Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Tình hình kinh tế chính trị xã hội nghệ an từ 1930 đến 1939

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.49 KB, 88 trang )

Trờng đại học vinh
Khoa lịch sử
----------***---------

Nguyễn thị nhung

Khóa luận tốt nghiệp đại học

Tình hình kinh tế - chính trị - xã hội Nghệ An
Từ 1930 đến 1939
Chuyên ngành: lịch sử Việt Nam
Lớp 47B3 (2006 - 2010)

Giáo viên hớng dẫn: ts. Trần văn thức

Vinh - 2010
1


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
-Về mặt khoa học:
Nghệ An là một trong những tỉnh lớn của xứ Trung Kì và là cửa ngõ
thông ra biển của nước Lào, tìm hiểu tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ở
Nghệ An trong thời kỳ 1930-1939 là góp phần vào việc nghiên cứu tình
hình kinh tế, chính trị, xã hội ở xứ Trung Kì, rộng ra là cả nước thời thuộc
Pháp. Đây là một nội dung mà các nhà nghiên cứu lịch sử kinh tế ,chính trị,
văn hóa, xã hội rất quan tâm.
Nghiên cứu về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của Việt Nam thời
kỳ 1930-1939 đã có nhiều học giả trong và ngoài nước quan tâm. Tuy
nhiên, ở quy mô một tỉnh, một địa phương trong giai đoạn đó thì chưa được


chú ý, chưa được nghiên cứu một cách thỏa đáng. Nghệ An cũng không
phải là một ngoại lệ.
Sau hai đợt khai thác thuộc địa của thực dân Pháp (1897-1914 và
1919-1929), tiếp đó là tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế (1929-1933)
đã làm thay đổi đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của các tầng lớp, các giai
cấp trong xã hội. Tìm hiểu, nghiên cứu những thay đổi trong đời sống kinh
tế, chính trị, xã hội của cộng đồng cư dân Nghệ An trong thời kỳ 19301939 góp phần vào việc nghiên cứu, đánh giá một cách đầy đủ, chính xác,
trung thực, khách quan những tác động của bối cảnh lịch sử đầy biến động
thời đó đối với Nghệ An nói riêng và cả nước nói chung.
Tìm hiểu tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của Nghệ An trong thời
kỳ 1930-1939, một mặt dựng lại toàn cảnh Nghệ An trong những năm 30
của thế kỷ XX, mặt khác thấy được những nét đặc trưng riêng của Nghệ An
trong tổng thể nước ta ở thời kỳ này.
-Về mặt thực tiễn:
Xuất phát từ thực tế hiện nay ở các trường trung học phổ thông,
trung học cơ sở…việc giảng dạy và học tập lịch sử địa phương còn rất hạn
2


chế. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần giải quyết phần nào những
bất cập trên. Từ đó, trau dồi ý thức dân tộc, lòng yêu nước, lòng biết ơn
đối với cha ông, biết trân trọng và phát huy những truyền thống tốt đẹp của
cha ông cho thế hệ trẻ Nghệ An.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho các độc giả gần xa quan tâm tới vùng đất Nghệ An giàu truyền thống
lịch sử - văn hóa.
Hiện nay tỉnh Nghệ An đang tiến hành biên soạn cuốn Lịch sử Nghệ
An, với kết quả nghiên cứu của đề tài,chúng tôi hi vọng sẽ góp một phần
nhỏ bé vào việc sưu tầm và biên soạn cuốn lịch sử đó.
Với ý nghĩa khoa học và thực tiễn nêu trên, chúng tôi lựa chọn “Tình

hình kinh tế - chính trị- xã hội Nghệ An từ năm 1930 đến năm 1939” làm
đề tài luận văn của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu lịch sử Nghệ An thời thuộc Pháp, các học giả đã có
nhiều bài nghiên cứu, tham luận về phong trào cách mạng 1930-1931 với
đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh. Đó là bản anh hùng ca đã gây tiếng vang
lớn không chỉ trong nước mà còn cả trên thế giới. Tuy nhiên, đến thời kỳ
sau đó từ 1932 đến 1939 Nghệ An ít có tiếng vang hơn ên ít được giới
nghiên cứu quan tâm hơn. Cho đến nay “Tình hình kinh tế- chính trị- xã hội
Nghệ An từ 1930 đến 1939” vẫn chưa có một công trình chuyên khảo nào.
Những tài liệu hiện có chỉ đề cập vấn đề này ở một số khía cạnh khác nhau.
Xét trên phạm vi cả nước, cho đến nay đáng chú ý nhất là tác phẩm
của tác giả Nguyễn Văn Khánh “ Cơ cấu kinh tế-xã hội Việt Nam thời
thuộc địa (1858-1945) ” Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, 1999. Đây là công
trình khảo cứu có tính hệ thống đề cập và đi sâu vào nghiên cứu thực trạng
và sự biến đổi cơ cấu kinh tế-xã hội Việt Nam thời Pháp đô hộ nhằm làm
sáng tỏ quá trình phá vỡ , thu hẹp kết cấu cổ truyền, dần dần hình thành xác
lập và mở rộng các yếu tố kinh tế-xã hội thuộc địa mang tính chất tư bản
3


chủ nghĩa ở nước ta. Đánh giá tích cực và hạn chế của công cuộc tư bản
hóa của thực dân Pháp ở Việt Nam. Tuy nhiên, tác phẩm chỉ quan tâm tới
cơ cấu kinh tế - xã hội của cả nước mà chưa tập trung nói về sự biến đổi ở
Bắc Trung kì và Nghệ An.
2.2.Tại Nghệ An cũng có rất nhiều công trình nghiên cứu có liên
quan tới tình hình kinh tế, chính trị, xã hội giai đoạn 1930-1939.
Dưới góc độ lịch sử Đảng, trong các cuốn sách: Lịch sử Đảng bộ
Nghệ An, tập 1 (1930-1954), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1998; Lịch

sử Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam tỉnh Nghệ Tĩnh, Sơ khảo, tập 1
(1925-1954), Nhà xuất bản Nghệ Tĩnh, 1987; Sơ thảo Lịch sử tỉnh Đảng bộ
Nghệ An , Ban nghiên cứư lịch sứ Đảng Tỉnh ủy Nghệ An, 1967. Nhìn
chung, các tác phẩm này chủ yếu nhấn mạnh chính sách khai thác thuộc địa
của thực dân Pháp và hậu quả gây nên cho nền kinh tế - xã hội Nghệ An
(1897-1929). Các tác phẩm này hoặc khảo sát một cách toàn diện tình hình
chính trị Nghệ An trong thời kỳ này, tuy nhiên phần kinh tế - xã hội còn rất
mờ nhạt, nếu không muốn nói là chưa được nghiên cứu một cách thỏa
đáng. Do vậy, việc nghiên cứu tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Nghệ An
từ 1930 đến 1939 cần phải được bổ sung, làm sáng tỏ hơn.
Ngoài ra trong các cuốn Lịch sử Nghệ Tĩnh, Tập 1, Nhà xuất bản
Nghệ Tĩnh, Vinh, 1984; Lịch sử Hà Tĩnh, Tập 1, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia Hà Nội, 2000; Xô Viết Nghệ Tĩnh , Ban nghiên cứu lịch sử Đảng
tỉnh Nghệ Tĩnh, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1981; Nghệ Tĩnh hôm qua
và hôm nay, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1986…đã ít nhiều phác họa sơ
lược tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Nghệ An thời kỳ này.
Gần đây đã bắt đầu xuất hiện những công trình khảo cứu về kinh tếxã hội của Nghệ An, tiêu biểu như Nguyễn Quang Hồng: Kinh tế Nghệ An
từ năm 1885 đến 1945, Nhà xuất bản Lý luận Chính trị Quốc gia, 2008;
Trần Vũ Tài: Sự chuyển đổi kinh tế nông nghiệp ở Bắc Trung Bộ thời
thuộc Pháp, Luận án Tiến sĩ Sử học, bảo vệ tại trường đại học khoa học Xã
hội và Nhân văn Quốc gia, năm 2000, Nguyễn Quang Hồng: Thành phố
4


Vinh quá trình hình thành và phát triển từ 1804 đến 1945, Nhà xuất bản
Nghệ An, 2003.
Đặc biệt trong những năm gần đây công tác sưu tầm, nghiên cứu
biên soạn lịch sử của các huyện thành Nghệ An đã được tiến hành có hiệu
quả. Cho nên phần kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi huyện được phản ánh
tương đối rõ nét trong các cuốn sách đó, có thể kể ra những công trình như:

Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam huyện Thanh Chương, Nhà
xuất bản Nghệ Tĩnh, Vinh, 1985; Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt
Nam huyện Nam Đàn, Sơ thảo, tập 1 (1930-1954), Nhà xuất bản Nghệ
Tĩnh, 1990; Lịch sử Đảng bộ huyện Đô Lương, Sơ thảo, tập 1 (1930-1963),
Nhà xuất bản Nghệ An, 1991; Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam
huyện Nghi Lộc, Nhà xuất bản Nghệ An, 1991; Lịch sử Đảng bộ Hưng
Nguyên, tập 1 (1930-1945), Nhà xuất bản Nghệ An, 2000; Lịch sử Đảng bộ
huyện Quỳnh Lưu (1930-2000), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2000…Hầu hết các cuốn sách kể trên đều được biên soạn dưới sự chỉ đạo
của các Cấp ủy Đảng, do đó nội dung của nó mới chỉ dừng lại ở việc tái
hiện các sự kiện lịch sử có liên quan đến vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
phong trào cách mạng của nhân dân Nghệ An. Nếu có đề cập đến tình hình
kinh tế-xã hội của địa phương mình dưới thời thuộc Pháp thì cũng chỉ
nhằm trình bày hoàn cảnh lịch sử của phong trào cách mạng và chỉ dừng lại
ở việc liệt kê, chưa có sự phân tích cụ thể.
Tóm lại “Tình hình kinh tế - chính trị - xã hội Nghệ An từ 1930 đến
1939” là một vấn đề mới mẻ, chưa được nghiên cứu một cách toàn diện.
Hầu hết thông tin về kinh tế, chính trị, xã hội được nêu ra trong các tác
phẩm kể trên còn rất tản mạn và rời rạc. Vì vậy tình hình kinh tế, chính trị,
xã hội ở Nghệ An đang cần tiếp tục nghiên cứu để có cách nhìn toàn diện
và chính xác hơn.
Trên cơ sở kế thừa những công trình nghiên cứu trước đây cùng với
nguồn tài liệu thu thập được, chúng tôi sẽ cố gắng bổ sung thêm những
phần còn thiếu và chưa được nghiên cứu để hoàn chỉnh cơ bản Lịch sử
5


Nghệ An trong những năm 30 của thế kỷ XX dưới ách thống trị của thực
dân Pháp.


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Từ lịch sử vấn đề như trên, chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu
của luận văn là: Tình hình kinh tế - chính trị - xã hội của Nghệ An từ 1930
đến 1939.
Về thời gian: Luận văn giới hạn từ năm 1930-1939, tức là từ khi cao
trào Xô viết bùng nổ cho đến phong trào đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân
chủ kết thúc. Tuy nhiên, để có cách nhìn toàn diện hơn, luận văn còn đề
cập đến những nét khái quát nhất về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội
Nghệ An trước năm 1930.
Về không gian: Luận văn giới hạn nghiên cứu ở tỉnh Nghệ An.
Về nội dung: Luận văn tập trung phân tích tình hình kinh tế, chính
trị, xã hội Nghệ An cụ thể là:
Về kinh tế: Bao gồm các mảng kinh tế nông nghiệp, kinh tế công
nghiệp, thương nghiệp và ngành tài chính tiền tệ.
Về chính trị:
Được chia làm ba thời kỳ: Thời kỳ 1930-1931 tập trung vào Xô viết
Nghệ Tĩnh, thời kỳ phục hồi lực lượng cách mạng 1932-1935, thời kỳ đấu
tranh đòi dân sinh, dân chủ 1936-1939.
Về xã hội: Gồm mảng nói về đời sống kinh tế, chính trị của cư dân
Nghệ An; văn hóa, giáo dục, y tế; sự phân hóa giai cấp ở Nghệ An từ 1930
đến 1939.
Những vấn đề nằm ngoài khung thời gian, không gian, nội dung nêu
trên không thuộc phạm vi và đối tượng nghiên cứu của đề tài.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu:
Ngoài các công trình đã xuất bản , chúng tôi tiếp cận thêm một số tư
liệu lưu trữ ở kho lưu trữ Tỉnh ủy Nghệ An
6



4.2. Phương Pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, chúng tôi chủ yếu sử dụng
phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp logic và phương pháp lịch sử.
Ngoài ra, do yêu cầu của đề tài chúng tôi còn sử dụng một số phương pháp
khác để hỗ trợ như phương pháp thống kê, phương pháp đối chiếu, so sánh,
phân tích…
5. Đóng góp của luận văn
Với đề tài nghiên cứu này, luận văn bước đầu khôi phục lại bức tranh
toàn cảnh về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Nghệ An thời kỳ 1930-1939.
Tiến hành thống kê, sắp xếp và bổ sung những tư liệu còn thiếu, đóng góp
một phần nhỏ bé vào việc biên soạn Lịch sử Nghệ An được trọn vẹn và đầy
đủ hơn.
Cũng từ luận văn này, chúng tôi mong muốn phần lịch sử địa
phương sẽ được quan tâm hơn trong các chương trình dạy học lịch sử của
các cấp học. Giáo viên và học sinh có thể sử dụng những tài liệu trong luận
văn này làm tài liệu tham khảo khi giảng dạy và học tập lịch sử Nghệ An
trong những năm 30 của thế kỷ XX. Qua đó giáo dục tinh thần dân tộc và
hứng thú tìm hiểu cội nguồn quê hương trong đông đảo học sinh, sinh viên
hiện nay.
Luận văn cũng sẽ là nguồn tư liệu cho các độc giả gần xa có mong
muốn tìm hiểu lịch sử Nghệ An trong thời kỳ 1930-1939.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của
luận văn được chia làm ba chương:
Chương 1: Khái quát tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Nghệ An
trước năm 1930.
Chương 2: Tình hình kinh tế Nghệ An từ 1930 đến 1939.
Chương 3: Tình hình chính trị - xã hội Nghệ An từ 1930 đến 1939.

7



B.

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH KINH TẾ, CHÍNH TRỊ,
XÃ HỘI NGHỆ AN TRƯỚC NĂM 1930
1.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên, truyền thống yêu nước và cách
mạng của Nghệ An
1.1.1. Điều kiện tự nhiên:
Nghệ An nằm ở Bắc Trung Bộ có diện tích 16.370km 2, là tỉnh có
diện tích lớn nhất cả nước. Nằm trong tọa độ từ 18035’00” đến 20000’10” vị
độ bắc và từ 103050’25” đến 105040’30” kinh độ đông. Phía bắc giáp tỉnh
Thanh Hóa, phía nam giáp tỉnh Hà Tĩnh, phía tây giáp Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào, phía đông giáp biển Đông với đường biển dài 92km. Có thể
nói, Nghệ An là ngã tư của đường Bắc - Nam, Lào và đại dương.
Nghệ An là một vùng đất rộng, có thể xem là hình ảnh thu nhỏ của
cả nước với đủ các vùng: miền núi, trung du, đồng bằng, ven biển và thềm
lục địa. Phía tây có dãy Trường Sơn và Phù Hoạt trở thành một vùng núi
chiếm diện tích rộng lớn trong toàn tỉnh. Núi chạy theo hướng Tây Bắc Đông Nam và thấp dần về Đông. Rừng núi Nghệ An có khoảng 1.141.652
ha chiếm khoảng 3/4 diện tích của tỉnh. Rừng Nghệ An có hầu hết các loài
động vật, thực vật của vùng nhiệt đới và cận ôn đới.
Bờ biển Nghệ An dài 92km, có hải phận 4.200 hải lý vuông, có 6 cửa
lạch tiện cho giao thông vận tải. Biển Nghệ An có nhiều cá và các loại hải
sản quý hiếm, đặc biệt muối là nguồn thu nhập chủ yếu của Diêm dân ở
Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc.
Nghệ An có nhiều sông ngòi, sông Lam lớn nhất với 151 nhánh lớn
nhỏ. Đặc điểm sông ở Nghệ An có độ dốc lớn, lòng hẹp và bị bồi lắng nên
mùa mưa bão thường gây ra lũ lụt lớn. Ngoài sông tự nhiên còn có “Kênh

nhà Lê” là kênh đào chạy suốt từ bắc đến nam của tỉnh.

8


Khoáng sản là một tiềm năng lớn của Nghệ An, trong lòng đất chứa
nhiều khoảng sản kim loại như: vàng, bạc, thiếc, chì, kẽm, măng gan với
trữ lượng lớn. Đặc biệt, Nghệ An nổi tiếng với nguồn đá đỏ ở Quỳ Châu.
Đất đai nông nghiệp phong phú, vùng đất đỏ bazan ở Phủ Quỳ rất
thích hợp để trồng cây công nghiệp. Ngoài ra, còn có đất phù sa ven sông,
ven biển, tuy độ màu mỡ không cao, nhưng là vùng thâm canh cây lương
thực.
Giao thông của tỉnh khá thuận lợi, Nghệ An là nơi mà con đường
quốc lộ 1A chạy suốt chiều dài của tỉnh, quốc lộ 7 nối đường 1A ở ngã ba
Diễn Châu sang Lào, quốc lộ 15A từ giáp giới Nghệ An - Thanh Hóa đến
Nghệ An - Hà Tĩnh, quốc lộ 16 nối Cửa Lò - Vinh - Thanh Chương - Đô
Lương. Ngoài hai cảng lớn là Bến Thủy, Cửa Lò còn có cầu Hiếu, cầu
Bùng, cầu Đô Lương đều sử dụng có hiệu quả. Sân bay Vinh đã đưa vào
hoạt động và tiếp tục được nâng cấp. Như vậy, Nghệ An có đầy đủ các loại
hình giao thông: đường bộ, đường sông, đường biển, đường hàng không.
Nghệ An nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, hàng năm chia
thành bốn mùa rõ rệt. Do đặc thù và vị trí địa lý nên Nghệ An không chỉ là
nơi hứng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của gió mùa đông bắc lạnh và ẩm ướt
mà còn chịu ảnh hưởng của gió phơn tây nam nóng trong mùa hạ. Là nơi
giao thoa của nhiều chế độ thời tiết nên nhìn chung khí hậu ở Nghệ An
tương đối khắc nghiệt. Đó cũng là nhân tố góp phần hình thành nên tính
cách của con người xứ Nghệ.
Từ xưa đến nay Nghệ An luôn là vị trí chiến lược quan trọng của cả
nước. Nhận xét về vị thế của Nghệ An, Phan Huy Chú viết “Nghệ An núi
cao sông sâu, phong tục trọng hậu, cảnh tượng tươi sáng, gọi là đất có danh

tiếng hơn cả Nam Châu. Người thì thuần hòa mà chăm chỉ, sản vật thì
nhiều thức quý của lạ. Những vị thần ở núi, ở biển phần nhiều có tiếng linh
thiêng. Địa khí tốt của sông núi, nên sinh bậc danh hiền lại còn khoanh đất
liền với đất người Nam, người Lào, làm giới hạn cho hai miền nam bắc,

9


thực là nơi hiểm yếu, như thành dòng ao nóng của nước và là then khóa của
các triều đại…” [3;24].
Nghệ An ngày nay là một trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội lớn của
khu vực Bắc miền Trung. Nhìn nhận về lịch sử Nghệ An ta không thể
không chú ý đến vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của vùng đất này.
1.1.2. Truyền thống và bản sắc con người Nghệ An
Nghệ An có dân số 2.805.403 người, là một tỉnh có nhiều dân tộc
trong đó người kinh chiếm 90%, các dân tộc anh em khác có nguời Thái,
Hơ Mông, Khơ Mú…[34;11].
Theo các kết quả khảo cổ học, Nghệ An là một trong những địa bàn
có con người cư trú rất sớm (khoảng hơn 20 vạn năm), những di tích mà ta
đã phát hiện được tại làng Vạc (Nghĩa Tiến-Nghĩa Đàn) đã minh chứng cho
Nghệ An là một trung tâm văn hóa Đông Sơn, góp phần xây dựng vào tiến
trình lịch sử dân tộc và là một bộ phận hữu cơ của đất nước Văn Lang-Âu
Lạc.
Qua nhiều thế kỷ, nhân dân Nghệ An đã trải qua nhiều cuộc đấu
tranh lâu dài, gian khổ, vừa chinh phục thiên nhiên vừa chống trả quyết liệt
với bọn cướp nước để tồn tại và phát triển. Nhân dân đã xây dựng được
cách sống thích hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế của mình và không
ngừng vươn lên theo đà phát triển của lịch sử.
Nghệ An có bề dày truyền thống yêu nước và cách mạng rất đáng tự
hào. Trong hơn ngàn năm Bắc thuộc, Nghệ An đã cùng cả nước kiên cường

đấu tranh giải phóng dân tộc. Nhân dân Nghệ An đã liên tục chống thù
trong giặc ngoài. Trong vương quốc Vạn Xuân, Nghệ An là biên thùy phía
Nam và đánh tan cuộc tấn công lấn chiếm của vua Chămpa vào năm 543.
Thành Vạn An (Nam Đàn) hiện nay là chứng tích cho cuộc khởi nghĩa lẫy
lừng của Mai Thúc Loan, mở rộng vùng giải phóng rồi tự xưng là Mai Hắc
Đế năm 713.
Trải qua các triều đại Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, Tây Sơn, Nghệ An
đã trở thành phên dậu vững chắc “ Cối kê của sự quân tu ký-Hoan Diễn tồn
10


thập vạn binh” (Cối kê chuyện cũ nguời nên nhớ-Hoan Diễn kia còn 10 vạn
binh) như lời vua Trần; là nơi Lê Lợi đã xây dựng bàn đạp để chiến thắng
quân Minh, giải phóng thủ đô Thăng Long và còn là nơi Quang Trung đã
chiêu tập binh mã, chuẩn bị quân lương để chiến thắng quân Thanh. Sau
khi thống nhất đất nước Quang Trung còn cho xây dựng Phượng Hoàng
Trung Đô ( vùng tây núi Quyết hiện nay ) với ý định dời kinh đô từ Phú
Xuân ( Huế ) ra. Nhiều con em của Nghệ An đã trở thành dũng tướng như
Đặng Dung, Đặng Tất, Nguyễn Biểu và biết bao mưu sĩ, võ tướng quê
Nghệ An đã cống hiến tài năng cho các cuộc chiến tranh giữ nước như
Nguyễn Xí, Lưu Quốc Câu, Lê Quốc Lý…
Nghệ An là nơi đứng chân vững chắc nhưng cũng là nơi chiến
trường, nhân dân Nghệ An đã chịu bao cảnh đau thương trong các cuộc
giao tranh giữa Trịnh - Mạc, Trịnh - Nguyễn.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, trước thái độ bạc nhược,
đầu hàng của triều đình Huế, các nhà văn thân cùng nhân dân Nghệ An đã
tỏ rõ quyết tâm đánh cả “ Triều lẫn Tây”. Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra do
các vị đại khoa đứng đầu như Nguyễn Xuân Ôn, Lê Doãn Nhã (1885-1889)

Sau khi phong trào Cần Vương bị thất bại, nhiều thế hệ người Nghệ

An nối tiếp nhau ra đi tìm đường cứu nước như Phan Bội Châu, Nguyễn
Tất Thành, Phạm Hồng Thái. Đây cũng là nơi xuất thân của lớp người cộng
sản đàu tiên như Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Nguyễn
Thị Minh Khai… và đặc biệt là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người tiêu
biểu nhất cho tinh hoa, khí phách của dân tộc và lương tâm của thời đại.
Nghệ An không những đóng góp to lớn về người và của cho công
cuộc chống giặc mà còn đóng góp xứng đáng về nhiều mặt trong đời sống
văn hóa tinh thần của nhân dân ta. Nghệ An là quê hương của nhiều thể
loại văn hóa đặc sắc như hát ví, hát dặm, hát phường vải, hò vè, các truyện
cổ tích, thần thoại…Những di sản văn hóa ấy đã trở thành vốn quý của
nhân dân.
11


Nghệ An còn nổi tiếng là đất học - “Ông đồ Nghệ”. Thời Lý - Trần,
Nghệ An - Thanh hóa được gọi là đất học. Với nhiều người đỗ đạt, Bạch
Liêu là vị trạng nguyên được sinh ra trên mảnh đất này. Tiếp theo phải kể
đến nhà sử học Hồ Tông Thốc nổi tiếng với bộ “Việt sử cương mục”.
Nhiều dòng họ khoa bảng, nhiều làng học nổi tiếng ở Nghệ An như làng
Quỳnh Đôi từ năm 1446 đến năm 1725 có 780 người đậu tú tài đến tiến sĩ.
Nhiều dòng họ nổi tiếng như họ Hồ ở Quỳnh Đôi ( Quỳnh Lưu), họ Cao ở
Thịnh Mỹ ( Diễn Châu ), họ Nguyễn ở Trung Cần (Nam Đàn).
Võ tướng và quân lính Nghệ An có truyền thống trung thành với
triều đình, ra trận dũng cảm, binh lính Nghệ An thời Lê được gọi là thắng
binh.
Qua những điều kiện tự nhiên, điều kiện lịch sử lâu đời về xây dựng
và bảo vệ đất nước đã kết tinh ở Nghệ An những truyền thống, phẩm chất,
phong cách tốt đẹp của con người xứ Nghệ mà tập trung nhất là tinh thần
anh dũng, kiên cường, cần kiệm, giản dị, kiên trì, bền bỉ, nhân hậu, chân
tình, cương trực, khẳng khái, tận tụy, trung thành, giàu đức tính hi sinh và

có tính cộng đồng cao.

1.2.Khái quát tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Nghệ An trước năm
1930
Từ trước năm 1858, Việt Nam là một nước quân chủ độc lập có chủ
quyền. Hàng ngàn năm sống dưới chế độ quân chủ, trải qua nhiều thời đại
khác nhau nhưng nền kinh tế của Việt Nam nói chung cũng như của Nghệ
An nói riêng vẫn không hề có sự biến chuyển gì nhiều. Một nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu vẫn được duy trì và được củng cố từ triều đại này sang
triều đại khác. Bởi kinh tế nông nghiệp là nền tảng của chế độ phong kiến,
chính nền kinh tế đã quy định cơ cấu xã hội. Ở Nghệ An hay ở bất cứ nơi
nào trên đất nước ta cũng chỉ tồn tại hai giai cấp chính là giai cấp nông dân
( thuộc tầng lớp bị trị ) và giai cấp địa chủ phong kiến ( thuộc tầng lớp
thống trị ).
12


Nhưng tất cả đã thay đổi khi vết giày xâm lược của thực dân Pháp
đặt chân lên nước ta. Ngày 1/9/1958 định mệnh ấy, thực dân Pháp nổ súng
xâm lược Việt Nam. 26 năm sau, với điều ước Patơnốt ( 6/6/1884 ), chúng
hoàn thành thôn tính nước ta. 20/7/1885, dưới sự chỉ đạo của Sơmông,
quân Pháp tiến vào đánh chiếm thành Nghệ An. Từ đây lịch sử Nghệ An
bước vào một giai đoạn mới.
1.2.1. Kinh tế:
Hoàn thành việc xâm lược nước ta, thực dân Pháp bắt tay ngay vào
công cuộc khai thác thuộc địa với quy mô ngày càng lớn.
Nghệ An - một mảnh đất giàu nguồn tài nguyên, đông dân, giao
thông thủy bộ thuận lợi, lại giáp Lào nên được các tập đoàn tư bản Pháp tập
trung khai thác với tốc độ nhanh, nhất là những năm đầu của thế kỷ XX.
Vinh - Bến Thủy trở thành trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của

Bắc miền Trung.
Công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp được tiến hành
trong hai đợt (1897-1914) và (1919-1929) đã phá vỡ nền kinh tế nông
nghiệp của Nghệ An nói riêng cũng như của Việt Nam nói chung. Mục
đích của thực dân Pháp khi tiến hành khai thác thuộc địa là khai thác nguồn
nguyên liệu dồi dào và bóc lột nhân công rẻ mạt. Nhưng dù chúng không
muốn thì ở Nghệ An cũng đã hình thành một nền kinh tế theo hướng tư bản
chủ nghĩa bởi những chính sách đầu tư khai thác. Kinh tế Nghệ An lúc này
vừa tồn tại một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu lại vừa xuất hiện những
mầm mống của một nền kinh tế tư bản hiện đại. Biểu hiện của nó là bên
cạnh nền kinh tế nông nghiệp còn xuất hiện thêm nhiều ngành kinh tế mới
như công nghiệp, giao thông vận tải, thương nghiệp, kinh tế đồn điền…
* Về giao thông vận tải:
Từ nhận thức “ Vinh-Bến Thủy sẽ là một thành phố có nhiều triển
vọng. Đây là chìa khóa của xứ Lào vì có hai con đường chính nối Lào với
cảng Bến Thủy, đường Vinh sang Trấn Ninh qua Cửa Rào, đường Vinh
sang Mê Công qua Khăm Muộn là tỉnh giàu có của nước Lào. Sau này có
13


thêm con đường thứ ba mở vào phía Nam đèo Mụ Dạ qua Lào và hạ lưu
sông Sêbanphai. Lào là một xứ nuôi gia súc đặc biệt…” [3;26] thực dân
Pháp đã đẩy nhanh tốc độ xây dựng giao thông vận tải. Vì vậy trong những
năm 20 của thế kỷ XX, chúng đã cho xây dựng ở Nghệ An một loạt các
công trình giao thông vận tải như đường số 7 (Vinh - Cửa Rào - Trấn
Ninh), đường số 8 (Vinh - Napê (Lào)).
Năm 1927, hoàn thành đường sắt Hà Nội - Vinh - Đông Hà.
Năm 1929 hoàn thành Sân bay Vinh.
Năm 1929 chính phủ Pháp phê duyệt kế hoạch mở rộng cảng Bến
Thủy với vốn đầu tư là 10 triệu Fr.

Cảng Bến Thủy cùng với Nhà máy xe lửa Trường Thi là hai cơ sở tiêu
biểu nhất thuộc ngành công nghiệp giao thông vận tải của tư bản Pháp ở Nghệ
Tĩnh.
* Về công nghiệp chế biến:
Từ quá trình thăm dò ở thế kỷ XVIII rằng Nghệ Tĩnh là miền rừng
núi có nhiều gỗ quý, Giăng-Duy-Puy ( Jean Dupuis ) đã lập một trạm thu
mua gỗ ở cửa khẩu Vinh. Năm 1892, cơ sở buôn bán lâm sản của Duy Puy
chuyển qua tay “ Công ty thương nghiệp, thương mại Trung Kỳ ”. Năm
1900 “ Công ty Lào ” mở xưởng cưa và xưởng mộc ở Bến Thủy. Năm
1903 “ Công ty diêm Đông Dương ” cho xây dựng Nhà máy diêm ở Bến
Thủy.
Ngày 10/10/1922, “ Công ty vô danh rừng và diêm ” ( viết tắt là
SIFA) ra đời trên cơ sở sát nhập hai công ty “Công ty thương mại và lâm
sản Trung Kỳ ” và “ Công ty diêm ”. SIFA quản lý hầu hết các xí nghiệp
lớn ở Bến Thủy gồm Nhà máy cưa SIRI, Nhà máy cưa Lào - Xiêm, Nhà
máy diêm, Nhà máy điện. SIFA trở thành công ty chế biến gỗ lớn nhất ở
Nghệ An.
* Ngành kinh tế nông nghiệp:
Đây là một nền kinh tế cổ truyền của nước ta từ khi hình thành quốc
gia, dân tộc. Cho đến những năm trước khi thực dân Pháp tiến hành khai
14


thác thuộc địa thì nông nghiệp vẫn giữ vị trí chủ đạo gần như độc tôn trong
toàn bộ cơ cấu kinh tế Việt Nam.
Tuy nhiên trước sự xâm lược của thực dân Pháp, nông nghiệp Nghệ
An đã có sự biến đổi sâu sắc. Thực dân Pháp đã tiến hành cướp ruộng đất
để lập đồn điền. Từ năm 1925-1930 quá trình cướp ruộng xảy ra mạnh
nhất, nếu như năm 1925 mới chỉ có 3 đồn điền thì đến năm 1929 đã có 35
đồn điền. Lớn nhất là đồn điền của Van-te ở Nghĩa Đàn chiếm 4.128 ha.

Bọn địa chủ, quan lại, phong kiến cũng ra sức bóc lột tô tức và cướp đoạt
ruộng đất để lập đồn điền tiêu biểu như Đặng Oánh ( Diễn Châu ), Thái Thị
Vực ( Yên Thành ), Trần Thế Roanh ( Quỳnh Lưu )…
Từ năm 1923 tư bản Pháp đã biến Phủ Quỳ thành hệ thống đồn điền
lớn nhất ở Nghệ An.
Nhìn chung nền kinh tế nông nghiệp Nghệ An trong những năm
1897-1929 đã có sự biến chuyển nhanh. Nông dân bị phá sản chuyển sang
hoạt động trong một số ngành kinh tế khác, hoặc trở thành công nhân làm
thuê hoặc, trở thành thị dân buôn bán…
* Về thương nghiệp:
Nổi lên trong thời kỳ này là sự xuất hiện của các chi nhánh thương
mại của Liên hiệp thương mại Đông Dương gọi tắt là Luy xia. Đó là cơ sở
thương nghiệp có thế mạnh.
Ngày 30/10/1925, toàn quyền Đông Dương cho đặt ở Vinh văn
phòng hỗn hợp thương mại canh nông kiêm doanh cả Thanh, Nghệ Tĩnh.
Thực dân Pháp giữ độc quyền về kinh doanh và lưu thông buôn bán
đối với các loại hàng đặc sản như rượu, muối, thuốc phiện và một số hàng
quý hiếm khác. Nhất là thuốc phiện và các hương liệu như sa nhân, nhung,
quế, cánh kiến, trầm…
Muối là một trong những thế mạnh của Nghệ An cũng bị thực dân
Pháp thâu tóm.Hãng Phông ten nắm độc quyền mua bán rượu, muối.
Như vậy, sự xuất hiện của công - thương nghiệp và các tuyến đường
giao thông quan trọng đã phá vỡ tính chất tự nhiên, tự cung, tự cấp khép
15


kín của kinh tế Nghệ An, đồng thời đẩy nông nghiệp từ chỗ là ngành kinh
tế chủ đạo xuống hàng thứ yếu. Nền kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa
đang dần dần thay thế nền kinh tế cổ truyền ở Nghệ An.
1.2.2. Về chính trị:

Từ sau điều ước Patơnốt (1884), Trung Kì trở thành xứ “ bảo hộ ” nên
dân Nghệ An phải chịu cảnh “ một cổ hai tròng ”, vừa chịu ách cai trị của thực
dân Pháp, vừa bị bọn phong kiến Nam triều đè nén. Đứng đầu tỉnh có Tổng
đốc, thứ đến là Bố chánh ( coi việc thuế má, ruộng đất, dân số ), án sát, hình
pháp, đốc học, lãnh binh (trị an). Ngoài ra còn có thông phán, kinh dịch, thừa
phái, lục sự…Song song với bộ máy quan lại phong kiến, có tòa sứ với tên
Công sứ đứng đầu, dưới Công sứ có Phó sứ (chuyên việc văn phòng và chủ sự
kho bạc). Ngoài ra còn có tham tá, thông phán người Việt. Các sở chuyên
môn thuộc tòa sứ gồm có lục bộ (giao thông, xây dựng), nha đoan (đánh thuế
gián thu), kiểm lâm (quản lý khai thác rừng), y tế, thú y, nông chính. Sở mật
thám và trại thám binh là hai cơ quan theo dõi trấn áp dân chúng.
Về mặt hình thức, cả hai bộ máy cai trị đó kết cấu với nhau đàn áp,
bóc lột nhân dân đến tận xương tủy nhưng thực chất cơ quan phong kiến
Nam triều chỉ là con rối dưới sự điều khiển giật giây của tòa sứ. Chúng thi
hành chính sách chuyên chế về chính trị, mọi quyền hành đều nằm trong
tay tòa sứ.
1.2.3. Về mặt xã hội:
Chính sách khai thác bóc lột của thực dân Pháp đã làm cho nguồn tài
nguyên của Nghệ An ngày càng bị hao mòn, đời sống nhân dân kiệt quệ.
Người nông dân không chỉ bị mất đất, mất ruộng, mà còn phải chịu nhiều
thứ sưu thuế nặng nề. Có hàng trăm thứ thuế, điển hình là thuế điền thổ và
thuế đinh. Thuế điền thổ được chia ra làm 4 hạng điền, 6 hạng thổ. Sưu
thuế như một tảng đá lớn đè nặng trên lưng người nông dân. Tảng đá ấy
ngày càng nặng thêm theo từng năm, nếu như năm 1904 tăng 8% thì đến
năm 1924 đã tăng 30%.

16


Thuế thân (thuế đinh hoặc sưu) là một thứ thuế vô lý đánh vào đầu

người. Tất cả dân đinh từ 18-60 tuổi đều phải nạp 2,5 đồng/năm.
Về văn hóa, xã hội, y tế, năm 1918 cả tỉnh Nghệ An mới chỉ có được
8 trường tiểu học với 726 học sinh, 128 trường ấu học với 3.095 học sinh.
Trường Quốc học Vinh là trường lớn nhất bấy giờ, là trung tâm đào tạo của
4 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Cả tỉnh Nghệ An chỉ
có một nhà thương nhỏ và vài trạm xá tại các phủ huyện, chủ yếu để chữa
bệnh cho các quan lại, địa chủ phong kiến.
Dưới ảnh hưởng của chính sách khai thác, với sự xuất hiện của yếu
tố kinh tế mới nên phù hợp với nó là các giai cấp mới đã hình thành. Các
tầng lớp xã hội các giai cấp mới như công nhân, tiểu tư sản và tư sản ra đời
ngày càng phát triển, giai cấp nông dân ngày càng bị bần cùng hóa, giai cấp
địa chủ có điều kiện phát triển hơn trước chiến tranh.
Giai cấp địa chủ phong kiến ở Nghệ An là chỗ dựa của thực dân
Pháp. Sự cấu kết ngày càng thêm chặt chẽ giữa hai thế lực phản động đã
tạo cơ hội cho chúng chia nhau chiếm đoạt ruộng đất, đồng thời đẩy mạnh
bóc lột kinh tế và tăng cường kìm kẹp, đàn áp về chính trị đối với người
nông dân. Cố nhiên vẫn có một bộ phận tầng lớp địa chủ nhỏ nói chung,
không có thế lực, tuy có mâu thuẫn với nông dân nhưng vì bị thực dân
Pháp và chính quyền phong kiến tay sai đè nén, nhũng nhiễu nên họ tỏ thái
độ oán ghét chúng. Vì vậy địa chủ phú nông cũng có tinh thần dân chủ. Họ
sẽ tham gia các phong trào yêu nước khi có điều kiện.
Giai cấp tư sản Nghệ An hình thành sau giai cấp công nhân. Vừa mới
ra đời đã bị tư bản Pháp chèn ép, kìm hãm nên số lượng ít, thế lực kinh tế yếu,
nặng về thương nghiệp. Trong quá trình phát triển, tư sản Nghệ An đã có sự
phân hóa thành hai bộ phận: Tầng lớp tư sản mại bản có quyền lợi gắn liền
với đế quốc nên kết cấu chặt chẽ với chúng; tầng lớp tư sản dân tộc có khuynh
hướng kinh doanh độc lập nên ít nhiều có tinh thần dân tộc, dân chủ chống đế
quốc và phong kiến. Tuy nhiên họ dễ bị cải lương thỏa hiệp khi đế quốc
mạnh.
17



Tầng lớp tiểu tư sản ở Nghệ An gồm viên chức, trí thức, học sinh,
thợ thủ công, tiểu thương, tiểu chủ. Họ phần đông xuất thân từ các gia đình
nhà nho. Họ cũng bị tư sản Pháp ráo riết chèn ép, bạc đãi, khinh rẻ, đời
sống bấp bênh, dễ bị xô đẩy vào con đường phá sản và thất nghiệp. Vì vậy,
họ đã hăng hái tham gia các phong trào yêu nước và trở thành những hạt
nhân của phong trào yêu nước. Tuy nhiên do địa vị kinh tế và chính trị của
mình, tầng lớp tiểu tư sản vẫn không tránh khỏi có lúc thiếu vững vàng
kiên định.
Nông dân Nghệ An chiếm hơn 90% dân số trong tỉnh, bị đế quốc
phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề bằng thủ đoạn sưu cao, thuế nặng, tô
tức, phu phen, tạp dịch…Họ bị bần cùng hóa và phá sản trên quy mô lớn,
nhưng chỉ có một bộ phận nhỏ trở thành công nhân, số đông nông dân vẫn
phải sống quanh quẩn trong lũy tre làng. Sống trên mảnh đất có bề dày
truyền thống yêu nước, nên nông dân Nghệ An có ý thức dân tộc cao, giàu
lòng yêu nước. Họ sẽ trở thành lực lượng hăng hái và đông đảo nhất của
cách mạng.
Giai cấp công nhân Nghệ An được hình thành và phát triển từ những
năm đầu thế kỷ XX. Tuy ra đời muộn nhưng công nhân Nghệ An phát triển
nhanh và tập trung ở khu công nghiệp Vinh - Bến Thủy, một bộ phận ở các
đồn điền Phủ Quỳ. Cùng mang đặc điểm của giai cấp công nhân cả nước
(bị ba tầng áp bức bóc lột của đế quốc, phong kiến, tư sản Người Việt; có
quan hệ tự nhiên gắn bó với giai cấp nông dân; kế thừa truyền thống yêu
nước anh hùng và bất khuất của dân tộc) nhưng giai cấp công nhân Nghệ
An vừa mới ra đời đã được tắm mình trong phong trào yêu nước, sớm được
tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin nên đã nhanh chóng bước lên vũ đài chính
trị, để trở thành lực lượng nắm quyền lãnh đạo cách mạng.

18



CHƯƠNG 2: KINH TẾ NGHỆ AN TỪ 1930 ĐẾN 1939
2.1. Bối cảnh lịch sử thế giới, trong nước ảnh hưởng đến kinh tế
Nghệ An
Giữa lúc thực dân Pháp đẩy mạnh “Chương trình khai thác thuộc địa
lần thứ hai” thì cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) ập tới. Cuộc
khủng hoảng đã nhanh chóng lan sang các nước thuộc địa và phụ thuộc,
trong đó có Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam vốn hoàn toàn phụ thuộc vào
Pháp, nay do gánh nặng của khủng hoảng lại càng gắn chặt vào hơn và phải
chịu những hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoảng.
Việt Nam là một nước nông nghiệp nên cuộc khủng hoảng diễn ra
đầu tiên trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Đứng trước cuộc khủng hoảng,
lúa không bán được ra thị trường thế giới, bị hạ giá trầm trọng. Ruộng đất
bỏ hoang nhiều. Nhân dân lao động, đặc biệt là công nhân và nông dân vì
vậy phải gánh chịu nhiều hậu quả nhất. Công nhân không có việc làm,
nông dân tiếp tục bị bần cùng và phá sản trên quy mô lớn. Các tầng lớp tiểu
tư sản tri thức, những người buôn bán nhỏ và cả tư sản người Việt cũng
đứng trước nguy cơ phá sản hàng loạt. Ngay cả những nhà tư sản được coi
là anh cả của Việt Nam như Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Hữu Thu cũng không
thể thoát khỏi cơn lốc khủng hoảng này. Cuộc khủng hoảng đã tàn phá
nặng nề kinh tế - tài chính Đông Dương. Trong bối cảnh chung đó, kinh tế
Nghệ An cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc.
Ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế cùng với chính
sách bóc lột ngày càng dã man của thực dân Pháp đã làm cho mâu thuẫn
giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp ngày càng thêm sâu
sắc. Ngày 3/2/1930 Đảng cộng sản Việt Nam ra đời với đường lối giải
phóng dân tộc đúng đắn đã đưa phong trào cách mạng ở nước ta phát triển
trên phạm vi cả nước. Phong trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô
viết Nghệ Tĩnh làm rung chuyển cả nước Pháp. Trước tình hình đó, thực

dân Pháp đã thi hành chính sách đàn áp khủng bố khốc liệt làm cho bầu
19


chính trị của nước ta trở nên ngột ngạt, nóng bỏng. Các công ty tư bản Pháp
thấy vậy tìm cách thu hồi vốn đầu tư, không đầu tư vốn vào Đông Dương
như thời kỳ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Những biến động chính - trị xã
hội đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới nền kinh tế Việt Nam nói chung cũng như
kinh tế Nghệ An nói riêng.
Sau cuộc khủng bố trắng (1931-1933), phong trào cách mạng trong
nước tạm lắng xuống khiến thực dân Pháp phần nào yên tâm và có nhiều
điều chỉnh trong chính sách cai trị Đông Dương nhằm vừa xoa dịu mâu
thuẫn với người bản xứ vừa tiếp tục chính sách khai thác thuộc địa ở Việt
Nam. Thực dân Pháp đã cho khởi công ở Nghệ An hai công trình đập nước
quan trọng là đập nước Đô Lương và Bara Nam Đàn mang lại nhiều nguồn
lợi kinh tế cho nhân dân Nghệ An. Thực dân Pháp còn cho các điền chủ
người Âu mở rộng đồn điền ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Đây là một trong
những yếu tố tác động đến nền kinh tế Nghệ An.
Bước sang những năm 1936-1939, tình hình thế giới đã xảy ra nhiều
biến động mà tâm điểm chính là sự ra đời của chủ nghĩa phát xít ở Đức,
Italia và Nhật Bản đang đe dọa trực tiếp đến nền hòa bình và an ninh thế
giới. Một phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít đã được Quốc tế
cộng sản phát động, trong Đại hội Quốc tế cộng sản lần 7 (7/1935). Hưởng
ứng lời kêu gọi đó, ở Việt Nam đã diễn ra phong trào đấu tranh đòi dân
sinh dân chủ sôi nổi, sâu rộng trong phạm vi cả nước. Phái đoàn điều tra
thuộc địa do J.Gôda dẫn đầu sang nước ta mang cùng một số chính sách
tiến bộ của chính phủ Pháp trong giai đoạn này tạo điều kiện cho kinh tế
Việt Nam cũng như Nghệ An có điều kiện phục hồi và phát triển.
Như vậy chỉ trong vòng 10 năm (1930-1939), tình hình trong nước
và thế giới có nhiều thăng trầm biến đổi. Thực dân Pháp đã tìm mọi cách

để duy trì đặc quyền, đặc lợi của mình ở Đông Dương . Trong tình thế lịch
sử luôn biến động đó, kinh tế Đông Dương nói chung và kinh tế Nghệ An
nói riêng luôn phải chịu ảnh hưởng.
2.2. Kinh tế Nghệ An thời kỳ 1930 - 1939
20


2.2.1. Kinh tế nông nghiệp
* Kinh tế đồn điền:
Do điều kiện tự nhiên khắc nghiệt lại không có đồng bằng phì nhiêu
rộng lớn như ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ nên kinh tế đồn điền ở Nghệ An ra đời
muộn hơn và phát triển chậm hơn. Ngày 27/12/1913, Toàn quyền Đông
Dương ra nghị định quy định về việc chuyển nhượng ruộng đất cày theo hai
loại đất: đất thành phố và đất nông thôn. Nghị định như một giấy thông
hành cho quá trình chuyển nhượng và chiếm đoạt ruộng đất của các điền
chủ người Pháp. Tuy nhiên, trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, quá trình
đó chỉ diễn ra chủ yếu ở Bắc Kỳ và ở Nam Kỳ còn ở Trung Kỳ, tình trạng
đầu tư xây dựng đồn điền chưa mấy sôi động và chỉ diễn ra lẽ tẻ ở một vài
nơi. Ở Nghệ An từ 1910-1913 mới có một số điền chủ người Âu đến lập
đồn Tiên Sinh và Nai Sinh (nay thuộc nông trường Đông Hiếu - Nghĩa
Đàn, trồng cây công nghiệp và chăn nuôi gia súc). Tiếp đó là Côlê lập đồn
điền ở Dốc Lụi (Nghĩa Đàn). Tuy nhiên công việc kinh doanh không mấy
phát đạt.
Kinh tế đồn điền ở Nghệ An chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ trong 20
năm (1919-1939), với sự ra đời hàng loạt các đồn điền quy mô lớn ở nhiều
địa phương nhưng tập trung chủ yếu ở Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Quỳ Châu, Yên
Thành, Diễn Châu, Đô Lương.
Sự ra đời của hệ thống đồn điền ở Phủ Quỳ đã đánh dấu sự phát triển
mạnh mẽ của kinh tế đồn điền ở Nghệ An. Năm 1919, Walther lập đồn điền
ở Cao Trai (nay thuộc nông trường Tây Hiếu - Nghĩa Đàn) làm ăn phát đạt.

Đến năm 1930 Walther đã mở rộng diện tích đồn điền của mình lên tới
6.300 ha. Tiếp đó, Công ty rừng và diêm Đông Dương đã đầu tư xây dựng
đồn điền ở Phủ Quỳ với diện tích hàng ngàn ha, trồng cao su, cà phê và
chăn nuôi gia súc. Sự hiện diện của tập đoàn tư bản này ở Phủ Quỳ đã
chứng tỏ đây là vùng đất có nhiều tiềm năng, mang lại nhiều lợi ích kinh tế.
Bên cạnh các điền chủ người Pháp, tại Phủ Quỳ, một số điền chủ người
Việt cũng cố gắng vươn lên cạnh tranh cùng tư bản Pháp. Tiêu biểu như Lê
21


Bôn Đào, Ký Viễn, Lê Văn Quý, Trần Thúy Roanh…Sự xuất hiện của tư
sản người Việt trong nền kinh tế đồn điền đã tạo nên một nét mới trong bức
tranh kinh tế đồn điền ở Nghệ An tồn tại cho đến hết Chiến tranh thế giới
lần thứ hai.
Ngoài Phủ Quỳ, trong khoảng thời gian từ 1919-1939 các điền chủ
người Pháp và người Việt còn đầu tư lập ra một hệ thống đồn điền ở khắp
các huyện thuộc địa bàn Nghệ An. Tiêu biểu là đồn điền Sapainhe, Poul
Hugon, Ký Viễn ở Hạnh Lâm (Thanh Chương), Lejeune (Anh Sơn), Mi
Phare (Kẻ Tụ - Quỳ Châu), Emileur, Chavanon (Quỳnh Lưu), Thừa Duệ
( Nghĩa Động - Nam Đàn), Bá Hộ Cầu (Hưng Nguyên), Trần Thị Vực (Yên
Thành),…
Nét độc đáo của kinh tế đồn điền ở Nghệ An đó là các đồn điền của
các điền chủ người Âu chỉ tồn tại một thời gian rồi sau đó được chuyển
nhượng, bán lại cho các công ty lớn như các tập đoàn SIFA hoặc phải bán
toàn bộ sản phẩm cho tập đoàn này. Như vậy quyền sở hữu đất đai thuộc về
một chủ hoặc một công ty.
Mặt khác, mối quan hệ giữa điền chủ và người lao động được xây
dựng trên cơ sở hợp đồng giữa hai bên được pháp luật quy định rõ chứ
không phải là mối quan hệ giữa điền chủ - tá điền hoặc địa chủ - nông dân
tự do. Lực lượng công nhân làm việc ở đây có hai loại: công nhân làm việc

lâu dài, định cư sinh sống gần đồn điền, họ chủ yếu có nguồn gốc từ Thanh
Hóa và đồng bằng Bắc Bộ vào; loại thứ hai là công nhân mùa vụ, họ chủ
yếu là nông dân các huyện ở Nghệ An.
Một nét khác biệt nữa của kinh tế đồn điền ở Nghệ An so với kinh tế
đồn điền ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ là ở chỗ kinh tế đồn điền ở Nghệ An không
chỉ chuyên canh trồng cây công nghiệp như cao su, cà phê, chè…để xuất
khẩu mà các điền chủ ở đây còn dành một diện tích đất đồn điền để trồng
lúa. Lúa là cây lương thực được ưu tiên vì thời gian phục hồi vốn nhanh, họ
lại có nhiều kinh nghiệm trong việc thuê mướn nhân công, cất giữ thu
hoạch, bán sản phẩm. Chính điều này đã làm cho phương thức bóc lột lao
22


động theo kiểu phong kiến vẫn tiếp tục được duy trì. Điền chủ người Việt
trồng lúa trả công cho công nhân theo kiểu hợp đồng lao động và trả tiền
cho từng công việc cụ thể như: công cày cấy, công gieo trồng, chăm bón,
thu hoạch…hoặc điền chủ phát canh thu tô theo kiểu điền chủ và tiền công
có thể bằng hiện vật (lúa).
Các đồn điền ở Nghệ An còn có tiềm năng rất lớn để trồng cây công
nghiệp ngắn ngày, đặc biệt là vừng, lạc. Diện tích trồng vừng hàng năm có
khoảng 6.000 ha, với năng suất bình quân 25kg/sào. Nghệ An là tỉnh có
nhiều diện tích đất trồng lạc nhất so với các tỉnh khác ở Trung Kỳ. Vừng,
lạc là hai loại nông sản xuất khẩu qua cảng Bến Thủy. Ngoài ra, còn phải
kể đến các loại cây trồng khác như gai, mía, đay, cánh kiến…cũng để xuất
khẩu.
Đồn điền đồng thời cũng là trang trại chăn nuôi nhiều loại gia súc
như trâu, bò. Việc chăn nuôi trâu, bò trong các đồn điền của người Pháp
thường được nuôi quy mô từ vài chục đến vài trăm con do một số công
nhân nhất định đảm nhận và họ được nuôi cơm, trả lương theo tháng từ 4,56 đồng/người.
Việc chăn nuôi trâu, bò trong các đồn điền của người Việt được thực

hiện theo hai phương thức: đối với trâu bò trưởng thành nuôi để lấy sức kéo
và lấy phân bón. Số trâu bò này có chuồng trại nuôi nhốt và thường do vài
người đảm nhận. Đối với bê, nghé (trâu bò nhỏ) hoặc trâu bò sắp sinh được
quản lý theo kiểu cho nông dân trong vùng nuôi rẽ và chia sản phẩm theo
hình thức 50/50. Tiêu biểu cho phương thức này có Ký Viễn, Thừa Duệ, Bá
Hộ Cầu, Bá Hộ Hiên…
Công nhân làm trong các đồn điền có hai hạng: công nhân làm việc lâu dài
và công nhân làm việc theo mùa vụ. Mối quan hệ chủ đạo giữa điền chủ và
người lao động được xây dựng bằng một bản hợp đồng lao động do pháp
luật quy định rõ trong nhiều nghị định như nghị định 5/10/1871; 8/11/1880;
26/8/1899…Trên cơ sở đó, ngày 5/2/1902 toàn quyền Đông Dương ban bố
việc thi hành nghị định ngày 26/8/1899 cho cả khu vực Trung Kỳ và Cao
23


Miên với nội dung cụ thể là “Tất cả mọi người bản xứ ở Bắc Kỳ, Trung kỳ
không phải là công nhân Pháp đã trưởng thành, là nữ hay nam, làm việc tôi
tớ trong gia đình hay người Âu hóa phải theo một hợp đồng được cam kết
bằng lời hay bằng văn bản đều bắt buộc phải có một cuốn sổ. Cuốn sổ này
có giá trị như một giấy phép lưu trú, trong đó ghi rõ nhân dạng, quê quán
và chỗ ở cuối cùng của người có sổ cũng như tính chất và thời hạn hợp
đồng, lương được hưởng và cách thức trả lương… Nếu hủy hợp đồng
không có lý do chính đáng, ngừng công việc không báo trước 15 ngày, hay
hết hạn hợp đồng hoặc muốn hủy hợp đồng không báo trước với chính
quyền, người đó sẽ bị xử phạt từ 1-5 ngày và phạt tiền từ 1-15 Fr…”
[29;125].
Từ năm 1919-1939, chính quyền thuộc địa còn ban hành nhiều văn
bản có nội dung liên quan đến vấn đề công nhân lao động trong các đồn
điền, hầm mỏ, nhà máy…Đáng chú ý là bản nghị định ngày 15/10/1927 về
“Thể lệ bảo hộ nhân công bản xứ và người châu Á làm theo giao kèo trong

các sở nông nghiệp, kỹ nghệ và hầm mỏ Đông Dương”. Đây là văn bản
quan trọng và có tính hệ thống nhất trong các thể lệ lao động được ban
hành ở Đông Dương lúc này. Bằng cách ký giao kèo có thời hạn 3 năm một
lần, chính quyền thuộc địa đã buộc chặt người công nhân trong các đồn
điền. Nghị định này vì thế đã bảo đảm cho các điền chủ một đội ngũ công
nhân đông đảo, tạo điều kiện cho các điền chủ mở rộng diện tích, phát triển
kinh tế đồn điền.
Mặt dù đó là những quy chế đã bóc lột người lao động đến tận xương tủy
nhưng chúng ta cũng phải thừa nhận rằng chính nhờ có cách thức quản lý
như trên mà người nông dân làng xã ở Nghệ An có điều kiện để làm quen
dần với tác phong người lao động và cách đánh giá hiệu quả lao động theo
văn minh phương Tây.
Công nhân đồn điền có nguồn gốc từ nhiều nơi như Thanh Hóa,
đồng bằng Bắc Bộ, nhiều nhất là cư dân địa phương. Trong đó phải kể đến
một lực lương đáng kể công nhân từ các huyện miền núi như Thái, Thổ,
24


Mường…Họ thường được các điền chủ gọi bằng các tên rất kinh bỉ và miệt
thị là “Mọi”.
Tóm lại, kinh tế đồn điền ở Nghệ An hình thành muộn và nó chỉ thực
sự phát triển mạnh trong những năm 20-30 của thế kỷ XX. Cho đến năm
1939, tại Nghệ An đã hình thành một hệ thống đồn điền của người Pháp và
người Việt trên địa bàn nhiều huyện nhưng tập trung chủ yếu ở Phủ Quỳ.
Phủ Quỳ là nơi tập trung lực lượng công nhân lớn nhất. Theo thống kê của
người Pháp số công nhân đồn điền ở Nghệ An từ 1935-1939 là 2.900-3.300
người chưa kể số lao động thời vụ.[29;127].
Các điền chủ người Pháp và người Việt đã thành lập ở Phủ Quỳ một
hệ thống đồn điền rộng lớn tập trung từ Trạm Lụi đến Cao Trai, Nai Sinh,
Tiên Sinh, Vực Lỗ, Vực Hồng, Đào Nguyên…hình thành nên vùng chuyên

canh cây công nghiệp và chăn nuôi gia súc.
Phần lớn sản phầm thu được từ các đồn điền ở Nghệ An dùng để
xuất khẩu qua cảng Bến Thủy. Điều này đã mang lại cho các điền chủ
những món lợi nhuận lớn.
Kinh tế đồn điền phát triển kéo theo quan hệ giữa điền chủ với người
lao động có nhiều nét mới, hình thức trả công lao động bằng lương khi
hoàn thành hợp đồng là một bước đi mới mà trước đó chưa có ở Nghệ An.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn tồn tại phương thức bóc lột theo kiểu phong
kiến ( phát canh thu tô ) đối với công nhân làm việc theo mùa vụ.
Như vậy, kinh tế đồn điền ở Nghệ An trong những năm 30 của thế
kỷ XX không chỉ tác động đến đời sống kinh tế mà còn tác động đến cả đời
sống chính trị, xã hội của cư dân xứ Nghệ.
* Kinh tế nông nghiệp ở làng xã:
Trước năm 1930 kinh tế nông nghiệp ở làng xã Nghệ An vẫn luôn
nằm trong tình trạng bấp bênh, trì trệ, lạc hậu, phụ thuộc vào thiên nhiên.
Đã thế ruộng đất thì ngày càng bị thu hẹp do nạn bao chiếm, cướp đoạt của
địa chủ và thực dân Pháp để làm đồn điền. Những phần đất màu mỡ,phì
nhiêu bị chúng nắm hết, nông dân chỉ còn phần đất nhỏ, xương xẩu, cằn
25


×