Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Đặc sắc ngôn ngữ thơ bích khê

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (557.8 KB, 117 trang )

1

bộ giáo dục và đào tạo
trờng đại học Vinh
------***------

Trần thị lam

Đặc sắc ngôn ngữ thơ Bích Khê

Luận văn thạc sỹ khoa học ngữ văn

Vinh - 2007
Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh

trần thị lam


2

đặc sắc ngôn ngữ thơ bích khê
luận văn thạc sỹ khoa học ngữ văn

Chuyên ngành: Lý luận Ngôn ngữ
Mã số:
60.22.01
Ngời hớng dẫn khoa học:

GS.TS Đỗ thị kim liên


Vinh 2007

Lời cảm ơn
Em xin chân thành cảm ơn GS. TS Đỗ Thị Kim Liên, ngời đã tận
tình chỉ dẫn cho em trong quá trình thực hiện luận văn này.
Xin cảm ơn những bạn bè, đồng nghiệp, cảm ơn những ngời thân
trong gia đình đã luôn dành cho tôi sự động viên khích lệ, tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho việc học tập và nghiên cứu của tôi.
Vinh, tháng 12 năm 2007
Tác giả luận văn
Trần Thị Lam


3

Mục lục
Mở đầu

Trang

1. Lí do chọn đề tài

1

2. Lịch sử vấn đề

2

3. Nhiệm vụ và đối tợng nghiên cứu


6

4. Phơng pháp nghiên cứu

7

5. Đóng góp của luận văn

7

6. Cấu trúc luận văn

7
Nội dung

Chơng 1: Những giới thuyết chung quanh đề tài
1.1. Ngôn ngữ nghệ thuật

8

1.2. Thơ và đặc điểm của ngôn ngữ thơ

9

1.2.1. Thơ là gì

9

1.2.2. Những đặc trng cơ bản của ngôn ngữ thơ


11

1.3. Sự nghiệp Bích Khê trong bối cảnh Thơ mới 1932 -1945

17

1.3.1. Phong trào Thơ mới - mấy nét phác thảo

17


4

1.3.2. Sự nghiệp Bích Khê

20

Tiểu kết

30

Chơng 2: Đặc sắc về ngữ âm và từ ngữ trong thơ Bích Khê
2.1. Khai thác các đặc trng ngữ âm để tạo nhạc điệu thơ

31

2.1.1. Hòa phối thanh điệu trong thơ Bích Khê

32


2.1.2. Cách hiệp vần trong thơ Bích Khê

39

2.1.3. Tổ chức nhịp điệu trong thơ Bích Khê

47

2.2. Nghệ thuật sử dụng từ ngữ trong thơ Bích Khê

52

2.2.1. Một số lớp từ vựng - ngữ nghĩa tiêu biểu

53

2.2.2. Những kết hợp lạ trong việc tạo từ

64

Tiểu kết

68

Chơng 3: Đặc sắc về câu thơ và các biện pháp tu từ trong thơ
Bích khê

3.1. Cấu trúc câu thơ trong thơ Bích Khê

69


3.1.1. Cấu trúc câu thơ

69

3.1.2. Một số kiểu cấu trúc câu thơ đặc sắc trong thơ Bích Khê

71

3.2. Các biện pháp tu từ trong thơ Bích Khê

80

3.2.1. Biện pháp so sánh

81

3.2.2. Biện pháp ẩn dụ

88

3.2.3. Biện pháp điệp

93

3.2.4. Những biểu tợng trùng phức

99

Tiểu kết


104
Kết luận

106

Tài liệu tham khảo

108


5

mở đầu

1. Lí do chọn đề tài
1.1. Nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật nói chung, ngôn ngữ thơ ca nói
riêng là một trong những mảng đề tài nghiên cứu ngôn ngữ trong hoạt động một lĩnh vực hoạt động đặc thù: hoạt động nghệ thuật. Việc nghiên cứu ngôn
ngữ thơ ca trong đó tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ của một tác giả là một trong
những hớng đi cần thiết của việc nghiên cứu ngôn ngữ học vừa mang tính
chuyên sâu, vừa mang tính liên ngành hiện nay. Đây là lí do đầu tiên khiến
chúng tôi lựa chọn đề tài này.
1.2. Đầu những năm ba mơi của thế kỷ hai mơi, trong nền văn học Việt
Nam diễn ra một cuộc vận động đổi mới mạnh mẽ, làm xuất hiện một loạt các
nhà thơ mới với cá tính sáng tạo độc đáo, những tác phẩm đặc sắc. Nằm trong
dòng mạch vận động đó, Bích Khê đợc đánh giá là một trong những cây bút
có những cách tân mới lạ về ngôn ngữ thơ. Từ Tinh huyết đến Tinh hoa, Bích
Khê đã có những sáng tạo không mệt mỏi, một nỗ lực vợt thoát chính mình
tạo nên một phong cách, một "đỉnh núi lạ" trong phong trào Thơ mới. Mặc dù
có một vị trí khá đặc biệt nh thế nhng cho đến hôm nay, trong đời sống văn

học của nớc nhà, Bích Khê vẫn gần nh là một "ngời lạ mặt". Chính cái "lạ" đó
đã thu hút chúng tôi thực hiện công trình này.
1.3. Đọc thơ Bích Khê, ngời đọc vừa bị hấp dẫn bởi một âm điệu du dơng, dìu dặt đầy quyến rũ vừa không hết ngạc nhiên trớc những hình ảnh mới
lạ, những cách diễn tả thật độc đáo. Bởi vậy, nghiên cứu ngôn ngữ thơ Bích
Khê không chỉ góp phần tìm hiểu phong cách ngôn ngữ của một tác giả mà
còn cho ta thấy vẻ đẹp của ngôn ngữ trong hoạt động hành chức của nó.


6

1.4. Phần văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 cũng là một mảng
khá quan trọng đối với chơng trình giảng dạy ở bậc THPT. Do vậy, qua ngôn
ngữ thơ Bích Khê, chúng tôi muốn góp phần tìm hiểu thêm về diện mạo thơ ca
Việt Nam giai đoạn này nhằm phục vụ cho việc dạy học đợc tốt hơn.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu thơ Bích Khê
Bao quát toàn bộ lịch sử nghiên cứu Bích Khê không phải là nhiệm vụ
của luận văn này. Nhng nghiên cứu ngôn ngữ vốn là một quá trình không hoàn
toàn tách rời khỏi qui trình nghiên cứu thi nghiệp chung của thi sĩ. Bởi vậy,
không thể không lớt qua lịch sử nghiên cứu tác giả này. Tuy nhiên, ở đây chỉ
là cái nhìn nghiêng về khái lợc.
Nhìn trên tổng thể, lịch sử nghiên cứu thơ Bích Khê có thể chia làm ba
giai đoạn: trớc 1945, từ 1945 đến 1986 và từ 1987 đến nay. ở mỗi giai đoạn
đều xuất hiện những cây bút phê bình chủ chốt, những nhà nghiên cứu, những
ngời sáng tác đại diện cho lớp lớp độc giả say mê thơ ông. Trớc Cách mạng, ý
kiến bàn về thơ Bích Khê không nhiều lắm. Ngoài những bài báo lẻ, đáng chú
ý nhất là bài viết về Bích Khê của Hoài Thanh - Hoài Chân in trong Thi nhân
Việt Nam và lời đề tựa tập thơ Tinh Huyết: Bích Khê - thi sĩ thần linh của Hàn
Mặc Tử. Trong thời kỳ chiến tranh, do hoàn cảnh lịch sử mà việc nghiên cứu
Bích Khê chủ yếu diễn ra ở Miền Nam trong đó nổi lên một số bài viết sau

đây: Đôi nét về cuộc đời Bích Khê của Quách Tấn - 1966; Ngời em Bích Khê
của Lê Thị Ngọc Sơng - 1966; Nhạc và họa trong thơ Bích Khê của Đinh Cờng - 1963; Nhân nhớ Bích Khê và đọc thơ Bích Khê bàn về thơ tợng trng của
Tam ích - 1964; Một kết tinh ảo diệu của Đinh Hùng - 1967; Tinh huyết của
Bích Khê của Lê Huy Oanh - 1974; Thế giới thơ tợng trng của Bích Khê của
Phạm Kim Thịnh - 1974... Sau thời kỳ đổi mới, Bích Khê và thơ Bích Khê bắt
đầu đợc chú ý lại trên thi đàn. Hàng loạt bài viết với những kiến giải, phân tích
khá sâu sắc và thấu đáo nối tiếp nhau xuất hiện. Tiêu biểu là các công trình:


7

Thơ Bích Khê của Chế Lan Viên - 1987; Bích Khê - sự thức nhận ngôn từ của
Đỗ Lai Thúy - 1994; Bích Khê - truyền thống và cách tân của Lê Đình Kỵ 1997; T duy thơ Bích Khê - nhìn từ các dạng thái của cái tôi trữ tình của Hồ
Thế Hà - 2006; Ngôn ngữ thân thể trong thơ Bích Khê của Trần Đình Sử 2006; Tập thơ Tinh huyết của Bích Khê và giai đoạn phát triển thứ hai của
thơ mới của Lại Nguyên Ân - 2006; Bích Khê "Thi sĩ thần linh" - "Thơ lõa
thể" của Phạm Xuân Nguyên - 2006... Năm 2006, hội thảo về thơ Bích Khê đợc tổ chức tại Quảng Ngãi đã gây đợc sự chú ý, thu hút sự tham gia của nhiều
nhà nghiên cứu và các độc giả yêu thơ, đánh dấu sự trở về của Bích Khê trong
lòng quê hơng, dân tộc. Nhìn chung, các bài viết giai đoạn này đã tập trung
khám phá thơ Bích Khê trên nhiều phơng diện nh thi pháp, thế giới nghệ thuật,
loại hình thơ, ngôn ngữ thơ... Các hớng tiếp cận ấn tợng chủ quan, phân tâm
học, ngôn ngữ học, văn hóa học... đều đã đợc ứng dụng để chiếm lĩnh di sản
thơ Bích Khê.
Điểm lại các bài viết, các công trình nghiên cứu về thơ Bích Khê, chúng
tôi nhận thấy rằng: ý kiến nhắc nhở về thơ Bích Khê tuy ít nhng thời nào cũng
có. Những nhận định đánh giá về ông còn rải rác và cha thống nhất, tựu trung
lại có hai luồng ý kiến nh sau:
Một là ý kiến đề cao khẳng định thơ Bích Khê và những cách tân của
thơ Bích Khê. Tiêu biểu cho loại ý kiến này là các bài viết của Hàn Mặc Tử.
Đinh Hùng, Quách Tấn... ở khuynh hớng này bên cạnh những đánh giá rất
xác đáng về thơ Bích Khê và vị trí của Bích Khê thì một số bài viết còn nặng

về cảm tính, ấn tợng, cha đi sâu lí giải, phân tích thấu đáo những luận điểm đã
nêu.
Hai là thái độ đánh giá đầy thiện chí nhng vẫn còn dè dặt, phân vân.
Đây là xu thế chiếm số đông. Các nhà nghiên cứu một mặt thừa nhận thơ Bích
Khê có những cách tân táo bạo, đạt đợc nhỉều thành tựu, tạo nên một phong
cách thơ độc đáo, nhng mặt khác cũng chỉ ra những điểm còn hạn chế. Tiêu


8

biểu cho xu hớng này là Hoài Thanh, Chế Lan Viên, Đỗ Lai Thúy, Lê Đình
Kỵ...
Mặc dù cách tiếp nhận không giống nhau do khác nhau về tầm đón đợi
song cả hai khuynh hớng trên đều khẳng định Bích Khê là nhà thơ tợng trng
tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Hoài Thanh, trong Thi nhân Việt Nam nhận
định: "Bích Khê và ít ngời nữa nh Xuân Sanh muốn đi đến chỗ ngời ta thờng
cho là cao nhất trong thơ tợng trng" [39, tr.32]. Tác giả Lê Huy Oanh cho
rằng: "Trong thế kỷ XX, nhất là thời tiền chiến, tại Việt Nam, hiện tợng thơ tợng trng nổi bật trong các thi phẩm của thi sĩ danh tiếng nh Phạm Hầu, Chế
Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Đinh Hùng và nhất là Bích Khê" [30, tr.51]. Năm
1997, trong bài viết Bích Khê- truyền thống và cách tân, giáo s Lê Đình Kỵ
cũng đồng tình: "Thành tựu nổi bật nhất của nhà thơ (chỉ Bích Khê) là gắn liền
với lối thơ tợng trng" [21, tr. 137].
Tóm lại, trong khoảng thời gian bảy mơi năm chân dung thơ và đời của
Bích Khê đã đợc các nhà nghiên cứu tiếp sức nhau hình dung rõ hơn tuy cha
hẳn là đầy đủ. Trong các công trình nghiên cứu mà chúng tôi đã liệt kê trên
đây, ngôn ngữ thơ Bích Khê là vấn đề ít nhiều đã đợc đề cập đến. Chẳng hạn,
các công trình của Chế Lan Viên, Đỗ Lai Thúy, Lê Đình Kỵ, Trần Đình Sử,
Lại Nguyên Ân... Dới đây là những khái quát chính về việc nghiên cứu ngôn
ngữ thơ Bích Khê.
2.2. Lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ thơ Bích Khê

Đề cập đến ngôn ngữ thơ Bích Khê đầu tiên phải kể đến lời bình phẩm
ca tụng đầy nhiệt tình của Hàn Mặc Tử trong bài tựa "Bích Khê - thi sĩ thần
linh" [43]. Tuy không nhiều lắm nhng Hàn Mặc Tử cũng có nêu lên một vài
nhận xét nho nhỏ về câu thơ, về từ điệu, về nhạc tính của thơ Bích Khê. Thi sĩ
họ Hàn cũng là ngời đã phát hiện ra lối ngắt nhịp đầy sáng tạo của Bích Khê
trong thể thơ tám chữ. Tuy nhiên, những nhận định của Hàn Mặc Tử còn


9

chung chung trừu tợng không giúp ngời đọc rút ngắn đợc bao nhiêu khoảng
cách giữa họ với thơ Bích Khê vốn đợc xem là lạ, là khó hiểu.
Các bài viết: Nhân nhớ Bích Khê và đọc thơ Bích Khê bàn về thơ tợng
trng [16] , Nhạc và họa trong thơ Bích Khê [6], Trong Thơ mới cha có Bích
Khê [19] dù qui mô không lớn nhng các tác giả đã đề cập đến một số phơng
diện về ngôn ngữ thơ Bích Khê nh tính nhạc, tính tạo hình, loại hình ngôn ngữ
thơ. Có điều phần lớn những bài viết này mới chỉ nêu mà cha phân tích, lý giải
một cách thấu triệt các luận điểm của mình nên sức thuyết phục còn hạn chế.
Có thể nói, lời đề tựa Thơ Bích Khê do Chế Lan Viên chấp bút là bài
viết đầu tiên đã có một cái nhìn khá hệ thống về những cách tân ngôn ngữ của
Bích Khê. Theo tác giả, Bích Khê đã duy tân trong chữ, duy tân trong câu, duy
tân đoạn mảng bài, những bộ phận trên câu, duy tân trong nhạc và duy tân
trong lối tạo hình. Chế Lan Viên đặc biệt nhấn mạnh đến chất nhạc trong thơ
Bích Khê. Tác giả rất tinh tế khi phát hiện ra rằng, trong thơ Bích Khê "ý
nghĩa đẻ ra âm thanh rồi âm thanh lại đẻ ra ý nghĩa"[46, tr.129]. Luận điểm
của Chế Lan Viên đa ra thật xác đáng, chỉ tiếc là trong khuôn khổ một lời đề
tựa nên tác giả cha có điều kiện để đi sâu phân tích, chứng minh và lý giải.
Công trình đáng kể nhất về ngôn ngữ thơ Bích Khê là tập tiểu luận Mắt
thơ của Đỗ Lai Thúy. Trong bài viết Bích Khê - sự thức nhận ngôn từ, tác giả
đã chỉ ra rằng ngôn ngữ trong thơ Bích Khê "thôi là một phơng tiện để trở

thành một cứu cánh" đa thơ vào vùng siêu cảm, vơng quốc của thơ thuần túy.
Đó là thứ ngôn ngữ đầy kỹ thuật. Bằng kỹ thuật chế tác ngôn từ, Bích Khê đã
tạo ra những ẩn dụ táo bạo, độc đáo, những biểu tợng trùng phức, những giai
âm đầy ám gợi. Đặc biệt, tác giả đã có những phát hiện bất ngờ, thú vị về cách
"xử lý vật liệu" của Bích Khê. Ông viết: "Thi nhân đã biến tất cả những vật
liệu có đặc tính thiên nhiên khác nhau thành loại vật liệu mà ông yêu thích là
cứng rắn, có màu sắc và cảm giác lạnh. Ngọn bút thần của Bích Khê nhúng


10

vào nớc để biến nó thành thủy tinh, biến nớc mắt, lệ thành châu ngọc, thành
những đôi đũa ngọc, biến mộng thành ngà... Song song với quá trình này là
một quá trình theo hớng ngợc lại: làm thăng hoa những đặc tính cố hữu của
vật liệu" [42, tr.191]. Bằng một kiến thức sâu rộng và uyên bác, một phơng
pháp làm việc khoa học, một trực giác nghệ thuật khá tinh nhạy, Đỗ Lai Thúy
đã luận giải, chứng minh cho các luận điểm của mình một cách thuyết phục và
hấp dẫn. Điều đáng tiếc duy nhất là tác giả cha có dịp đi sâu khảo sát văn bản
một cách cụ thể, toàn diện.
Rất đồng tình với tác giả Đỗ Lai Thúy, nhà nghiên cứu Lê Đình Kỵ
trong bài viết Bích Khê - truyền thống và cách tân cũng khẳng định: "Chữ ở
đây (trong thơ Bích Khê) vừa là phơng tiện, vừa là cứu cánh. Có khi chữ đến
trớc nghĩa, chữ kéo theo nghĩa, âm thanh gọi âm thanh" [21, tr.140]. Tác giả
cũng chú trọng đến tính nhạc, đến cách xô đẩy tiết tấu, đảo lộn từ ngữ, cú
pháp trong thơ Bích Khê.
Và còn nhiều bài viết khác của các tác giả nh Trần Đình Sử, Phạm Xuân
Nguyên, Lại Nguyên Ân, Hồ Thế Hà, Lê Hoài Nam, Trịnh Sâm, Hoàng Thiệu
Khang... đã đề cập đến một số phơng diện khác của ngôn ngữ thơ Bích Khê.
Giáo s Trần Đình Sử khi đề cập đến ngôn ngữ thân thể trong thơ Bích Khê đã
coi đấy nh là một biểu hiện của t duy thơ hiện đại. Nhà nghiên cứu Trịnh Sâm

thì lu ý đến lớp từ địa phơng, một số kết hợp ngữ đoạn cũng nh kỹ thuật tổ
chức văn bản. Tác giả Hoàng Thiệu Khang thì nhận thấy: "Thơ Bích Khê chỉ
là ngôn ngữ biểu hiện, mà thơ đích thực lại là ngôn ngữ biểu hiện"[19,
tr.146]... Tuy nhiên, các ý kiến mới chỉ mang tính nêu, gợi mở vấn đề chứ cha
đợc kiến giải, phân tích thật thấu đáo.
Có thể thấy rằng, trong các bài viết kể trên, cha có tác giả nào bao quát
hết đợc đặc điểm về ngôn ngữ thơ Bích Khê. Ngoài công trình của Đỗ Lai
Thúy, cha có một công trình riêng biệt nào dành nghiên cứu chuyên sâu, mang
tính hệ thống tơng xứng với sự đóng góp và tầm cỡ của Bích Khê trong nền
thơ ca hiện đại Việt Nam. ở luận văn này, chúng tôi sẽ cố gắng tập trung khảo


11

sát một cách hệ thống các đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ thơ Bích Khê trên
tinh thần tiếp thu thành quả của những nhà nghiên cứu đi trớc.
3. Nhiệm vụ và đối tợng nghiên cứu
3.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phác thảo đôi nét về thi pháp thơ Bích Khê, đặc biệt là những nỗ lực
cách tân thơ và vị trí của Bích Khê trong phong trào Thơ mới.
- Khảo sát những đặc trng về ngữ âm và từ ngữ, câu thơ và các biện
pháp tu từ trong hai tập thơ Tinh huyết và Tinh hoa, xem xét chúng trong sự so
sánh hai chiều đồng đại và lịch đại, từ đó để thấy đợc những đặc sắc trong
ngôn ngữ thơ Bích Khê.
3.2. Đối tợng nghiên cứu
Đối tợng nghiên cứu của công trình này là hai tập thơ đã xuất bản của
Bích Khê: Tinh huyết (NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 1995) và Tinh hoa (NXB
Hội Nhà văn, Hà Nội, 1995), trong đó ngời viết chủ yếu tập trung khảo sát ở
phơng diện ngôn ngữ thơ.
Ngoài ra, chúng tôi cũng có tham khảo thêm một số tập thơ của các tác

giả nh Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên để tham chiếu, so sánh với
Bích Khê nhằm làm rõ hơn những đặc sắc ngôn ngữ của tác giả.
4. Phơng pháp nghiên cứu
Phơng pháp nghiên cứu chủ yếu đợc sử dụng ở công trình này là: Phơng
pháp thống kê, phân loại; Phơng pháp phân tích, tổng hợp; Phơng pháp so
sánh, đối chiếu.
5. Đóng góp của luận văn
Đây là công trình dài hơi đầu tiên ở Việt Nam nêu và phân tích một
cách có hệ thống các đặc điểm ngôn ngữ thơ Bích Khê trên các mặt: Ngữ âm
và từ ngữ, câu thơ và các biện pháp tu từ. Bằng phơng pháp nghiên cứu ngôn
ngữ học, qua khảo sát các dẫn liệu cụ thể, luận văn sẽ làm sáng tỏ những đặc
sắc về ngôn ngữ của một trong những nhà thơ có vai trò cách tân quan trọng
trong thơ Việt Nam hiện đại.


12

6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Th mục tham khảo, luận văn đợc cấu
trúc thành 3 chơng nh sau:
Chơng 1: Những giới thuyết xung quanh đề tài
Chơng 2: Đặc sắc về ngữ âm và từ ngữ trong thơ Bích Khê
Chơng 3: Đặc sắc về câu thơ và các biện pháp tu từ trong thơ Bích Khê
Nội dung
Chơng 1
những giới thuyết chung quanh đề tài
<

1.1. Ngôn ngữ nghệ thuật
Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật hiểu rộng ra sẽ là tiếng nói riêng,


thông điệp riêng của các loại hình nghệ thuật khác nhau nh: kiến trúc, hội hoạ,
sân khấu, điện ảnh... chứ không riêng gì văn chơng. Một bức tợng, kiểu dáng
một lâu đài, nụ cời của nàng Mona Liza, một vũ khúc, một giai điệu... đều có
ngôn ngữ riêng của chúng. Đó là thông điệp của ngời nghệ sĩ gửi gắm trong
công trình nghệ thuật của mình. Tiếng nói và cách nói khác nhau gắn với hệ
thống vật liệu, với hệ thống mã (code) của từng ngành nghệ thuật đợc gọi là
ngôn ngữ nghệ thuật của nó.
Với nghĩa hẹp, gắn với loại hình nghệ thuật văn chơng, ngôn ngữ nghệ
thuật đợc hiểu là nghệ thuật của ngôn từ. Nghĩa là, ngôn ngữ là chất liệu của
loại hình nghệ thuật văn chơng. Cách sáng tạo và thởng thức một tác phẩm
văn chơng chính là sự t duy trên chất liệu ngôn ngữ. Về đối tợng đặc thù này,
trong giới nghiên cứu và phê bình đang tồn tại các khái niệm khác nhau nh:
ngôn ngữ văn học, ngôn ngữ văn chơng, ngôn từ nghệ thuật.
Trong ngôn ngữ học, thuật ngữ ngôn ngữ văn học là khái niệm dùng để
chỉ một cách bao quát các hiện tợng ngôn ngữ đợc dùng một cách chuẩn mực
trong các văn bản nhà nớc, trên báo chí, đài phát thanh, trong văn học và khoa
học. Đó là thứ "ngôn ngữ mẫu mực, đã đợc chuẩn hoá, phục vụ cho tất cả các


13

lĩnh vực giao tiếp giữa ngời với ngời, giữ vai trò to lớn trong việc hình thành
và phát triển t duy, phát triển tâm lý, trí tuệ và toàn bộ các hoạt động tinh thần
của con ngời, còn gọi là ngôn ngữ chuẩn, ngôn ngữ tiêu biểu" [48, tr.172]. Nó
là một trạng thái ngôn ngữ tiêu biểu với những đặc điểm khu biệt biệt là: tính
đa chức năng về mặt biểu đạt, đặc tính tinh luyện và chuẩn mực về cấu trúc,
có nguồn gốc từ phơng ngữ. Riêng ngôn ngữ trong tác phẩm văn học, theo qui
ớc, đợc gọi là ngôn ngữ văn chơng. Các đặc trng của nó bao gồm: tính hệ
thống, tính chính xác, tính hình tợng, tính truyền cảm, tính cá thể hoá và tính

hàm súc.
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, các tác giả Lê Bá Hán, Trần
Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi lại có quan niệm hẹp hơn cho rằng, ngôn ngữ văn
học là "ngôn ngữ mang tính nghệ thuật đợc dùng trong văn học" [14, tr.185],
là công cụ, chất liệu cơ bản để xây dựng hình tợng nghệ thuật văn học và giao
tiếp nghệ thuật. Vì thế, văn học đợc gọi là nghệ thuật ngôn từ. Các tác giả xác
định ngôn ngữ văn học có nguồn gốc từ ngôn ngữ nhân dân và cũng xác định
các đặc trng của nó bao gồm: tính chính xác, tính hàm súc, tính đa nghĩa, tính
hình tợng và tính biểu cảm, trong đó nhấn mạnh tính hình tợng và tính thẩm
mĩ là những thuộc tính bản chất nhất, xuyên thấm vào mọi thuộc tính khác,
qui định những thuộc tính ấy.
Các nhà lí luận văn học lại dùng thuật ngữ ngôn từ nghệ thuật để định
danh chất liệu văn học. Họ khu biệt giữa khái niệm ngôn ngữ và ngôn từ.
Ngôn từ là lời nói mà ngời ta dùng làm chất liệu để sáng tác văn học còn ngôn
ngữ là tổng thể tất cả các đơn vị, phơng tiện, các kết hợp mà lời nói sử dụng
(ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng, các phơng thức tu từ).
Tóm lại, tuy có nhiều tên gọi khác nhau và hàm nghĩa của mỗi tên gọi
không hoàn toàn giống nhau nhng chung qui chúng đều chỉ chất liệu đặc thù
làm nên tác phẩm văn học dựa trên các đặc tính cơ bản của nó là tính hình tợng, tính thẩm mĩ. Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi xin đợc xác định
nội hàm của khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ đợc dùng trong các


14

tác phẩm văn chơng và xem xét nó trên tất cả các bình diện: từ ngữ âm, từ
vựng, ngữ pháp đến phong cách.
1.2. Thơ và đặc điểm của ngôn ngữ thơ
1.2.1. Thơ là gì?
Thơ là một hình thức sáng tác văn học đầu tiên của loài ngời. Chính và
vậy mà có một thời gian rất dài thuật ngữ thơ đợc dùng chỉ chung cho văn học.

Thơ có lịch sử lâu đời nh thế nhng để tìm một định nghĩa thể hiện hết đặc trng
bản chất của nó cho việc nghiên cứu thơ ngày nay thì thật không dễ.
Trong nền lý luận văn học cổ điển Trung Hoa, khái niệm thơ là gì đã đợc đề cập đến từ rất sớm. Cách đây khoảng 1500 năm, trong cuốn Văn tâm
điêu long, Lu Hiệp đã đề cập đến ba phơng diện cơ bản cấu thành nên một bài
thơ là tình cảm, ý nghĩa (tình văn), ngôn ngữ (hình văn) và âm thanh (thanh
văn) [15]. Kế thừa quan niệm của Lu Hiệp, đến đời Đờng, Bạch C Dị đã nêu
lên các yếu tố then chốt tạo thành điều kiện tồn tại của thơ: "Cái cảm hoá đợc
lòng ngời chẳng gì trọng yếu bằng tình cảm, chẳng gì đi trớc đợc ngôn ngữ,
chẳng gì gần gũi bằng âm thanh, chẳng gì sâu sắc bằng ý nghĩa. Với thơ, gốc
là tình cảm, mầm lá là ngôn ngữ, hoa là âm thanh, quả là ý nghĩa" [15]. Quan
niệm này không chỉ dừng lại ở việc nêu lên các yếu tố cấu thành tác phẩm mà
còn chỉ ra mối quan hệ gắn bó giữa chúng, giống nh gốc rễ, mầm lá, hoa, quả
gắn liền với nhau trong một thể thống nhất hoàn chỉnh và sống động. Đây có
thể coi là quan niệm về thơ toàn diện và sâu sắc nhất trong nền lý luận văn học
cổ điển Trung Hoa.
Các nhà Cấu trúc chủ nghĩa Châu Âu lại thay thế câu hỏi thơ là gì bằng
một câu hỏi khác: tính thơ là gì và nó đợc thể hiện ra nh thế nào? Trong tiểu
luận "Thơ là gì", Jacobson viết: "Nhng tính thơ đợc biểu hiện ra nh thế nào?
Theo cái cách từ ngữ đợc cảm nhận nh là từ ngữ chứ không phải nh vật thay
thế đơn giản của đối tợng đợc chỉ định, theo cách những từ, những cú pháp,
những ngữ nghĩa của chúng, hình thức bên trong và bên ngoài của chúng
không phải là các dấu hiệu vô hồn của hiện thực mà còn có trọng lợng riêng,


15

giá trị riêng" [18, tr.184]. Tiếp tục triển khai lý thuyết tự qui chiếu, Jacobson
sau khi nhắc lại hai kiểu sắp xếp cơ bản của hoạt động ngôn ngữ là tuyển
chọn và kết hợp, đã đi đến kết luận: "Chức năng thi ca đem nguyên lý tơng đơng của trục tuyển lựa chiếu lên trục kết hợp" [17, tr.119]. Mặc dù có lu ý ít
nhiều đến hoạt động nguyên lý tơng đơng về ý nghĩa nhng trong t duy nghiên

cứu của Jacobson, cái ý nghĩa ở đây chỉ là ý nghĩa của đối tợng gọi tên và ý
nghĩa ngữ pháp nảy sinh từ những mối quan hệ giữa các thành tố cấu trúc có
tính chất khép kín của văn bản. Điều đó cũng có nghĩa là khái niệm ý nghĩa đợc hiểu một cách hạn hẹp. Bởi trong thực tế, nh ta thấy, ý nghĩa của thơ nhiều
khi đã vợt ra ngoài giới hạn của văn bản.
ở Việt Nam, khái niệm thơ là gì cũng đã đợc nhiều nhà nghiên cứu đề
cập đến với nhiều quan niệm, nhiều khuynh hớng khác nhau. Lý giải về bản
chất của thơ, các tác giả nhóm "Xuân thu nhã tập" cho rằng: "Thơ là một cái
gì huyền ảo, tinh khiết, thâm thuý, cao siêu" [dẫn theo 11, tr.167]. Còn nhà thơ
Tố Hữu thì quan niệm: "Thơ là cái nhuỵ của cuộc sống". Dới cái nhìn cấu
trúc, nhà nghiên cứu Phan Ngọc định nghĩa: "Thơ là cách tổ chức ngôn ngữ
hết sức quái đản để bắt ngời tiếp nhận phải nhớ, phải cảm xúc và suy nghĩ do
chính hình thức ngôn ngữ này" [27, tr. 23]. Định nghĩa này của giáo s Phan
Ngọc đã kế thừa đợc những khám phá quan trọng về thơ của nhiều nhà nghiên
cứu thuộc các trờng phái khác nhau của Tây Âu trong mấy chục năm qua. Đặc
biệt, đã gợi ra một trờng nghiên cứu thơ hết sức rộng rãi: thơ không chỉ là hiện
tợng ngôn ngữ học thuần tuý mà chủ yếu là hiện tợng giao tiếp nghệ thuật,
một phát ngôn trong ý nghĩa đầy đủ của từ này.
Lịch sử nghiên cứu và phê bình văn học đã đợc chứng kiến rất nhiều
định nghĩa về thơ. Theo chúng tôi, cách định nghĩa của nhóm tác giả Lê Bá
Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học
có thể xem là chung nhất: "Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc
sống, thể hiện tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc,
giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu" [14, tr. 254]. Định nghĩa này đã định
danh một cách đầy đủ về thơ ở cả nội dung và hình thức nghệ thuật. Đặc biệt,


16

đã khu biệt đợc đặc trng cơ bản của ngôn ngữ thơ với ngôn ngữ trong những
thể loại văn học khác.

Từ sự nhận diện về thơ nh trên, ta có điều kiện để đi vào tìm hiểu những
đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ thơ.
1.2.2. Những đặc trng cơ bản của ngôn ngữ thơ
Nh phần trên chúng tôi đã trình bày, thơ là một hình thái nghệ thuật cao
quí, tinh vi của sáng tạo văn học nghệ thuật. Vì vậy, ngôn ngữ thơ trớc hết
mang đầy đủ những thuộc tính của ngôn ngữ văn học là: tính chính xác, tính
hàm súc, tính đa nghĩa, tính tạo hình, tính biểu cảm... Tuy nhiên, ở mỗi loại
tác phẩm khác nhau, những đặc điểm ấy lại biểu hiện dới những sắc thái và
mức độ khác nhau. Đồng thời, mỗi loại tác phẩm lại có những đặc trng ngôn
ngữ riêng. So với ngôn ngữ văn xuôi, ngôn ngữ thơ trữ tình có những điểm
khác biệt.
1.2.2.1. Ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính
Thơ trữ tình phản ánh cuộc sống qua những rung động của tình cảm.
Thế giới nội tâm của nhà thơ không chỉ biểu hiện bằng ý nghĩa của từ ngữ mà
còn bằng cả âm thanh, nhịp điệu của từ ngữ ấy. Nếu nh trong văn xuôi, các
đặc tính thanh học của ngôn ngữ (nh cao độ, cờng độ, trờng độ...) không đợc
tổ chức thì trong thơ, trái lại, những đặc tính ấy lại đợc tổ chức một cách chặt
chẽ, có dụng ý, nhằm tăng hàm nghĩa cho từ ngữ, gợi ra những điều mà từ ngữ
không nói hết. Bởi thế, đặc trng tính nhạc đợc coi là đặc trng chủ yếu mang
tính loại biệt rõ nét của ngôn ngữ thơ ca.
Theo các nhà nghiên cứu, nhạc tính trong thơ đợc thể hiện ra ở ba mặt
cơ bản. Đó là: sự cân đối, sự trầm bổng và sự trùng điệp.
Sự cân đối là sự tơng xứng hài hoà giữa các dòng thơ. Sự hài hoà đó có
thể là hình ảnh, là âm thanh, kiểu nh: "Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử/ Hết cơm,
hết rợu, hết ông tôi" (Nguyễn Bỉnh Khiêm). Cũng có thể là cách sắp xếp tổ
chức mà chúng ta dễ dàng nhận thấy ở cặp câu thực, câu luận trong bài thơ Đ-


17


ờng luật thất ngôn bát cú. Đối với thơ hiện đại, yêu cầu này không khắt khe.
Tuy vậy, nhà thơ vẫn hết sức chú ý đến hiệu quả nghệ thuật của phép đối xứng
trong thơ của mình.
Sự trầm bổng của ngôn ngữ thơ thể hiện ở cách hoà âm, ở sự thay đổi độ
cao giữa hai nhóm thanh điệu. Xuân Diệu với hai dòng thơ toàn vận dụng vần
bằng đã biểu hiện đợc cảm xúc lâng lâng, bay bổng theo tiếng đàn du dơng,
nhẹ êm: "Sơng nơng theo trăng ngừng lng trời/ Tơng t nâng lòng lên chơi vơi".
Chính Tố Hữu đã có lần nói đến giá trị ngữ âm của từ "xôn xao" trong câu thơ
"Gió lộng xôn xao, sóng biển đu đa" (Mẹ Tơm). Đó đâu chỉ là âm vang của tự
nhiên mà là âm vang của tâm hồn. Cái làm nên âm vang đó chính là âm thanh,
âm thanh của từ "xôn xao" đã cùng với nghĩa của nó làm nên điều kỳ diệu ấy.
Sự trầm bổng của ngôn ngữ còn thể hiện ở nhịp điệu: "Sen tàn/ cúc lại/ nở
hoa; Sầu dài/ ngày ngắn/ đông đà/ sang xuân". Dòng thơ cắt theo nhịp hai đều
đặn nh nhịp chuyển vần đều đặn của tháng năm bốn mùa... Nhịp thơ ở đây là
nhịp của cảm xúc, cảm nhận. Nh vậy, âm thanh, nhịp điệu trong thơ không
đơn thuần là hình thức mà là những yếu tố góp phần biểu hiện những khía
cạnh tinh vi của đời sống tình cảm con ngời.
Sự trùng điệp của ngôn ngữ thơ thể hiện ở sự dùng vần, điệp từ, ngữ và
điệp cú. Chúng có tác dụng nh một phơng tiện kết dính các dòng thơ lại với
nhau thành một đơn vị thống nhất, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho trí nhớ vừa
tạo nên vẻ đẹp trùng điệp cho ngôn ngữ thơ: "Lầu ma xuống, thềm lan ma
xuống/ Ma xuống lầu, ma xuống thềm lan/ Ma rơi ngoài nẻo dặm nghàn/
Nớc non rả rích giọt đàn ma xuân" (Tiếng đàn ma- Bích Khê). Lối điệp từ,
điệp ngữ, điệp cấu trúc ở đây vừa diễn tả đợc hình ảnh cơn ma của đất trời vừa
tạo nên một ấn tợng vơng vấn không dứt trong lòng ngời.
Nh vậy, nhạc điệu trong thơ là một đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ thơ.
Ngày nay, nhu cầu của thơ có phần đổi khác. một số ngời có xu hớng bỏ vần
để tạo cho câu thơ sự tự do hoá triệt để. Nhng nếu không có một nhạc điệu nội
tại nào đó nh sự đối xứng giữa các dòng, các đoạn thơ, tiết tấu, nhịp điệu của



18

câu thơ thì không còn là ngôn ngữ thơ nữa.
1.2.2.2. Ngôn ngữ thơ có tính hàm súc
Đây là đặc điểm chung của ngôn ngữ trong tác phẩm văn chơng, nhng
do đặc trng của thể loại mà nó biểu hiện một cách tập trung với yêu cầu cao
nhất trong ngôn ngữ thơ. Nếu ngôn ngữ văn xuôi tự sự là ngôn ngữ của cuộc
sống đời thờng, nó chấp nhận mọi lớp từ, mọi biến thái, mọi chiều kích, thậm
chí cả sự xô bồ, phồn tạp đến cực độ để tái hiện bộ mặt cuộc sống, tâm lý con
ngời trong sự sâu rộng, đa chiều vốn có của nó thì ngôn ngữ thơ lại mang nặng
tính "đặc tuyển". Là thể loại có một dung lợng ngôn ngữ hạn chế nhất trong
các loại tác phẩm văn học, nhng thơ lại có tham vọng chiếm lĩnh thế giới. Nói
nh Ôgiêrốp: "Bài thơ là một lợng thông tin lớn nhất trong một diện tích ngôn
ngữ nhỏ nhất". Chính sự hạn định số tiếng trong câu thơ, bài thơ buộc ngời
nghệ sỹ phải "thôi xao", nghĩa là phải phát huy sự t duy ngôn ngữ để lựa chọn
từ ngữ cho tác phẩm. Bởi thế, Maiacôpxki gọi lao động nghệ thuật ngôn từ của
nhà thơ là "trả chữ với với giá cắt cổ":
Nhà thơ trả chữ với giá cắt cổ
Nh khai thác chất hiếm radium
Lấy một gam phải mất hàng bao công lực
Lấy một chữ phải mất hàng tấn quặng ngôn từ.
Nh vậy tính hàm súc đợc hiểu là khả năng của ngôn ngữ có thể miêu tả
mọi hiện tợng của cuộc sống một cách cô đọng, ít lời mà nói đợc nhiều ý, ý tại
ngôn ngoại. Đây chính là cách dùng từ sao cho đắt nhất, có giá trị biểu hiện
cao nhất kiểu nh Nguyễn Du đã "giết chết" các nhân vật Mã Giám Sinh, Sở
Khanh, Hồ Tôn Hiến, mỗi tên chỉ bằng một từ: cái vô học của Mã Giám Sinh:
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng; cái gian manh của Sở Khanh: Rẽ song đã thấy Sở
Khanh lẻn vào; cái tầm thờng ti tiện của Hồ Tôn Hiến: Lạ cho mặt sắt cũng
ngây vì tình.



19

Do qui mô của tác phẩm, thơ ca thờng sử dụng từ ngữ rất "tiết kiệm".
Tính hàm súc của ngôn ngữ thơ, vì vậy, chứa đựng các thuộc tính khác. Hàm
súc cũng có nghĩa là phải chính xác, giàu hình tợng, có tính truyền cảm và thể
hiện cá tính của ngời nghệ sỹ. Chẳng hạn, từ "khô" trong câu thơ sau đây của
Tản Đà: "Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày" là một từ có tính hàm súc
cao mà những yếu tố tơng đơng với nó (nh tuôn) không thể thay thế. Nó
không chỉ diễn tả đợc chiều sâu của tình cảm mà còn gợi lên cả chiều dài của
những tháng năm chờ đợi. Nó vừa đảm bảo đợc tính chính xác, tính hình tợng,
vừa có tính truyền cảm.
Để đạt đợc tính hàm súc cao nhất, có thể biểu hiện đợc cái vô hạn của
cuộc sống trong những cái hữu hạn của các đơn vị ngôn ngữ, thơ ca phải tính
đến những kiểu tổ chức đặc biệt mà nhà nghiên cứu Phan Ngọc gọi là "quái
đản". Dới áp lực của cấu trúc ngôn ngữ khác thờng này, ngữ nghĩa của từ trong
thơ không dừng lại ở nghĩa gốc, nghĩa đen, nghĩa trong từ điển mà phong phú,
sâu sắc, tinh tế hơn. Đó là thứ nghĩa đợc tạo sinh nhờ quan hệ và trong quan
hệ. Ví dụ: Khi Hồng Nguyên viết: "Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau" thì
chính trong quan hệ với những yếu tố trớc và sau nó mà từ "đột kích" đợc cấp
cho một nghĩa mới, gợi lên những rung động thẩm mỹ. Hay trong câu thơ của
Lâm Thị Mỹ Dạ: "Em đã lấy tình yêu của mình thắp lên ngọn lửa" thì sự kết
hợp bất thờng về nghĩa đã mở ra những liên tởng hết sức thú vị. Trong đời thờng, khi nói đến việc "thắp lửa", ngời ta một là nghĩ đến phơng tiện nh: cái bật
lửa, que diêm ... hai là nguyên liệu nh: dầu hoả, dầu dừa ... ở đây, nhà thơ lại
thay nó bằng một "chất liệu" rất trừu tợng thuộc lĩnh vực tinh thần. Và trong
quan hệ với cái chất liệu trừu tợng đó, nghĩa bề mặt của "ngọn lửa" bị mờ đi,
mở ra những nghĩa mới. Đó là: chân lý, niềm tin, lý tởng cuộc đời...
Định lợng tiếng trong thơ cũng là tiền đề tạo ra sự xuất hiện với một
mật độ dày đặc các phơng tiện nghệ thuật trong thơ so với văn xuôi. Nhiều

lúc, trong một bài thơ, có thể thấy xuất hiện cùng một lúc các phơng tiện tu từ
khác nhau nh ẩn dụ, hoán dụ, nhân hoá, tợng trng, điệp từ, điệp ngữ. Bài ca


20

dao trữ tình sau đây là một ví dụ:
Khăn thơng nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thơng nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Đèn thơng nhơ ai
Mà đèn không tắt
Mắt thơng nhớ ai
Mắt ngủ không yên
Đêm qua em những lo phiền
Lo vì một nỗi không yên một bề.
Bài ca dao có số lợng từ không nhiều nhng bằng các biện pháp tu từ đã
thể hiện đợc tâm trạng khắc khoải nhớ mong của ngời con gái dờng nh còn
vang mãi, d âm đến tận bây giờ và cả mai sau, không chỉ của một ngời mà của
nhiều ngời.
1.2.2.3. Ngôn ngữ thơ có tính truyền cảm
Tính truyền cảm cũng là đặc trng chung của ngôn ngữ trong tác phẩm
văn chơng, bởi tác phẩm văn học là sản phẩm của cảm xúc của ngời nghệ sĩ trớc cảnh đời, cảnh ngời, trớc thiên nhiên. Cho nên, ngôn ngữ trong tác phẩm
văn chơng phải biểu hiện đợc cảm xúc của tác giả và phải truyền đợc cảm xúc
của tác giả đến ngời đọc, khơi dậy trong lòng ngời đọc những cảm xúc thẩm
mĩ. Tuy nhiên, do đặc trng của thơ là tiếng nói trực tiếp của tình cảm, trái tim
nên ngôn ngữ thơ ca có tác dụng gợi cảm đặc biệt.
Ngôn ngữ thơ không bao giờ là ngôn ngữ chú trọng miêu tả cái khách
quan nh ngôn ngữ trong tác phẩm tự sự. Nếu nhà văn dùng ngôn ngữ để thuyết

minh, miêu tả, nhắn nhủ, giải thích... thì nhà thơ dùng ngôn ngữ để truyền
cảm. Khi Quang Dũng viết: "Ngời đi Châu Mộc chiều sơng ấy/ Có thấy hồn


21

lau nẻo bến bờ/ Có nhớ dáng ngời trên độc mộc/ Trôi dòng nớc lũ hoa đong đa", Quang Dũng không có ý hỏi ai lên Châu Mộc trong buổi chiều sơng nào
đó có nhìn thấy phong cảnh hữu tình không mà Quang Dũng khơi trong ta nỗi
nhớ thơng mất mát, nuối tiếc ngậm ngùi, những ngày tháng, những kỷ niệm,
những ảo ảnh đã tan biến trong đời. Quang Dũng gợi trong ta một trạng thái
bằng cách hồi sinh những gì đã mất, đồng thời phản ánh tâm trạng của chính
mình.
Lời thơ thờng là lời đánh giá trực tiếp thể hiện quan hệ của chủ thể với
cuộc đời. Là lời đánh giá trực tiếp, thể hiện tâm trạng cho nên sự lựa chọn từ
ngữ, phơng thức tu từ trong thơ bao giờ cũng nhằm làm cho nội dung cảm xúc,
thái độ đánh giá, sự đồng cảm hoặc phê phán, ca ngợi trở nên nổi bật: "Ôi
những cánh đồng quê chảy máu/ Dây thép gai đâm nát trời chiều" (Chế Lan
Viên). ở đây, mỗi câu thơ đều mang một từ tập trung tất cả sức nặng của tình
cảm. Những từ đó nh là những tiêu điểm để ta nhìn thấu vào tâm hồn tác giả.
Tính truyền cảm của ngôn ngữ thơ không chỉ biểu hiện qua cách lựa
chọn từ ngữ, các phơng thức tu từ mà còn biểu hiện qua nhạc điệu thơ. Chẳng
hạn: "Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan/ Đờng bạch dơng sơng trắng nắng tràn"
(Tố Hữu). Sự tập trung dày đặc các nguyên âm có độ mở rộng [a] và phụ âm
vang mũi [] khiến câu thơ nghe giàu tính nhạc, kéo dài nh âm vang của sóng
biển vỗ bờ. Nhạc tính đó không đơn thuần là sự ngân nga của ngôn ngữ mà
còn là khúc nhạc hát lên trong lòng ngời.
1.3. Sự nghiệp Bích Khê trong bối cảnh Thơ mới
1.3.1. Phong trào Thơ mới - mấy nét phác thảo
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, trong đời sống sinh hoạt văn nghệ
của nớc ta diễn ra một phong trào thơ vẫn đợc gọi tên là phong trào Thơ mới.

Trên cơ sở tích hợp, tiếp thu, cải biến một cách nghệ thuật những tinh hoa của
văn hoá, văn học Pháp với những giá trị tốt đẹp của văn hoá, văn học Trung
Hoa và nền tảng của văn hoá Việt, các nhà thơ của phong trào thơ Thơ mới đã
tiến hành một cuộc cách mạng trong thi pháp thơ, đa thơ Việt Nam bớc qua


22

giai đoạn cổ điển để tiến vào quĩ đạo hiện đại. Những cải cách về thơ của
phong trào Thơ mới đã đợc nêu lên trong nhiều công trình của giới phê bình
nghiên cứu. ở đây, chúng tôi chỉ xin tổng hợp và lợc thuật một vài điểm
chính:
Thứ nhất, cuộc cách mạng của phong trào Thơ mới thể hiện trớc hết ở
quan niệm cá nhân và cái tôi tự biểu hiện. Nhà nghiên cứu Hoài Thanh trong
cuốn Thi nhân Việt Nam đã xác định tinh thần của Thơ mới nằm trong vòng
"chữ Tôi". Ông viết: "Ngày trớc là thời chữ ta bây giờ là thời chữ tôi... Chữ tôi
xuất hiện trên thi đàn Việt Nam đã mang theo một quan niệm cha từng thấy ở
xứ này - quan niệm cá nhân" [39, tr. 45]. Các nhà nghiên cứu về sau đã tiếp
tục sự xác định của Hoài Thanh, có bổ sung chút ít để gọi đó là "cái tôi tự biểu
hiện". Trong công trình Thi pháp thơ Tố Hữu, tác giả Trần Đình Sử cho rằng
Thơ mới đã tạo thành một giai đoạn mới của thơ ca Việt Nam, mang lại một
kiểu nhà thơ mới và một thi pháp mới. Khái niệm kiểu nhà thơ này cũng đợc
các nhà nghiên cứu hiểu nh là kiểu tác giả, hoặc nói một cách giản dị thì đó là
một kiểu hình tợng tác giả.
Thứ hai, Thơ mới gắn với tinh thần luận lý và thơ trữ tình điệu nói.
Hoài Thanh ví thời điểm bột phát của thơ mới nh là "cuộc xâm lăng của văn
xuôi: văn xuôi tràn vào địa hạt thơ, phá phách tan tành" [39, tr. 36]. Nhà
nghiên cứu Phan Ngọc thì cho rằng phép dùng chữ đặt câu hết sức mới lạ nh
câu thơ bắc cầu, dùng các liên từ, giới từ, h từ... trong Thơ mới là sản phẩm
của "t duy lôgic". Còn Trần Đình Sử lại xem đây là dấu hiệu của loại hình "thơ

trữ tình điệu nói" khác với loại hình "thơ trữ tình điệu ngâm" đã có trong
truyền thống. Ông viết: "Thơ mới đã góp phần căn bản cải tạo thơ tiếng Việt
từ thơ trữ tình của "vũ trụ" sang thơ của ngời, chuyển tâm thế sáng tạo từ ý,
hình sang lời, giọng điệu" [36, tr. 150].
Thứ ba, Thơ mới đã sáng tạo ra các thể thơ mới và cải tạo các thể thơ
truyền thống. Hoài Thanh và các nhà nghiên cứu về sau đã nêu lên những thể
thơ đợc phong trào Thơ mới tạo ra. Đó là những thể nghiệm thành công trong


23

câu thơ 8 âm tiết (phát triển từ thể ca trù), câu thơ 7 âm tiết (xử lý lại thất
ngôn Đờng luật cũ và vè dân gian), câu thơ 5 âm tiết (xử lý lại ngũ ngôn Đờng
luật), câu thơ 6 âm tiết (lục ngôn cổ đợc dùng lại). Thể thơ lục bát truyền
thống vẫn đợc trân trọng và làm giàu thêm. Các thể thơ tự do và thơ văn xuôi
tuy có đợc đề xớng nhng cha đợc khẳng định bằng sáng tác.
Hành trình Thơ mới đi cha đầy 15 năm nhng đã để lại những thi phẩm
và tên tuổi bất hủ nh Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử..., đã
đi đến đỉnh cao sáng tạo và đã kịp chuyển hớng thành những nhóm, những trờng phái mới để không lặp lại chính mình. ở đây, chúng tôi muốn dành sự chú
ý đến nhóm thơ Bình Định và Trờng thơ Loạn, bởi đây là nơi Bích Khê đã đến,
hội nhập, sáng tạo và ra đi trong vinh quang thành tựu.
Bình Định không phải là điểm xuất phát của phong trào Thơ mới, lại ở
cách xa các trung tâm văn hoá lớn của cả nớc, nhng lại là nơi hội tụ các nhà
thơ trẻ trung, táo bạo và tiến rất nhanh về phía trớc, dù họ xuất hiện muộn.
Với khát khao tiếp nhận và sáng tạo cái mới, nhóm thơ Bình Định đã nhanh
chóng thu hút và kết nạp một số nhà thơ nh: Yến Lan, Chế Lan Viên, Hàn
Mặc Tử, Quách Tấn... Về sau, từ đây, nổi lên cái tên mới là Trờng thơ Loạn,
mà mở đầu là Hàn Mặc Tử và ngay lập tức có sự hô ứng của Chế Lan Viên,
Yến Lan, Bích Khê, Hoàng Diệp, Quỳnh Giao. Nhng nổi bật và đi suốt hành
trình sáng tạo với tuyên ngôn tợng trng (một phần siêu thực) thì chỉ có Hàn

Mặc Tử, Chế Lan Viên và Bích Khê. Với Trờng thơ Loạn, ngời đọc bất giác
nhận ra những "thế giới kỳ lạ, hình nh không có khoảng cách giữa địa ngục và
thiên đờng, giữa thực và ảo, giữa nhớ và quên, giữa mê và tỉnh, giữa ánh sáng
và bóng tối, giữa bình thờng và phi thờng. Những đối lập này đã va chạm và
tạo ra những kinh dị, huyền diệu, choáng ngợp" [12]. Chính các lớp hình tợng
trên đợc biểu hiện bằng thứ ngôn ngữ cũng quái đản, biến hoá đã làm cho thơ
Loạn càng lung linh, huyền bí, có sức cuốn hút kỳ lạ đối với bao thế hệ ngời
đọc hiếu kỳ và thích tận hởng cái mới, cái ngoại vi thơ độc đáo, bất khả giải
của thơ ca. Các thi sĩ của Trờng thơ Loạn đề cao tinh thần "nghệ thuật vị nghệ


24

thuật" mà các yếu tố của thơ ca bao gồm trăng, hoa, nhạc, hơng đợc đề cao.
Đó là thế giới riêng của cái đẹp mà thi sĩ là thiên sứ mang đến cho trần gian.
Hàn Mặc Tử khẳng định: "Thơ là tiếng kêu thảm thiết của một linh hồn thơng
nhớ, ao ớc trở lại trời, là nơi đã sống ngàn kiếp vô thuỷ, vô chung với những
hạnh phúc bất tuyệt" [44, tr.154]. Chế Lan Viên cũng viết: "Hàn Mặc Tử nói
làm thơ tức là điên. Tôi thêm: làm thơ là làm sự phi thờng. Thi sĩ không phải
là ngời. Nó là ngời Mơ, ngời Say, ngời Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỉ, là
Tinh, là Yêu. Nó thoát Hiện tại. Nó xối trộn Dĩ vãng. Nó ôm trùm Tơng lai.
Ngời ta không hiểu đợc nó vì nó nói những cái vô nghĩa, tuy rằng những cái
vô nghĩa hợp lý" [47, tr.7]. Các nhà thơ Loạn xem thi nhân là những chủ thể
cực đoan, mạnh mẽ, dị thờng. Những trạng thái "điên loạn" lặp đi lặp lại trong
thơ họ chính là sự kết tinh kỳ diệu của tâm hồn, tạo thành nguồn thi hứng
mạnh mẽ, để từ đó, chín muồi những vần thơ nh sự chớp loé của thiên tài. Nhờ
vậy, mà ngời điên sẽ nói những điều khác thờng, sẽ phát tiết hết tinh lực của
"hồn và máu" và "làm thơ tức là nhấn một cung đàn, bấm một đờng tơ, rung
rinh một làn ánh sáng" [45, tr.151]. Với Bích Khê thì không những thế mà ông
còn muốn đi xa hơn để chở những điên loạn ấy bằng ngôn từ thần linh, quái

lạ: "Đờng kiến trúc nhịp nhàng theo điệu mới/ Của lời thơ lóng đẹp. Hạt châu
trong", để ngôn từ mãi mãi đợc duy tân trở thành siêu ngôn ngữ, siêu văn bản.
Toàn bộ những quan niệm trên chính là hội tụ sự tân kỳ, hiện đại mà tính tợng
trng, siêu thực, thần linh, âm nhạc, tôn giáo có cơ hội để tích hợp với nhau làm
nên cái nền đa dạng, phong phú, tiếp nối một đoạn khá dài và ngoạn mục mà
chủ nghĩa lãng mạn trớc đấy cha có đợc.
1.3.2. Sự nghiệp Bích Khê
1.3.2.1. Tiến trình sáng tác của Bích Khê
Số mệnh chỉ cho Bích Khê sống một đời ngời ngắn ngủi, vẻn vẹn có ba
mơi năm (1916 - 1946), nhng đời thơ của Bích Khê còn ngắn ngủi hơn. Kể từ
khi ông có tác phẩm xuất hiện trên báo chí cho đến khi ông lìa cõi đời, thời
gian tính ra chỉ khoảng hơn 10 năm. Hơn mời năm sáng tác ấy của Bích Khê


25

có thể tạm chia làm ba giai đoạn.
a. Từ 1932 đến 1935
Cũng nh Hàn Mặc Tử, Bích Khê bớc vào làng thơ bắt đầu bằng "thơ
cũ". Từ những năm 1932 -1935, nhiều bài thơ đợc sáng tác theo lối Đờng luật,
từ khúc và hát nói của ông đều đặn xuất hiện trên mặt báo dới các bút danh
nh Lê Mộng Thu, Bích Khê. Một số bài thơ của ông đạt đến trình độ già dặn
về bút pháp, đợc nhiều bậc túc nho tán thởng. Hấp thụ truyền thống gia đình,
đồng thời chịu ảnh hởng của cụ Phan Bội Châu, "thơ cũ" của Bích Khê nằm
trong xu hớng văn chơng "u thời mẫn thế" hồi mấy thập kỷ đầu thế kỷ XX.
Ông thổ lộ nỗi đau xót của mình trớc cảnh đổi thay của đất nớc, trớc cuộc
sống cơ cực của ngời dân, đồng thời nói lên những bất bình của mình đối với
những bất công trong xã hội. Ông phê phán những hạng ngời chỉ biết tranh thủ
"đục nớc béo cò" sao cho vinh thân phì gia, hoặc chỉ biết đua đòi ăn chơi truỵ
lạc, không nghĩ gì đến dân, đến nớc. Ông luôn nhắc đến giống nòi, ca ngợi

những anh hùng dân tộc nh Lê Thái Tổ, Lý Thờng Kiệt, Nguyễn Huệ... Có thể
nói, "thơ cũ" của Bích Khê thể hiện một tấm lòng yêu nớc thơng dân khá cảm
động.
b. Từ 1936 đến 1939
Từ những năm 1936, Bích Khê chuyển hẳn sang sáng tác thơ mới.
Trong xu thế đổi mới tất yếu của thi ca Việt Nam đơng thời, điều ấy không có
gì là lạ. Có lạ chăng là một khi đã chuyển hớng, Bích Khê muốn vợt lên đi đến
một cuộc "duy tân" thật mạnh mẽ, sâu sắc và táo bạo đối với thi ca. Để làm
việc này, Bích Khê đã tìm đến các trờng phái thi ca hiện đại của Phơng Tây
nh: chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tợng trng, chủ nghĩa siêu thực. Đặc biệt,
ông chịu ảnh hởng quan điểm mĩ học của Baudelaire mà ông tôn làm "Vua thi
sĩ". Đơng nhiên, ông không phải là ngời độc nhất trong số các nhà thơ đơng
thời đã tiếp nhận ảnh hởng của phơng Tây, nhng hơn ai hết, ông là ngời muốn
đi đến tận cùng lý thuyết của các trờng phái ấy.


×