Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Thơ nguyễn đình thi từ góc nhìn thể loại và loại hình thơ hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.23 KB, 105 trang )

5

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
-----------------

TRẦN THỊ THANH MAI

Th¬ nguyÔn ®×nh thi
Tõ gãc nh×n thÓ lo¹i vµ lo¹i h×nh
th¬ hiÖn ®¹i

LUẬN VĂN THẠC SĨ ng÷ v¨n
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.34

Ngêi híng dÉn khoa häc: pgs.Ts. BiÖn minh ®iÒn

VINH, 2009


6

Công trình đợc hoàn thành tại Trờng Đại học Vinh

Ngời hớng dẫn khoa học: PGS.TS. Biện Minh Điền
Trờng Đại học Vinh

Phản biện 1: TS. Chu Văn Sơn
Viện Văn học


Phản biện 2: TS. Lê Thị Hồ Quang
Trờng Đại học Vinh

Luận văn đợc bảo vệ trớc Hội đồng chấm luận văn Thạc sĩ
Họp tại Trờng Đại học Vinh
Vào hồigiờngàytháng 01 năm 2010

Có thể tìm hiểu Luận văn tai Th viện Trờng Đại học Vinh


7

Mở Đầu
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Thơ là hình thái văn học đầu tiên của loài ngời, là hình thức sáng tác
văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện tâm trạng, cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn
ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là nhịp điệu [15, 262]. Trong văn học Việt
Nam, thơ luôn giữ một vị thế quan trọng. Sự vận động, phát triển của thơ ca dân
tộc thờng thể hiện rõ nét và trớc hết ở hình thức nghệ thuật, ở những cách tân và
sự sáng tạo các thể loại. Những cách tân, sáng tạo này chính là sản phẩm tất yếu
của nhu cầu giải phóng cái tôi cá nhân trong thơ cũng nh nhu cầu thể hiện thế
giới nội tâm ngày càng đa dạng, phức tạp và đầy bí ẩn của con ngời trong thời
đại mới. Các nhà thơ lớn, những gơng mặt tiêu biểu của thơ Việt Nam hiện đại là
những ngời luôn trăn trở, tìm tòi đổi mới hình thức thơ ca. Chính vì vậy, tìm hiểu
những cách tân, sáng tạo thể thơ của một nhà thơ không chỉ giúp ta thấy đợc
phong cách, bản lĩnh nghệ thuật cùng những đóng góp của nhà thơ ấy đối với
nền thơ ca dân tộc mà còn cho thấy (ở một mức độ nào đó) sự vận động, phát
triển tất yếu của hình thức thơ.
1.2. Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ đa tài. Ngời ta biết đến ông với t
cách của rất nhiều nhà: nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch, nhà phê bình. ở t cách

nào, Nguyễn Đình Thi cũng luôn có những nỗ lực cách tân mang ý nghĩa tiên
khởi trong nghệ thuật, đặc biệt là thơ [42, 42]. Cái khát vọng cháy bỏng, da diết
làm mới thơ Việt đã thôi thúc ngời nghệ sĩ đa tài này tìm đến những hình thức
thể hiện mới. Trong số những tìm tòi, sáng tạo về hình thức nghệ thuật trong thơ
Nguyễn Đình Thi, không thể không kể đến những cách tân về thể thơ. Thể thơ là
một phơng diện hình thức cơ bản, quan trọng của thơ và sự cách tân về thể thơ là
một đóng góp nổi bật, có ý nghĩa của Nguyễn Đình Thi cho thơ Việt Nam hiện
đại.
1.3. Trên hành trình sáng tạo nghệ thuật của mình, Nguyễn Đình Thi làm
thơ không nhiều. Nhng thơ lại là cái thiết tha nhất, là nơi Nguyễn Đình Thi gửi
gắm những nỗi niềm riêng thầm kín, nơi ông có những tìm tòi rất khổ và cả
những thành công vợt trội. Thơ Nguyễn Đình Thi, vì thế, ngay từ khi xuất hiện
đã đợc sự chú ý của giới văn nghệ sĩ và giới phê bình văn học. Nghiên cứu thơ
ông, nhiều tác giả đã quan tâm đến những tìm tòi, sáng tạo của ông ở hình thức
nghệ thuật nói chung và ở thể thơ nói riêng. Tuy nhiên, đến nay, vẫn cha có một
công trình nào thực sự đi sâu vào những cách tân về thể thơ, đặc biệt là sự sáng
tạo thơ tự do - không vần, của Nguyễn Đình Thi.
1.4. Trong chơng trình Ngữ văn 12 (cơ bản và nâng cao) hiện nay, tác giả
sách giáo khoa đã đa vào hai văn bản của Nguyễn Đình Thi: một văn bản lý luận
phê bình (Mấy ý nghĩ về thơ) và một văn bản nghệ thuật (bài thơ Đất nớc). Điều


8

đó một lần nữa khẳng định vị trí và đóng góp của tác giả này trong thơ Việt Nam
hiện đại. Vì vậy, việc tìm hiểu những cách tân về thể thơ chính là một cách để soi
chiếu thơ Nguyễn Đình Thi (đặc biệt là thơ tự do nh Đất nớc) từ góc độ lý luận
lẫn thực tiễn sáng tác.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Nguyễn Đình Thi làm thơ không nhiều nhng ông xứng đáng là gơng mặt

độc đáo của nền thơ Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám đến nay. Thơ Nguyễn
Đình Thi là cả một hành trình nỗ lực tìm tòi mong làm mới câu thơ Việt. Tuy
nhiên, những tìm tòi rất khổ ấy không phải ngay từ đầu đã đợc thừa nhận và
ủng hộ.
Tại hội nghị tranh luận văn nghệ Việt Bắc (tháng 9/1949), thơ không vần
của Nguyễn Đình Thi đã trở thành một trong những đề tài chính yếu đợc bàn
luận sôi nổi. Có hai hớng ý kiến đối lập nhau.
Hớng ý kiến thứ nhất là phê phán, chỉ trích thơ không vần của Nguyễn
Đình Thi. Hớng này, tiêu biểu là ý kiến của các tác giả: Xuân Diệu, Ngô Tất Tố,
Tố Hữu, Thế Lữ, Phạm Văn Khoa, Xuân Trờng Theo Xuân Diệu, thơ Nguyễn
Đình Thi từng bộ phận thì hay và có những câu rất hay nhng những đoạn,
những câu hay ấy chắp lại với nhau thì không thành ra hay bởi chúng không có
tính cách cơ thể [42, 183]. Sau khi chỉ rõ cái lợi ích của vần trong thơ, Xuân
Diệu cho rằng không dùng vần tức là lập dị, thơ không vần thì khó thởng
thức. Ông cũng cho rằng thơ Nguyễn Đình Thi thu xếp, gò bó, bố trí nhiều
quá, dáng điệu già [42, 190]. Nguyễn Huy Tởng lại thấy thơ Nguyễn Đình Thi
bị ảnh hởng của lời nhạc nhiều. Đó là yếu tố tạo nên một cái gì cha vững. Nó là
một tiếng nói bập bẹ, mâu thuẫn với anh [42, 191]. Còn Xuân Trờng, mặc dù
thừa nhận Nguyễn Đình Thi có một tâm hồn thơ nhng ông cũng tỏ thái độ
không đồng tình với kiểu thơ của Nguyễn Đình Thi. Theo ông, thơ Nguyễn Đình
Thi đầu Ngô mình Sở và trúc trắc, khó vào lòng ngời ta [42, 190]. Phạm Văn
Khoa quả quyết thơ Nguyễn Đình Thi cha phải là thơ vì nó thiếu vần [42, 193].
Thế Lữ cho rằng thứ thơ ấy nguy hiểm và còn là một cái nguy cơ [42, 193].
Gay gắt hơn, Ngô Tất Tố đề nghị thơ không vần đừng gọi là thơ, thơ không
vần hãy cho nó một tên khác [42, 188].
Hớng ý kiến thứ hai là đồng tình, ủng hộ thơ không vần của Nguyễn Đình
Thi. Tiêu biểu cho hớng này là ý kiến của Nguyên Hồng và Văn Cao. Nguyên
Hồng khẳng định: thơ Nguyễn Đình Thi là một sự cần dùng, một sự tất yếu, nó
tiêu biểu cho tâm hồn rộng rãi, rải rác. Và ông tin rằng sẽ có những bài thơ
kỳ diệu của dân tộc ở trong loại thơ đó (thơ tự do - không vần) [42, 190]. Cũng

nh Nguyên Hồng, Văn Cao ủng hộ lối thơ không vần của Nguyễn Đình Thi. Ông


9

khẳng định: ở nhiều nơi, đã có những bài thơ không vần. Không vần không phải
riêng gì anh Thi đặt ra [42, 188].
Trớc không khí tranh luận sôi nổi, thẳng thắn và dân chủ của hội nghị,
Nguyễn Đình Thi đã mạnh dạn nói lên suy nghĩ của mình: Vần là một lợi khí
rất đắc lực cho sự truyền cảm. Nhng không phải hết vần là hết thơ. Khi làm thơ,
thái độ của ngời làm là ghi cho đúng cảm xúc. Nếu cảm xúc gặp đợc vần thì hay.
Nhng khi gặp nó gò bó, hãy vợt lên nó đã. Hình thức nghệ thuật (các luật bằng trắc) phải tự nhân nó ra, khi gạt luật bên ngoài đi, phải có luật bên trong rất
mạnh [42, 197]. Ông khẳng định nội dung mới tự nó sẽ tìm đến hình thức
mới [42, 199].
Nh vậy, ngay từ khi xuất hiện trên thi đàn, thơ Nguyễn Đình Thi, đặc biệt
là thơ không vần, đã thu hút sự quan tâm chú ý của đông đảo các văn nghệ sĩ và
các nhà phê bình đơng thời. Tuy nhiên, lúc này, nhìn chung, thơ không vần của
Nguyễn Đình Thi bị đối xử khắt khe.
Trong các thập niên 50, 60, 70 của thế kỷ XX, các ý kiến của giới nghiên
cứu phê bình về thơ Nguyễn Đình Thi rất ít và vẫn có phần dè dặt mặc dù thời
gian này, tác giả đã tái bản Mẹ con đồng chí Chanh những sáu lần trong kháng
chiến chống Pháp và cho xuất bản các tập thơ Ngời chiến sĩ (1956), Bài thơ Hắc
Hải (1958), Dòng sông trong xanh (1974). Nguyễn Xuân Nam, trong bài Thơ
Nguyễn Đình Thi trên tạp chí Văn học số 12/1969, nhận xét: thơ Nguyễn Đình
Thi có bớc tiến về nội dung và hình thức, thờng hàm súc, các bài thơ thờng
là những cảnh, cảnh nọ liên quan đến cảnh kia rồi tự bức tranh sẽ toát ra t tởng
[42, 79]. ở bài viết này, mặc dù thừa nhận Nguyễn Đình Thi đã có những bài
thơ hay ở thể thơ tự do [42, 78], thơ Nguyễn Đình Thi có vẻ đẹp của hoa lý,
hoa ngâu ít sắc màu, dịu dịu thơm lâu [42, 80] nhng Nguyễn Xuân Nam vẫn cha có điều kiện đi sâu tìm hiểu cái độc đáo, riêng biệt của Nguyễn Đình Thi ở thể
thơ tự do.

Năm 1976, Hoài Thanh góp thêm một tiếng nói khẳng định giá trị của thơ
Nguyễn Đình Thi. Trên tuần báo Văn nghệ ngày 03/01/1976, ông viết: những
bài thơ hay của Nguyễn Đình Thi là những tiếng đậm đà phong vị thời đại và quê
hơng. Cũng nh Nguyễn Xuân Nam, tác giả của Thi nhân Việt Nam mới dừng lại
ở việc xem xét thơ Nguyễn Đình Thi chủ yếu ở phơng diện nội dung t tởng [59].
Sang thập niên 80 của thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu phê bình cố gắng
chỉ ra nét độc đáo của ngòi bút Nguyễn Đình Thi trong lĩnh vực thơ ca và những
nỗ lực của tác giả trong quá trình tìm tòi hình thức mới cho thơ. Trong bài viết
Thơ Nguyễn Đình Thi, Tôn Phơng Lan nhận xét: Thơ Nguyễn Đình Thi mang
dấu ấn khá rõ của một hớng đi từ sách vở đến cuộc đời. Thơ anh vừa có sự thâm
trầm, suy t, vừa dạt dào cảm xúc [45, 365]. Nguyễn Đình Thi đã chủ trơng một


10

lối thơ triết học nhằm hớng thơ đi vào suy nghĩ [45, 377]. Tôn Phơng Lan cũng
chỉ rõ những đóng góp của Nguyễn Đình Thi ở thể thơ văn xuôi: Lối thơ văn
xuôi một thời - khi mới đa ra - bị nhiều ngời phản đối, sau này đợc anh tìm tòi và
vận dụng, đã đạt đợc những thành công cụ thể. Phá vỡ sự nhịp nhàng dễ dãi của
vần chữ, anh là nhà thơ đã kết hợp hài hòa yếu tố nhạc trong thơ và tạo nhiều bài
thơ, câu thơ giàu nhạc điệu [45, 377 - 388]. Còn Vũ Anh Tuấn cho rằng: Thơ
Nguyễn Đình Thi có xu hớng phá thể, nhiều câu ở dạng suy tởng và độc
thoại, sự phóng túng về hình thức và sự sâu kín về nội dung, hai điều ấy
Nguyễn Đình Thi kết hợp một cách khó khăn, do đó, có sự rời rạc trong ý thơ, sự
ngập ngừng đứt nối của cảm xúc [40, 200].
Trong những năm 90, ý kiến về thơ Nguyễn Đình Thi phong phú hơn hẳn.
Trong không khí cởi mở, dân chủ của đời sống phê bình văn học, các nhà nghiên
cứu Nguyễn Đăng Mạnh, Hà Minh Đức, Trần Hữu Tá, Nguyễn Văn Hạnh, Vơng
Trí Nhàn, Chu Văn Sơn, Mai Hơng, Hoàng Cát, Đỗ Minh Tuấn đã lý giải,
đánh giá và ghi nhận những đóng góp của Nguyễn Đình Thi đối với quá trình

vận động của nền thơ Việt Nam hiện đại. Trần Hữu Tá thấy rằng: Tuy chững
chạc trong thể thơ truyền thống (ngũ ngôn, thất ngôn, lục bát), mực thớc trong
thơ 8 chữ, nhng Nguyễn Đình Thi thích hợp hơn với những hình thức tự do,
phóng khoáng [58, 246]. Vơng Trí Nhàn khẳng định: Nguyễn Đình Thi đã
xuất phát từ một luận điểm đúng: hình thức cũ không đủ nữa. Thời đại mới mới
phải tìm đến hình thức mới [39, 330]. Ông đánh giá cao nỗ lực tìm tòi cho thơ
của Nguyễn Đình Thi và thấy đó là cả một sự thúc bách nội tâm, sự thúc bách
này mãnh liệt đến mức đau đớn mấy, ngời ta cũng phải làm theo cách ngời ta
hiểu [39, 325]. Chu Văn Sơn góp thêm một tiếng nói tích cực vào việc thanh
toán món nợ oan ức mà Nguyễn Đình Thi phải chịu đựng từ đầu kháng chiến
chống Pháp. Theo ông, Nguyễn Đình Thi là một mầm cây trổ ra không gặp thì,
không thuận tiết [42, 116] nhng thơ Nguyễn Đình Thi vẫn là những hạt mầm
khỏe mạnh gieo xuống cánh đồng canh tân của thi ca. Ngời ta không thể không
thấy tiếng vọng của nó trong sáng tác của các thi sĩ lớp sau [45, 413]. Trong
Đọc lại thơ Nguyễn Đình Thi, Chu Văn Sơn khẳng định thơ Nguyễn Đình Thi là
tâm niệm khôn nguôi về sức sống kỳ diệu của dân tộc và là một khao khát
cách tân thi ca. Thơ Nguyễn Đình Thi là thơ hình ảnh cảm xúc, ít chú trọng
vần điệu mà chú trọng nhiều hơn vào nhịp điệu, trong thơ ông, ngời ta thấy
nhạc thơ là sự hòa điệu giữa hình ảnh với tình ý, giữa giọng thơ và lời thơ, lời
thơ nh lời nói thờng, giàu sức nén, đầy sức gợi do những khoảng lặng và những
d vang ngoài câu chữ [45, 410 - 411]. Trong Nguyễn Đình Thi và một hớng tìm
tòi của thơ hiện đại, Chu Văn Sơn chỉ rõ: Việc giảm thiểu vần điệu không phải
đến Nguyễn Đình Thi mới có kẻ đầu tiên, món này đã thấy lấp ló đó đây


11

trong thơ mới. Nhng phải đến Nguyễn Đình Thi, việc theo đuổi, ơm trồng thơ
không vần mới đợc thực hiện có ý thức thành cơ sở lý thuyết, khác xa với tính
cách riêng về tự phát trớc đó [42, 121].

Mai Hơng, qua hai bài viết Nguyễn Đình Thi từ quan niệm đến thơ và
Nguyễn Đình Thi và những nỗ lực cách tân nghệ thuật, muốn khẳng định những
nỗ lực cách tân mang ý nghĩa tiên khởi của ông trong nghệ thuật, đặc biệt trong
thơ hớng nội, thơ không câu nệ vào vần điệu bên ngoài mà coi trọng nhịp điệu
bên trong, Nguyễn Đình Thi dùng nhiều thể thơ khác nhau, phù hợp cảm xúc
của mỗi bài, thậm chí đan xen những thể thơ khác nhau ngay trong chính một
bài thơ, mỗi khổ thơ. Ông viết những khổ thơ theo mạch thơ, thơ hơi dài, câu
tràn câu mà không câu nệ vào vần điệu, vào việc ngừng cho đúng nhịp, đúng
vần [42, 102 - 103].
Cũng trong thập niên 90, Đỗ Minh Tuấn còn nhìn ra một cõi tịch mịch
trong thơ Nguyễn Đình Thi [42, 126]. Tác giả bài viết cho rằng: Nguyễn Đình
Thi xuất hiện nh quãng lặng trong sự chuyển tiếp giữa hai nền thơ, hai chơng bản
giao hởng mà giai điệu chính là cái tôi và cái ta. Cùng với thời gian, quãng lặng
ấy ngân dài, hòa trong một bè trầm tao nhã của thơ lãng mạn, ở trong bè trầm đó,
ngời đọc tiếp xúc với một phía khác của ngời cách mạng: một thái độ khiêm nhờng trớc con ngời và trời đất, một cửa sổ mở ra cõi tĩnh lặng của thiền s [42,
129]. Theo ông, thơ Nguyễn Đình Thi không đều tay. Bên cạnh những bài lạ,
hay, ông có không ít những bài thơ dễ dãi, hoặc giống nh thơ của nhiều ngời
khác. Nhng những bài thơ, những đoạn thơ hay nhất của ông mang một sắc thái
thẩm mĩ độc đáo không lẫn vào đâu đợc [42, 130].
Tiếp sau Đỗ Minh Tuấn, Hoàng Cát cho rằng: danh hiệu nhà thơ, đặc biệt
là nhà thơ hiện đại, dành riêng cho Nguyễn Đình Thi sẽ thỏa đáng và vinh quang
nhiều hơn cho ông. Trong bài viết Nguyễn Đình Thi - nhà thơ hiện đại, tác giả
này chỉ rõ: ngay từ những ngày đầu xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, Nguyễn
Đình Thi đã ráo riết chủ trơng cách tân triệt để hình thức câu thơ, cách tân sâu
sắc lối biểu cảm của thơ, đặc biệt là đối với thể thơ thất ngôn. Từng câu thơ
Nguyễn Đình Thi thờng biến ảo bất kỳ; nó dài ngắn ra sao, ngắt câu nh thế nào
và xuống dòng ở đâu là hoàn toàn do cái hơi mạch bên trong của tứ thơ, của
hồn thơ chứ nó không cố định, không cứng nhắc gò ép vào bất cứ một thể thơ
truyền thống nào [42, 110 - 111].
Tháng 4/2003, Nguyễn Đình Thi qua đời. Trong niềm thơng tiếc vô hạn

một nghệ sĩ đa tài trọn đời cống hiến cho đất nớc, cho nền nghệ thuật cách
mạng, rất nhiều văn nghệ sĩ và đông đảo quần chúng đã bày tỏ niềm ngỡng mộ
đặc biệt đối với Nguyễn Đình Thi, nhất là đối với thơ của ông. Trong bài viết
Nguyễn Đình Thi - nhìn từ phía thơ, Vũ Quần Phơng một lần nữa khẳng định:


12

Riêng với thơ, lĩnh vực ông để lại nhiều tâm huyết, ông đã tạo một phong cách
hoàn toàn mới mẻ, vừa kế thừa tinh hoa cổ điển của cha ông, phát huy chất lãng
mạn của thơ mới, vừa tạo một t duy thơ hiện đại đậm chất trí tuệ và giàu nội tâm.
Đến nay, công chúng yêu thơ đã nhận ra và yêu mến cái vị riêng của thơ Nguyễn
Đình Thi [42, 164]. Còn Đỗ Lai Thúy thì nhấn mạnh: Thơ Nguyễn Đình Thi là
một cái mốc lớn trên hành trình đổi mới thơ sau 1945. Nhng việc Nguyễn
Đình Thi không chuyên canh thơ, không đi đến tận cùng trong cách tân để đa thơ
Việt Nam sớm thoát khỏi cái ách của thơ mới lúc này đã trở nên nặng nề để đi
đến thơ hiện đại là một thiệt thòi lớn cho thơ Việt nói chung và riêng cá nhân
ông [71]. Cũng cùng quan điểm nh thế, Chu Văn Sơn viết: Trong phần thành
công nhất, thơ Nguyễn Đình Thi tạo ra nhạc điệu mới nh tiếng sóng reo trong
lặng lẽ, tấu lên một thứ nhạc mới trong lặng và rung ngân []. Giá nh ông cứ
dám là mình, đi cho thật hết cái lẽ phải của thơ theo quan niệm của mình thì rất
có thể ông đã có vai trò nh Xuân Diệu với phong trào Thơ mới [51].
Bên cạnh những bài nghiên cứu đánh giá khách quan và công bằng những
đóng góp của Nguyễn Đình Thi trong việc tìm tòi sáng tạo hình thức mới cho thơ
Việt Nam hiện đại, trong những năm gần đây, đã có một số công trình nghiên
cứu khoa học đi sâu về vấn đề này. Đáng chú ý là các luận văn thạc sĩ: Thơ
Nguyễn Đình Thi truyền thống và cách tân (2001) của La Nguyệt Anh, Đặc
điểm ngôn ngữ của Nguyễn Đình Thi (2002) của Nguyễn Thị Kiều Hoa, Phong
cách thơ Nguyễn Đình Thi (2006) của Nguyễn Văn Đàn và một luận án tiến sĩ
Nguyễn Đình Thi với thơ và kịch (2005) của Lê Thị Chính. ở những công trình

này, các tác giả đã có cái nhìn tơng đối toàn diện về thơ Nguyễn Đình Thi, nhng
những cách tân về phơng diện thể thơ vẫn còn cha đợc tìm hiểu kỹ lỡng. Hầu hết
các tác giả mới dừng lại ở việc điểm diện các thể thơ và thừa nhận thơ tự do không vần là một cách tân của Nguyễn Đình Thi. Nhng thực sự cách tân ấy cụ
thể nh thế nào thì các tác giả cha có điều kiện tìm hiểu.
Điểm qua các ý kiến bàn về thơ của Nguyễn Đình Thi, chúng tôi nhận
thấy thơ Nguyễn Đình Thi đã đợc soi chiếu từ rất nhiều phơng diện, góc độ khác
nhau. Cho đến nay, không ai không thừa nhận những cách tân của Nguyễn Đình
Thi trong thơ, đặc biệt là những tìm tòi, sáng tạo về thể thơ. Tuy có lúc, ngời
nghệ sĩ đa tài này có vẻ thỏa hiệp khi sửa một số bài thơ không vần thành có
vần, song về cơ bản, ông vẫn kiên trì một lối đi và những cách tân về thể thơ của
ông đã đợc kế tiếp ở lớp nhà thơ sau. Chính vì thế, việc tìm hiểu những sáng tạo
của Nguyễn Đình Thi ở thể thơ là việc làm có ý nghĩa không nhỏ. Và theo chúng
tôi, cần thiết phải có một công trình thực sự đi sâu vào vấn đề thú vị nhng cũng
không hề đơn giản này.
3. Đối tợng và giới hạn nghiên cứu


13

3.1. Đối tợng nghiên cứu
Thơ Nguyễn Đình Thi từ góc nhìn thể lọai và loại hình thơ hiện đại.
3.1. Giới hạn của đề tài
Tiến hành đề tài này, chúng tôi tập trung nghiên cứu đặc điểm các thể thơ
của Nguyễn Đình Thi qua các sáng tác của ông trong các tập Ngời chiến sĩ
(1956), Bài thơ Hắc Hải (1958), Dòng sông trong xanh (1974), Tia nắng (1983),
Trong cát bụi (1997) và Sóng reo (2001) đã đợc in trong Nguyễn Đình Thi tuyển tác phẩm văn học: Phần thơ (2001).
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Đa ra một cái nhìn khái quát về thơ Nguyễn Đình Thi trên tiến trình
thơ Việt Nam hiện đại, xác định vị trí của nhà thơ trên hành trình này của thơ ca
dân tộc.

4.2. Khảo sát, phân tích, xác định đặc điểm các thể thơ trong hệ thống thể
loại thơ của Nguyễn Đình Thi.
4.3. Khảo sát, phân tích, xác định đặc trng thơ tự do, không vần của
Nguyễn Đình Thi, nhìn nó từ đặc trng của loại hình thơ hiện đại, đánh giá những
đóng góp xuất sắc cho thơ hiện đại của Nguyễn Đình Thi từ cách đây trên nửa
thế kỷ.
5. Phơng pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng các phơng pháp chính: Thống kê
- phân loại, so sánh - loại hình, phân tích - tổng hợp, cấu trúc - hệ thống.
6. Đóng góp và cấu trúc của luận văn
6.1. Đóng góp
Luận văn là công trình tập trung tìm hiểu, nghiên cứu toàn bộ thơ Nguyễn
Đình Thi từ góc nhìn thể loại và loại hình thơ hiện đại.
Kết quả của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc tiếp
nhận, tìm hiểu thơ Nguyễn Đình Thi.
6.2. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận
văn gồm 3 chơng:
Chơng 1: Thơ Nguyễn Đình Thi trên tiến trình thơ Việt Nam hiện đại.
Chơng 2: Hệ thống thể loại thơ Nguyễn Đình Thi và những nét đặc trng
nổi bật.
Chơng 3: Những đóng góp nổi bật của Nguyễn Đình Thi cho thơ Việt
Nam hiện đại.


14

Chơng 1
Thơ Nguyễn Đình Thi
trên tiến trình thơ Việt Nam hiện đại

1.1. Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại (tổng quan)
1.1.1. Khái luận về thơ Việt Nam hiện đại
1.1.1.1. Thơ Việt Nam hiện đại là một bộ phận cấu thành nền văn học
Việt Nam hiện đại
Trên dòng chảy lịch sử văn học dân tộc, văn học hiện đại đợc định vị từ
đầu thế kỷ XX kéo dài cho đến nay. Đây là nền văn học vận động, phát triển
trong bối cảnh lịch sử - xã hội có nhiều biến đổi sâu sắc và có cả những bớc
ngoặt vĩ đại: thành công của Cách mạng tháng Tám, thắng lợi của hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, sự hội nhập quốc tế, quá trình phát triển
cơ chế kinh tế thị trờng, sự bùng nổ của khoa học kỹ thuật (đặc biệt là công nghệ
thông tin). Những tác động bên ngoài này kết hợp với sự vận động tự thân của
văn học đã khiến cho văn học Việt Nam thực sự mang một diện mạo mới - diện
mạo của một nền văn học hiện đại.
Tính hiện đại trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX lại nay đợc thể
hiện trên tất cả các bình diện, từ thế giới quan, nhân sinh quan, thẩm mĩ quan,
quan niệm văn học đến hệ thống thể loại, hệ thống thi pháp, kiểu nhà văn. Xét về
phơng diện thể loại, văn học Việt Nam hiện đại đã xác lập một hệ thống thể loại
đa dạng, phong phú, bắt kịp xu thế vận động, phát triển của hệ thống thể loại
văn học thế giới. Trong đó, thơ là một trong những thể loại cơ bản nhất, quan
trọng nhất làm nên diện mạo văn học hiện đại. Tuy không giữ vị trí độc tôn nh
trong văn học trung đại nhng khi xem xét một giai đoạn bất kỳ nào đó trên tiến
trình văn học Việt Nam hiện đại, ngời ta không thể không quan tâm đến những


15

đổi mới, những thành tựu của thơ ca. Cùng với quá trình hiện đại hóa văn học
dân tộc, thơ ca từng bớc đợc đổi mới, hoàn thiện theo hớng hiện đại và có điều
kiện để phát triển theo nhiều khuynh hớng khác nhau.
1.1.1.2. Thơ Việt Nam hiện đại có một hệ thống thi pháp riêng, khác hệ

thống thi pháp thơ trung đại
Thế kỷ XX đã đánh dấu sự trởng thành vợt bậc của văn học Việt Nam,
khép lại thời văn học cổ xa, mở ra thời văn học hiện đại, đồng hành với các tìm
tòi nghệ thuật của thế giới hiện đại, trong đó có thơ ca [56, 10]. Quan sát sự vận
động của thơ Việt Nam thế kỷ XX, có thể nhận thấy rằng, sự chuyển đổi từ phạm
trù trung đại sang phạm trù hiện đại tất yếu gắn liền với quá trình xác lập một hệ
thống thi pháp mới. Đó là hệ thống thi pháp thơ hiện đại.
Để có một cái nhìn khái quát về hệ thống thi pháp thơ hiện đại, thiết nghĩ,
không thể không quan tâm đến hệ thống thi pháp thơ trung đại. Trong văn học
trung đại, thơ (chữ Hán và chữ Nôm) luôn giữ vị trí quan trọng, vị trí độc tôn. Vì
thế, không phải ngẫu nhiên mà mọi đặc trng của văn học trung đại đều thể hiện
rõ nét trong thơ và những đặc điểm thi pháp thơ trung đại đều tơng đồng với
những đặc điểm thi pháp của văn học trung đại.
Trong thơ trung đại Việt Nam, cái tôi trữ tình là cái tôi vô ngã. Bởi trong
thơ trung đại, bản chất con ngời bắt nguồn từ quan hệ cộng đồng, giá trị cá
nhân nằm trong giá trị quần thể, văn học chủ yếu phát ngôn trên t cách siêu cá
nhân với những vấn đề của tập đoàn, gia đình, dòng họ, giai cấp thống trị, cho lý
tởng đạo đức, cho vận mệnh dân tộc [47, 67 - 68]. ý thức về cá nhân, cá tính là
có thực, song nó thờng tồn tại trong những quy tắc luật lệ, khuôn mẫu có sẵn.
Cái tôi trong thơ trung đại còn là cái tôi vũ trụ. Con ngời là một phần của vũ trụ,
còn vũ trụ là quyển sách từ đó đọc ra niềm vui, nỗi buồn, quá khứ, hiện tại, tơng
lai []. Mỗi một sự việc, một khung cảnh đều mang ý nghĩa triết lý về quan hệ
con ngời và vũ trụ [47, 69]. Do không tách mình khỏi vũ trụ, nhà thơ thờng trữ
tình về cái hồn của vũ trụ để từ những bí ẩn của vũ trụ, gián tiếp bộc lộ những bí
ẩn của tâm hồn.
Thơ trung đại sử dụng hệ thống ớc lệ dày đặc, phức tạp và nghiêm ngặt.
Thơ hiện đại cũng có ớc lệ nhng ớc lệ trong thơ trung đại khác với thơ hiện đại ở
tính uyên bác và cách điệu hóa, tính sùng cổ, tính phi ngã.
Về mặt ngôn ngữ, câu thơ điệu ngâm chính là sản phẩm tất yếu và đặc trng cho loại hình thơ trung đại. Xuất phát từ quan niệm thơ là sự biểu hiện của thế
giới qua tâm hồn nhà thơ, thơ không phải là một phát ngôn hay lời nói mà nh

một biểu hiện của văn tạo hóa, làm thơ là làm sự gửi gắm ngôn ngữ thơ trung đại
không nhấn mạnh chủ ngữ, không đánh dấu lời biểu hiện, ít có dấu hiệu ngữ điệu
làm cho lời thơ trừu tợng nh không phải lời của ai cả mà lời của vũ trụ. Lời thơ


16

không có tính liên tục và ý vị của lời nói tự nhiên mà nh những đờng nét, màu
sắc của bài thơ đợc sắp xếp đặc biệt. Từ ngữ trong bài thơ đợc nối với nhau theo
các quy luật siêu ngôn ngữ nh đối, niêm, vần Câu thơ hầu nh bị tẩy sạch hết
các h từ chỉ quan hệ lời nói. Âm điệu thơ đợc tạo ra bằng sự phối hợp chặt chẽ
các thanh bằng - trắc, trầm - bổng. Thơ trung đại đợc "xây dựng trên nhãn quan
duy lý và nguyên tử luận, xem ngôn ngữ thơ nh một tập hợp các từ đại diện cho
sự vật mà ngời ta có thể sử dụng nh những viên gạch để lắp vào bộ khung cố
định của luật thơ. Từ ngữ đợc sử dụng nh những nguyên tố sắc màu, âm thanh,
vật thể với ý nghĩa bất biến là để làm nên họa, nên nhạc. ứng với mỗi cú pháp có
tính chất độc lập, từ ngữ trong thơ cũng có tính độc lập rất cao, không lệ thuộc
chặt chẽ vào nguyên tắc ngữ pháp thông thờng. Tính độc lập này làm cho mỗi
cụm từ là một ý tợng độc lập, tự phản ánh vào nhau mà tạo ra nhiều ý tứ của câu
thơ trong một ý tợng lớn hơn" [5, 150].
Khác với thơ trung đại, cái tôi trữ tình trong thơ hiện đại không còn là cái
tôi vô ngã, cái tôi vũ trụ mà đã là cái tôi hữu ngã, cái tôi bản ngã. Cái tôi trong
thơ hiện đại đợc bộc lộ với nhiều dạng thức: hoặc là rất gần với cái tôi của tác
giả (trờng hợp nhà thơ trực tiếp bộc lộ một tình cảm riêng t, một câu chuyện, một
cảnh ngộ, một sự việc gắn với cuộc đời riêng của mình); hoặc là nhân vật trữ tình
chủ yếu của sáng tác (trờng hợp tác giả nói lên những cảm nghĩ về những sự kiện
mà mình có dịp trải qua hoặc chứng kiến); hoặc là một loại nhân vật ít xác định
cụ thể, tồn tại bên cạnh nhân vật trữ tình (trờng hợp những bài thơ trữ tình viết về
một nhân vật nào đó). Trong thơ Việt Nam hiện đại, cái tôi trữ tình không nhất
thành bất biến mà luôn có sự vận động. Bởi thế, ta có thể bắt gặp cái tôi - cá

nhân tự biểu hiện, khép kín và cô đơn về xã hội [47, 71] trong Thơ mới 1932 1945; cái tôi - cá nhân hòa nhập với cái tôi - xã hội, cái tôi tự ý thức về lịch
sử xã hội, cái tôi mang tính sử thi và lý tởng [47, 74] trong thơ Việt Nam
1945 - 1975 và cái tôi thế sự, đời t, cái tôi mang xu hớng hiện đại trong thơ Việt
Nam sau 1975.
Cùng với sự giải phóng cái tôi trữ tình, thơ hiện đại cũng vợt thoát ra khỏi
nguyên tắc mĩ học đồng nhất trong thơ trung đại nói riêng và văn học trung đại
nói chung. Chính điều này cũng tạo ra sự đa dạng, phong phú trong bút pháp, kết
cấu, giọng điệu cho thơ hiện đại.
Ngôn ngữ thơ hiện đại, với sự thay thế câu thơ điệu ngâm bằng câu thơ
điệu nói, đã tạo ra một bớc ngoặt trên tiến trình phát triển và hoàn thiện ngôn
ngữ thơ tiếng Việt. Xuất phát từ quan niệm cái tôi cá nhân không phải là vô giá
trị mà là một quan điểm, một t cách để nhìn đời, để nói với mọi ngời và nhà thơ
bao giờ cũng nói tiếng nói của mình với cái tôi cá nhân phát triển, câu thơ điệu
nói cho phép nhà thơ biểu hiện rõ ràng, dứt khoát lập trờng t tởng, tình cảm của


17

cái tôi trữ tình. Câu thơ trở thành lời nói cá thể. Câu thơ điệu nói giải phóng
giọng điệu cá thể, làm cho nó hiện ra trên bề mặt, đồng thời cải tạo chất nhạc
của thơ - không phải nhạc trầm bổng, réo rắt do phối hợp âm thanh tạo nên mà
do tiếng lòng, hơi thở, nhịp tình cảm tạo nên. Thành phần của lời thơ điệu nói rất
đa dạng, có các h từ, các cách lập luận, các khẩu hiệu; có tiếng hô, lời chào, lời
chêm, câu hỏi đối đáp, có cách vắt dòng Thơ điệu nói đứng trớc nhiều viễn
cảnh khác nhau: nó mở cửa cho những tiếng lòng gần gũi, chất văn xuôi đủ các
cung bậc, lĩnh vực vào thơ; nó mở cửa thông sang truyền thống dân gian; nó mở
ra các hình thức t duy mới mẻ, cho phép sử dụng các ẩn dụ, liên tởng đầy nghịch
lý, bất ngờ.
Nh vậy, thơ hiện đại đã thoát ra khỏi hệ thống thi pháp chặt chẽ, gò bó của
thơ trung đại để xác lập một hệ thống thi pháp mới, mang tính chất mở, cho phép

cá tính nhà thơ bộc lộ sắc nét ngay trong hình thức thơ.
1.1.1.3. Thơ Việt Nam hiện đại chấp nhận sự phát triển đa dạng của cá
tính, phong cách
Các nhà thơ trung đại bao giờ cũng sáng tác theo quy phạm. Điều đó thể
hiện trên cả nội dung - t tởng, hình thức, bút pháp Sáng tác, với họ, cái chính
không phải là tìm ra cái gì hoàn toàn mới lạ mà là làm mới cái đã đợc thừa nhận.
Nhà thơ trung đại phải biết múa hai tay: một tay múa theo quy phạm, một
tay múa bên ngoài. Do vậy, thơ trung đại đã hạn chế sự đa dạng của phong
cách thơ.
Trong văn học hiện đại nói chung và thơ hiện đại nói riêng, ý thức cá nhân
luôn đợc đề cao. Sáng tác văn học không chỉ là làm mới cái đã có mà quan trọng
hơn là làm ra cái mới phù hợp. Hệ thống thi pháp là một hệ thống mở, thu nạp
nhiều tiếng nói, nhiều tìm tòi của nhiều cá tính sáng tạo. Bởi thế, dù thuộc cùng
một khuynh hớng hay thuộc những khuynh hớng sáng tác khác nhau, những
nghệ sĩ thực sự vẫn luôn tạo ra phong cách riêng của chính mình. Điều này càng
làm cho diện mạo thơ Việt Nam hiện đại trở nên đa dạng, phong phú hơn.
1.1.2. Các chặng đờng vận động, phát triển của thơ Việt Nam hiện đại
1.1.2.1. Thơ Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945
Có thể phân định hai chặng đờng thơ của thời kì này. Trớc hết là giai đoạn
chuẩn bị cho công cuộc hiện đại hóa (1900 - 1932).
Trong những thập niên đầu của thế kỷ XX, xã hội Việt Nam có nhiều biến
đổi lớn. Sự thay đổi hình thái xã hội từ xã hội phong kiến sang xã hội thực dân
nửa phong kiến cùng với sự du nhập của hệ ý thức t sản và vô sản đã ảnh hởng
sâu sắc và trực tiếp đến đời sống văn học nói chung, sự phát triển của thơ ca nói
riêng. Văn học Việt Nam 1900 - 1932 bớc vào những chặng đầu tiên của quá


18

trình hiện đại hóa với sự hiện diện của ý thức cá nhân, sự vận động của đề tài từ những đề tài về xã hội luân thờng, con ngời chức năng sang những đề tài về

cuộc sống bình thờng [44, 242] và những thành tựu nổi bật về tiểu thuyết,
truyện ngắn, tùy bút của Hồ Biểu Chánh, Phạm Duy Tốn, Hoàng Ngọc Phách
Về thơ, trong các sáng tác của Tản Đà, Trần Tuấn Khải đã xuất hiện cái tôi
phóng túng, lãng mạn, đậm chất sầu và mộng. Đây là sự chuẩn bị quan trọng vào
bậc nhất cho công cuộc hiện đại hóa thơ Việt. Và vì thế, không phải ngẫu nhiên
khi tác giả Thi nhân Việt Nam tìm thấy ở Tản Đà sự đồng điệu với các nhà thơ
mới: Tiên sinh đã cùng chúng tôi chia sẻ một nỗi khát vọng thiết tha, nỗi khát
vọng thoát ly ra ngoài cái tù túng, cái giả dối, cái khô khan của khuôn sáo. Đôi
bài thơ của tiên sinh ra đời từ hơn hai mơi năm trớc đã có một giọng phóng túng
riêng. Tiên sinh đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ đơng sắp sửa [60, 12].
Thứ hai là giai đoạn về cơ bản hoàn tất một quá trình hiện đại hóa (1932 1945).
Giai đoạn 1932 - 1945 là chặng hoàn tất một quá trình hiện đại hóa văn
học dân tộc. Riêng với thơ, đây là giai đoạn đánh dấu bớc ngoặt quan trọng trong
lịch sử hình thành và phát triển hơn mời thế kỷ. Với phong trào Thơ mới, thơ
Việt Nam đã làm một cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc, triệt để để bớc sang
phạm trù hiện đại.
Năm 1932, bằng việc trình làng một bài thơ phá cách tên là Tình già, Phan
Khôi chính thức lên tiếng đòi cải cách thơ ca và trở thành ngời nổ phát súng lệnh
mở đầu cho phong trào Thơ mới. Để rồi, những Lu Trọng L, Huy Thông và nhất
là Thế Lũ - ngôi sao sáng nhất của bầu trời Thơ mới buổi đầu - đem về chiến
thắng cho Thơ mới trong cuộc đấu tranh thật sự không dễ dàng gì với thơ cũ. Và
sau đó, những Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính,
Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Thâm Tâm đa Thơ mới đạt đến đỉnh cao (trong
những năm 1936 - 1939) với những tìm tòi, sáng tạo theo hớng hiện đại. Từ 1940
đến 1945, Thơ mới bắt đầu khủng hoảng. Trong thơ, xuất hiện nhiều khuynh hớng khác nhau: khuynh hớng thoát ly vào Đạo, vào vũ trụ; khuynh hớng đi vào
đời sống trụy lạc và khuynh hớng làm ảo thuật ngôn từ. Tuy nhiên, đây không
phải là một bớc lùi của thơ ca dân tộc mà chỉ là thời kỳ thoái trào của một
phong trào thơ ca khi nó đã hoàn thành nhiệm vụ, sứ mệnh lịch sử của mình.
Với phong trào Thơ mới, thơ Việt Nam thực sự mang một diện mạo mới diện mạo của thơ hiện đại. Cái tôi bản ngã đợc phát huy tận độ, tối đa (vì thế, có
lúc không tránh khỏi những biểu hiện cực đoan). Cái tôi ấy đợc đặt ở trung tâm

cảm nhận, đợc lấy làm nguyên tắc cắt nghĩa thế giới. Mọi quy định chặt chẽ, gò


19

bó của thơ trung đại đều bị phá bỏ. Câu thơ chuyển từ điệu ngâm sang điệu
nói. Hệ thống thể loại, về cơ bản đã khá hoàn chỉnh với các thể thơ cách luật,
thơ 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ, thơ phối thể và tự do, thơ văn xuôi. Thơ Việt Nam giai
đoạn này đã tiếp cận đợc với những thành tựu, khuynh hớng thơ ca phơng Tây,
vận dụng thành công nhiều thủ pháp của thơ ca lãng mạn, thơ ca tợng trng và cả
thơ ca siêu thực. Một điều đáng chú ý nữa, đó là sự nở rộ những phong cách thơ.
Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh, Hoài Chân đã quả quyết rằng trong
lịch sử thi ca Việt Nam cha bao giờ ngời ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn
thơ rộng mở nh Thế Lữ, mơ màng nh Lu Trọng L, hùng tráng nh Huy Thông,
trong sáng nh Nguyễn Nhợc Pháp, ảo não nh Huy Cận, quê mùa nh Nguyễn
Bính, kỳ dị nh Chế Lan Viên và thiết tha, rạo rực, băn khoăn nh Xuân Diệu
[60, 29]. Đây cũng là một dấu hiệu quan trọng để khẳng định thơ Việt Nam đã
thực sự là thơ hiện đại.
Nh vậy, với những đóng góp to lớn của phong trào Thơ mới, thơ Việt Nam
giai đoạn 1932 - 1945 cơ bản đã hoàn tất quá trình hiện đại hóa.
1.1.2.2. Thơ Việt Nam từ năm 1945 đến nay
Thơ Việt Nam thời kì này cũng có thể chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn
thứ nhất là giai đoạn 30 năm chiến tranh (1945 - 1975).
Thơ Việt Nam 1945 - 1975 vận động, phát triển trong hoàn cảnh lịch sử xã hội hết sức đặc biệt. Cách mạng tháng Tám thành công mở ra một kỷ nguyên
mới cho dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do, tiến lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời,
đem lại một nguồn cảm hứng mới cho thơ ca, khơi dậy sức sáng tạo của các nhà
thơ. Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ đã đặt thơ đứng trớc hai
nhiệm vụ: một mặt, phải đáp ứng yêu cầu của thời đại cách mạng, phải phản ánh
chân thực, hùng hồn hiện thực đời sống và con ngời kháng chiến; mặt khác, phải
đáp ứng yêu cầu tự thân của sáng tạo nghệ thuật, phải đổi mới toàn diện về nội

dung cũng nh hình thức thể hiện. Thực tế cho thấy thơ Việt Nam 1945 - 1975 đã
giải quyết đợc hai nhiệm vụ cơ bản đó, góp phần hoàn thiện diện mạo thơ Việt
Nam hiện đại.
Trong những năm kháng chiến, thơ ca thuộc về quần chúng, hớng đến
quần chúng chứ không còn là ngôi đền thiêng cách biệt mà chỉ thi nhân mới đợc bớc chân vào [40, 161]. Nó mở ra cánh cửa giao lu với hiện thực, hay nói
đúng hơn, nảy nở trên chính mảnh đất thực tế kháng chiến. Thơ ca mở rộng đề
tài, khai thác những chất liệu phong phú trong mọi khía cạnh của đời sống. Các
nhà thơ đi tìm chất thơ từ trong cuộc sống kháng chiến gian khổ, khắc nghiệt;
phát hiện vẻ đẹp trong hành động và tâm hồn con ngời kháng chiến.
Thơ kháng chiến cũng thay đổi vai trò và bản chất của cái tôi trữ tình.
Trong thơ, cái tôi vốn là một khái niệm kép bao gồm hai mặt: một là cái tôi với


20

t cách chủ thể t duy, cái tôi hoạt động nhận thức; hai là cái tôi với t cách khách
thể, đối tợng của cảm thụ, của nhận thức. Nếu nh trong Thơ mới 1932 - 1945, cái
tôi trữ tình chủ yếu tồn tại ở dạng thứ hai thì trong thơ kháng chiến, cái tôi lại
chủ yếu tồn tại ở dạng thứ nhất. Cái tôi này thờng xuất hiện với t cách cái tôi
công dân, không tách rời mình làm thế giới mà giao hòa, kết hợp với những cá
thể khác để trở thành chúng ta, chúng tôi, bọn chúng ta, lũ chúng tôi,
ta[40, 182]. Cái tôi cá nhân vẫn đợc nói đến nhng rất ít và thờng đợc nói đến
trong sự thống nhất giữa hai phạm trù riêng - chung.
Nếu nh đóng góp lớn nhất của Thơ mới về phơng diện ngôn ngữ là ở câu
thơ điệu nói thì đến lợt mình, thơ kháng chiến đã phát triển thêm một bớc tính
chất điệu nói trong ngôn ngữ thơ. Thơ kháng chiến lấy ngôn ngữ cụ thể, sinh
động, phong phú của chính đời sống làm ngôn ngữ thơ. Thơ kháng chiến thu
nhận vào nó tất cả sự phong phú của lời ăn tiếng nói quần chúng, những khẩu
ngữ sinh hoạt hàng ngày. Điều này mở ra cho thơ khả năng to lớn trong việc
miêu tả hiện thực và diễn đạt tâm trạng.

Thơ ca kháng chiến triệt để vận dụng các thể thơ dân tộc, tiếp tục sử dụng
các thể thơ đợc hình thành và ổn định trong phong trào Thơ mới. Đồng thời, nó
cũng tìm đến những hình thức diễn đạt mới phù hợp với cảm xúc mới của con
ngời thời đại với xu hớng chung là tự do hóa hình thức thơ. Thơ tự do, thơ văn
xuôi có đất dụng võ nên đạt đợc nhiều thành tựu đáng kể. Riêng thơ tự do còn
đi xa hơn, đến địa hạt thơ không vần. Thể trờng ca đợc sử dụng ngay khi Cách
mạng tháng Tám thành công với hai tác phẩm Ngọn quốc kỳ và Hội nghị non
sông của Xuân Diệu. Đến những năm 70, với hàng loạt tác phẩm nh Mặt đờng
khát vọng (Nguyễn Khoa Điềm), Những ngời đi tới biển (Thanh Thảo), Đờng tới
thành phố (Hữu Thỉnh), Mặt trời trong lòng đất (Trần Mạnh Hảo), diện mạo
của trờng ca trữ tình cơ bản đợc hoàn thiện.
Giai đoạn thứ hai (sau 1975) thơ Việt Nam tiếp tục đợc đổi mới và dân
chủ hóa.
Chiến tranh kết thúc, con ngời trở về với muôn mặt đời thờng, với những
lo toan, trăn trở, nghĩ suy. Cơ chế kinh tế thị trờng, sự bùng nổ khoa học kỹ
thuật, quá trình giao lu, hội nhập quốc tế đã làm thay đổi toàn diện và sâu sắc
đời sống tinh thần, trong đó có văn học. Từ sau 1975 (đặc biệt là từ 1986) đến
nay, văn học Việt Nam thực sự đợc đổi mới, bắt kịp đợc với sự phát triển của văn
học thế giới. Thơ ca cũng nằm trong quy luật vận động chung đó.
Sau 1975, thơ Việt Nam (và cả văn học Việt Nam nói chung) không đặt
lên hàng đầu nhiệm vụ phản ánh hiện thực đời sống cách mạng và kháng chiến.
Tinh thần cởi mở, dân chủ trong đời sống xã hội cho phép nền thơ tồn tại nhiều


21

khuynh hớng nghệ thuật. Nhìn lại một cách tổng quát, thơ Việt Nam sau 1975
phát triển theo bốn xu hớng: một là, tiếp tục nói về chiến tranh qua những khúc
ca bi tráng về số phận của dân tộc; hai là, trở về với cái tôi cá nhân với những lo
âu của đời sống thờng nhật; ba là, đi sâu vào những vùng mờ tâm linh đậm chất

tợng trng, siêu thực; bốn là, xu hớng hiện đại chủ nghĩa. ở xu hớng thứ nhất,
hiện thực chiến tranh đợc hiện lên trong các tác phẩm không phải là thứ hiện
thực nhìn thấy nh trớc 1975 mà chủ yếu là hiện thực đợc cảm thấy, đợc nhớ
lại. Hiện thực ấy không chỉ đợc nhìn từ mặt trớc mà còn đợc nhìn từ phía sau với
bao nỗi đau trĩu nặng, bao nhức nhối khó lành. ở xu hớng thứ hai, các nhà thơ
nói nhiều hơn về nỗi buồn nhân sinh, về những cảm nhận của cái tôi trớc một
thực tại khắc nghiệt. Đó không hẳn là nỗi buồn kiểu thơ mới mà là nỗi buồn
gắn chặt với một thực tại mới, một cảm quan nghệ thuật mới. Có nỗi buồn về
thần tợng bị gãy đổ, ảo tởng bị tan vỡ, có nỗi buồn vì cuộc sống mu sinh làm cho
con ngời chỉ chú ý chuyện tồn tại [] và có những trắc ẩn về riêng t [11, 380].
ở xu hớng thứ ba, các nhà thơ tập trung tìm hiểu cấu trúc cái tôi trong quan hệ
với chính nó. Lúc này, thơ là hình ảnh nội tâm về thế giới nội tâm, là ý thức
chống lại các quy định có sẵn trong thơ, là sự khớc từ sự có mặt của t duy duy lý
trong nghệ thuật [11, 381]. ở xu hớng thứ t, những cây bút trẻ trởng thành sau
1975 nh Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phơng, Phan Huyền Th, Vi Thùy
Linh, Nguyễn Hữu Hồng Minh muốn tạo nên màu sắc nổi loạn, thủ tiêu mọi
nhân quả vẫn thờng thấy trong thơ ca truyền thống, sử dụng những liên tởng trái
chiều và những kênh ngôn ngữ khác lạ để tạo nên cái mới trong thơ [11, 382].
Trong đời sống thơ ca sau 1975, thơ tự do và thơ văn xuôi luôn chiếm u
thế, thậm chí áp đảo các thể thơ khác. Điều này khẳng định khả năng vợt trội của
cả hai thể thơ trong việc cho phép nhà thơ triển khai tự do hơn những phức hợp
cảm xúc cá nhân, tổ chức nhịp điệu linh hoạt hơn, mở cửa cho chất tiểu thuyết
(chất văn xuôi) vào thơ. Đồng thời, nó cho thấy tính hiện đại trong thơ sau 1975.
Các thể thơ truyền thống nh lục bát, thơ 5 chữ, thơ 7 chữ vẫn tồn tại nhng đã đợc
nới lỏng cấu trúc. ở thơ 5 chữ và 7 chữ, tính điệu nói đợc gia tăng thêm một bớc nữa, cấu trúc thể loại dựa vào nhịp nhiều hơn vần, giọng điệu thơ gân guốc
hơn, các liên tởng thơ ít tuân theo quan hệ nhân - quả hơn. Thể thơ lục bát đợc
cách tân về bài trí văn bản, về giọng điệu. Thể trờng ca cũng tỏ ra không thua
kém thơ tự do, thơ văn xuôi và các thể thơ truyền thống. Khi chiến tranh đi qua,
nhu cầu viết trờng ca xuất hiện ở nhiều nhà thơ. Để rồi, vào những năm cuối thế
kỷ XX, ngời đọc đợc chứng kiến sự nở rộ của thể loại này.

Trong thơ Việt Nam sau 1975, bên cạnh ngôn ngữ đậm chất đời thờng,
ngôn ngữ giàu chất tợng trng mang tâm thế (chữ dùng của Nguyễn Đăng Điệp)


22

của văn học công nghiệp và hậu công nghiệp, ngời đọc còn bắt gặp những trò
chơi ngữ nghĩa. Hoàng Hng, Đặng Đình Hng, Lê Đạt, Dơng Tờng là những
cây bút có nhiều bài thơ tiêu biểu cho cách tổ chức trò chơi âm nghĩa này. Với
họ, thơ cần đợc cảm hơn là đợc dùng để hiểu. Hiện tợng này, ở một khía cạnh
nào đó, đã góp phần tạo nên sự thú vị trong thởng thức. Tuy nhiên, một khi quá
lạm dụng, nó sẽ gây ra phản cảm, khiến ngời đọc khó chấp nhận.
1.1.3. Thơ Việt Nam thế kỷ XX nh một loại hình thơ hiện đại
1.1.3.1. Khái niệm loại hình thơ hiện đại
Thơ Việt Nam thế kỷ XX không chỉ giản đơn là chặng nối tiếp của thơ
Việt Nam mời thế kỷ trớc đó (từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX). Trong thế kỷ XX
này, thơ Việt Nam đã vợt rào một cách xuất sắc. Phá đổ bức tờng rào dày đặc
và kiên cố tồn tại mấy trăm năm của thơ trung đại, thơ Việt Nam thế kỷ XX (đặc
biệt từ 1932 với Thơ mới) chẳng những đem lại những tác phẩm hay, những nhà
thơ độc đáo mà quan trọng hơn, nó đã đem lại một phạm trù thơ hiện đại, một
thi pháp mới, một kiểu trữ tình mới, phân biệt và thay thế cho thơ trữ tình cổ điển
truyền thống [54, 148]. Bởi thế, thơ Việt Nam thế kỷ XX cần đợc nhìn nhận
không chỉ nh một thời kỳ mới trên tiến trình vận động, phát triển thơ ca dân tộc
mà còn nh một loại hình thơ hiện đại.
Nếu nh thơ trung đại là loại hình thơ của thời trung đại thì thơ hiện đại là
loại hình thơ của thời hiện đại. Đây là thời đại mà tính chất khép kín của từng
dân tộc bị phá vỡ, nhờng chỗ cho sự giao lu quốc tế. Sự cọ xát thờng xuyên giữa
các nền văn minh trong thời đại của nền kinh tế hàng hóa, của những cuộc xâm
chiếm thuộc địa và mở rộng thị trờng, của những cuộc cách mạng thế giới,
những hình thái kinh tế xã hội mới (chủ nghĩa t bản, chủ nghĩa xã hội) đã làm

cho ý thức cá nhân đợc thức tỉnh. Ngời ta đã có một cái nhìn tỉnh táo về cuộc
sống, thoát ra khỏi t tởng thần bí, siêu hình khi xa. Lúc này, hoạt động văn học
đã trở thành một hoạt động nghề nghiệp, công chúng văn học đợc mở rộng và thị
hiếu của nó tác động mạnh mẽ vào sáng tác. Lý tởng thẩm mĩ của ngời nghệ sĩ
không đặt vào sự thống hợp thế giới mà đặt vào cá nhân, vào sự phát triển tự do
của cá tính, vào cái thờng nhật, cái hiện tại. Tất cả những điều này có tác dụng
giải phóng thơ thoát khỏi khuôn thức sáng tạo cứng nhắc của thơ trung đại.
Cũng giống nh thơ Việt Nam trung đại, thơ Việt Nam hiện đại có một hệ
thống thi pháp của riêng nó. Do mối quan hệ tơng tác hết sức phức tạp giữa các
trào lu, khuynh hớng và phong cách nghệ thuật khác nhau nên khái quát về thi
pháp của thơ hiện đại là một việc làm cực kỳ khó khăn. Nhng nh vậy không có
nghĩa là không thấy đợc những khác biệt cơ bản về thi pháp giữa hai loại hình
thơ trung đại và hiện đại. Thực tế vận động và phát triển của thơ Việt Nam thế kỷ
XX đã khẳng định: thơ Việt Nam hiện đại đã thoát khỏi thi pháp thơ trung đại


23

với đặc trng nổi bật là cái tôi vô ngã, cái tôi vũ trụ, là hệ thống ớc lệ dày đặc,
phức tạp, nghiêm ngặt, là ngôn ngữ mang tính chất điệu ngâm. Thi pháp thơ
hiện đại là một hệ thống thi pháp mở, thu nạp rất nhiều tiếng nói, nhiều tìm tòi
của nhiều cá tính sáng tạo khác nhau. Thậm chí, trong lòng hệ thống này còn
chứa đựng không ít những yếu tố đối lập, tranh luận, phản bác lẫn nhau, thể hiện
qua những cuộc bứt phá liên tiếp, tơng ứng với tính chất của thời đại là luôn luôn
xáo động, đổi mới và phát triển. Với cái tôi đầy bản ngã (ngay cả khi nó hòa
nhập với cộng đồng) đợc tồn tại ở nhiều dạng thức khác nhau, với ngôn ngữ
mang tính chất điệu nói, với sự đa dạng, linh hoạt trong kết cấu, giọng điệu,
bút pháp, thơ Việt Nam hiện đại đã đáp ứng đợc nhu cầu trữ tình của con ngời
thời hiện đại. Điều này không chỉ cho thấy sự khác biệt giữa thi pháp thơ hiện
đại và thi pháp thơ trung đại mà còn khẳng định sự thay thế tất yếu thi pháp thơ

trung đại bằng thi pháp thơ hiện đại trong lịch sử phát triển thi ca dân tộc.
Khác với loại hình thơ trung đại, loại hình thơ hiện đại không có mối quan
hệ chặt chẽ, mật thiết với thơ trung đại Trung Quốc, không lấy những chuẩn mực
trong thơ trung đại Trung Quốc làm tiêu chí đánh giá phẩm chất thơ. Thơ Việt
Nam hiện đại mở rộng mối quan hệ với thơ ca các nớc trên thế giới, nhất là các
trào lu, trờng phái thơ ca phơng Tây. Không có chuẩn mực nào đợc dùng làm thớc đo giá trị cho tất cả các kiểu loại trong thơ hiện đại. Mỗi kiểu loại, mỗi
khuynh hớng thơ hiện đại đều có một quy chuẩn riêng, mang tính tơng đối, định
hớng cách tiếp cận đúng đắn cho ngời đọc.
Nh vậy, hoàn toàn có cơ sở để xem thơ Việt Nam thế kỷ XX nh một loại
hình thơ hiện đại. Xét trên bình diện khái quát nhất, loại hình thơ hiện đại là sản
phẩm tất yếu của thời hiện đại. Nó xác lập một hệ thống thi pháp mới, khác hẳn
với thi pháp thơ trung đại, đồng thời, tiếp cận đợc với những trào lu, khuynh hớng thơ ca phơng Tây và thế giới. Trong quá trình vận động của mình, nó bao
hàm xu hớng hiện đại chủ nghĩa, hay nói chính xác hơn, hiện đại chủ nghĩa chỉ
là một trong nhiều xu hớng phát triển của loại hình thơ hiện đại. Vì vậy, khi xem
xét thơ Việt Nam thế kỷ XX nh một loại hình thơ hiện đại, cần tránh quan niệm
đồng nhất khái niệm hiện đại trong loại hình thơ hiện đại với khái niệm
hiện đại trong xu hớng hiện đại chủ nghĩa trong thơ.

1.1.3.2. Hệ thống thể thơ hiện đại
Mỗi loại hình văn học nói chung, mỗi loại hình thơ nói riêng đều có một
hệ thống thể loại đặc trng. Sự đa dạng, phong phú của hệ thống thể loại không
chỉ cho thấy sự đa dạng, phong phú trong cách nhìn nhận và khả năng chiếm lĩnh
đời sống mà còn cho thấy sự phát triển của văn học. Hệ thống thể loại cũng là


24

một tiêu chí phân biệt sự khác nhau giữa loại hình thơ hiện đại và loại hình thơ
trung đại.
Đối với loại hình thơ trung đại, căn cứ vào nguồn gốc và số tiếng trong

câu thơ, ngời ta phân ra thành hai hệ thống:
- Hệ thống các thể thơ có nguồn gốc ngoại nhập: thơ cổ phong và thơ Đờng luật (các dạng).
- Hệ thống các thể thơ có nguồn gốc nội sinh: thơ lục bát, song thất lục
bát, hát nói.
Đối với loại hình thơ hiện đại, sự phân chia trong hệ thống thể thơ có phần
phức tạp hơn (do sự phong phú và biến hóa của các thể thơ, do sự giao thoa giữa
chúng). Dựa vào cách tổ chức câu thơ, ngời ta chia ra thơ cách luật, thơ tự do và
thơ văn xuôi. Dựa vào số tiếng trong câu thơ, kết quả lại là thơ lục bát, song thất
lục bát, thơ 5 chữ, thơ 6 chữ, thơ 7 chữ, 8 chữ Dựa vào vần thơ, ta có thơ có
vần, thơ không vần, thơ phối xen có vần và không vần. Mỗi tiêu chí phân loại nói
trên đều có những u điểm và hạn chế nhất định. Theo chúng tôi, để có một hình
dung toàn diện về hệ thống thể thơ hiện đại, cần kết hợp ở một mức độ nào đó tất
cả các tiêu chí phân loại. Từ hớng đi này, chúng tôi khái quát hệ thống thể thơ
của loại hình thơ hiện đại bằng mô hình sau:
Thơ hiện đại

Thơ cách luật

Thơ tự do

Trờng ca

Lục bát

Đờng luật

Song thất lục bát

Số tiếng cố định


5
chữ

6
chữ

7
chữ

Thơ văn xuôi

Số tiếng không cố định

8
chữ


vần

Có vần
xen lẫn
không
vần

Không
vần

1.2. Vị trí thơ Nguyễn Đình Thi trên tiến trình thơ Việt Nam hiện đại
1.2.1. Nguyễn Đình Thi với sự nghiệp thi ca
Nguyễn Đình Thi thuộc lớp nhà thơ trởng thành từ cuộc kháng chiến

chống Pháp của dân tộc. Ông đến với thơ khi nó đã thoát ra khỏi sự ràng buộc


25

của hệ thống thi pháp trong thơ trung đại và mang diện mạo mới - diện mạo của
thơ hiện đại - đợc định hình từ Thơ mới 1932 - 1945. Khác với các nhà thơ lớp
trớc đang chuyển mình để chín lại với Cách mạng, Nguyễn Đình Thi đến với
cuộc đời mới bằng những suy nghĩ hồn nhiên, chân thực của tâm hồn, đem đến
cho thơ một tiếng nói mới.
Trong những năm kháng chiến và thời kỳ đầu lập lại hòa bình, Nguyễn
Đình Thi nổi lên thật mới mẻ và sáng tạo với hai tập thơ Ngời chiến sĩ (1956) và
Bài thơ Hắc Hải (1959). Bằng sự trải nghiệm của ngời trong cuộc, Nguyễn Đình
Thi đã thể hiện tâm hồn và cuộc sống chiến đấu của những ngời chiến sĩ với
không ít gian khổ, mất mát, hy sinh (Ngời tử sĩ, Ngời lính Điện Biên, Ai biết tên
các anh), với lòng căm thù giặc (Về nhà, Em bé gái Vân Đình), với niềm vui
chiến đấu và niềm tin chiến thắng (Chiều qua đờng số 4, Lá cờ, Lên đờng),
những suy nghĩ, tự hào về đất nớc (Đêm sao, Quê hơng Việt Bắc, Lúa, Chiều vui,
Đất nớc) và tình yêu trong chiến đấu (Không nói, Bài thơ viết cạnh đồn Tây,
Nhớ, Đóa hoa nghệ). Trong thơ ông, hình ảnh ngời chiến sĩ của những năm
kháng chiến chống Pháp mang một vẻ đẹp riêng không dễ lẫn. Nhà thơ nhìn họ
đúng với cái chân chất cách mạng, không có gì là hoa mỹ, hào nhoáng:
Giữa súng đạn ngổn ngang bờ núi
Đoàn quân nằm ngủ dới mây trời...
Đêm mai súng chuyển trời Đông Bắc
Trong sắt lửa ào ào nh thác
Đoàn quân dữ dội phá đồn
(Bài thơ viết cạnh đồn Tây)
So với hình ảnh ngời chiến sĩ trong thơ Tố Hữu, Chính Hữu, hình ảnh
ngời chiến sĩ trong thơ Nguyễn Đình Thi còn ít những nét khắc họa cụ thể . Thế

nhng, họ vẫn hiện lên với một đời sống tâm hồn đẹp và tinh tế. Không ít câu thơ
tài hoa của Nguyễn Đình Thi đã đợc dùng để soi rọi vẻ đẹp tâm hồn ấy:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Ngời ra đi đâu không ngoảnh lại
Sau lng thềm nắng lá rơi đầy
(Đất nớc)
Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh
Soi sáng đờng, chiến sĩ giữa đèo mây
Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh
Sởi ấm lòng chiến sĩ dới ngàn cây
(Nhớ)


26

Đọc lại tập thơ này, dễ dàng nhận thấy rằng, khi nói về ngời chiến sĩ,
Nguyễn Đình Thi thờng tập trung thể hiện tình yêu quê hơng đất nớc và tình yêu
trong chiến đấu - hai thứ tình cảm cao đẹp, thiêng liêng, gắn quyện vào nhau để
trở thành nỗi niềm tha thiết, cháy bỏng, tiếp thêm nguồn sức mạnh cho họ. Một
điều đáng chú ý là, dù cảm nhận đất nớc trong đau thơng, vất vả hay trong
cái tơi vui, trong sáng của mùa thu nay với Trời thu thay áo mới/ Trong biếc
nói cời thiết tha; dù phát hiện vẻ đẹp của đất nớc ở những điều bình dị (
những buổi tra đầm ấm/ Em bé trồng rau đuổi lũ gà; Những cánh đồng thơm
mát/ Những ngả đờng bát ngát/ Những dòng sông đỏ nặng phù sa) hay ở tinh
thần chiến đấu, sự vùng lên quật khởi (Quê hơng ta núi sông lộng lẫy/ Mỗi lần
vùng dậy lại đẹp hơn) thì Nguyễn Đình Thi thờng gắn liền hình ảnh đất nớc với
thủ đô Hà Nội. Không phải ngẫu nhiên mà trong bài Đêm sao, từ không gian
ngàn sao phơi phới đang bay nơi rừng núi Việt Bắc, nhà thơ trở về với hình ảnh
Hà Nội dới kia; còn trong bài thơ Đất nớc, những cảm nhận sâu sắc về nớc

chúng ta lại đợc khơi dậy từ những rung động tinh tế về mùa thu Hà Nội. Có thể
nói, Nguyễn Đình Thi đã thể hiện tình yêu quê hơng đất nớc bằng tâm hồn, trái
tim của một ngời Hà Nội (chứ không chỉ bằng tâm hồn của một ngời lính). Đây
chính là dấu ấn riêng và cũng là đóng góp riêng của nhà thơ cho đề tài quê hơng
đất nớc trong thơ kháng chiến.
Ngay trong tập thơ đầu tay - Ngời chiến sĩ, Nguyễn Đình Thi đã tìm thấy
sự thống nhất giữa tình yêu quê hơng đất nớc và tình yêu đôi lứa. Từ cuộc sống
chân thực của mình, từ những nhu cầu nội tâm tha thiết của mình, nhà thơ đã
mạnh dạn thể hiện những khía cạnh mới của tình yêu trong chiến đấu. Trong thơ
ông, tình yêu đôi lứa gắn liền với tình yêu lý tởng, hòa quyện vào tình yêu đất nớc. Đây là nét chủ đạo của những bài thơ viết về tình yêu trong kháng chiến.
Điểm khác biệt giữa Nguyễn Đình Thi với các nhà thơ cùng thời khi thể hiện
điều này có lẽ là ở chỗ: ông đã mạnh dạn (cũng có thể nói là khá táo bạo) đem
đặt tình yêu lứa đôi ngang với tình yêu đất nớc:
Anh yêu em nh anh yêu đất nớc
Vất vả đau thơng tơi thắm vô ngần
(Nhớ)
và cũng không hề che giấu những cảm giác xót xa, mất mát (Về nhà, Không nói),
điều mà văn học kháng chiến, trong đó có thơ ca kháng chiến, thờng hạn chế đến
mức tối đa; không hề tạo ra trờng bi quan, ủy mị, yếu đuối bao quanh những cảm
giác rất thành thực đó.
ở mỗi bài thơ trong tập Ngời chiến sĩ, Nguyễn Đình Thi đều có ý thức
khái quát hóa nghệ thuật. Nhà thơ chọn lọc những hình ảnh tiêu biểu để qua đó
thấy đợc diện mạo của đời sống và chân dung tinh thần của ngời chiến sĩ. Ông ít


27

vận dụng yếu tố chính luận. Sức khái quát nghệ thuật thờng đợc rút ra từ những
hình ảnh và những liên tởng bên trong. ở tập thơ này, Nguyễn Đình Thi đã mạnh
dạn tìm cho thơ một hình thức mới - hình thức thơ không vần. Tuy vấp phải sự

phản ứng gay gắt của văn nghệ sĩ cùng thời nhng sự hiện diện có chủ ý những
câu thơ, đoạn thơ, khổ thơ không vần trong Đêm sao, Đờng núi, Không nói, Đôi
mắt, Sáng mát trong, Em bé gái Vân Đình, Hà nội đêm nay một mặt đã khẳng
định tính tất yếu của việc xuất hiện các hình thức thể hiện mới phù hợp với nội
dung phản ánh mới, mặt khác, ghi nhận sự tìm tòi mang ý nghĩa tiên khởi của
Nguyễn Đình Thi cho thơ Việt Nam hiện đại.
Một thời gian khá lâu sau hai tập thơ Ngời chiến sĩ và Bài thơ Hắc Hải,
Nguyễn Đình Thi mới lại xuất bản tập thơ Dòng sông trong xanh (1974) gồm các
bài đợc sáng tác trong những năm chống Mỹ cứu nớc. ở đây, ngòi bút của
Nguyễn Đình Thi vẫn tiếp tục tái hiện cuộc chiến đấu của dân tộc bằng những
hình ảnh chân thực và bằng một thứ ngôn ngữ ngày càng gần gũi với lời nói thờng:
Bao tháng năm không thấy bóng lá cây
Chỉ mái tôn tờng đá dây thép gai
ở đây có những nét mặt cháy đen vì gió biển
Những ngời sống trên sông trên đất trên đầm lầy
Những bàn tay sần sùi nhựa cao su
Những cánh tay quen ôm ấp thân dừa
Những bắp chân nh gốc cây rừng cộm rễ
ở đây có đàn ông đàn bà cụ già em bé
Những ngời còn gia đình và những ngời đã chết hết vợ con
(Gửi các anh chị trong tù miền Nam)
Hớng đến hiện thực nhng Nguyễn Đình Thi không quên dành cho tình yêu
trong chiến đấu một vị trí nhất định trong thơ mình. Đến tập thơ này, tình yêu lứa
đôi đợc soi chiếu bởi tình yêu lý tởng; hạnh phúc, vui - buồn riêng t đợc đặt
trong hạnh phúc, vui - buồn của mọi ngời:
Nh đàn chim tung cánh đôi phơng trời
Cha biết bao giờ gặp lại nhau nữa
Đôi ngời yêu xa cách lại xa nhau
Yêu nhau nên họ xa nhau
(Chuyện hai ngời yêu xa cách)

Em bảo anh Đâu chỉ đôi ta
Không có đợc bình thờng tuổi trẻ
Em bảo anh Hôm nay ta bên nhau
Còn bao đồng chí nằm hầm sâu


28

(Em bảo anh)
Cách thể hiện tình yêu nh vậy chính là sự gặp gỡ của phần lớn những bài
thơ viết về tình yêu trong thơ Việt Nam 1945 - 1975. Nó làm thành một nét đặc
thù của thơ kháng chiến so với Thơ mới 1932 - 1945, đồng thời cũng hạn chế
khả năng khai thác sâu vào thế giới tâm hồn của thơ kháng chiến. Thơ Nguyễn
Đình Thi, trong một số trờng hợp, cũng không tránh khỏi những hạn chế này.
Nếu nh trong hai tập thơ trớc, mạch thơ đi vào thể hiện những tình cảm
truyền thống của dân tộc thì đến tập thơ này, mạch thơ đợc mở rộng ra, hớng
đến những tình cảm quốc tế. Tiêu biểu nh các bài thơ Em gái Hirôsima, Bà cụ
già ở Tôkyô, Gọi Hôkusai, Tiếng đàn Kô - tô, Màu mùa thu, Lá th xa. Tuy những
tình cảm quốc tế trong các bài thơ kể trên cha thực sự sâu sắc và còn thiếu sự tự
nhiên, nhuần nhuyễn nh nhiều bài thơ trong tập Ra trận của Tố Hữu nhng chính
cảm hứng mới mẻ này đã tạo ra chất mới cho thơ Nguyễn Đình Thi. Một mặt,
nó làm phong phú nội dung tập thơ, mặt khác, khẳng định tầm nhìn mới của ngời
nghệ sĩ trong thời đại mới.
Sau 1975, thơ Nguyễn Đình Thi không trực tiếp phản ánh hiện thực chiến
tranh mà thiên về thể hiện sự suy ngẫm, chiêm nghiệm về một thời đã qua. Lúc
này, giọng thơ Nguyễn Đình Thi trở nên trầm lắng, lời thơ vừa chất chứa suy t,
vừa có ý nghĩa khẳng định mạnh mẽ:
Ta không quên
Buổi chiều lầy lội bên bờ cỏ ấy
Bùn bết máu trên mặt ngời tử sĩ

Ta không quên đâu
Không quên đâu
(Mùa xuân)
Nhng nớc mắt ngời mẹ
Làm đứng dậy ngời con
Giọt máu ngời ngã xuống
Thành ngôi sao dẫn đờng
Và lặng im cũng thành tiếng gọi
(Cách mạng)
Cũng sau 1975, thơ Nguyễn Đình Thi nổi bật lên với những trăn trở, nghĩ
suy về những vấn đề nhân sinh. Trong các tập thơ Tia nắng (1983), Trong cát bụi
(1997), Sóng reo (2001), chất triết lý đợc thể hiện ở ý thức chủ động khai thác
các mối quan hệ của con ngời trong cuộc sống. Nhà thơ thờng khai thác ý nghĩa
triết học trong thơ từ những quan hệ bình dị, quen thuộc của đời sống hàng ngày
trong lao động và xây dựng hạnh phúc [13, 88]. Những bài thơ nh Niềm nhỏ,


29

Nơi dựa, Có lẽ, Từ bên ấy trông về, Nhìn xem, Gió bay... là những bài thơ tiêu
biểu cho mạch triết lý trong thơ Nguyễn Đình Thi nói riêng và thơ ca sau 1975
nói chung. ở đó, Nguyễn Đình Thi đã vợt qua đợc cái khó nhất của triết lý trong
thơ là triết lý về sự việc vốn bình dị, mộc mạc. Ông phát hiện ra từ đó những
điều mới mẻ, có ý nghĩa triết lý sâu sắc bằng chính sự trải nghiệm của bản thân:
Hỡi ngời sắp đi xa, ngời có muốn đem theo gì nữa không?
- Tôi chỉ mong đợc một vài ánh mắt nhìn quyến luyến
Ngời có muốn gửi lại gì không?
- Chút nắng ấm cho ngời tôi yêu thơng
(Niềm nhỏ)
Có thể nói, chính ý vị triết lý đã làm nên sức hấp dẫn riêng trong những

tập thơ sau 1975 của Nguyễn Đình Thi. Nó đa đến một giọng điệu mới cho thơ
ông: giọng suy t, chiêm nghiệm trở thành giọng chủ đạo (khác với trớc đó, giọng
ngợi ca, khẳng định, đầy tự hào là giọng chủ đạo). Nó cũng chi phối đến tính
chất của hình ảnh thơ. Nếu nh ở các tập thơ trớc 1975, hình ảnh thơ chủ yếu là
những hình ảnh chân thực của cuộc sống kháng chiến, những hình ảnh có tính
chất biểu tợng hầu nh rất ít thì ở các tập thơ sau 1975, hình ảnh có ý nghĩa tợng
trng đợc gia tăng. Có thể kể đến hình ảnh dòng sông (Nh dòng sông, Mùa xuân,
Dòng sông vẫn rì rào), con đờng (Buổi chiều Vàm Cỏ, Trên con đờng nhỏ), núi,
biển (Núi và biển), trăng (Với Lý Bạch đêm nay) Tất cả đã thâu tóm những suy
nghĩ của tác giả về cuộc đời, góp phần làm nên phong cách nghệ thuật thơ
Nguyễn Đình Thi.
Trong ba tập thơ sáng tác sau 1975, các thể thơ đã đợc Nguyễn Đình Thi
sử dụng trong các tập thơ trớc vẫn phát huy những khả năng biểu đạt tình cảm
của chúng. Riêng với thơ tự do không vần, sau khi trình làng trong tập Ngời
chiến sĩ, nó đã gặp không ít ý kiến phản đối nên phải vắng mặt tạm thời trong
tập Dòng sông trong xanh. Đến Tia nắng, Trong cát bụi, Sóng reo, thơ tự do không vần đờng hoàng xuất hiện trở lại trong hàng loạt bài thơ nh: Một niềm vui
một nỗi buồn, Hoa vàng, Cách mạng, Không sợ và sợ, Nhìn xem, Từ bên ấy
trông về, Ngõ tối, Ước mong, Sen biếc, Hoa không tên, Nơi em, Một ngày, Trở
lại Mờng Luông Lúc này, nó không còn gặp bất kỳ sự phản đối nào. Bởi lẽ,
cùng với thời gian, nó đã đợc thừa nhận là một hình thức của thơ hiện đại, một
hình thức có khả năng diễn tả hiện thực đời sống cũng nh hiện thực tâm hồn của
con ngời trong thời đại mới. Và Nguyễn Đình Thi không còn là một trờng hợp dị
biệt, cá biệt sử dụng hình thức này để sáng tác.
ở ba tập thơ sáng tác sau 1975, cũng nh nhiều nhà thơ khác, Nguyễn Đình
Thi đã tìm đến hình thức thơ văn xuôi. Tuy không đợc xem là thể thơ sở trờng


×