LỚP AN SINH XÃ HỘI_3
NHÓM 10 :
Lê Thị Ngọc
2. Nguyễn Phương Linh
3. Hoàng Như Dương
4. Trần Đình Khương
5. Bùi Việt An
6. Phạm Hoàng Giang
7. Phạm Hưng Đạt
8. Đàm Đức Hùng
9. Dương Vĩ Đình
10. Nguyễn Thị Quỳnh
1.
*
*
*
TÀI CHÍNH VI MÔ TRONG XÓA ĐÓI
GIÀM NGHÈO
I.
A.
Những vấn đề cơ bản của tài chính vi mô :
Những vấn đề cơ bản của tài chính vi mô :
1. Một số khái niệm về đói nghèo :
a. Khái niệm nghèo :
Đói nghèo không chỉ là nỗi bức xúc của từng quốc gia mà nó còn là
mối quan tâm của toàn nhân loại. Tổ chức Y tế Thế giới định nghĩa nghèo theo thu
nhập. Theo đó một người là nghèo khi thu nhập hàng năm ít hơn một nửa mức
thu nhập bình quân trên đầu người hàng năm (Per Capita Incomme, PCI) của quốc
gia. Ngân hàng Thế giới xem thu nhập 1 đô la Mỹ/ngày theo sức mua tương
đương của địa phương so với (đô la thế giới) để thỏa mãn nhu cầu sống như là
chuẩn tổng quát cho nạn nghèo tuyệt đối.
Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á – Thái bình Dương do
ESCAP tổ chức tại Băng Kốc, Thái Lan (9/1993) đã đưa ra định nghĩa chung như
sau: “nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các
nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận
tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của địa phương”.
Như vậy, theo hai định nghĩa cơ bản về “nghèo” ở trên, ta thấy nghèo được nhìn
nhận trên nhiều khía cạnh khác nhau. Việc đo lường được từng khía cạnh đó một
cách nhất quán là điều rất khó, còn gộp tất cả những khía cạnh đó vào một số chỉ
số nghèo hay thước đo nghèo khổ duy nhất là không thể.
b. Thước đo đói nghèo :
b.1 Xác định các chỉ số phúc lợi
Những khía cạnh cơ bản của
đói nghèo được nêu ra có thể được chia
thành hai khía cạnh là tiền tệ và phi tiền tệ.
Khía cạnh tiền tệ của đói
nghèo được phản ánh chủ yếu qua mức chi
tiêu bình quân đầu người.
Khía cạnh phi tiền tệ có thể
được đo lường bằng chỉ số phát triển con
người HDI (human development index–
HDI) của Liên Hiệp Quốc. Các chỉ thị cho
HDI bao gồm tuổi thọ dự tính vào lúc mới
sinh, tỷ lệ mù chữ, trình độ học vấn, sức
mua thực lương thực trên đầu người và
nhiều chỉ thị khác.
b.2 Lựa chọn và ước tính chuẩn nghèo
Chuẩn nghèo là ranh giới để phân biệt người nghèo và người không
nghèo. Có hai cách tính để xác định chuẩn nghèo
-
Nghèo tuyệt đối
Là chuẩn tuyệt đối về mức sống được coi là tối thiểu cần thiết để cá
nhân hoặc hộ gia đình có thể tồn tại khỏe mạnh. [1]
-
Nghèo tương đối
Được xác định theo phân phối thu nhập hoặc tiêu dùng chung trong
cả nước để phản ánh tình trạng của một bộ phận dân cư sống dưới mức trung
bình của cộng đồng. [1]
Ở nước ta còn đưa ra khái niệm về đói và thiếu đói. Đó là tình trạng
của một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức tối thiểu, chỉ đủ khả năng đảm
bảo có được mức lương thực cần thiết để tồn tại. [1]
-
Ranh giới nghèo tương đối
Các ranh giới nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối đều không có thể
xác định được nếu như không có trị số tiêu chuẩn cho trước. Việc chọn lựa một
con số phần trăm nhất định từ thu nhập trung bình và ngay cả việc xác định một
giỏ hàng đều không thể nào có thể được giải thích bằng các giá trị tự do. Vì thế
mà chúng được quyết định qua những quá trình chính trị.
Một con số cho ranh giới của nạn nghèo được dùng trong chính trị
và công chúng là 50% hay 60% của thu nhập trung bình. Từ năm 2001 trong các
nước thành viên của Liên minh châu Âu những người được coi là nghèo khi có ít
hơn 60% trị trung bình của thu nhập ròng tương đương.
-
Chuẩn nghèo của Việt Nam
Ở Việt Nam, Chính phủ Việt Nam đã 4 lần nâng mức chuẩn nghèo
trong thời gian từ 1993 đến cuối năm 2005. Hiện nay, Theo Quyết định số
170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 8 tháng 7 năm 2005 về việc ban
hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010 thì ở khu vực nông thôn
những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000 đồng/người/tháng (2.400.000
đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu
nhập bình quân từ 260.000 đồng/người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm)
trở xuống là hộ nghèo.
Tuy nhiên, hiện nay, do tác động của lạm phát và suy thoái kinh tế,
khoảng 20% dân số nghèo nhất nước chỉ chiếm 9% tổng thu nhập và chi tiêu của
quốc gia. Trong khi đó, 20% người giàu có nhất thì chiếm tới 44% tổng số thu nhập
và chi tiêu cả nước. Phụ nữ và trẻ em nghèo là các thành phần đặc biệt có nguy cơ
thiếu đói nhất vì giá thực phẩm tăng cao, làm cho các nhu cầu thiết yếu bị giảm
xuống. Do đó, chẩn nghèo trên không thể phán ánh hết được thực trạng nghèo
đói hiện tại ở Việt Nam.
b.3 Các thước đo đói nghèo thông dụng
Sau khi đã xác định được
chuẩn nghèo, có thể tính toán một số
thước đo mô tả quy mô, độ sâu và độ
nghiêm trọng của đói nghèo. Ba thước đo
thông dụng nhất thường được sử dụng là
tỷ lệ đói nghèo, khoảng nghèo và bình
phương khoảng nghèo.
Tỷ lệ đói nghèo cho biết quy
mô đói nghèo (hay diện nghèo) của một
quốc gia. Đây là chỉ số đánh giá hay được
sử dụng nhất.
Khoảng nghèo: được tính là
tổng các mức thiếu hụt của tất cả người
nghèo trong nền kinh tế. Nó cho biết chi
phí tối thiểu để đưa tất cả người nghèo lên
mức sống ngang bằng với chuẩn nghèo,
trong điều kiện mọi khoản chuyển giao đều
được chuyển đến đúng đối tượng.
Bình phương khoảng nghèo
thể hiện mức độ nghiêm trọng của đói
nghèo. Vì nó làm tăng thêm trọng số cho
những nhóm người có khoảng nghèo lớn
hơn trong số những người nghèo.
Tuy nhiên cả ba thước đo trên
mới chỉ tập trung đo lường khía cạnh thiếu
thốn về điều kiện vật chất của người
nghèo, chứ chưa phản ánh hết được
những thiếu thốn về y tế, giáo dục, nguy
cơ dễ bị tổn thương, không có tiếng nói,
không có quyền lực của người nghèo.
2. Một số vấn đề cơ bản của tài chính vi mô :
a. Khái niệm tài chính vi mô :
Tài chính vi mô là việc cấp cho các hộ gia đình rất nghèo các khoản vay
rất nhỏ (gọi là tín dụng vi mô), nhằm mục đích giúp họ tham gia vào các hoạt động
sản xuất, hoặc khởi tạo các hoạt động kinh doanh nhỏ. Tài chính vi mô thường kéo
theo hàng loạt các dịch vụ khác như tín dụng, tiết kiệm, bảo hiểm, vì những người
nghèo và rất nghèo có nhu cầu rất lớn đối với các sản phẩm tài chính, nhưng
không tiếp cận được các thể chế tài chính chính thức.
Theo quan điểm của ADB, “Tài chính vi mô là việc cung cấp một phạm
vi rộng các dịch vụ như tiền gửi, các tài khoản tiết kiệm, thanh toán, bảo hiểm,
chuyển tiền cho người nghèo hoặc các hộ gia đình có thu nhập thấp, những hoạt
động kinh doanh cá thể hoặc các doanh nghiệp rất nhỏ”.
Tài chính vi mô khác tín dụng vi mô ở chỗ: tài chính vi mô đề cập đến
các hoạt động cho vay, tiết kiệm, bảo hiểm, chuyển giao dịch vụ và các sản phẩm
tài chính khác đến cho nhóm khách hàng có thu nhập thấp. Tín dụng vi mô chỉ
đơn giản là một khoản cho vay nhỏ, do ngân hàng hoặc một tổ chức nào đó cấp.
Tín dụng vi mô thường dành cho cá nhân vay, không cần tài sản thế chấp, hoặc
thông qua việc cho vay theo nhóm.
Khái niệm tổ chức tài chính vi mô: Một cách đơn giản nhất, tổ chức
tài chính vi mô (microfinance institutions - MFI) là tổ chức cung cấp dịch vụ tài
chính cho những người có thu nhập thấp. Hầu hết các tổ chức tài chính vi mô đều
cho vay tín dụng vi mô và chỉ nhận gửi những khoản tiết kiệm rất nhỏ từ người vay
chứ không phải từ công chúng. Do đó, một MFI có thể là bất kỳ tổ chức hợp nhất
tín dụng, ngân hàng thương mại thu nhỏ, các tổ chức tài chính phi chính phủ hoặc
liên kết tín dụng- với vai trò cung cấp các dịch vụ tài chính cho người nghèo. (theo
CGAP - Nhóm tư vấn hỗ trợ người nghèo)
"Ngân hàng thế giới ước lượng có hơn 7,000 tổ chức tài chính vi mô,
phục vụ hơn 16 triệu người nghèo ở các quốc gia đang phát triển. Tổng doanh thu
bằng tiền mặt của TCTCVM trên toàn thế giới ước lượng là 2.5 triệu Mỹ kim và vẫn
duy trì phát triển."
b. . Đối tượng của tài chính vi mô
Theo định nghĩa, thì đối tượng của tài chính vi mô chính là
những người nghèo, song tuy nhiên không phải là nhưng người nghèo nhất trong
xã hội. Họ là những người có thu nhập thấp nhưng có việc làm cụ thể. Họ chỉ có
nhu cầu về quy mô vốn vay nhỏ để mở rộng thêm hoạt động sản xuất kinh doanh,
tăng thêm thu nhập cho gia đình. Người nghèo cũng giống như tất cả mọi người,
cần có nhiều loại công cụ tài chính để tích lũy tài sản, bình ổn tiêu dùng và tự bảo
vệ mình trước rủi ro.
Ngoài ra, phụ nữ cũng là đối tượng chính của TCVM. Có nhiều
nguyên nhân để phụ nữ trở thành mục tiêu đầu tiên của dịch vụ tài chính vi mô.
Bởi vì 70% người nghèo trên thế giới là phụ nữ. Phụ nữ thường là người đầu tiên
hoặc duy nhất chăm sóc cho gia đình ở nhiều quốc gia đang phát triển. Vì phụ nữ
thường đặt nhu cầu của con cái họ lên trên nhu cầu bản thân, việc cho họ khả
năng củng cố kinh tế gia đình thường là cách hiệu quả nhất để tác động lên cả gia
đình. Đồng thời phụ nữ chiếm tỉ lệ thất nghiệp cao hơn nam giới ở hầu hết các
quốc gia và hình thành phần đông của khu vực tự do của hầu hết các nền kinh tế.
Việc cấp vốn cho phụ nữ đã mang lại hiệu quả gấp bội. Đồng thời giúp nâng cao vị
thế của người phụ nữ trong xã hội. Rất nhiều chương trình quốc tế gắn liền tài
chính vi mô với phát triển vai trò và độc lập của phụ nữ.
c. Hình thức và nội dung hoạt động của TCVM :
Ở Việt Nam, khách hàng của tài chính vi mô là người nghèo tại thời
điểm vay vốn có thu nhập dưới 200 nghìn đồng/tháng ở nông thôn và dưới 260
nghìn đồng/tháng ở thành thị, không cần tài sản thế chấp.
Tài chính vi mô cung cấp dịch vụ tín dụng ngay trên địa bàn mà người
vay và tiết kiệm sinh sống, thường là ở khu vực nông thôn. Đây là lý do thu hút
được nhiều người tham gia, giảm chi phí tín dụng, tăng tính tiết kiệm và tính cộng
đồng.
Phương pháp TCVM được xây dựng đáp ứng cho từng cá nhân hay
nhóm khách hàng tham gia. Các TCTCVM thường cung cấp tín dụng theo ba hình
thức: cho vay cá thể; cho vay theo nhóm tương hỗ và cho vay gián tiếp theo nhóm
tương hỗ qua trung gian thứ ba (các đoàn thể xã hội).
Những người nghèo, được tham gia mượn vốn, tiết kiệm, và các dịch
vụ tài chính khác. Bên cạnh các dịch vụ về tài chính, các tổ chức tài chính vi mô
còn thực hiện nhiều hoạt động phi tài chính vì mục đích phát triển khác. Đồng
thời, được tiếp cận với bảo hiểm vi mô, người nghèo có thể đương đầu với sự
tăng giá đột ngột, hay tài sản, vật nuôi bị bệnh dịch, chết, hoặc bị mất. Việc được
mượn vốn cũng cho phép người nghèo tận dụng được những cơ hội phát triển
kinh tế. Theo đó, khi vay vốn những người nghèo này phải có kế hoạch kinh doanh
cụ thể để có khả năng trả nợ trong một kỳ hạn được yêu cầu. Nếu không thì các
khách hàng có thể sẽ không được lợi từ số tiền mượn và có nguy cơ bị đẩy vào
tình trạng nợ nần. Từ đó người nghèo sẽ có nhưng thay đổi trong thói quen tiêu
dùng biến đổi từ “kiếm sống hằng ngày” sang “lập kế hoạch cho tương lai”, nhờ
đó mà cải thiện dần dần đời sống gia đình.
Một vài đặc điểm riêng của TCVM
Thứ nhất là tài chính vi mô phải tính lãi suất cao, bởi việc cung cấp
các dịch vụ tài chính cho người nghèo rất tốn kém, đặc biệt khi so sánh với quy mô
cho vay. Các khoản vay nhỏ thì cũng đòi hỏi chi phí về nhân sự và các nguồn lực
khác tương tự như khoản cho vay lớn, thậm chí còn nhiều hơn, cán bộ tín dụng
phải đến thăm nhà cửa, cơ sở làm ăn của người vay, đánh giá độ tin cậy của người
vay thông qua các cuộc phỏng vấn các thành viên gia đình và những người quen
khác của người vay, và có khi còn phải thường xuyên đến gặp người vay để nhắc
nhở họ về việc trả nợ. Vì thế, tỷ lệ chi phí giao dịch so với tổng tiền vay của các
khoản vay nhỏ thường cao. Điều đó khiến ngân hàng phải tính lãi suất cho vay cao
để trang trải chi phí thực hiện việc cho vay. Đồng thời cũng do tín dụng vi mô hoạt
động chủ yếu là ở khu vực nông thôn, thường có mật độ dân số phân tán, cơ sở
hạ tầng (đường sá, dịch vụ viễn thông) và các dịch vụ xã hội (giáo dục, y tế) có chất
lượng thấp. Đây cũng là một trong các lý do quan trọng nhất khiến các ngân hàng
thương mại không thực hiện các khoản cho vay nhỏ.
Thứ hai là cơ chế trách nhiệm liên đới áp dụng giữa những người vay.
Việc quản lý do một nhóm những người đi vay đảm bảo khả năng thu hồi vốn vay
tốt hơn do áp lực nhóm cũng như sự lo sợ về “trừng phạt xã hội” của những
người trong nhóm đối với người vay không tuân thủ theo hợp đồng. Phương pháp
này đã chứng tỏ rất thành công ở nhiều quốc gia khác nhau áp dụng mô hình
ngân hàng Garmeen Bank. Ở Việt Nam, mô hình này cũng đã được nhiều tổ chức
ứng dụng như NHNo (thử nghiệm từ năm 1998), NHCS (2005), quỹ TYM (1999),
quỹ CEP (2004), tuy nhiên mức độ ứng dụng là khác nhau đối với từng tổ chức.
Thứ ba là các khoản vay tuần hoàn: Việc thanh toán đầy đủ một
khoản vay sẽ tạo cơ hội cho lần vay tiếp theo. Cho vay tuần hoàn cho phép hỗ trợ
về quản lý tài chính, tạo động lực cho khách hàng vay vốn tuân thủ theo các điều
khoản trong hợp đồng.
B.Quá trình phát triển của tài chính vi mô trên thế giới và ở
Việt Nam :
1. Trên thế giới :
Dịch vụ tài chính vi mô được F.W. Raiffeisen nghĩ ra và áp dụng đầu
tiên ở Đức vào những năm 1860 để đối phó với vấn đề tín dụng trong nông
nghiệp, các nghề thủ công và các công nghiệp nhỏ ở các vùng nông thôn Đức đúng
vào thời công nghiệp hoá diễn ra nhanh chóng gây áp lực lớn đối với hàng nông
sản do nhập khẩu giá thấp, trong khi lãi suất thương mại thì lại cao. Các hội hợp
tác cho vay nhỏ dựa trên những nguyên tắc tự giúp đỡ lẫn nhau, tự chịu trách
nhiệm và tự quản đã hình thành: khoản tiền gửi của các thành viên là cơ sở để
cho các thành viên vay, và lợi nhuận được tái đầu tư hoặc chia. Vì các hiệp hội
riêng rẽ quá yếu khi đứng một mình, năm 1872, Raiffeisen đã lập nên Hội Liên
hiệp cấp quốc gia, kết hợp cấu trúc theo hàng ngang với cấu trúc theo chiều dọc.
Sau đó, những nguyên tắc cơ bản của Raiffeisen tiếp tục là bài học
cho việc thành lập các tổ chức hợp tác tín dụng trên toàn thế giới và được điều
chỉnh cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của từng nước. Những kiến thức
và kinh nghiệm đó đã được lan rộng và phổ biến khắp nơi ở châu Âu, Châu Á Philippines, Trung Quốc, Bangladesh, và Việt Nam tạo ra nhiều mô hình tài chính vi
mô thích hợp hơn với người nghèo. Hiện nay, có khoảng trên 100 triệu hộ gia đình
ở Châu Á được tiếp cận với dịch vụ TCVM với trên 100 ngàn tổ chức cung cấp
TCVM dưới nhiều dạng khác nhau. Đặc biệt là mô hình ngân hàng Grameen do
Muhammad Yunus sáng lập ở Bangladesh, Ngân hàng Grameen cũng đi theo con
đường tương tự là hoạt động tài chính vi mô theo mô hình truyền thống của
Raiffeisen, đã có tác động mạnh mẽ đến công cuộc xóa đói giảm nghèo ở
Bangladesh. Ngày nay, ngân hàng Grameen có hơn 58,9 triệu khách hàng và đã chi
ra hơn $5.4 tỷ với tỉ lệ thu lại là 98%. Grameen Bank đã mở rộng các hoạt động
của mình đến hãng điện thoại di động (GSM) - Hãng viễn thông Grameen. Cổ phần
đa số và việc quản lý hãng này thuộc về Telenor của Na-Uy. Một trong những vấn
đề chủ yếu của dịch vụ tài chính vi mô thành công là yếu tố văn hoá. Những điều
kiện pháp lý và xã hội ở Bangladesh khác với những nơi khác. Vì Grameen bây giờ
là một ngân hàng chính quy, nên nó được coi như là một mô hình phát triển lý
tưởng cho một tổ chức tài chính vi mô học tập. Mô hình này đã trở thành mẫu
hình cho 23 quốc gia trên thế giới, trong đó có cả Việt Nam.
2. Ở Việt Nam :
Năm 1986, Chính phủ Việt Nam quyết định thực hiện chính sách quốc
gia về xóa đói giảm nghèo thông qua việc thúc đẩy các hoạt động sản xuất của
người nghèo. Cùng với đó, với sự hỗ trợ của các tổ chức NGO quốc tế, các chương
trình hỗ trợ phát triển chính thức song phương và đa phương; các cơ quan đoàn
thể xã hội và chính quyền địa phương, các chương trình tài chính vi mô ở Việt
Nam đã được hình thành và phát triển với mục đích chính là nhằm giảm nghèo
cho phụ nữ, nam giới, trẻ em thông qua các việc đảm bảo các quyền và điều kiện
sống công bằng và đảm bảo công lý. Tuy nhiên, ban đầu không có một khung pháp
lý nào cho sự hoạt động của các tổ chức tài chinh vi mô và đa số các tổ chức tài
chính đều nhận hỗ trợ vốn và kỹ thuật từ các tổ chức NGO nước ngoài. Cho đến
năm 1998, Ngân hàng Nhà nước mới cấp vốn cho các ngân hàng như Ngân hàng
Chính sách xã hội và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để thực hiện
hoạt động tài chính vi mô. Đến 9/3/2005, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành nghị
định số 28/2005/NĐ-CP của chính phủ về tổ chức và hoạt động của các Tổ chức tài
chính quy mô nhỏ tại Việt Nam. Nghị định này là nền tảng pháp lý quan trọng giúp
những cơ sở tài chính và tín dụng vi mô vững tâm triển khai những thành quả đã
gặt hái được và tiếp tục nỗ lực giúp đỡ người nghèo tại Việt Nam. Quan trọng hơn
nữa, bản văn pháp luật này nay cho phép tư nhân đứng ra làm công việc giúp đỡ
người nghèo. Tiếp sau đó là ban hành nghị định 165/2007/NĐ-CP của Chính phủ
về việc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điều Nghị định số 28/2005/NĐ-CP và
Thông tư hướng dẫn thực hiện trong lĩnh vực tài chính vi mô tại Việt Nam. Hiện
nay, cùng với các ngân hàng chính thức, ở Việt Nam có cả ngàn tổ chức tài chính vi
mô đang hoạt động, trong đó có khoảng 60 là tổ chức phi chính phủ tham gia
trong cuộc chiến chống đói nghèo. Vào năm cuối 2005, Việt nam đã giảm một nửa
số hộ nghèo so với năm 1993.
II. Vai trò của tài chính vi mô trong xóa đói giảm nghèo :
1.Cải cách hành chính và hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước :
Mục đích : Tạo điều kiện cho tất cả mọi người , mọi cơ sở kinh tế có thể
phát huy đầy đủ khả năng , tiếp cận nguồn lực để cho công cuộc phát triển
-
kinh tế ở quốc gia.
Bổ sng hệ thống luật pháp tạo cơ hội kinh doanh bình đẳng.
Có chính sách ưu đãi với những vùng , ngành ưu tiên.
-
Bằng việc hỗ trợ cho sự tham gia làm kinh tế của phụ nữ, TCVM giúp trao
-
quyền cho phụ nữ, từ đó thúc đẩy bình đẳng giới cải thiện đời sống hộ gia
đình.
2. Tập trung cao độ cho sự phát triển kinh tế và cơ sở hạ tầng chủ yếu
để giảm nghèo :
- Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn để xóa đói giảm nghèo trên diện
rộng
- Tập trung thâm canh , nâng cao hiệu quả sản xuất
- Phát triển mạnh lâm nghiệp , thủy sản.
- Chuyển giao khoa học công nghệ cho sản xuất , đa dạng hóa ngành nghề.
- TCVM giúp những hộ nghèo vươn lên trong cuộc sống và tự bảo vệ trước những
rủi ro. Các nghiên cứu gần đây đã chỉ rõ khả năng dễ bị tổn thương của những
người sống dưới ngưỡng nghèo trước những cú sốc như ốm đau, thiên tai, mất
cắp và các sự cố khác. Nguồn tài chính hạn hẹp của các hộ gia đình chính là
nguyên nhân gây ra sự tổn thương trước các cú sốc này, và do thiếu các dịch vụ tài
chính hữu hiệu, các gia đình bị đẩy vào tình trạng nghèo cùng cực hơn và phải mất
nhiều năm để khắc phục. Các dịch vụ tài chính là một giải pháp đệm trong những
trường hợp như người nghèo đột nhiên bị rơi vào tình trạng quẫn bách, rủi ro
trong kinh doanh, lũ lụt, nhà có người ốm đau, tai nạn, lao động chính bị chết hay
kinh doanh trì trệ theo mùa vụ thường đẩy các gia đình nghèo vào cảnh khốn
cùng. Họ có thể rút tiền tiết kiệm hoặc vay để chi tiêu thay vì bán một tài sản có
thể sinh lời, việc bán tài sản này sẽ làm giảm khả năng tạo thu nhập của họ trong
tương lai. Việc sử dụng các dịch vụ tài chính này cho phép dân cư nông thôn tiếp
tục tăng thu nhập và gây dựng tài sản.
- Việc các hộ có thu nhập thấp sử dụng dịch vụ tài chính sẽ kết hợp với sự cải
thiện đời sống kinh tế và công việc kinh doanh ổn định, phát triển. Bên cạnh đó
còn khuyến khích phát triển khả năng kinh doanh của người nghèo.