Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Quan niệm của feuerbach về con người – những giá trị và hạn chế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.16 KB, 13 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Một trong những di sản tinh thần mà nhân loại có quyền tự hào là nền triết học cổ
điển Đức thế kỉ XVIII-XIX. Triết học cổ điển Đức chỉ chiếm một khoảng thời gian rất
ngắn trong nền lịch sử triết học của nhân loại, nhưng nó lại giữ vai trò cực kỳ to lớn đối
với tư duy nhân loại.
Nói đến triết học cổ điển Đức chúng ta thường nhắc tới những bộ óc bách khoa
như Kant, Hegel, Feuerbach xét từ góc độ lịch sử lẫn khoa học và triết học. Khi nghiên
cứu về triết học cổ điển Đức tôi thật sự ấn tượng với tư tưởng của Feuerbach. Một đại
diện kiệt xuất của chủ nghĩa duy vật nhân bản giữa lòng chảo của thần quyền và thế
quyền ở nước Đức thế kỷ XVIII. Ông đã khôi phục, phổ biến và phát triển truyền thống
duy vật nhất là chủ nghĩa duy vật nhân bản “triết học con người”. Feuerbach là nhà duy
vật chiến đấu, trong muôn vàn tư tưởng mà Feuerbach để lại tôi có ấn tượng nhất là tư
tưởng về tình yêu và con người của ông bởi ông xem con người là đối tượng nghiên cứu
chủ yếu của mình, điều mà các bậc tiền bối trước chưa làm được.
Ông đã đề cao giá trị của con người, mong muốn mang lại cho con người một
cuộc sống hạnh phúc thật sự trên trần gian. “Triết học mới” –“Triết học của tương lai”
(thuật ngữ của Feuerbach) xuất phát từ chỗ con người và chỉ con người mới là chủ thể
hiện thực của lý tính.
Xác định phương pháp của mình, Feuerbach viết: “Phương pháp của tôi ở chỗ
nào? Ở chỗ, thông qua con người đưa tất cả những cái siêu nhiên về tự nhiên và thông
qua tự nhiên đưa tất cả những cái siêu nhiên về con người …” 1. Theo ông, chỉ khi nào
xuất phát từ con người thì vấn đề về quan hệ giữa tư duy và tồn tại mới được giải quyết
một cách đúng đắn và có ý nghĩa thật sự.
Triết học của ông hội tụ đầy đủ những khám phá có giá trị nhưng cũng còn tồn
đọng những hạn chế nghiêm trọng. Ông đã sai lầm khi phủ nhận phép biện chứng của
Hegel nên triết học của ông chưa thoát ra khỏi quan điểm siêu hình.

1 L.Feuerbach.Tuyển tập. Matxcova 1951. TI. Tr.267

Page 1



Để làm rõ hơn về quan điểm của Feuerbach về con người, tôi đã mạnh dạng chọn
đề tài “Quan niệm của Feuerbach về con người – những giá trị và hạn chế” để nghiên
cứu làm tiểu luận kết thúc môn triết học. Do thời gian chuẩn bị có hạn, bài viết chắc chắn
còn nhiều thiếu sót cả về nội dung lẫn cách trình bày. Rất mong được sự góp ý chân
thành của thầy – TS. Bùi Văn Mưa cũng như các bạn đọc.
Xin chân thành cảm ơn!
Học viên

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG
1. Tiểu sử Feuerbach
2. Quan niệm của L.Feuerbach về con người

2.1 Mối quan hệ giữa giới tự nhiên và con người
2.2 Con người và tình yêu là một
2.3 Mối quan hệ giữa con người và tôn giáo
3. Những giá trị và hạn chế trong quan niệm của Feuerbach về con người

3.1 Giá trị
3.2 Hạn chế
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢOPHẦN

NỘI DUNG

Quan niệm của Feuerbach về con người – những giá trị và hạn chế
1. Tiểu sử của Feuerbach


Ludwig Feuerbach(1804-1872) – đại biểu cuối cùng của triết học cổ điển Đức, sự
kết thúc đầy vinh quang của nó, nhà cải cách kiên cường – nhà duy vật và vô thần.
L.Feuerbach sinh trưởng trong một gia đình luật sư nổi tiếng. Năm 1823 với mục
đích nghiên cứu tôn giáo, Feuerbach vào học tại khoa thần học của trường đại học
Heidelberg, nhưng sau một năm lại rời khoa thần học và chuyển đến Berlin, nơi Hegel
đang giảng triết học. Sau đó Feuerbach trở thành học trò của Hegel. Hai năm ròng
Page 2


Feuerbach nghe các bài giảng của nhà triết học lừng danh này, nghe một cách say sưa và
thích thú. “Nhờ Hegel – Feuerbach công nhận – tôi đã ý thức được chính mình, ý thức
được thế giới. Hegel đã trở thành người cha thứ hai của tôi…” 2. Năm 1828, Feuerbach
gởi cho Hegel bản luận án của mình mang tên “Về ý tính phổ biến, đơn nhất và vô hạn”,
trong đó ông nói thẳng ý nguyện triển khai tiếp tục chủ nghĩa duy tâm khách quan. Đôi
khi Feuerbach bày tỏ hoài nghi về tinh thần tuyệt đối chế ngự sự vận động tự nhiên,
nhưng ngay lập tức những lập luận sắc sảo của Hegel đã chinh phục học trò.
Năm 1829, Feuerbach bắt đầu sự nghiệp giảng dạy của mình tại trường đại học
Erlangen.
Năm 1831, Hegel mất, Feuerbach có dịp bày tỏ toàn bộ quan điểm của mình. Năm
1836, Feuerbach cưới vợ, trong suốt 25 năm hầu như không rời khỏi ngôi nhà nhỏ của
mình, mặc dù năm 1848 trúng cử đại biểu quốc hội của vùng Frankfurt.
Một số tác phẩm của ông đã làm sống lại chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII và
làm sinh động thế giới quan duy vật khoa học lúc bấy giờ: “Quan niệm về cái chết và sự
bất tử”(1830), “Góp phần phê phán triết học Hegel”(1839), “Bản chất đạo Cơ
đốc”(1841), “Luận cương khởi đầu về cải cách triết học” (1842), “Các luận điểm triết học
cơ bản của tương lai” (1843), …
2. Quan niệm của L.Feuerbach về con người
2.1 Mối quan hệ giữa giới tự nhiên và con người:

Toàn bộ mối quan hệ giữa giới tự nhiên và con người phản ánh mối quan hệ giữa

thế giới vô cơ và thế giới hữu cơ, phản ánh tiến trình tiến hoá của sự sống, theo nghĩa thế
giới vô cơ là tiền đề, là cơ sở nền tảng của mọi sự sống nói chung, của đời sống con
người nói riêng. Con người chỉ có thể tồn tại trong giới tự nhiên, trong sự tiếp xúc với thế
giới khách quan bên ngoài nó, và cũng chính thế giới này quy định sự tồn tại và phát triển
của các giác quan con người chứ không phải ngược lại như chủ nghĩa duy tâm chủ quan
khẳng định. Ánh sáng tồn tại không phải để cho con mắt nhìn, mà con mắt tồn tại bởi vì
2 L. Feuerbach. Lịch sử triết học. T3. Maxtxcova,. 1974. Tr.373

Page 3


có ánh sáng, tương tự như vậy, không khí tồn tại không phải để cho con người hít thở mà
con người hít thở bởi vì có không khí, bởi vì, nếu không có không khí thì sẽ không có sự
sống. Tồn tại một mối quan hệ tất yếu giữa thế giới vô cơ và thế giới hữu cơ. Mối quan
hệ qua lại này chính là cơ sở, là bản chất của sự sống. Bởi vậy, chúng ta không có căn cứ
nào để giả định rằng, nếu như con người có nhiều cảm giác hay nhiều cơ quan thì nó sẽ
hiểu biết được nhiều thuộc tính hay nhiều sự vật của tự nhiên hơn... con người có vừa đủ
những giác quan cần thiết để cảm nhận thế giới trong tính toàn vẹn và tính tổng thể của
nó.
Từ việc quan sát hình thể bên ngoài của con người, cho đến mọi hoạt động lao
động sản xuất cũng như hoạt động tinh thần của nó, Feuerbach cho rằng, con người là
một sinh vật có hình thể vật lý -sinh lý ở trong không gian và thời gian, nhờ vậy nó có
năng lực quan sát và suy nghĩ vượt trội so với các loài sinh vật khác. Bản chất con người
là một cái gì đó thống nhất toàn vẹn giữa hai phương diện thể xác (tồn tại) và tinh thần
(tư duy). Sự thống nhất toàn vẹn này đảm bảo cho con người có thể tồn tại và phát triển
như một sinh vật cao nhất, hoàn thiện nhất trong mọi sinh vật hiện có.Và sai lầm của chủ
óc, nghĩa duy tầm là sự toan tính thủ tiêu sự thống nhất toàn vẹn đó của con người, tách
rời tư duy con người khỏi tồn tại của nó, biến tư duy thành một thực thể siêu tự nhiên có
khả năng sáng tạo nên thế giới vật chất. Còn sai lầm của chủ nghĩa nhị nguyên là đánh
đồng tư duy và tồn tại, coi chúng như những thực thể tồn tại độc lập bên cạnh nhau đó là

một sụ khẳng định vòng vo, là lối nói nửa vời, tách đôi trái ngược.
Phê phán những quan điểm sai lầm của chủ nghĩa duy tầm và chủ nghĩa nhị
nguyên trong việc tách đôi thể xác và tinh thần, tồn tại và tư duy, Feuerbach đã thừa nhận
một cách dứt khoát rằng quan hệ thực sự của tồn tại đối với tư duy là tồn tại - chủ thể, tư
duy - thuộc tính. Tư duy xuất phát từ tồn tại, chứ không phải tồn tại xuất phát từ tư duy…
cơ sở của tồn tại nằm ngay trong tồn tại chính là cảm tính, là nguyên lý trí tuệ là sự tất
yếu và chân lý... bản chất của tồn tại với tư cách một tồn tại chính là bản chất của giới tự
nhiên. Tại sao tồn tại là chủ thể, còn tư duy là thuộc tính (của chính chủ thể đó)? Để trả
Page 4


lời câu hỏi này, theo Feuerbach, chúng ta cần đến từ đâu đến, bộ óc từ đâu đến, cơ quan
cơ thể từ đâu đến, thì tinh thần cũng đến từ đấy ngay cả hoạt động tinh thần cũng là việc
làm của cơ thể, của đầu óc con người, hoạt động đó khác với các hoạt động khác ở chỗ,
nó là hoạt động của đầu óc.
Trong khi phê phán cách lý giải duy tâm về tư duy như bản chất bên ngoài thiên
nhiên và siêu tự nhiên, Feuerbach đi đến kết luận rằng: vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn
tại là vấn đề về bản chất con người, bởi vì chỉ có con người mới tư duy. Như vậy, do chỗ
triết học giải quyết vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại, nên nó cần phải là chủ nghĩa
nhân bản - nhân loại học “Sự thống nhất tồn tại và tư duy trở nên đúng đắn và có ý nghĩa
khi nào con người được xem như cơ sở, chủ thể của sự thống nhất ấy” 3 – học thuyết về
con người mà trong tồn tại trong sự hoạt động của họ vấn đề trên được phơi bày ra với ý
nghĩa thực tiễn, hiện thực nhất.
Các khoa học nghiên cứu con người cho phép vạch rõ hoàn toàn tính vô căn cứ
của quan niệm duy tâm – tư biện về tư duy và tinh thần nói chung. Các khoa học ấy, đặc
biệt là triết học, lí giải mối quan hệ không ngừng giữa tư duy với các quá trình vật chất
được thực hiện trong cơ thể con người, với sự tri giác thế giới bằng cảm tính.
Dựa trên truyền thống duy vật, Feuerbach cho rằng: giới tự nhiên vật chất có
trước ý thức, tồn tại vô cùng đa dạng, phong phú và tự nó. Không gian, thời gian và vận
động là thuộc tính cố hữu, là phương thức tồn tại của vật chất – giới tự nhiên. Bản thân

giới tự nhiên bị chi phối bởi mối liên hệ nhân quả nên không ngừng vận động, phát triển
trong không gian, thời gian, theo các quy luật khách quan nội tại. Trong những điều kiện
nhất định, quá trình phát triển của giới tự nhiên sẽ dẫn đến sự ra đời của đời sống sinh
học mà cao hơn là con người và đời sống xã hội của con người. Con người muốn hiểu
giới tự nhiên phải xuất phát từ chính bản thân mình, thông qua cảm giác và tư duy của
chính mình – một đóa hoa rực rỡ của giới tự nhiên, để nhận thức giới tự nhiên, tức tất cả
những gì không phải là siêu nhiên…

3 L.Feuerbach.Tuyển tập. Matxcova 1951. TI. Tr.199

Page 5


Feuerbach cho rằng không thể tách con người ra khỏi giới tự nhiên, vì con người
là sản phẩm tất yếu cao nhất của giới tự nhiên, còn giới tự nhiên là cơ sở không thể thiếu
của đời sống con người. Con người dựa vào giới tự nhiên để được thỏa mọi nhu cầu cần
thiết như: ăn, mặc, ở, sinh đẻ … Còn những cái đó đã ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm,
đam mê, khát vọng, suy nghĩ, hiểu biết của mỗi con người, mà xét đến cùng, chúng làm
cho người này không giống người kia. Do đó theo Feuerbach, con người vừa mang bản
tính cá nhân, và con người – cá nhân cũng mang bản tính cộng đồng, có bản chất nằm
trong tình yêu.
Sau khi công nhận một cách dứt khoát rằng, tồn tại là chủ thể, tư duy là thuộc tính,
ý thức là sản phẩm của bộ óc con người, Feuerbach đi đến việc tìm hiểu sâu hơn bản chất
tự nhiên - sinh học của con người. "Bản chất chung của con người là gì? Những nhân tính
cơ bản trong con người là gì? Đó là lý tính, ý chí và trái tim. Con người hoàn thiện có
năng lực tư duy, sức mạnh ý chí và nguồn lực tình cảm. Năng lực tư duy chính là ánh
sáng của nhận thức, sức mạnh của ý chí chính là năng lượng của tính cách, nguồn lực tình
cảm chính là tình yêu...
Do mang bản tính cá nhân, mà mỗi con người là một cá thể sinh học đặc biệt có lý
trí, ý chí, con tim … của riêng mình để nhận thức, để khát vọng đam mê, để rung động

cảm xúc... Đó là con người đang tồn tại bằng xương, bằng thịt, đang sống, đang làm viêc,
đang yêu, đang nhận thức như mỗi chúng ta, chứ không phải con người trong ý tưởng –
con người trừu tượng. Với bản tính đó, mỗi con người tiềm tàng một năng lực sáng tạo kỳ
vĩ, năng lực này bắt nguồn từ trong cá tính cá nhân của mỗi con người, chứ không phải
xuất phát từ Thượng đế. Feuerbach viết: “trong ý chí tư duy và tình cảm hàm chứa bản
chất tối cao tuyệt đối của con người và mục đích tồn tại của nó. Con người sống để nhận
thức , để yêu và để muốn. Nhưng mục đích của lý trí là gì? – là lý trí, của tình yêu là gì? –
là tình yêu, của ý chí là gì? – là tự do ý chí. Chúng ta nhận thức để nhận thức, yêu để yêu,
muốn để muốn, nghĩa là muốn tự do… cái tồn tại vì chính mình là cái đúng đắn hoàn
toàn, cái thần thánh…”4.
4 L.Feuerbach.Tuyển tập. Matxcova 1951. TII. Tr.655

Page 6


Tuy nhấn mạnh tính cá thể của con người, song Feuerbach cũng hé mở một ý
tưởng cho rằng, trong quá trình sống, con người có thể giao tiếp với những người khác,
với cộng đồng xã hội. Do tiếp xúc với xã hội mà "từ một tồn tại thuần tuý vật lý, con
người trở thành một tồn tại chính trị, nói chung trở thành một cái gì đó khác với tự nhiên,
tồn tại đó chỉ quan tâm đến bản thân mình".
Theo Feuerbach, khi nói về con người, nhất thiết phải giả định rằng, có những
người khác và chỉ có trong mối quan hệ đó thì con người mới là con người với ý nghĩa
đầy đủ của từ này. Từ việc công nhận con người như là sản phẩm của văn hoá, của lịch
sử, Feuerbach đi đến quan điểm cho rằng, tính ích kỷ không chỉ mang tính cá nhân như
các nhà tư tưởng, các nhà đạo đức học trước ông (đặc biệt là những người theo
eudaimonism - chủ nghĩa duy hạnh) tuyên bố, mà nó còn mang tính xã hội. "Không chỉ
có một tính ích kỷ đơn độc hay là tính ích kỷ cá nhân - Feuerbach viết - mà còn có một
tính ích kỷ xã hội, một tính ích kỷ của gia đình, của tập thể, của cộng đồng, một tính ích
kỷ yêu nước. Tất nhiên, tính ích kỷ là nguyên nhân của mọi điều ác, nhưng cũng là
nguyên nhân của mọi điều thiện, bởi vì không cái gì khác ngoài tính ích kỷ đã tạo nên sự

chiếm hữu ruộng đất, nên thương nghiệp, cũng vì tính ích kỷ mà có nghệ thuật, có khoa
học... tính ích kỷ ngăn cấm sự trộm cướp, dối trá, làm hạn chế sự ngoại tình". Đây là một
quan điểm hoàn toàn mới so với lịch sử đương thời, khi đọc những lời này của
Feuerbach, Lênin cho rằng, đây là "phôi thai của chủ nghĩa duy vật lịch sử". Tiến xa hơn
bước nữa, nhà triết học mang nặng tinh thần nhân đạo coi tính ích kỷ của con người như
là một động lực thúc đẩy sự phát triển của lịch sử xã hội. "Trong lịch sử, một thời đại mới
bắt đầu từ đâu? Bắt đầu từ chỗ, đông đảo quần chúng bị áp bức đưa ra tính ích kỷ chính
đáng của mình chống lại tính ích kỷ cực đoan của thiểu số người khác... tính ích kỷ của
đa số nhân loại đang bị áp bức phải và sẽ thực hiện quyền của mình và mở ra một thời đại
lịch sử mới... không thể để cho thiểu số người là cao thượng, có tài sản, còn số khác là
thấp hèn, là chẳng có gì. Tài sản phải có ở tất cả mọi người". Những lời lời lẽ có tính
tuyên chiến với xã hội tư bản này được Feuerbach nói ra vào thời điểm lịch sử khi Tuyên

Page 7


ngôn Đảng cộng sản của Mác và Ăngghen mới ra đời đã phần nào phản ánh tư tưởng chủ
nghĩa xã hội của Feuerbach và được Lênin đánh giá cao trong Bút ký triết học”.
Hạnh phúc của mỗi cá nhân không là hạnh phúc đơn độc của mỗi con người mà là
hạnh phúc được kiếm tìm trong sự hòa hợp với mọi người trong cộng đồng. Với bản tính
đó, mỗi con người tiềm tàng một tình yêu mênh mông dành cho con người, tình yêu cũng
tuôn trào từ bản tính cộng đồng của con người chứ không phải bắt nguồn từ Thượng đế.
2.2 Con người và tình yêu là một:

Bản tính vừa cá nhân, vừa cộng đồng của con người, theo Feuerbach, là cơ sở của
tính ích kỷ hợp lý – thống nhất tính ích kỷ cá nhân với tính ích kỷ cộng đồng xã hội. Tính
ích kỷ hợp lý đòi hỏi các quyền lợi riêng tư của mỗi cá nhân con người phải phù hợp hài
hòa với quyền lợi chung của cộng động xã hội. Feuerbach cho rằng tình yêu giữa con
người với nhau vừa là phương tiện vừa là mục đích của sự hòa hợp xã hội, và hơn thế
nữa, nó còn là động lực tiến bộ xã hội, bời vì nó là sự thể hiện rõ nhất bản chất trong mỗi

con người, con người biết sống tức là trước hết biết yêu. “Chúng ta sẽ không thể là con
người nếu không biết yêu; và một đứa trẻ chỉ trở thành người lớn khi bó biết yêu; tình
yêu phụ nữ là tình yêu phổ quát, ai không yêu phụ nữ người đó không yêu con người” 5.
Tuy nhiên trong “biển trời” mênh mông của tình yêu thì, tình yêu của người đàn ông
dành cho người đàn bà là tình yêu đích thực. Đối với Feuerbach, con người và tình yêu
chỉ là một, chúng không thể tách rời – “Feuerbach coi bản chất con người là tổng thể các
nhu cầu, khả năng, khát vọng, ham muốn… Bản chất đó chỉ thật sự sống động khi mỗi cá
nhân con người được sống trong sự thỏa mãn nhu cầu tự nhiên và sự chan hòa với nhau
trong cộng đồng xã hội. Theo Feuerbach, con người luôn hành động một cách tự do theo
tình cảm đam mê, theo nhu cầu lợi ích, theo tình yêu khát vọng…của mình. Nhưng cái tự
do đó không tách ra khỏi sự bó buộc, không nằm ngoài mối quan hệ với các sự vật tự
nhiên hay cộng đồng nhân loại. Trong hạnh phúc có cả tự do và tất yếu. Vươn đến hạnh
phúc là biến hành động tất yếu thành hành động tự do. Con người chỉ đạt được tự do khi
nhu cầu được đảm bảo, khả năng được thực hiện, khát vọng ham muốn được tuôn trào…,
5 L. Feuerbach. Lịch sử triết học. T1. Tr.54-55

Page 8


nghĩa là bản chất người được thể hiện. Đời sống hạnh phúc chỉ có được khi hành động tự
do của con người thống nhất với những điều kiện sống của họ. Vì vậy, muốn sống hạnh
phúc, con người cần phải tạo điều kiện sống sao cho phù hợp với bản tính của mình.” 6
Năm 1830, Feuerbach xuất bản tác phẩm đầu tiên “Quan điểm về cái chết và bất
tử. Một lần nữa chủ đề tình yêu lại được nêu ra. Feuerbach nói về tình yêu thiên đường và
tình yêu trần tục, tình yêu thần thánh và tình yêu con người. Ông khẳng định: con người
yêu, con người cần phải yêu, yêu là hiến dâng. Đề cập đến sự bất tử, Feuerbach cho rằng
chỉ có những hành vi vĩ đại của lý tính con người mới bất tử. Vinh quang và niềm tin
không thuộc về thói nhỏ nhen.
2.3 Mối quan hệ giữa con người và tôn giáo:


Năm 1831, Hegel mất, Feuerbach có dịp bày tỏ toàn bộ quan điểm của mình. Cũng
như Strauss, Bauer, ông xem việc phê phán tôn giáo, giải phóng con người khỏi sự nô
dịch của ý thức tôn giáo là mục đích tối cao. Nhưng ông tuyên bố tôn giáo là hình thức
sinh hoạt tinh thần cần có ở bất cứ xã hội nào. Vấn đề là ở chỗ tôn giáo đó không kìm
hãm nhân cách, trái lại khơi dậy khả năng tiềm tàng nơi con người.
Tôn giáo không đơn giản là những ảo tưởng phi lý, hoang đường mà còn là những
mơ ước, khát vọng đời sống của con người. Sự bất lực trong nhận thức, sự sợ hãi, đau
khổ, khó khăn triền mien, niềm mơ ước khao khát vươn lên trong cuộc sống đầy đau khổ
bất hạnh, đầy bế tắt buồn thương của con người đã sản sinh ra các tôn giáo. Tôn giáo chỉ
là sự tha hóa bản chất của con người. Còn Thượng đế chỉ là tập hợp những giá trị, mơ
ước, khát vọng mà con người muốn có. Vì vậy, giá trị, mơ ước, khát vọng của con người
như thế nào thì Thượng đế như thế nấy. Thượng đế là nhân cách cá nhân được thần thánh
hóa. Như vậy, theo Feuerbach, tôn giáo là sản phẩm tất yếu của tâm lý và nhận thức của
con người. Không phải Thượng đế sinh ra con người mà chính con người sinh ra Thượng
đế.
Tôn giáo và niềm tin vào Thượng đế đã chia cắt thế giới cùng con người thành thế
giới trần tục và thế giới thiên đường, tôn giáo làm tha hóa con người để dễ dàng thống trị
6 Đại cương về lịch sử triết học – TS. Bùi Văn Mưa – Tr. 215

Page 9


nó. Tôn giáo không chỉ kìm hãm mà còn tước đi ở con người tính năng động sáng tạo, sự
tự do và năng lực độc lập phán xét. Ông đòi hỏi phải lựa chọn: hoặc là tôn giáo – tín
ngưỡng – thượng đế, hoặc là khoa học nhân bản – tình yêu – con người.
Dù Feuerbach phê phán mạnh mẽ tôn giáo, đặc biệt là Cơ đốc giáo, nhưng càng
phê phán tôn giáo ông càng nhận thức được rằng nếu thiếu tôn giáo, con người sẽ khó
sống, bởi vì con người cần có niềm tin để an ủi mình (dù là giả tạo) trước cuộc đời đầy
bất hạnh, đau khổ. Vì vậy, ông ra sức xây dựng một thứ tôn giáo mới thay cho Cơ đốc
giáo, đó là tôn giáo của tình yêu vĩnh cửu phổ quát giữa con người (trước hết là tình yêu

nam nữ) dựa trên tính nhân bản mà trong đó vai trò Thượng đế được giao cho chính con
người đảm trách. Trong tôn giáo mới đó, tình yêu vừa là cơ sở, vừa là cứu cánh của con
người để con người thật sự sống đúng như bản tính của mình, nhằm biến trần gian thành
thiên đàng trên mặt đất.
3. Những giá trị và hạn chế trong quan niệm của Feuerbach về con người
3.1 Giá trị:

Triết học Feuerbach đã khôi phục được truyền thống duy vật thế kỷ XVIII trong
hoàn cảnh chủ nghĩa duy tâm thống trị đời sống tinh thần ở Phương Tây, và phát triển
chủ nghĩa duy vật thêm một bước. Ông đã trình bày sáng rõ nhiều quan điểm duy vật,
ông phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm và Cơ đốc giáo, ông biết đặt con người vào
đúng tâm điểm phân tích triết học. Triết học của ông chất chứa đầy tính duy vật khả tri và
nhân bản, nó là một cội nguồn tư tưởng của triết học Mác.
Điều hợp lý trong quan niệm về con người của Feuerbach là: nếu chúng ta muốn
bằng cách nào đó giúp cho một công việc của chính chúng ta, là công việc có tính chất vị
kỷ, do đó, xét theo nghĩa này, - thậm chí không kể đến những khát vọng vật chất nào đó, chúng ta đều là những người cộng sản, đơn giản xuất phát từ những thôi thúc vị kỷ mà
chúng ta muốn trở thành những con người, chứ không phải chỉ là những cá nhân.
3.2 Hạn chế:

Triết học của Feuerbach không sâu, còn nhiều quan niệm siêu hình, phiến diện
trong lý giải đối tượng triết học, trong việc phân tích bản chất con người, trong việc tìm
hiểu thực tiễn và xác định vai trò của nó trong nhận thức và cuộc sống…Đặc biệt, trong
Page 10


việc xác định nguồn gốc, động lực phát triển và phương tiện cải tạo xã hội, quan điểm
của Feuerbach còn đầy tính duy tâm. Thái độ đối với tôn giáo của ông không nhất quán…
Feuerbach không nhìn thấy bản chất xã hội của con người. Ông không thấy con
người là sản phẩm của lịch sử phát triển xã hội, con người của ông đã bị tách khỏi những
quan hệ xã hội của nó. Ông không thấy vai trò của thực tiễn, không thấy được gia đình

trần tục là cái bí mật của gia đình thần thánh, …Feuerbach hòa tan bản chất tôn giáo vào
bản chất con người. Nhưng bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu
của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa
những mỗi quan hệ xã hội.
Do phủ nhận hệ thống duy tâm của triết học Hegel nên ông phủ nhận luôn phép
biện chứng, hơn nữa, ông hiểu biện chứng rất hời hợt – phép biện chứng không phải là sự
độc thoại của một nhà tư tưởng với bản thân mình mà là sự đối thoại giữa Tôi và Anh…
Ông đứng trên quan điểm nhân đạo chung chung mà quan niệm về con người rất
trừu tượng, phi lịch sử. Ông chỉ quan tâm đến mặt tự nhiên – sinh học mà không chú ý
mặt xã hội và điều kiện chính trị - xã hội của con người; tuyệt đối hóa và coi tình yêu là
bản chất con người.
Ông bỏ qua hoạt động thực tiễn nên Feuerbach coi nhận thức là một quá trình tĩnh
tại, thụ động của chủ thể tiếp nhận hình ảnh của khách thể mà không phải là quá trình
mang tính thực tiễn năng động, sáng tạo thế giới của con người – chủ thể nhận thức.
Feuerbach không chỉ không thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức mà ông
cũng không thấy được vai trò to lớn của thực tiễn đối với sự hoàn thiện con người, thúc
đẩy phát triển sản xuất nói riêng, xã hội nói chung. Vì không thấy trong thực tiễn động
lực phát triển xã hội nên ông cố đi tìm nó trong tình yêu. Do không xuất phát từ quan
điểm thực tiễn mà trong lĩnh vực xã hội, Feuerbach cũng như mọi nhà tư tưởng trước
Mác đều sa vào chủ nghĩa duy tâm, quá đề cao sức mạnh tinh thần, trước hết là giáo dục,
đạo đức, pháp luật…mà không thấy được vai trò của nền sản xuất vật chất đối với sự tồn
tại và phát triển của xã hội.

KẾT LUẬN
Page 11


Feuerbach có tham vọng rất lớn, ông muốn thiết lập một nền triết học mới – triết
học tương lai, lấy con người và đời sống tâm – sinh lý của nó làm đối tượng nghiên cứu
cơ bản. Quan niệm của Feuerbach về con người thể hiện quan điểm của giai cấp tư sản

muốn khẳng định cá tính sáng tạo của mỗi con người. Nó có ưu điểm là đã quan tâm đến
con người (chủ yếu mặt tự nhiên – sinh học), coi con người là một “đối tượng cảm giác”.
Song, nó còn có hạn chế là đã tuyệt đối hóa tình yêu, coi tình yêu là bản chất con người
mà không chú ý mặt lịch sử - xã hội, không thấy điều kiện chính trị - xã hội mà con
người phải sống trong đó. Quan niệm về con người của ông rất trừu tượng, bởi vì nó
không mang tính lịch sử, tính giai cấp, tính dân tộc.
Feuerbach xét các mối quan hệ giữa người và người dựa trên cảm tình đối với
nhau, như tình yêu nam nữ, tình bạn, lòng thương xót, tinh thần tự hy sinh... Feuerbach
cho rằng, những quan hệ ấy chỉ có giá trị đầy đủ, khi người ta đem lại cho chúng một sự
tôn phong tối cao bằng cái tên là tôn giáo. Do dựa trên một quan niệm duy tâm sai lầm
như vậy, nên học thuyết của Feuerbach về đạo đức thì cũng giống như tất cả những học
thuyết trước đó. Nó được gọt giũa cho thích hợp với mọi thời kỳ, mọi dân tộc, mọi hoàn
cảnh, và chính vì thế mà không bao giờ nó có thể đem áp dụng được ở đâu cả. Và đối với
thế giới hiện thực, nó cũng bất lực như cái mệnh lệnh tuyệt đối của Kant vậy. Sự bất lực
đó của nhà triết học trước thực trạng xã hội Đức đương thời đã làm cho ông không tìm
thấy con đường thoát khỏi vương quốc của sự trừu tượng, mà bản thân ông ghét cay ghét
đắng để đi tới hiện thực sinh động. Ông bám hết sức chặt lấy giới tự nhiên và con người,
song đối với ông, tất cả tự nhiên lẫn con người vẫn chỉ là những danh từ mà thôi. Ông
không biết nói với chúng ta một cái gì chính xác về tự nhiên hiện thực, cũng nhu về con
người hiện thực. Nhưng lịch sử phát triển của nhận thức loài người có tính logic của nó,
những gì mà Feuerbach chưa thực hiện đã được Mác triển khai và hoàn thiện trong các
tác phẩm của mình. Phương pháp biện chứng duy vật – linh hồn của chủ nghĩa Mác – là
kết quả cải biến chủ nghĩa duy vật của Feuerbach và phát triển phép biện chứng của
Hegel.

Page 12


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phần 1: Đại cương về lịch sử triết học – TS. Bùi Văn Mưa (chủ biên) – lưu hành


nội bộ trường ĐH kinh tế TP.HCM
2. Con người và phát triển con người trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen –
Hồ Sĩ Quý (chủ biên) – NXB Chính trị quốc gia
3. Lịch sử triết học Cổ điển Đức – lưu hành nội bộ trường Đại học khoa học Xã hội

và Nhân văn TPHCM
4. www.chungta.com

Page 13



×