TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN – CHÍNH TRỊ
BỘ MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
TIỂU LUẬN
Khoa: Lý luận – Chính trị
GVHD: ThS. Lê Văn Hùng
Khóa học: 2011 - 2014
Lớp: DHTP 4 TLT,
Nhóm: 1
Tp. HCM, tháng 03 năm 2011
1
LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian thực hiện bài tiểu luận với chủ đề “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục”
đã giúp em hiểu sâu hơn về tư tưởng của Bác trong sự nghiệp giáo dục con người, về thực
trạng hiện tại của nền giáo dục Việt Nam; đồng thời giúp nâng cao các kỹ năng cần thiết
khi làm bài tiểu luận và thuyết trình. Để có được những điều đó là nhờ sự giúp đỡ của mọi
người.
Chúng em xin chân thành cám ơn:
Trường ĐH Công Nghiệp HCM đã tạo điều kiện cho khối Trung cấp đã tốt nghiệp
được tiếp tục học liên thông lên Đại học tại đây
Khoa Lý luận – Chính trị đã cung cấp tài liệu học tập môn “Tư tưởng Hồ Chí Minh”
đến chúng em để dùng làm cơ sở thực hiện bài tiểu luận này
Thầy: Lê Văn Hùng đã tận tình hướng dẫn cho cả lớp nói chung và nhóm 03 nói
riêng để có thể hoàn thành trọn vẹn bài tiểu luận này
Gia đình, bạn bè đã động viên và giúp đỡ.
Tp. HCM,tháng 03 năm 2011
Nhóm: 1
2
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN................................................................................................................. 2.
MỤC LỤC....................................................................................................................... 3.
PHẦN A. MỞ ĐẦU........................................................................................................ 4.
1. Đặt vấn đề................................................................................................................... 4.
2. Mục đích yêu cầu........................................................................................................ 4.
3. Đối tượng nghiên cứu................................................................................................. 4.
4. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................... 5.
5. Phạm vi nghiên vứu.................................................................................................... 5.
6. Kết quả nghiên cứu.................................................................................................... 5.
PHẦN B. NỘI DUNG..................................................................................................... 6.
1. Cơ sở lý luận............................................................................................................... 6.
1.1.Khái niệm giáo dục................................................................................................... 6.
1.2. Vai trò giáo dục....................................................................................................... 6.
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục....................................................................... 7.
2. Thực Trạng............................................................................................................... 11.
2.1. Giáo dục Việt Nam thời phong kiến..................................................................... 12.
2.2. Giáo dục Việt Nam trước năm 1969..................................................................... 12.
2.3. Nền Giáo dục của nước ta sau năm 1969............................................................. 16.
PHẦN C. NHẬN XÉT, KIẾN NGHỊ.......................................................................... 20.
1. Khủng hoảng giáo dục Việt Nam – giai đoạn đầy thách thức............................... 20.
1.1. Nhìn lại một chặng đường giáo dục..................................................................... 20.
1.2. Đi tim nguyên nhân............................................................................................... 20.
2. Thái độ của người học.............................................................................................. 28.
3. Kiến nghị về phát triển GD DH và đào tạo kỹ năng.............................................. 30.
3.1. Hệ thống đảm bảo chất lượng và thông tin giáo dục.......................................... 30.
3.2. Khung pháp lý và chính sách................................................................................ 31.
3.3. Khả năng phù hợp và thích ứng với nhu cầu thị trướng lao động..................... 32.
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................... 35.
NHẬN XÉT................................................................................................................... 34.
Khoa: Lý Luận – Chính Trị,
GVHD: Ths: Lê Văn Hùng
PHẦN A.
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề:
Mạnh Tử nói: “Nhân chi sơ tính bổn thiện, tính tương cận tập tương viễn”, nghĩa là
con người sinh ra ban đầu vốn dĩ lương thiện, tính tình khá đồng nhất, nhưng do môi
trường và sự tiếp cận học hỏi khác nhau mà tính tình đâm ra khác biệt nhau. Do đó, môi
trường và sự giáo dục sẽ làm con người thay đổi, nghĩa là giáo dục đóng vai trò quyết định
cho bản tính của con người trong tương lai.
Hơn thế nữa, đang là sinh viên trên ghế giảng đường và sẽ là những bậc cha (mẹ)
trong tương lai; chúng em nhận thấy vai trò của giáo dục và được giáo dục trong chúng em
rất quan trọng. Vì thế, nhóm chúng em quyết định chọn mảng giáo dục, kết hợp với tư
tưởng của Hồ Chí Minh và thực trạng của nền giáo dục Việt Nam để thực hiện nghiên cứu
một đề tài hoàn chỉnh, đó là: “Sự nghiệp giáo dục của Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí
Minh”
2. Mục đích, yêu cầu:
Mục đích:
- Để tìm hiểu tư tưởng của Bác về giáo dục
- Để tìm hiểu về những mặt ưu và khuyết điểm của nền giáo dục nước ta. Từ đó, đề ra
những kiến nghị, biện pháp cho nền giáo dục Việt Nam nói chung và cho bản thân nói
riêng
Yêu cầu:
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào sự “học” của cá nhân; từ đó góp phần cải thiện
sự nghiệp giáo dục của nước nhà
3. Đối tượng nghiên cứu:
- Tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục
- Thực trạng giáo dục Việt Nam xưa và nay
LỚP DHTP 4 TLT,
Nhóm: 1
4
Khoa: Lý Luận – Chính Trị,
GVHD: Ths: Lê Văn Hùng
- Các chủ thể trong giáo dục (Học sinh, giáo viên, cấp lãnh đạo, gia đình….)
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp logic
- Phương pháp lịch sử
- Phương pháp duy vật biện chứng
-…
5. Phạm vi nghiên cứu:
- Bài tiểu luận được nghiên cứu và thực hiện trong khoảng 3 tuần, được thực hiện tại
trường ĐH Công Nghiệp HCM
- Thông tin trong bài tiểu luận được sưu tầm từ nhiều nguồn.
6. Kết quả nghiên cứu:
- Làm sáng tỏ được nội dung tư tưởng của Bác về sự nghiệp giáo dục của Việt Nam
- Tìm hiều sâu hơn về thực trạng giáo dục của nước ta trước và sau 1969
- Đánh giá được những thành tựu của giáo dục trong nhiều năm nay
- Nêu lên được những mặt ưu và khuyết điểm của nền giáo dục Việt Nam
- Đề ra được những biện pháp cho nền giáo dục nước ta và vận dụng cho bản thân.
LỚP DHTP 4 TLT,
Nhóm: 1
5
Khoa: Lý Luận – Chính Trị,
GVHD: Ths Lê Văn Hùng
PHẦN B.
NỘI DUNG TIỂU LUẬN
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN.
1.1. Khái niệm giáo dục:
Giáo dục là quá trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi gợi hoặc biến
đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của người dạy và người học theo hướng tích cực.
Nghĩa là góp phần hoàn thiện nhân cách người học bằng những tác động có ý thức từ bên
ngoài, góp phần đáp ứng các nhu cầu tồn tại và phát triển của con người trong xã hội
đương đại.
1.2. Vai trò của giáo dục:
Giáo dục bao gồm việc dạy và học, và đôi khi nó cũng mang ý nghĩa như là quá trình
truyền thụ, phổ biến tri thức, truyền thụ sự suy luận đúng đắn, truyền thụ sự hiểu biết. Giáo
dục là nền tảng cho việc truyền thụ, phổ biến văn hóa từ thế hệ này đến thế hệ khác. Giáo
dục là phương tiện để đánh thức và nhận ra khả năng, năng lực tiềm ẩn của chính mỗi cá
nhân, đánh thức trí tuệ của mỗi người. Nó ứng dụng phương pháp giáo dục, một phương
pháp nghiên cứu mối quan hệ giữa dạy và học để đưa đến những rèn luyện về tinh thần, và
làm chủ được các mặt như: ngôn ngữ,
tâm lý, tình cảm, tâm thần, cách ứng sử
trong xã hội.
- Dạy học là một hình thức giáo
dục đặc biệt quan trọng và cần thiết
cho sự phát triển trí tuệ, hoàn thiện
nhân cách học sinh.
- Quá trình dạy học nói riêng và
quá trình giáo dục nói chung luôn gồm
các thành tố có liên hệ mang tính hệ thống với nhau: mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục,
phương pháp giáo dục, phương tiện giáo dục, hình thức tổ chức và chỉ tiêu đánh giá.
LỚP DHTP 4 TLT,
Nhóm: 1
6
Khoa: Lý Luận – Chính Trị,
GVHD: Ths Lê Văn Hùng
Sự giáo dục của mỗi cá người bắt đầu từ khi sinh ra và tiếp tục trong suốt cuộc đời.
(Một vài người tin rằng, sự giáo dục thậm chí còn bắt đầu trước khi sinh ra, theo đó một số
cha mẹ mở nhạc, hoặc đọc cho những đứa trẻ trong bụng mẹ với hy vọng nó sẽ ảnh hưởng
đến sự phát triển của đứa trẻ sau này). Với một số người quá trình đấu tranh giành giật sự
sống, giành giật sự thắng lợi trong cuộc sống cung cấp kiến thức nhiều hơn cả sự truyền
thụ kiến thức ở các trường học. Các cá nhân trong gia đình có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả
giáo dục, thường có ảnh hưởng nhiều hơn, mặc dù việc dạy dỗ trong gia đình có thể không
mang tính chính thức, chỉ có chức năng giáo dục rất thông thường.
1.3. Tư Tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục:
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà hoạt động
chính trị lỗi lạc, lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt
Nam, đồng thời là nhà giáo, nhà văn hoá lớn của
thế giới, Người sáng lập, đặt nền móng và chỉ đạo
việc xây dựng nền giáo dục mới Việt Nam. Chỉ
riêng về giáo dục, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đã
là một kho tàng, ở tầm chiến lược và ngày càng ngời sáng qua thực tiễn.
1.3.1. Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng:
Nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, trước hết, phải nói đến tư tưởng giải
phóng con người thoát khỏi tăm tối, lạc hậu, đưa dân tộc ta trở thành một dân tộc văn
minh, tiến bộ. Đây vừa là mục tiêu, vừa là khát vọng "tột bậc" của Người. Trong mỗi giai
đoạn cách mạng, dù ở trong hoàn cảnh nào, Người cũng là chiến sĩ tiên phong đi vào
phong trào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu
tranh giành tự do độc lập ; giải phóng họ thoát khỏi ách áp bức bóc lột của thực dân phong
kiến, thoát khỏi sự ràng buộc của hệ tư tưởng lạc hậu, tạo mọi điều kiện cho mỗi dân tộc và
mỗi người dân đứng lên làm chủ nền văn hoá, làm chủ vận mệnh và tương lai của mình.
Không những thế, giáo dục còn góp phần đắc lực vào công cuộc bảo vệ và xây dựng
đất nước. Người kêu gọi:
"Quốc dân Việt Nam!
Muốn giữ vững nền độc lập,
LỚP DHTP 4 TLT,
Nhóm: 1
7
Khoa: Lý Luận – Chính Trị,
GVHD: Ths Lê Văn Hùng
Muốn làm cho dân mạnh nước giàu,
Mọi người Việt Nam... phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây
dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ".
1.3.2. Giáo dục – Chiến lược con người:
Người nhấn mạnh : "Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội, trước hết cần có những con
người xã hội chủ nghĩa" và "vì lợi ích mười
năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì
phải trồng người".
Mục tiêu của nền giáo dục mới, theo Chủ
Hồ Chí Minh là đào tạo “những công dân tốt
tịch
và
cán bộ tốt, những người chủ tương lai tốt của nước nhà”. Muốn cho dân giàu, nước mạnh
thì dân trí phải cao, phải đa dạng hóa các loại hình đào tạo, mở trường vừa học, vừa làm để
tạo điều kiện cho người lao động, cán bộ, chiến sĩ được đi học. Khi dân trí cao sẽ xuất hiện
nhiều nhân tài tham gia xây dựng đất nước. Người chỉ cho chúng ta con đường đưa đất
nước phồn vinh đó là con đường phát triển giáo dục, đào tạo nhân tài. Nét đặc sắc trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nền giáo dục, đào tạo nhân tài chính là Người đặt ra mục
tiêu giáo dục toàn diện. Người yêu cầu: “Phải chú trọng đủ các mặt, đạo đức cách mạng,
giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất”. Theo Hồ Chủ tịch, nội
dung giáo dục phải toàn diện, phải nhằm mục tiêu đào tạo con người lao động mới, phải
coi trọng cả tài và đức. Không những phải giàu về tri thức mà còn phải có đạo đức cách
mạng. “Trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt” mà “phấn đấu nâng cao
chất lượng văn hóa và chuyên môn nhằm thiết thực giải quyết các vấn đề do cách mạng
nước ta đề ra, trong thời gian không xa, đạt những đỉnh cao của khoa học kỹ thuật”.
Vì thế, giáo dục có tầm quan trọng hàng đầu trong chiến lược con người, bởi giáo dục
đào tạo nên chất người, nên nhân tài.
1.3.3. Mục đích của giáo dục:
“ Học để biết phải trái, học để hành, để làm người, để phụng sự nhân dân”
LỚP DHTP 4 TLT,
Nhóm: 1
8
Khoa: Lý Luận – Chính Trị,
GVHD: Ths Lê Văn Hùng
Học tập là hoạt động đòi hỏi phải nhận thức rõ ràng tính mục đích. Hồ Chí Minh ý
thức rất rõ điều này nên luôn chú trọng giải thích tại sao phải học, học để làm gì cho mỗi
tầng lớp nhân dân thông suốt mà hăng hái đi học.
Với học sinh - những người chủ tương lai của nước nhà, Người khuyên phải học để
sau này làm tròn nhiệm vụ người chủ của nước nhà, học để yêu tổ quốc, yêu nhân dân, yêu
lao động, yêu khoa học, yêu đạo đức và triệt để chống lại những gì trái với quyền lợi của tổ
quốc và lợi ích chung của nhân dân, trái với khoa học, trái với đạo đức; học để phụng sự tổ
quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu nước mạnh. Người lý giải thanh niên phải học
để biết phải trái, làm việc phải, tránh việc trái, nhận rõ bạn thù ở ngoài và ở trong mình ta.
Với công dân Việt Nam, Người chỉ rõ quy luật nghiệt ngã "dốt thì dại, dại thì hèn" và
giải thích "vì không chịu dại, không chịu hèn nên thanh toán mù chữ là một trong những
việc cấp bách và quan trọng" để từ đó mà nhắc nhở công dân nước Việt Nam độc lập ai
cũng phải học để hiểu biết quyền lợi và bổn phận công dân của mình, "phải có kiến thức
mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết
viết chữ quốc ngữ".
Với công nhân, Người phân tích "máy móc ngày một thêm tinh xảo...công nhân cũng
phải có trình độ kỹ thuật rất cao không kém gì kỹ sư, phải biết tính toán nhiều". Với nông
dân sau cải cách ruộng đất, Người chỉ rõ: "Trước kia ruộng là của địa chủ, nông dân cứ cúi
đầu làm lụng, gặt bao nhiêu thì nộp cho địa chủ hết, nên không cần văn hoá mà cũng không
thể mong có văn hoá được. Bây giờ khác, nông dân có ruộng đất, lại có tổ đổi công cho
nên nông dân phải có văn hoá, phải ghi tổ có mấy người, phải biết chia công chấm điểm".
Từ đó Người dẫn đến kết luận đầy sức thuyết phục là phải học.
Đối với cán bộ, Người chỉ rõ học là "để làm việc, làm người, làm cán bộ, để phụng sự
đoàn thể, giai cấp, nhân dân, tổ quốc và nhân loại" và học để hành. Người cảnh báo trước
cho cán bộ thấy là "không học thì không theo kịp, công việc nó sẽ gạt mình lại phía sau".
1.3.4. Phương pháp giáo dục:
“ Ham học, học suốt đời, học ở mọi nơi, lấy tự học làm cốt “
Hồ Chí Minh ý thức rất rõ là sự học là vô biên, vô cùng vì "thế giới tiến bộ không
ngừng, ai không học là lùi". Nói chuyện tại Hội nghị chuyên đề sinh viên quốc tế tại Việt
LỚP DHTP 4 TLT,
Nhóm: 1
9
Khoa: Lý Luận – Chính Trị,
GVHD: Ths Lê Văn Hùng
Nam tháng 9/1961, Người thẳng thắn nhận định là thế hệ người già ở Việt Nam ít được học
do bị thực dân kìm hãm và bản thân Người cũng chỉ học hết tiểu học. Để có đủ hiểu biết
mà tìm đường cứu nước, Người đã ra sức học tập, chủ yếu là tự học, "học ở trường, học ở
sách vở, học lẫn nhau và học ở nhân dân". Thời còn trẻ, do hoàn cảnh phải đi làm thuê cực
nhọc để kiếm miếng ăn, có tiền mà hoạt động cách mạng bí mật, Người đã không được đến
trường để học nhưng vẫn tranh thủ học mọi nơi, mọi lúc, "học trong đời sống của mình,..
học ở giai cấp công nhân". Người kể với thanh niên trong buổi gặp gỡ tại Phủ Chủ tịch về
cách học tiếng nước ngoài của mình lúc phải đi ra nước ngoài để sống bằng nghề bồi tàu,
làm phu quét tuyết, phụ bếp. Hồi đó cậu thanh niên Ba phải làm việc từ sáng đến tối, làm
gì có thời gian cầm tờ báo mà xem. Chỉ có mỗi một cách là viết mấy chữ lên mảnh da tay
để vừa cọ sàn tàu, đánh nồi, rửa bát, thái thịt, băm rau vừa nhìn vào da bàn tay mà học. Hết
ngày thì mồ hôi đầm đìa, chữ cũng mờ đi thì coi như đã thuộc, sáng hôm sau lại ghi chữ
mới.
Sau này, khi đã lớn tuổi, thành người đứng đầu một nhà nước độc lập, dù thời bình
hay thời chiến, Người vẫn tích cực học, học trong thực tế, học suốt đời. Nói chuyện với
đảng viên, Bác phê phán đảng viên mới 40 tuổi mà đã cho là mình già nên ít chịu học tập
và nói rõ là mình 76 tuổi nhưng vẫn cố gắng học thêm rồi kêu gọi "chúng ta phải học và
hoạt động cách mạng suốt đời. Còn sống thì còn phải học". Người nói với cán bộ đã kết
thúc một khoá huấn luyện là "anh em sẽ còn phải học nữa, học mãi khi ra làm việc". Người
còn nhắc nhở cán bộ cơ quan "mỗi ngày ít nhất phải học tập một tiếng đồng hồ" và xem
việc cán bộ đảng viên vì bận việc hành chính hoặc quân sự mà xao nhãng chuyện học tập
là "một khuyết điểm rất to". Người còn dặn phải "biết ham học". Rõ ràng là từ mức giác
ngộ về nghĩa vụ - biết tại sao cần phải học - tiến đến mức "ham học" là đạt đến mức giác
ngộ cao, là một sự thay đổi về chất bởi khi ta ham học thì tự việc học đã đem lại sự thoả
mãn, thích thú trong người, ta sẽ tìm đến việc học một cách tự giác, hăm hở và khi đó việc
học chắc chắn sẽ có hiệu quả cao.
Người nhắc nhở "học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời", những điều được học,
được nghiên cứu tại trường chỉ có thể ví như một "hạt nhân bé nhỏ" mà người học "sẽ tiếp
tục săn sóc, vun xới, làm cho mọc thành cây và dần dần nở hoa, kết quả".
LỚP DHTP 4 TLT,
Nhóm: 1
10
Khoa: Lý Luận – Chính Trị,
GVHD: Ths Lê Văn Hùng
Người khẳng định là trong cách học thì "lấy tự học làm cốt". Có thể thấy Hồ Chí
Minh đã rất coi trọng trách nhiệm tự học của chính người học, tự học thêm để làm chủ
được tri thức, để biến hạt hiểu biết cơ bản được gieo xuống ban đầu trong đầu óc mình nảy
nở thành cây tri thức vững chãi. Người còn quan niệm việc mở mang giáo dục không chỉ là
lập trường cho người lớn và trẻ em, lập ấu trĩ viên cho trẻ con mà còn phải "lập các nhà
chiếu bóng, diễn kịch, câu lạc bộ, thư viện để nâng cao trình độ trí dục cho nhân dân". Với
tầm nhìn xa của mình, Hồ Chí Minh đã thấy rõ vai trò không thể thiếu được của các thiết
chế văn hoá trong sự nghiệp mở mang trí óc cho nhân dân.
“ Học những điều cơ bản, thiết thực “
Điều mà Người hay nhắc nhở là học cái cơ bản, học điều thiết thực gắn với trình độ,
với hoàn cảnh, với nhu cầu của cá nhân và cộng đồng, học gắn với hành, với xây dựng nếp
sống văn hoá. Với đồng bào mù chữ thì Hồ Chí Minh thiết tha kêu gọi đi học cho biết chữ,
biết đọc, biết viết, với đồng bào đã thoát nạn mù chữ thì Người động viên đây là thắng lợi
vẻ vang nhưng khuyên tiếp tục học thêm vì thanh toán nạn mù chữ mới chỉ là "bước đầu
nâng cao trình độ văn hoá". Nhà nước phải có một chương trình để nâng cao thêm trình độ
văn hoá phổ thông cho đồng bào, "tiến lên bước nữa bằng cách dạy cho đồng bào thường
thức vệ sinh để dân bớt ốm đau, thường thức khoa học để dân bớt mê tín nhảm, bốn phép
tính để làm ăn ngăn nắp, lịch sử và địa dư (vắn tắt bằng thơ hoặc ca) để nâng cao lòng yêu
nước, đạo đức công dân để thành người công dân đứng đắn".
Năm 1955, Người xác định nội dung học của học sinh tiểu học là học yêu tổ quốc,
yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công; học sinh trung học thì học
những tri thức phổ thông "chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng
nước nhà", bỏ những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế; với sinh viên thì "kết
hợp lý luận với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn kết
hợp với thực tiễn nước nhà...".
Với người lớn thì Người khuyên hãy tuỳ từng trình độ và việc làm của mình mà học.
Người chỉ rõ cán bộ công đoàn phải học khoa học còn người quản lý xí nghiệp thì học
quản lý xí nghiệp; cán bộ văn hoá thì học nghệ thuật, nghiệp vụ, văn hoá.
2. THỰC TRẠNG.
LỚP DHTP 4 TLT,
Nhóm: 1
11
Khoa: Lý Luận – Chính Trị,
GVHD: Ths Lê Văn Hùng
2.1. Giáo dục Việt Nam thời phong kiến:
Đề cập tới nền giáo dục Việt Nam thời phong kiến tức là nói về xã hội từ thời Hùng
Vương cho tới giữa sau thế kỷ thứ 19. Hơn 1000 năm dưới ách đô hộ của Trung Quốc, có
thể nói mô hình giáo dục của xã hội Việt Nam thời bấy giờ rập khuôn Trung Quốc. Hay
nói một cách khác, Nho
giáo là trung tâm của chế
độ thi cử thời phong kiến.
Vì Việt Nam chưa có chữ
viết nên chữ Nho là gốc.
Nho giáo thời Nhà Lý
(1009-1225) là thời kỳ
hưng thịnh nhất và cũng
là thời kỳ nền giáo dục
Việt Nam theo mô hình
Trung Quốc được thiết
lập và phát triển đáng kể. Điểm đặc biệt là vua Lý Thánh Tông đã thành lập Văn Miếu tại
thủ đô Thăng Long (Hà Nội) vào năm 1070. Khoa thi đầu tiên được tổ chức vào năm 1075.
Sang đến thời vua Lý Nhân Tông, “Quốc Tử Giám” được thành lập để con vua và con các
đại thần học. Đây là trường Đại học đầu tiên của Việt Nam với hơn 4000 năm văn hiến. Hệ
thống giáo dục thời đó gồm trường tư thục, còn gọi là trường làng dành cho đại chúng do
các cụ đồ nho mở lớp dạy học. Cấp cao hơn nữa thì có trường quan học dành cho con cái
của các quan huyện và phủ. Cấp cao nhất là trường Quốc Tử Giám dành cho con cái triều
đình. Giai cấp xã hội thời phong kiến được phản ảnh khá rõ rệt qua cách xưng hô đối với
học trò.
2.2. Nền giáo dục của nước ta trước 1969:
2.2.1. Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng:
Hồ Chí Minh xác định thực dân Pháp đã dùng nạn dốt như một phương pháp độc ác
để cai trị Việt Nam khiến cho hơn 90% đồng bào bị mù chữ. Vì vậy ngay sau khi nhà nước
Việt Nam Dân chủ Công hoà non trẻ ra đời, Người đã kêu gọi mở một chiến dịch để chống
LỚP DHTP 4 TLT,
Nhóm: 1
12
Khoa: Lý Luận – Chính Trị,
GVHD: Ths Lê Văn Hùng
nạn mù chữ, chống nạn thất học. Để đạt được mục tiêu "đồng bào ai cũng có học" thì ai
cũng phải đi học, dù là đàn ông đàn bà, người già người trẻ, thanh niên, thiếu nhi, nhi
đồng; dù là người tá điền, người làm công cho gia đình, công nhân trong hầm mỏ, nhà
máy, là cán bộ, đảng viên, quân nhân, hội viên các đoàn thể, giáo viên, người làm công tác
huấn luyện. Người kêu
gọi mỗi người biết chữ
đều phải tham gia dạy
cho người mù chữ
."Vợ chưa biết thì
chồng bảo, em chưa biết
thì anh bảo, cha mẹ
không biết thì con bảo,
người
ăn
người
làm
không biết thì chủ nhà
bảo, các người giàu có thì mở lớp ở tư gia dạy cho người không biết chữ ở hàng xóm láng
giềng, các chủ ấp, chủ tá điền, chủ hầm mỏ, nhà máy thì mở lớp học cho những tá điền,
những người làm của mình".
* Công cuộc diệt “giặc dốt” của Đảng và toàn dân sau 1945:
Đảng ta chủ trương xây dựng xã hội học tập là nhằm mục tiêu cách mạng: nâng cao
dân trí, làm cho Việt Nam trở thành một dân tộc thông thái; điều này luôn đóng vai trò
quan trọng trong tiến trình phát triển lịch sử dân tộc; ở những thời điểm đặc biệt nó còn
có ý nghĩa như một điểm tựa cho sự tồn vong của thể chế chính trị.
Muốn nâng cao dân trí thì trước hết Đảng và Nhà nước cần phải biết khơi dậy trong
nhân dân tinh thần ham học mang tính mục tiêu cách mạng: học vì mình, học vì đất nước.
2.2.2. Mục tiêu của giáo dục:
+ Giáo dục Việt Nam là giáo dục nhân bản. Triết lý nhân bản chủ trương con người
có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của con
người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người như một cứu cánh chứ không phải
như một phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay
LỚP DHTP 4 TLT,
Nhóm: 1
13
Khoa: Lý Luận – Chính Trị,
GVHD: Ths Lê Văn Hùng
tổ chức nào khác. Triết lý nhân bản chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng
không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá con người, và không chấp nhận
sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc... Với triết lý nhân bản,
mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo
dục.
+ Giáo dục Việt Nam là giáo dục dân tộc: Giáo dục tôn trọng giá trị truyền thống
của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đình, nghề nghiệp, và quốc gia. Giáo dục
phải bảo tồn và phát huy được những tinh hoa hay những truyền thống tốt đẹp của văn hóa
dân tộc. Dân tộc tính trong văn hóa cần phải được các thế hệ biết đến, bảo tồn và phát huy,
để không bị mất đi hay tan biến trong những nền văn hóa khác.
+ Giáo dục Việt Nam là giáo dục khai phóng: Tinh thần dân tộc không nhất thiết
phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, giáo dục phải mở rộng, tiếp nhận
những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát
triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội,
làm cho xã hội tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới.
Từ những nguyên tắc căn bản ở trên, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đề ra những
mục tiêu chính sau đây cho nền giáo dục của mình. Những mục tiêu này được đề ra là để
nhằm trả lời cho câu hỏi: Sau khi nhận được sự giáo dục, những người đi học sẽ trở nên
người như thế nào đối với cá nhân mình, đối với gia đình, quốc gia, xã hội, và nhân loại?
+ Phát triển toàn diện mỗi cá nhân. Trong tinh thần tôn trọng nhân cách và giá trị
của cá nhân học sinh, giáo dục hướng vào việc phát triển toàn diện mỗi cá nhân theo bản
tính tự nhiên của mỗi người và theo những quy luật phát triển tự nhiên cả về thể chất lẫn
tâm lý. Nhân cách và khả năng riêng của học sinh được lưu ý đúng mức. Cung cấp cho học
sinh đầy đủ thông tin và dữ kiện để học sinh phán đoán, lựa chọn; không che giấu thông tin
hay chỉ cung cấp những thông tin chọn lọc thiếu trung thực để nhồi sọ học sinh theo một
chủ trương, hướng đi định sẵn nào.
+ Phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh. Điều này thực hiện bằng cách: giúp
học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi trường sống, và lối sống của người dân; giúp học
sinh hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca ngợi tinh thần đoàn kết, tranh
LỚP DHTP 4 TLT,
Nhóm: 1
14
Khoa: Lý Luận – Chính Trị,
GVHD: Ths Lê Văn Hùng
đấu của người dân trong việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp học sinh học tiếng
Việt và sử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả; giúp học sinh nhận biết nét đẹp của quê
hương xứ sở, những tài nguyên phong phú của quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống
của dân tộc; giúp học sinh bảo tồn những truyền thống tốt đẹp, những phong tục giá trị của
quốc gia; giúp học sinh có tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập.
+ Phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học. Điều này thực hiện bằng
cách: giúp học sinh tổ chức những nhóm làm việc độc lập qua đó phát triển tinh thần cộng
đồng và ý thức tập thể; giúp học sinh phát triển óc phán đoán với tinh thần trách nhiệm và
kỷ luật; giúp phát triển tính tò mò và tinh thần khoa học; giúp học sinh có khả năng tiếp
nhận những giá trị văn hóa của nhân loại.
2.2.3. Vai trò của nhà giáo:
+ Đào tạo giáo chức:
Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn thuộc Viện Đại học Sài Gòn (thành lập vào năm
1957) là cơ sở sư phạm đầu tiên, bắt đầu khai giảng năm 1958. Theo sau là các trường cao
đẳng sư phạm ở Ban Mê Thuột, Huế, Vĩnh Long, Long An, và Quy Nhơn. Ngoài ra còn có
Trường Đại học Sư phạm Huế thuộc Viện Đại học Huế và Trường Đại học Sư phạm Đà
Lạt thuộc Viện Đại học Đà Lạt. Vào thời điểm năm 1974, cả nước có 16 cơ sở đào tạo giáo
viên tiểu học với chương trình hai năm còn gọi là chương trình sư phạm cấp tốc. Chương
trình này nhận những ai đã đậu được bằng Trung học Đệ nhất cấp. Hằng năm chương trình
này đào tạo khoảng 2.000 giáo viên tiểu học. Giáo viên trung học thì phải theo học chương
trình của trường sư phạm (2 hoặc 4 năm). Sinh viên các trường sư phạm được cấp học
bổng nếu ký hợp đồng 10 năm làm việc cho nhà nước ở các trường công lập sau khi tốt
nghiệp.
Nha Sư phạm (thuộc Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên) và các trường sư phạm
thường xuyên tổ chức các chương trình tu nghiệp và các buổi hội thảo giáo dục để giáo
chức có dịp học hỏi và phát triển nghề nghiệp. Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên cũng
gởi gởi nhiều giáo chức đi tu nghiệp ở các nước như Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Nhật, Đức, v.v...
+ Đời sống và tinh thần giáo chức:
LỚP DHTP 4 TLT,
Nhóm: 1
15
Khoa: Lý Luận – Chính Trị,
GVHD: Ths Lê Văn Hùng
Chỉ số lương của giáo viên tiểu học mới ra trường là 250, giáo học bổ túc hạng 5 là
320, giáo sư trung học đệ nhất cấp hạng 4 là 400, giáo sư trung học đệ nhị cấp hạng 5 là
430, hạng 4 là 470. Với mức lương căn bản như vậy, cộng thêm phụ cấp sư phạm, nhà giáo
ở các thành phố thời Đệ nhất Cộng hòa có cuộc sống khá thoải mái, có thể mướn được
người giúp việc trong nhà. Sang thời Đệ nhị Cộng hòa, đời sống bắt đầu đắt đỏ, vật giá leo
thang, nhà giáo cảm thấy chật vật hơn, nhất là ở những thành phố lớn như Sài Gòn và Đà
Nẵng. Tuy vậy, lúc nào các nhà giáo cũng giữ vững tinh thần và tư cách của nhà mô phạm
(người mẫu mực, người đóng vai trò hình mẫu), từ cách ăn mặc thật đứng đắn đến cách ăn
nói, giao tiếp với phụ huynh và học sinh, và với cả giới chức chính quyền địa phương.
2.3. Nền giáo dục của nước ta sau 1969:
2.3.1. Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng:
Năm 1991, Quốc hội khoá VIII, kỳ họp thứ 9 đã thông qua Luật phổ cập giáo dục tiểu
học. Trước đó, Nhà nước đã quyết định phổ cập giáo dục tiểu học và xoa mù chữ là
chương trình mục tiêu quốc gia, đặt mục tiêu đến năm 2000, tất cả các tỉnh, thành trong cả
nước đều đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù chữ.
Hội nghị Trung ương Ðảng lần thứ tư (khoá VII) đã đề ra Nghị quyết về "tiếp tục đổi
mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo". Nghị quyết nêu lên 4 quan điểm chỉ đạophát triển giáo
dục - đào tạo trong đó nhấn mạnh giáo dục và đào
tạo cùng với kho học công nghệ được xem là quốc
sách hàng đầu. Tháng 12- 1996, Hội nghị lần thứ
hai Ban chấp hành Trung ương Ðảng khoá VIII
tiếp tục ra Nghị quyết chuyên đề về giáo dục đào
tạo. Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thông qua luật Giáo dục, tháng 12 1998.
Trong những năm cuối thập kỷ XX, Giáo dục - Ðào tạo Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu lớn. Quy mô giáo dục - đào tạo tăng nhanh. Tính đến tháng 8 ?1999, có hơn
93,7% dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ, 85% tỉnh, thành và 90% quận, huyện đạt chuẩn
LỚP DHTP 4 TLT,
Nhóm: 1
16
Khoa: Lý Luận – Chính Trị,
GVHD: Ths Lê Văn Hùng
quốc gia vè xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Nhiều tỉnh đang tiến tới phổ cập
trung học cơ sở. Giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số đã có những chuyển biến tích cực.
Trên 100 trường dân tộc nội trú đã được xây dựng tạo điều kiện thuận lợi cho con em
các dân tộc theo học. Ðội tuyển học sinh Việt Nam tham dự các kỳ thi Olimpic quốc tế
đem lại niềm tự hoà cho dân tộc Việt Nam. Hơn 25 năm qua, năm nào học sinh Việt Nam
cũng mang về cho đất nước nhiều huy chương và nhiều giải cao trong các kỳ thi Olimpic
về toán, vật lý, hoa học, sinh học, tin học, ngoại ngữ.
Ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục tăng nhanh (Tổng chi ngân sách Nhà nước
cho giáo dục và đào tạo năm học 2008-2009 là 91.986 tỉ đồng). Việc huy động nguồn lực
trong xã hội đầu tư cho giáo dục thông qua chủ trương xã hội hoá đạt hiệu quả khá. Các
nguồn lực đầu tư cho giáo dục ngày càng được kiểm soát và tăng dần hiệu quả sử dụng.
2.3.2. Mục đích của việc học:
Năm 1969 trong di chúc của mình, Người đã căn dặn: "bồi dưỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau là một việc làm rất
quan trọng và cần thiết".
Bởi theo Người, thanh niên
là
lực lượng rất quan trọng của đất
nước là chủ nhân tương lai của
dân tộc. Lúc sinh thời, ngay từ
buổi ban đầu hoạt động cách
mạng, Người đã tập trung cho
công tác này, đã truyền bá tư
tưởng cách mạng dân tộc, chủ nghĩa Mac-Lênin cho thanh niên, tập hợp những người ưu
tú, trẻ tuổi vào tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên để bồi dưỡng và đào tạo thành
những hạt nhân cho phong trào cách mạng.
Ngày nay trong hòa bình thống nhất Tổ quốc, lực lượng thanh thiếu niên nước ta rất
to lớn, chiếm hơn 36% dân số cả nước, trên 55% lao động xã hội, là nguồn nhân lực quan
trọng, giàu tiềm năng, có lòng yêu nước, tự hào dân tộc, năng động, sáng tạo, giàu khát
vọng, ham học hỏi, có tinh thần xung phong tình nguyện, luôn ủng hộ và hăng hái tham gia
LỚP DHTP 4 TLT,
Nhóm: 1
17
Khoa: Lý Luận – Chính Trị,
GVHD: Ths Lê Văn Hùng
công cuoc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, là nguồn lực hùng hậu để phát triển
kinh tế-xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Có được những kết quả ấy là do Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục, bồi dưỡng và rèn luyện. Tuy nhiên, lực lượng này cũng
đứng trước những thử thách hết sức gây gắt, đó là các thế lực luôn tìm cách ru ngủ, lôi kéo
làm phai nhạt ý chí cách mạng, làm ảnh hưởng đến hệ tư tưởng, lối sống, đạo đức tuổi trẻ,
vẫn còn một bộ phận thanh niên thất nghiệp, trình độ tay nghề, học vấn thấp, thiếu ý chí
vươn lên, lười lao động, thích hưởng thụ, coi nhẹ các giá trị truyền thống…
Do vậy hơn lúc nào hết, nhiệm vụ bồi dưỡng giáo dục cho thế hệ trẻ lại có ý nghĩa
cực kỳ quan trọng, mang tính sống còn của dân tộc. Bác Hồ đã từng nói "nước nhà thịnh
hay suy, mạnh hay yếu một phần là do thanh niên", Nghị quyết hội nghị lần thứ 04 BCH
Trung ương Đảng (khoá VII) về công tác thanh niên đã chỉ rõ "sự nghiệp đổi mới có thành
công hay không, đất nước bước vào thế kỷ 21 có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới
hay không, cách mạng có vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn
là tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên". Như vậy, rất rõ ràng bồi dưỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau là một việc làm rất quan trọng và cần thiết.
2.3.3. Phương pháp giáo dục:
Trong thời gian qua giáo dục Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực:
- Hệ thống giáo dục quốc dân được
hoàn thiện hơn với các cấp, bậc học,
trình độ đào tạo, các loại hình và phương
thức giáo dục. Quy mô giáo dục tăng
nhanh, nhất là ở bậc đại học và đào tạo
nghề.
- Công bằng xã hội trong giáo dục
được cải thiện, đặc biệt là tăng cơ hội
tiếp cận giáo dục đối với trẻ em gái,
người dân tộc thiểu số và con em các gia
đình nghèo, các đối tượng bị thiệt thòi
LỚP DHTP 4 TLT,
Nhóm: 1
18
Khoa: Lý Luận – Chính Trị,
GVHD: Ths Lê Văn Hùng
trong xã hội; giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa tiếp tục
phát triển.
- Các loại hình nhà trường ngày càng được đa dạng hóa, thu hút được nhiều người
học; các trường công lập đã giữ được vai trò nòng cốt trong phổ cập giáo dục và đào tạo
nguồn nhân lực, quy mô giáo dục ngoài công lập phát triển.
- Việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ thông, chương trình và giáo trình
ở dạy nghề và đại học đang được tích cực thực hiện, phương pháp dạy học dần từng bước
được cải thiện, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng, đã có những đóng góp quan
trọng cho sự nghiệp giáo dục.
LỚP DHTP 4 TLT,
Nhóm: 1
19
Khoa: Lý Luận – Chính Trị,
PHẦN C.
GVHD: Ths Lê Văn Hùng
NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ
1. KHỦNG HOẢNG GIÁO DỤC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN ĐẦY THÁCH
THỨC.
1.1. Nhìn lại một chặng đường giáo dục:
Mặc dù tín hiệu báo động đỏ đã phát ra từ lâu, và nguyên Thủ Tướng Phan Văn Khải
khi từ nhiệm đã thừa nhận chính thức sự không thành công của giáo dục, đến nay thực
trạng nghiêm trọng của giáo dục VN vẫn chưa được đánh giá đúng mức. Nhiều người có
trách nhiệm vẫn tự ru ngủ mình với những thành tựu to lớn, thực và ảo, của giáo dục.
Đương nhiên, nếu cô lập VN với thế giới thì không đến nỗi quá lo lắng. Song nếu đặt
giáo dục trong bối cảnh toàn cầu hóa, nhìn tình hình một cách khách quan và có trách
nhiệm, thì không thể nhắm mắt trước sự tụt hậu ngày càng xa của giáo dục VN so với các
nước xung quanh, và so với yêu cầu phát triển của xã hội.
Thực tế, đất nước nghìn năm văn hiến này đang trả giá nặng nề cho sự suy thoái trầm
trọng của giáo dục kéo dài suốt ba mươi năm qua.
Giáo dục là một hệ thống phức tạp được đặc trưng bởi mục tiêu, cấu trúc, tổ chức
(bao gồm các phần tử và các hệ thống con), phương thức vận hành và hiệu quả hoạt động.
Nếu mỗi yếu tố ấy đều có quá nhiều trục trặc nghiêm trọng kéo dài hàng thập kỷ mà không
khắc phục được, khiến mọi sự điều chỉnh cục bộ theo cơ chế phản hồi đều không cứu vãn
nổi, thì tình trạng ấy phải được xem là sự khủng hoảng toàn diện.
1.2. Đi tìm nguyên nhân:
Điều gì đã khiến nền giáo dục của một đất nước vốn có truyền thống hiếu học lâu đời
rơi vào suy thoái trầm trọng vào đúng thời điểm mà lẽ ra nó phải là bệ phóng cho kinh tế
cất cánh?
Hoàn toàn không phải do nghèo, vì công sức, tiền của lãng phí, thât thoát hàng năm
vô cùng lớn. Nguyên nhân phải thẳng thắn nhìn nhận là do quản lý, lãnh đạo dưới tầm.
LỚP DHTP 4 TLT,
Nhóm: 1
20
Khoa: Lý Luận – Chính Trị,
GVHD: Ths Lê Văn Hùng
Từ quan niệm, tư duy cơ bản (triết lý giáo dục, theo cách nói gần đây) cho đến thiết
kế hệ thống và quản lý, điều hành, mọi khâu đều có những bất cập, sai lầm nghiêm trọng,
ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ hệ thống.
1.2.1. Quan niệm, tư duy về giáo dục xơ cứng, cũ kỹ:
Cái gốc của phần lớn sai lầm ấy là quan niệm, tư duy xơ cứng về giáo dục, quá cũ kỹ
mà qua hai thập kỷ hầu như không thay đổi. Vẫn cách suy nghĩ thiển cận, vẫn những quan
điểm giáo điều thời bao cấp, được biến tấu ít nhiều để thích nghi với những xu hướng
phiêu lưu du nhập từ bên ngoài phù hợp với từng nhóm lợi ich chi phối các hoạt động giáo
dục.
Mọi người đều biết thời nào, chế độ nào thì một nền giáo dục chân chính cũng có sứ
mạng cao cả giống nhau về giáo dục con người. Đồng thời trên cái nền chung đó mỗi thời,
mỗi xã hội đặt những nhiệm vụ, yêu cầu cụ thể khác nhau cho giáo dục. Không thấy hai
mặt đó mà chỉ thiên một mặt này hay mặt kia, thậm chí để hai mặt đó xung đột, sẽ dẫn đến
một nền giáo dục hoặc thoát ly thực tế hoặc thực dụng thiển cận, hoặc vừa có cả hai tính
chất đó.
Chẳng hạn, thời nào thì con người sống trong xã hội lành mạnh cũng cần trung thực,
và muốn đóng góp vào sự phát triển của xã hội cũng phải ít nhiều có đầu óc sáng tạo,
nhưng chưa bao giờ hai đức tính đó thiết yếu như bây giờ trong thế giới toàn cầu hóa và
kinh tế tri thức.
Điều đó tiếc thay đã không được chú ý trong suốt quá trình xây dựng giáo dục ở VN.
Trong khi xã hội và môi trường quốc tế đã biến đổi cực kỳ sâu sắc mà từ mẫu giáo đến đại
học, nhà trường vẫn dựa vào kinh nghiệm giáo dục tư tưởng chính trị thời đấu tranh giành
độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội để rèn luyện nhân cách, kỹ năng sống, kỹ năng giao
tiếp, thì với sự vênh đó giữa lý thuyết và đời sống, cộng thêm sự xuống cấp nhanh đạo đức
xã hội, làm sao có thể giáo dục trung thực và sáng tạo có hiệu quả?
Đó là nguyên nhân sâu xa khiến sự giả dối và nạn giáo điều lan tràn, từ tiêu cực trong
thi cử, bệnh thành tich, bệnh thi đua hình thức, cho đến nạn sao chép, dạy mẫu, học thuộc
lòng, cứ tồn tại dai dẳng bất chấp sự lên án của dư luận xã hội.
1.2.2. Cần phải bình đẳng về cơ hội học tập thành công:
LỚP DHTP 4 TLT,
Nhóm: 1
21
Khoa: Lý Luận – Chính Trị,
GVHD: Ths Lê Văn Hùng
Gần đây, những cuộc tranh cãi xung quanh đề án tăng học phí, nạn học sinh bỏ học,
ngồi nhầm lớp, v.v. cho thấy rõ một nguyên nhân căn bản của nhiều vấn nạn ấy là do nhận
thức về công bằng, dân chủ trong giáo dục còn quá hời hợt và thô sơ. Chỉ mới chú ý yêu
cầu sơ đẳng bảo đảm quyền học tập (nói chính xác là quyền bình đẳng về cơ hội học tập),
mà ngay việc này cũng chưa được hiểu đúng và làm tốt.
Trong khi đó, với chế độ học tập như hiện nay, buộc học sinh phải học thêm ngoài giờ
rất nhiều (kể cả làm bài tập ở nhà và học thêm ngoài giờ có trả học phí), thì con em các gia
đình nghèo làm sao có được cơ hội học tập thành công bình đẳng với con em các gia đình
khá giả.
Cho nên được đi học mới chỉ là bình đẳng một phần. Bình đẳng về cơ hội học tập
không thôi chưa đủ mà phải bình đẳng về cơ hội học tập thành công. Không phải không có
lý do mà ở nhiều nước, để bảo đảm công bằng về cơ hội thành công trong học tập, để giúp
con em nhà nghèo không bỏ học giữa chừng, học sinh tiểu học và trung học không phải
làm bài tập ở nhà mà đều làm hết ở trường, trong những giờ tự học có thầy giám sát.
Ở các nước ấy cũng không có chuyện phải học thêm ngoài giờ ở lớp và không có học
sinh phải bỏ học chỉ vì chương trình nặng, học không nổi hay sách giáo khoa quá đắt,
không có tiền mua. Vì vậy hiện tượng học sinh bỏ học nhiều cần được nhìn nhận là dấu
hiệu đáng lo ngại của một nền giáo dục thiếu công bằng.
Vào những năm 80 thế kỷ trước, khi kinh tế bế tắc, hệ thống giáo duc cũ gần như tan
rã. Sai lầm cơ bản khi ấy là đã không xuất phát từ gốc để cải tạo hệ thống giáo dục mà chỉ
cải sửa tùy tiện từng phần của nó trong khi vẫn khư khư giữ nền móng tư duy lạc hậu cũ.
Rốt cuộc đã đẻ ra một hệ thông giáo dục dị dạng, đầu Ngô mình Sở, thường xuyên gặp khó
khăn, đòi hỏi phải liên tục cải sửa, song càng sửa càng rối, càng bất cập.
Như trên đã nói, khủng hoảng giáo dục là từ bên trong, tức là chủ yếu do hậu quả của
hàng loạt sai hệ thống. Trong đó đáng nêu nhất có một số sai căn bản như sau:
+ Cái sai đầu tiên và tai hại nhất là chính sách đối với người thầy:
Xuất phát từ quan niệm lệch lạc về sứ mạng và vai trò người thầy trong nền giáo dục
hiện đại. Phản ứng lại tư duy lạc hậu trong nhà trường cũ, gán cho thầy quyền uy tuyệt đối
theo quan niệm “không thầy đố mầy làm nên”, biến giáo dục thành quá trình truyền đạt và
LỚP DHTP 4 TLT,
Nhóm: 1
22
Khoa: Lý Luận – Chính Trị,
GVHD: Ths Lê Văn Hùng
tiếp thu hoàn toàn thụ động, đã xuất hiện tư duy cực đoan ngược lại, phủ nhận vai trò then
chốt của thầy đối với chất lượng giáo dục.
Với cách hiểu giáo dục thô sơ nặng về cảm tính, khi thì nhấn mạnh một chiều “học
sinh là trung tâm”, khi khác tôn chương trình, sách giáo khoa lên địa vị “linh hồn giáo
dục”, nhận định chất lượng đại học thấp “không phải do thầy mà do chương trình”, v.v.
dẫn đến hoàn toàn xem thường việc xây dựng đội ngũ thầy giáo theo chuẩn mực giáo dục
hiện đại. Trong mọi khâu từ tuyển chọn đến sử dụng và bồi dưỡng người thầy, khâu nào
cũng phạm sai lầm lớn. Đặc biệt tệ hại là chính sách lương.
Ngay từ đầu đã bỏ qua kinh nghiệm muôn thuở “có thực mới vực được đạo”, trả
lương cho thầy cô giáo dưới mức sống hợp lý, lấy cớ ngân sách eo hẹp (thật ra chỉ là sử
dụng ngân sách không hợp lý), bỏ mặc các thầy cô “tự cứu” kiếm thêm thu nhập bằng mọi
cách (dạy thêm, làm thêm, đến nỗi không hiếm giảng viên đại học dạy trên 30 giờ/tuần).
Rốt cuộc phần thu nhập thêm đó cũng từ ngân sách hoặc tiền đóng góp của dân mà ra,
nhưng cái giá phải trả cho cái nghịch lý lương/thu nhập đó là chất lượng giáo dục bị hy
sinh, đạo lý xuống cấp, cần kiệm liêm chính mất dần, gây ra tình trạng hỗn loạn rất khó
đảo ngược để lập lại trật tự, dân chủ, văn minh trong giáo dục.
+ Cái sai lớn thứ 2 là chú trọng thi hơn học:
Có quá nhiều kỳ thi “quốc gia”, mà thi theo cách học thuộc lòng, sao chép bài mẫu,
lại thiếu nghiêm túc, sinh ra hội chứng thi rất đặc biệt của giáo dục VN, tái diễn cảnh lều
chõng xa xưa ngay giữa thời toàn cầu hóa và kinh tế tri thức (với tâm lý rớt thi đặc trưng
“đau quá đòn ghen, rát hơn lửa bỏng, hổ bút hổ nghiên, hổ lều hổ chõng”). Có thể nói
không ngoa, muốn hiểu thực chất việc học ở VN như thế nào chỉ cần quan sát xã hội VN
trong mùa thi.
Thực học hay hư học, học để biết, để làm, để sống cuộc sống hữu ích, hay học để làm
gì, tất cả đều phơi bày ra hết ở mùa thi. Trên thì Bộ Giáo dục & Đào tạocó cả một bộ máy
đồ sộ để nghiên cứu nghĩ ra cách tổ chức thi, ra đề thi, chấm thi, thanh tra, giám sát thi,
mỗi năm một kiểu, dưới thì các lò luyện thi, các lớp học thêm, dạy thêm, các máy sao chụp
đua nhau hoạt động phục vụ học sinh đi thi. Suốt mấy năm trời hết ba chung rồi hai chung,
LỚP DHTP 4 TLT,
Nhóm: 1
23
Khoa: Lý Luận – Chính Trị,
GVHD: Ths Lê Văn Hùng
hết tự luận rồi trắc nghiệm, thảo luận không dứt, nhưng không hề băn khoăn: có cần thiết
bấy nhiêu kỳ thi và thi căng thẳng như vậy không?
Mặc dù đã có nhiều ý kiến đề nghị bỏ bớt các kỳ thi và thay đổi cách thi, nhưng với
sức ỳ cố hữu của cơ quan quản lý, phải mất tám năm mới bỏ được cách thi kỳ quặc dựa
theo bộ đề thi có sẵn, sau đó nhiều năm mới bỏ được thi tiểu học, thi THCS. Còn lại hai kỳ
thi căng thẳng tốn kém nhất là thi THPT và thi tuyển sinh đại học, dự kiến kết hợp lại làm
một, cũng là một tiến bộ dù chỉ mới nửa vời. Ở đại học, do đào tạo theo niên chế nên “thi
tốt nghiệp” theo cách nặng nề, hình thức mà ít hiệu quả.
Từ cách thi nhiêu khê sinh ra lắm dich vụ ăn theo kỳ lạ ở mọi cấp: kỹ nghệ “phao”
thi, thi thuê, viết luận án thuê, làm bằng giả, bằng thật nhưng học giả, v.v. Cho nên chừng
nào còn thi kiểu này, còn học chỉ để thi, thì hư học còn phát triển, gây lãng phí lớn cho Nhà
Nước và cả xã hội. Nếu tính hết mọi khoản chi trực tiếp và gián tiếp phục vụ cho các kỳ thi
thì tốn kém lên tới con số khủng khiếp khó có thể chấp nhận.
+ Cái sai lớn thứ 3 là chạy theo số lượng, hy sinh chất lượng
Bất chấp mọi chuẩn mực, thông lệ và kinh nghiệm quốc tế, khiến việc hội nhập khó
khăn và không cạnh tranh nổi ngay với giáo dục các nước trong khu vực. Điều này rõ nhất,
nghiêm trọng nhất ở cấp đại học và cao học (đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ). Thật ra, từ giữa thế kỷ
XX mâu thuẫn gay gắt giữa số lượng và chất lượng đã xuất hiện phổ biến trong phát triển
giáo dục ở hầu hết các nước trên thế giới.
Việt Nam càng không phải là ngoại lệ, nhưng Việt Nam đi sau, có thể học hỏi kinh
nghiệm của các nước để tránh sai lầm. Tiếc rằng nhiều kinh nghiệm tốt ở các nước đã
không được áp dụng, hoặc áp dụng không thành công, chủ yếu vì thiếu nghiên cứu cho
thấu đáo và không có cách nhìn hệ thống (đào tạo nghề, đại học đại cương là những ví dụ).
Trong thời đại toàn cầu hóa, muốn hội nhập thành công, phải hiểu biết và tôn trọng luật
chơi, trước hết là các quy tắc, chuẩn mực, thông lệ quốc tế.
Thế nhưng từ các chuẩn mực thông thường xây dựng một đại học về cơ sở vật chất,
đội ngũ giảng dạy, cho đến việc tuyển chọn, đánh giá GS, PGS, tuyển sinh thạc sĩ, tiến sĩ,
đánh giá công trinh nghiên cứu khoa hoc, đánh giá các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ, đánh giá
các đại học v.v. phần lớn đều không theo những chuẩn mực quốc tế mà dựa vào những tiêu
LỚP DHTP 4 TLT,
Nhóm: 1
24
Khoa: Lý Luận – Chính Trị,
GVHD: Ths Lê Văn Hùng
chí tự sáng tác, nặng về cảm tính thô sơ, rất thấp và rất khác so với quốc tế, thiếu khách
quan, thiếu căn cứ khoa học, thiếu minh bạch, dễ bị lợi dụng mưu lợi ich riêng cho từng
nhóm thay vì phục vụ sự nghiệp chung.
Với cách quản lý xô bồ đó, số phế phẩm tuôn ra xã hội ngày càng đông, tài năng làng
nhàng chiếm ưu thế, rồi phế phẩm thế hệ 1 sản xuất ra phế phấm thế hệ 2, cứ thế thành cái
vòng xoáy trôn ốc nhấn chìm giáo dục trong một mớ bòng bong, không gỡ ra được (tình
hình lộn xộn về các bằng cấp đại học, thạc sĩ, tiến sĩ trong nước và các chức danh GS, PGS
hay các danh vị khác đã khiến các sản phẩm giáo dục VN mất giá thảm hại trên quốc tế).
1.2.3. Bệnh thành tích – Căn bệnh phải chữa vô thời hạn:
Sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đã tiến lên, người dân ở những mức độ khác
nhau điều hướng được sự tiến lên đó trong cuộc sống hàng ngày. Riêng trong lĩnh vực giáo
dục và đào tạo, có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau, trong đó có những ý kiến cho rằng
ngành giáo dục đã thụt lùi.
Cứ nhìn vào số người được đi học người có trình độ phổ thông, người được tốt nghiệp
Đại học, rối số lượng Giáo sư, Phó Giáo sư... thì đa phần chúng ta sẽ hài lòng. Thế nhưng,
nền giáo dục thông qua những gì mà chúng ta thấy, có cả cái nhìn của những người có
chuyên môn cao, cho đến cái nhìn của người dân bình thường lại không mấy sáng sủa và
đang rất đáng lo ngại.
Nhiều người cho rằng bệnh thành tích là một nguyên nhân thụt lùi, nhưng vì sao
ngành giáo dục lại mang trong mình bệnh thành tích?
Ở thời bao cấp tuy khó khăn, song một khi đội ngũ thầy cô giáo chuyên tâm hết lòng
chăm lo cho sự nghiệp trồng người thì cuộc sống hàng ngày, tương lai của họ vẫn được
đảm bào một cách cơ bản như một người. Học sinh đi học trong muôn vàn khó khăn túng
thiếu, song ở một cấp đều không phải đóng tiền, học ở các Trường Đại học, Trung học
chuyên nghiệp còn được nhận học bổng để chuyên tâm học hành và học tập càng giỏi, càng
phấn đấu tốt thì tương lai càng rộng mở.
Ngày nay, trong xã hội không phải mọi người cũng cùng mục tiêu phấn đấu. Dù
không hiếm những người thầy hết lòng chăm lo cho sự nghiệp trồng người, nhưng đa phần
các thầy giáo ngày nay không thể chỉ chuyên tâm hết mình cho công việc ở trường mà còn
LỚP DHTP 4 TLT,
Nhóm: 1
25