Thái
Lan.

6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba


12
chương :
Chương 1 : Những giới thuyết liên quan tới vấn đề phụ từ trong tiếng
Việt và tiếng Thái.
Chương 2 : So sánh phụ từ đi trước động từ và tính từ trong tiếng Việt
và tiếng Thái.
Chương 3 : So sánh phụ từ đi sau động từ và tính từ trong tiếng Việt
và tiếng Thái.


13

CHƯƠNG 1
NHỮNG GIỚI THUYẾT LIÊN QUAN TỚI VẤN ĐỀ PHỤ TỪ
TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG THÁI
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Khái niệm về tiếng Việt
Hiện nay, quan điểm xếp tiếng Việt vào họ Nam Á (được nêu ra từ năm
1856) được nhiều người chấp nhận và được coi là có cơ sở khoa học nhất. Tuy
nhiên, có những ý kiến khác không xếp tiếng Việt vào họ ngôn ngữ này.
Ý kiến trước tiên phải kể đến là của Taberd (1838) : “Tiếng Việt chỉ là
một nhánh bị thoái hoá của tiếng Hán”. Cơ sở để Taberd đưa ra ý kiến này là
trong vốn từ của tiếng Việt hiện nay thì từ vựng có nguồn gốc Hán chiếm đa số.
Tuy nhiên, mặc dù có tới 75% từ vựng tiếng Việt có gốc Hán nhưng đại đa số
những từ đó đều là những từ văn hoá (những từ thể hiện trình độ phát triển của
xã hội). Do đó, chúng phải là những từ vay mượn, chứ không phải là những từ

mang tính nguồn gốc. Và theo Maspéro (1912) : Bất cứ từ Hán nào vào tiếng
Việt đều phải chịu sự chi phối của cơ cấu tiếng Việt.
Loại ý kiến thứ hai là những ý kiến xếp tiếng Việt vào họ ngôn ngữ Nam
Đảo. Đó là ý kiến của Bình Nguyên Lộc với hai cuốn Nguồn gốc Mã Lai của
dân tộc Việt Nam (Sài Gòn, 1972) và Lột trần Việt ngữ (Sài Gòn, 1973), và gần
đây là ý kiến của tác giả Hồ Lê (1996). Cơ sở của những ý kiến này là sự tương
ứng từ vựng giữa tiếng Việt với các ngôn ngữ khác nhau trong họ Nam Đảo.
Ý kiến thứ ba, đáng chú ý hơn cả, cho rằng tiếng Việt là một ngôn ngữ
thuộc họ ngôn ngữ Thái. Cần phải nói ngay rằng, trong số những ý kiến không
xếp tiếng Việt vào họ ngôn ngữ Nam Á thì cách lí giải cho ý kiến này có vai trò
quan trọng nhất. Ý kiến này được Henry Maspéro đề xuất vào đầu thế kỉ 20, và
trong một thời gian dài, nó đã chi phối quan niệm về phân loại nguồn gốc ngôn
ngữ của các nhà ngôn ngữ trên thế giới. Tuy nhiên, những luận điểm của


14
Maspéro không phải là không có hạn chế và những hạn chế đó sau này đã được
A.G. Haudricourt chỉ ra một cách thuyết phục.
Trong hai năm 1953 và 1954, A.G. Haudricourt đã lần lượt công bố hai
bài báo quan trọng :
- Về nguồn gốc Nam Á của tiếng Việt
- Về nguồn gốc các thanh trong tiếng Việt
Với hai bài báo này, ông đề nghị phải xếp tiếng Việt vào họ ngôn ngữ
Nam Á, chứ không phải là họ Thái như H. Maspéro đã đề nghị. Cần phải nói
ngay rằng, A.G. Haudricourt không phải là người đầu tiên nêu ra quan điểm
xếp tiếng Việt vào họ ngôn ngữ Nam Á. Mà, như đã trình bày ở trên, quan
điểm này đã được đề xuất từ năm 1856, và hiện nay, đây là quan điểm nhận
được nhiều sự đồng tình nhất bởi cơ sở khoa học của nó. Trong số những ý
kiến ủng hộ đó, có thể coi lập luận của Haudricourt là đầy đủ nhất và là những
lí lẽ đại diện cho cách phân loại này. Hơn thế nữa, qua lập luận của Haudricourt

chúng ta còn có thể rút ra được những cơ sở để xác định nguồn gốc tiếng Việt.
Theo các nhà Việt ngữ học, tiếng Việt là ngôn ngữ của người Việt (người
Kinh) và là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam. Đây là tiếng mẹ đẻ của khoảng
85% dân cư Việt Nam, cùng với gần ba triệu Việt Kiều ở hải ngoại, mà phần
lớn là người Mỹ gốc Việt. Tiếng Việt còn là ngôn ngữ thứ hai của các dân tộc
thiểu số tại Việt Nam.
1.1.2. Khái niệm về tiếng Thái
Tiếng Thái là ngôn ngữ chính thức của Vương quốc Thái Lan (tiếng
Thái: ราชอาณาจักรไทย Racha-anachakra Thai) là một nước nằm trong khu vực
Đông Nam Á, giáp Lào và Campuchia về phía đông, giáp Vịnh Thái Lan và Mã
Lai về phía nam, và biển Andaman và Myanma về phía tây. Thái Lan cũng
từng được gọi là Xiêm, đây là tên gọi chính thức của nước này đến ngày 11
tháng 5 năm 1949. Từ Thai (ไท ย ) trong tiếng Thái có nghĩa là "tự do". Thái
cũng là tên của người Thái trong đó có khá nhiều người hiện là dân tộc thiểu số


15
có số dân đáng kể ở Trung Quốc vẫn lấy tên là Xiêm. Từ "Thái Lan" trong tiếng
Việt có xuất xứ từ tiếng Anh Thailand (trong đó land nghĩa là đất nước, xứ sở),
dịch từ ประเทศไทย (Prathet Thai) nghĩa là nước Thái. Thái Lan thiết lập quan
hệ ngoại giao với Việt Nam ngày 6 tháng 8 năm 1976.
Tiếng Thái được xếp vào ngữ hệ Tai-Kadai, có nguồn gốc ở phía nam
của Trung Quốc. Hệ ngôn ngữ Tai-Kadai, nhiều khi còn được gọi là hệ ngôn
ngữ Thái-Kadai, là một tổng hợp bao gồm vào khoảng 70 ngôn ngữ tập trung
tại Đông Nam Á và miền nam của Trung Quốc. Đã có một thời hệ này được
xem là một nhóm thuộc hệ Hán-Tạng. Ngày nay, hệ ngữ này được xem là một
hệ riêng biệt và bao gồm 3 nhóm chính : Nhóm Hlai, Nhóm Kadai và Nhóm
Kam-Tai.
- Nhóm Hlai: Bao gồm 2 ngôn ngữ tại miền nam của Trung Quốc.
- Nhóm Kadai : Bao gồm vào khoảng 10 ngôn ngữ dùng bởi các giống

dân sống tại biên giới Việt Nam và Trung Quốc.
- Nhóm Kam-Tai: bao gồm vào khoảng 60 ngôn ngữ, có điển hình là
tiếng Thái và tiếng Lào và được chia ra làm 3 phân nhóm.
Trong đề tài của chúng tôi chỉ nghiên cứu phụ từ trong phạm vi tiếng
Thái trên cương vị ngôn ngữ chính thức (Official Language) của Vương Quốc
Thái Lan.
1.1.3. Đặc trưng của ngôn ngữ loại hình đơn lập
Theo nhóm tác giả Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến, Mai Ngọc Chừ
trong cuốn “Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt”. Loại hình ngôn ngữ đơn lập
(isolate language) thể hiện 4 đặc điểm chính :
(1.) Trong hoạt động lời nói, từ không biến đổi hình thái, tức là
chúng không đòi hỏi ở nhau sự hợp dạng như trong các ngôn ngữ hoà kết :
Tôi
nhìn họ và họ nhìn tôi. Ở đây, từ tôi và họ làm chủ ngữ hay bổ ngữ đều không
biến đổi hình thái.


16
(2.) Các quan hệ ngữ pháp, ý nghĩa ngữ pháp được biểu thị chủ yếu bằng
hư từ và trật tự từ.
(3.) Nhiều ngôn ngữ trong loại hình đơn lợp (điển hình là tiếng Hán và
tiếng Việt) có 1 loại đơn vị đặc biệt, thường được gọi là hình tiết.
(4.) Hiện tượng cấu tạo từ bằng phụ tố rất ít hoặc hầu như không phát
triển trong các ngôn ngữ đơn lập.
Theo tác giả Nguyễn Văn Lợi trong các ngôn ngữ loại hình đơn lập, âm
tiết có tính tổ chức chặt chẽ và có vị trí quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ.
Âm tiết gồm một số lượng nhất định, số lượng âm tiết trong mỗi ngôn ngữ là
hữu hạn. Âm tiết thường là vỏ của hình vị, trong nhiều trường hợp là vỏ của từ.
Trong ngôn ngữ loại hình đơn lập phương thức ghép, láy là các phương
thức cấu tạo từ chủ yếu. Trật tự từ và hư từ là phương thức chính để thể hiện

các ý nghĩa cú pháp [17, 15].
Hiện nay, tiếng Việt và tiếng Thái được các nhà ngôn ngữ học xếp vào
nhóm ngôn ngữ loại hình đơn lập.
1.1.4. Quan niệm về phụ từ trong tiếng Việt
Như đã nói trong phần lịch sử vấn đề, có nhiều quan niệm về phụ từ và
cũng có nhiều tên gọi về từ loại này. Những tên gọi thường được dùng để gọi từ
loại này là phó từ, phụ từ, trạng từ, phó động từ... Trong đề tài này chúng tôi
gọi những từ này là “phụ từ”.
Một số nhà ngữ pháp gọi từ loại này là “phó từ” để chỉ những từ không
có ý nghĩa định danh như danh từ, động từ, và tính từ. Chúng bao gồm những
từ biểu thị ý nghĩa toàn thể hay riêng lẻ đi kèm danh từ như : Những, các, mọi,
mỗi, từng... và những từ đi kèm động từ, tính từ.
Một số nhà ngữ pháp khác lại cho rằng có thể phân nhóm từ loại phụ từ
trên cơ sở sự kết hợp của chúng với từ loại khác như danh từ, động từ, tính từ.
Hướng ý kiến này phân loại phụ từ thành 2 loại :
- “Định từ” là phụ từ chuyên đi kèm với danh từ để bổ sung ý nghĩa
cho danh từ.
- “Phó từ” là phụ từ chuyên đi kèm với động từ, tính từ để bổ sung


17
ý nghĩa cho động từ và tính từ.
Theo hướng này, có các tác giả như Nguyễn Anh Quế, Đinh Văn Đức,
Đỗ Thị Kim Liên, UBKHXH...
Chúng tôi đồng ý với hướng ý kiến này và định nghĩa về phụ từ như sau :
Phụ từ là những từ không mang ý nghĩa từ vựng chân thực mà chỉ bổ
sung ý nghĩa ngữ pháp. Chúng luôn đi kèm với động từ, tính từ để bổ sung ý
nghĩa ngữ pháp khác nhau cho động từ và tính từ.
1.1.5. Quan niệm về phụ từ trong tiếng Thái Lan
Từ trước đến nay, việc phân loại từ trong tiếng Thái Lan của các nhà ngữ

pháp có sự khác biệt về mặt số lượng so với từ loại trong tiếng Việt.
Phada Uppạkịt Sínlạpạsan nhà ngôn ngữ học nổi tiếng của Thái Lan đã
phân loại từ loại trong tiếng Thái Lan thành 7 loại gồm có :

(1.) คำำนำม / kham na:m / (danh từ).
(2.) คำำสรรพนำม / kham sàp phá? na:m / (đại từ).
(3.) คำำกริยำ / kham kà? rí? ya: / (động từ).
(4.) คำำวิเศษณ์ / kham wí? sè:t / (tính từ).

(5.) คำำบุพบท / kham bùp phá? bòt / (giới từ).

ั ธำน / kham săn tha:n / (liên từ).
(6.) คำำสน
(7.) คำำอุทำน / kham ?ù? tha:n / (thán từ).
Chúng tôi nhận thấy trong cách phân loại từ trong tiếng Thái không có sự
hiện diện của nhóm từ mà trong tiếng Việt gọi là phụ từ. Các từ chuyên đi kèm
với động từ và tính từ để bổ sung ý nghĩa ngữ pháp trong tiếng Thái được xếp
vào tiểu nhóm của động từ và tính từ.
Theo ông phụ từ chuyên đi kèm với động từ được xếp vào tiểu nhóm của
động từ mà ông gọi là “คำากริยานุเคราะห์” / kham kà? rí? ya: nú? kr ? / (trợ
động từ). Còn các từ chuyên đi kèm với tính từ để bổ sung ý nghĩa ngữ pháp
được xếp vào tiểu nhóm của tính từ [33, 50].


18
Pănkhườnkhặt Rươngđệt trong cuốn “Ngôn ngữ học tiếng Thái” đã phân
loại các từ chuyên đi kèm động từ để bổ sung ý nghĩa cho động từ trong tiếng
Thái Lan là “trợ động từ” (Auxiliary verb) và ông xếp phụ từ chuyên đi kèm
tính từ vào nhóm “từ bổ sung ý nghĩa cho tính từ” [26, 191].
Thonglò Cămsay trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Thái Lan” cho rằng “các

từ chuyên đi kèm động từ để biểu thị ý nghĩa về thức, thời, thể của động từ là
trợ động từ”, các từ chuyên đi kèm tính từ để bổ sung ý nghĩa về số lượng là
“tính từ chỉ mức độ” và các từ chuyên đi cùng động từ và tính từ để biểu hiện ý
nghĩa phủ định được gọi là “tính từ phủ định” [4, 271].
Vì vậy, để tiện lợi cho việc so sánh, đối chiếu phụ từ trong tiếng Việt và
tiếng Thái, trong đề tài của chúng tôi chấp nhận cách phân loại phụ từ theo
cách phân loại trong tiếng Việt và định nghĩa phụ từ như sau :
“Phụ từ là những từ không mang ý nghĩa từ vựng chân thực mà chỉ bổ
sung ý nghĩa ngữ pháp. Chúng luôn đi kèm với động từ, tính từ để bổ sung ý
nghĩa ngữ pháp khác nhau cho động từ và tính từ”.
1.2. Vị trí của phụ từ
Phụ từ là những từ chuyên đi kèm động từ, tính từ để bổ sung ý nghĩa
ngữ pháp cho các từ này và phụ từ có thể xuất hiện ở các vị trí khác nhau như
sau :
Theo tác gỉa Đỗ Thị Kim Liên phụ từ được chia theo tiêu chí vị trí của
chúng ra thành 3 nhóm gồm :
1.2.1. Phụ từ đứng trước động từ, tính từ :
- Nhóm phụ từ chỉ thời gian của hành động : Đã, sẽ, đang, sắp, vừa, mới,
bỗng, còn...
Ví dụ :

1. Tôi đã làm xong việc nhà.
2. Tôi đã ăn cơm sáng.
3. Tôi đang học tiếng Thái.
4. Anh ta đang chạy trên đường đua.

- Nhóm phụ từ chỉ sự tiếp diễn của hành động : Đều, cũng, vẫn, cứ, còn,
lại, luôn, dần, thỉnh thoảng...



19
Ví dụ :

1. Tôi vẫn chưa có việc làm.
2. Tôi vẫn yêu anh như ngày nào.
3. Tôi còn phải phấn đấu học tập cho thành đạt.
4. Tôi còn sống ngày nào thì ngày đó tôi còn yêu.

- Nhóm phụ từ chỉ sự phủ định của hành động : Không, chưa, chẳng, chỉ,
có...
Ví dụ :

1. Chúng tôi không phải là những người như vậy.
2. Anh ta hẹn rồi nhưng chẳng đến.
3. Tôi chưa có mối tình nào cả.
4. Tôi chưa học bài.

- Nhóm phụ từ chỉ sự cầu khiến : Hãy, đừng, chớ...
Ví dụ :

1. Bạn hãy làm theo những lời bố mẹ dặn .
2. Anh hãy đóng cửa lại.
3. Anh đừng làm khổ em nữa nhé.
4. Những người đó không tốt đâu chớ có chơi với họ.

- Nhóm phụ từ chỉ mức độ thường đi với tính từ hoặc nhóm động từ tình
thái, động từ trạng thái : Quá, rất, hơi, cực kì, vô cùng, tuyệt, khá, khí...
Ví dụ :

1. Cái áo này giá hơi đắt.

2. Trời hơi nắng.
3. Món canh này rất ngon.
4. Anh ấy rất chăm học.

- Nhóm phụ từ chỉ sự diễn biến bất ngờ của hành động : Bỗng, bỗng
nhiên, bỗng dưng, chợt...
Ví dụ :

1. Con chó bỗng chạy ra.
2. Trời bỗng đổ mưa.
3. Tôi chợt nhớ ra mình chưa làm bài tập.
4. Tôi chợt nghĩ mình phải làm một việc gì đó để giúp
ông ta.

1.2.2. Phụ từ đứng sau động từ-tính từ :
- Nhóm phụ từ chỉ sự kết thúc hành động : rồi.


20
Ví dụ :

1. Tôi ăn cơm rồi.
2. Cậu ấy tốt nghiệp rồi.

- Nhóm phụ từ chỉ kết quả của hành động : Được, mất, ra, nổi...
Ví dụ :

1. Hôm nay, em nhận được thư của mẹ.
2. Tôi đã có được những gì mình mong đợi.
3. Anh ấy vừa mới sáng tác ra đoạn nhạc.

4. Anh ấy đoán ra tôi đang nói dối.

- Nhóm phụ từ chỉ hành động tự mình : lấy.
Ví dụ :

1. Em phải tự làm lấy.
2. Bài tập đó khó lắm nhưng tôi phải tự làm lấy.

- Nhóm phụ từ chỉ hướng hành động : Ra, vào, lên, xuống, sang,
qua, về, lại, tới, lui...
Ví dụ :

1. Quả bóng đã lọt vào khung thành.
2. Cô ấy trông đẹp ra.
3. Cậu bé bắt đầu khoẻ ra.

- Nhóm phụ từ chỉ sự tiếp tục : Nữa, mãi, hoài, luôn...
Ví dụ :

1. Ăn nữa đi em.
2. Chúng ta phải đi nữa.
3. Hôm nay, tôi lại nói nữa.
4. Họ ăn nữa.

- Nhóm phụ từ chỉ sự tương hỗ : nhau.
Ví dụ :

1. Hai đữa trẻ đánh nhau ở bãi kia kìa.
2. Nhìn họ đi với nhau kìa.


1.2.3. Nhóm phụ từ vừa có khả năng đứng trước vừa có khả năng đứng
sau : mãi, vô cùng, tuyệt, cực kì, luôn luôn, mãi mãi, quá, luôn, dần, liền.
Ví dụ :

1. Những ngọn núi cao vô cùng.
2. Nước chảy xiết vô cùng.

Mặc dù phụ từ có thể đứng ở vị trí khác nhau theo khả năng kết hợp của
chúng nhưng phụ từ có đặc điểm chung là chuyên đi kèm với động từ, tính từ
để bổ sung ý nghĩa ngữ pháp cho các từ này.


21
1.3. Đặc điểm về mặt ý nghĩa của phụ từ
Như đã nói ở phần định nghĩa : Phụ từ là những từ không mang ý nghĩa
từ vựng chân thực mà chỉ mang ý nghĩa ngữ pháp. Vậy, thế nào là “ý nghĩa
từ vựng chân thực” và “thế nào là ý nghĩa ngữ pháp”?
Về ý nghĩa từ vựng, Đỗ Hữu Châu và Bùi Minh Toán trong cuốn
“Đại cương ngôn ngữ học” có viết :
“Ý nghĩa từ vựng thường được quan niệm là ý nghĩa riêng của
từng
từ, mọi ý nghĩa từ vựng thuộc về một từ. Nó không có tính chất chung đồng loạt
cho nhiều từ. Đồng thời ý nghĩa từ vựng cũng thường được hiểu là sự phản ánh
các sự vật, hiện tượng, thuộc tính... trong thế giới khách quan , do đó nó có
tính hiện thực” [8, 48].
Nguyễn Anh Quế trong cuốn “Hư từ trong tiếng Việt hiện đại” : “Ý
nghĩa của một từ được gọi là ý nghĩa từ vựng”[24, 39].
Như vậy ý nghĩa từ vựng là ý nghĩa cụ thể của một từ. Theo cách hiểu
này thì chẳng hạn từ ăn trong tiếng Việt có ý nghĩa từ vựng là từ chỉ hành động
của người hoặc động vật đưa thức ăn vào cơ thể để nuôi sống cơ thể, còn từ

“cày” có ý nghĩa từ vựng là chỉ hoạt động lật đất lên bằng một dụng cụ gọi là
“cái cày”.
Đỗ Thị Kim Liên trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt” cũng đề cập tới ý
nghĩa từ vựng :
“Ý nghĩa từ vựng thường được quan niệm là ý nghĩa riêng của từ”.
Vi dụ :

house,

run,

beautiful

(tiếng Anh)

nhà,

chạy,

đẹp

(tiếng Việt)

บ ้ำน / bâ:n / วิง่ / wîŋ /

สวย / sŭay /

(tiếng Thái)

Ý nghĩa từ vựng được hiểu là sự phản ánh trực tiếp các sự vật, hoạt động

trong thế giới khách quan, thông qua tên gọi. Sự phản ánh thành ý nghĩa từ
vựng có chức năng đưa những hiểu biết của con người về sự vật, hoạt động,
đặc tính thành những đơn vị nghĩa để tạo ra nội dung cụ thể cho câu nói[16, 6].


22
Về ý nghĩa ngữ pháp Đỗ Hữu Châu và Bùi Minh Toán cũng đã viết :
“Ý nghĩa ngữ pháp được hiểu là ý nghĩa chung của nhiều từ, nhiều đơn vị ngữ
pháp, do đó có tính khái quát và trừu tượng” [8, 48].
Nguyễn Anh Quế cũng định nghĩa tương tự : “Ý nghĩa ngữ pháp là ý
nghĩa chủng loại và ý nghĩa kết hợp của từ” [24, 40].
Đỗ Thị Kim Liên cũng định nghĩa về ý nghĩa ngữ pháp : “Ý nghĩa ngữ
pháp có tính khái quát, trừu tượng cao. Ý nghĩa ngữ pháp không phản ánh hiện
tượng một cách trực tiếp mà là một sự phản ánh đã chịu sự chi phối của các
quy tắc, quy luật riêng trong từng hệ thống ngôn ngữ” [16, 7].
Qua sự phân tích trên ta thấy ý nghĩa ngữ pháp và ý nghĩa từ vựng là
khác nhau nhưng có quan hệ với nhau. Đó là hai mặt không thể thiếu được và
không thể tách rời nhau của một từ.
Theo quan niệm về ý nghĩa ngữ pháp và ý nghĩa từ vựng đã nêu trên
chúng tôi thấy rằng “phụ từ” khác với từ loại khác như : Động từ, danh từ, tính
từ đại từ, số từ ở chỗ chúng không mang ý nghĩa thực để biểu thị tên gọi, biểu
thị hành động, trạng thái hay tính chất hoặc số lượng của sự vật hay ý nghĩa
xưng hô, chỉ định, thay thế tên gọi...
Phụ từ trong tiếng Việt, xét về mặt nguồn gốc cấu tạo, có những từ vốn
xưa nay đã là phụ từ đó là các từ : Đã, sẽ, đang, vừa, chẳng, hãy, cứ... Nhưng
cũng có nhiều từ chuyển hoá từ thực từ sang, chẳng hạn như các từ : Ra, vào,
lên, xuống, qua, lại, đi về... có nguồn gốc từ động từ.
Chúng ta có thể lấy ví dụ từ nhóm phụ từ : Được , mất , ra , nổi : Nhóm
từ này, về nguồn gốc bắt nguồn từ thực từ. Hiện nay, những từ này vẫn còn đầy
đủ ý nghĩa và đặc điểm của một động từ. Nhưng khi đặt sau động từ khác,

những từ này đã giảm sút ý nghĩa ban đầu, chỉ còn biểu thị ý nghĩa kết quả của
hoạt động do động từ đi trước biểu thị.
Điển hình như từ “được” khi là động từ, “được” có mấy nghĩa chính
là :
- Nhận được một cái gì đó có tính tốt lành thuận lợi.
- Ý nghĩa thắng lợi [18, 344].


23
Khi đặt sau động từ khác, những nét nghĩa đó bị hư hoá đi, “được” chỉ
còn biểu thị ý nghĩa kết quả hoặc sắc thái khả năng hoàn thành hoạt động do
động từ đi trước biểu thị.
Ví dụ :

1. Hôm nay, em nhận được thư của mẹ.
2. Tôi đã có được những gì mình mong đợi.

Từ “ra” khi là động từ, “ra” có ý nghĩa : Chỉ sự di chuyển có liên quan
đến hướng.
Từ “ra” khi đặt sau động từ biểu thị tính hiệu quả của hoạt động đạt
được kết quả như mong muốn [22, 789]. Phụ từ “ra” thường đặt sau những
động từ biểu thị sự sáng tạo, tìm tòi như : Tìm, kiếm, khám phá, nghĩ, dò,
đoán...
Ví dụ :

1. Anh ấy vừa mới sáng tác ra đoạn nhạc.
2. Anh ấy đoán ra tôi đang nói dối.

Điều này chúng ta sẽ thấy rõ hơn khi đối chiếu với các phụ từ trong tiếng
Thái.

Trong tiếng Thái cũng có trường hợp động từ chuyển hoá thành phụ từ.
Trong tiếng Thái, từ “ออก” / ? :k / khi là động từ có ý nghĩa là hoạt
động di chuyển ra khỏi phía bên ngoài hoặc nơi ẩn nấp.
Ví dụ :

1. ผมออก จำกบ ้ำนตัง้ แต่เก ้ำโมงเชำ้
/ phǒm ? :̀ k cà:k bâ:n tâŋ tὲ: kâ:w mo:ŋ chá:w /
(Tôi ra khỏi nhà từ chín giờ sáng.)
2. เขำออก จำกห ้องเรียนไปกินข ้ำว
/ khâw ? ̀:k cà:k h :ŋ rian pay kin khâ:w /
(Anh ta ra khỏi lớp học đi ăn cơm.)

Khi đứng sau động từ biểu thị tính hiệu quả của hoạt động đạt được
kết quả như mong muốn.
Ví dụ :

1. ผมนึกออก
/ phǒm n ´k ? `:k /
(Tôi nhớ ra.)


24
2. สมชำยคิดออก แล ้วว่ำต ้องทำำอย่ำงไร
/ sǒm cha:y khít ? `:k lέw wâ: t :ŋ tham yà:ŋ ray /
(Sổmchai nghĩ ra rồi là phải làm thế nào.)
Qua ví dụ trên, chúng tôi có thể kết luận rằng “một số phụ từ trong tiếng
Việt và tiếng Thái vẫn còn có quan hệ ý nghĩa với các động từ thực”. Chúng có
cùng vỏ ngữ âm như : Tôi vào (động từ) nhà ; Tôi đi vào (phụ từ) nhà ; nhưng
khi đứng trước hoặc sau động từ, tính từ thì ý nghĩa từ vựng vủa phụ từ bị hư
hoá, mờ nhạt đi.

Như vậy chúng ta có thể kết luận : “Ý nghĩa của phụ từ là ý nghĩa ngữ
pháp có chức năng bổ sung cho động từ và tính từ mà nó đi kèm”.
Tiểu kết : Các cơ sở lí thuyết về phụ từ và các khái niệm về tiềng
Việt và tiếng Thái đã chứng minh rằng : “Trong ngôn ngữ loại hình đơn lập
như tiếng Việt và tiếng Thái tồn tại một lớp từ được gọi là “phụ từ”. Phụ từ là
hư từ có chức năng bổ sung ý nghĩa ngữ pháp cho động từ, tính từ mà nó đi
kèm. Phụ từ được chia thành hai nhóm theo vị trí của chúng khi đi kèm với
động từ và tính từ”.


25

CHƯƠNG 2
SO SÁNH PHỤ TỪ ĐI TRƯỚC ĐỘNG TỪ – TÍNH TỪ
TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG THÁI
Phụ từ đi trước động từ, tính từ trong tiếng Việt có trên 30 từ. Nhìn
chung ý nghĩa ngữ pháp của số phụ từ này khá rõ nên quan niệm của các nhà
ngữ pháp từ trước tới nay cũng khá thống nhất. Sau đây là ý kiến của các nhà
nghiên cứu về phụ từ đi trước động từ – tính từ trong tiếng Việt.
2.1. Về vấn đề phụ từ đi trước động từ và tính từ
Xét về mặt vị trí, “phụ từ” được chia ra thành hai nhóm là phụ từ đi
trước động từ, tính từ và phụ từ đi sau động từ và tính tư. Tuy nhiên có một số
tác giả đã chia phụ từ ra thành 3 nhóm và nhóm cuối cùng là nhóm phụ từ vừa
có khả năng đi trước và sau động từ và tính từ. Sau đây là ý kiến của các nhà
nghiên cứu về phụ từ đi trước động từ – tính từ trong tiếng Việt :
Theo Nguyễn Kim Thản trong cuốn “Động từ trong tiếng Việt”, trong
chương viết về “Hư từ của động từ tiếng Việt”. Ông xếp các phụ từ vào các
nhóm :
(1.) Phụ từ chỉ mức độ : Rất, hơi, khí, khá, lắm, quá...
(2.) Phụ từ chỉ tính đồng nhất : Cũng, cùng, đều...

(3.) Phụ từ chỉ thể trạng và thời gian : Đã, đang, sẽ, vẫn, vừa, mới, rồi...
(4.) Phụ từ chỉ sự khẳng định hay phủ định : Chưa, không, chẳng, đừng,
chớ...
Các nhóm này theo ông gọi là nhóm “phó từ”. Các từ này bao giờ cũng
phụ thuộc vào vị từ, hay cấu trúc cú pháp đóng vai trò vị ngữ. Các phụ từ này
thường đứng trước động từ và tính từ để bổ sung ý nghĩa ngữ pháp cho chúng
[29, 63].
Còn Nguyễn Anh Quế trong cuốn “Hư từ trong tiếng Việt hiện đại”, ông
gọi phụ từ là“phó từ” và ông chia“phó từ” ra thành các nhóm :


×