Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Giảm phát và bẫy thanh khoản và tác động của nó lên nền kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (671.04 KB, 27 trang )

Lạm phát và giảm phát là những vấn đề phức tạp cả về nhận thức lý luận và thực
tiễn. Nhiều nhà kinh tế đã cảnh báo về nguy cơ giảm phát toàn cầu bởi vì giảm phát
được hiểu là việc giảm liên tục nếu không khắc phục sẽ gây ra những tác hại lớn hơn cả
lạm phát, cụ thể là nó làm chậm lại tốc độ tăng trưởng kinh tế. Do vậy, nghiên cứu về
vấn đề giảm phát đòi hỏi một quá trình lâu dài, một sự phân tích mạch lạc, khách quan
bởi chính bản chất phức tạp và kéo dài của giảm phát. Trên thực tế, trừ trường hợp các
cuộc khủng hoảng chu kỳ hồi thế kỷ 19, giảm phát rất ít khi là một hiện tượng tự phát,
mà thường là các biện pháp cố tình của Nhà nước nhằm hạn chế mạnh cầu và qua đó
giảm những mất cân đối rất lớn. Ngày nay, giảm phát lại đang là trở lực kéo nền kinh tế
của nhiều nước vào vòng xoáy suy thoái. Vấn đề này đã và đang làm đau đầu nhiều nhà
kinh tế học và các nhà lãnh đạo trên thế giới, mặc dù đã có nhiều sự cố gắng suy nghĩ to
lớn.
Trong một thế giới không có ranh giới, trong điều kiện thương mại quốc tế, kinh tế toàn
cầu ngày càng phát triển mạnh mẽ, Việt Nam cũng không thể tránh khỏi những tác động
khủng hoảng có tính chu kỳ và dây chuyền của kinh tế các nước. Tuy giảm phát ở nước
ta mới chỉ là nhất thời khó kéo dài với mức độ trầm trọng song nếu không thoát khỏi
“vòng xoáy” giảm phát thì triển vọng phát triển về trung và dài hạn là hết sức khó khăn.
uất phát từ yêu cầu thực tiễn trên, nhóm ch ng m đã thực hiện đề tài này để có một
cái nhìn cụ thể hơn về giảm phát, chống giảm phát một cách khéo léo để không rơi vào
b y thanh khoản và những biện pháp để ngăn chặn giảm phát.

1


I.
1.1
Giảm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế giảm xuống liên tục. Giảm
phát, do đó, trái ngược với lạm phát. Cũng có thể nói giảm phát là lạm phát với tỷ lệ
mang giá trị âm. Trong các tài liệu thống kê tình hình kinh tế chính thức, khi đề cập
đến giảm phát, người ta v n đặt dấu âm kèm với con số ở mục tỷ lệ lạm phát. Giảm
phát thường xuất hiện khi kinh tế suy thoái hay đình đốn.


1.2
Nguyên nhân chính của giảm phát là do tổng cầu giảm, Có thể dùng sơ đồ ADAS để minh họa điều này. Ban đầu tổng cầu tương ứng với đường AD. Điểm cân
bằng của nền kinh tế là điểm E tại giao điểm của hai đường AD và đường
AS (đường tổng cung). Sau đó, tổng cầu giảm, đường AD dịch chuyển song song
sang trái thành đường AD' cắt đường AS ở điểm E'. E' là điểm cân bằng mới của
nền kinh tế và so với điểm cân bằng cũ E, sản lượng và mức giá chung đều giảm.

Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác gây ra giảm phát như:
 Xuất phát từ việc áp dụng các giải pháp chống lạm phát quá liều, chẳng hạn
như thắt chặt tiền tệ, tài khóa và hạn chế cầu quá mức: Khi lạm phát ở mức
cao, nền kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề và chính phủ phải tìm cách kiềm chế
2


lạm phát. Các biện pháp mạnh cũng có thể sử dụng được, chẳng hạn: chính
sách thắt chặt chi tiêu để giảm bội chi ngân sách Kết quả là tốc độ tăng mức
giá giảm dần, tỷ lệ lạm phát giảm dần đến 0 và giảm phát xuất hiện.
 Sử dụng các biện pháp ngăn ngừa lạm phát một cách quá cứng nhắc như trực
tiếp kiểm soát giá của một số mặt hàng.
 Giảm phát do mức cầu giảm đột ngột: Một vài c sốc trong nền kinh tế hoặc
tâm lý lo ngại có thể làm giảm mức cầu, từ đó gây tác động giảm liên tục đến
giá cả nói chung. Do đó, giảm phát xuất hiện.
 Năng lực sản xuất dư thừa gây ra giảm phát: Việc sử dụng nhiều máy móc
thiết bị, nhiều nhân công để sản xuất ra hàng hóa có thể gây hiện tượng ế thừa
trong nền kinh tế vì nhu cầu có khả năng thanh toán của người tiêu dùng chỉ ở
một mức hạn chế. Cung quá nhiều kéo th o sự giảm giá của một loạt hàng
hoá, tức là có hiện tượng giảm phát
 Đến từ những sai lầm trong điều hành vĩ mô.
1.3
Th o bà El anor Blayn y, người phụ trách khuyến khích tiêu dùng của Ủy ban cấp

phép cho các nhà Kế hoạch tài chính tại Mỹ (Certified Financial Planner Board of
Standards) cho rằng “Khi giảm phát nhân rộng chứ không chỉ bó hẹp trong một vài
hàng hóa, người tiêu dùng sẽ chi tiêu ít đi, các nhà máy bị buộc phải cắt giảm sản
xuất, cắt giảm nhân công. Điều này làm cho tỷ lệ thất nghiệp gia tăng và lại làm cho
các hộ gia đình càng chi tiêu ít đi nữa, và rồi nó lại làm cho giá cả hàng hóa càng
giảm sâu hơn”.
Nói cách khác, giảm phát gây hậu quả nghiêm trọng không kém lạm phát:
 Ảnh hưởng tới lĩnh vực xuất khẩu vì các thị trường lớn đều tiết giảm nhu cầu.
 Sức tiêu thụ nội địa không tăng do luồng cung tiền tệ giảm, trong khi xuất
khẩu kém. Nếu kịch bản xấu nhất xảy ra, hàng không thể xuất trong khi cầu
nội địa giảm, hàng không tiêu thụ hết, giá cả sẽ giảm, sản xuất đình đốn.
 Nhiều vụ phá sản và lãi suất thấp, nhiều ngân hàng gánh chịu “nợ xấu” - cắt
giảm tín dụng và chu trình kéo theo giảm đầu tư và sản lượng.

3


 Nền kinh tế suy yếu làm cho giá tài sản giảm sâu hơn, kéo th o phá sản hàng
loạt và buộc ngân hàng trung ương (NHTW) phải thực hiện biện pháp nới
lỏng chính sách tiền tệ.
Việc N T

thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ có thể làm nền kinh tế rơi vào

vòng xoáy “giảm phát – b y thanh khoản”.
II.
2.1
B y thanh khoản là hiện tượng trong đó chính sách tiền tệ được nới lỏng bằng
biện pháp giảm lãi suất để rồi lãi suất xuống thấp quá một mức nhất định khiến
cho mọi người quyết định giữ tài sản của mình dưới dạng tiền mặt và chính sách

tiền tệ trở nên bất lực. Khi đó việc điều tiết chu kỳ kinh tế chỉ còn trông cậy vào
chính sách tài khóa vì chính sách tài khóa l c thường vốn không phát huy được
hiệu lực đầy đủ do hiện tượng lấn át (crowding out) thì lúc này lại phát huy đầy
đủ hiệu lực do hiện tượng lấn át không còn (vì lãi suất thấp).
ă

rường hợp x y ra b y thanh kho n

 Người dân/doanh nghiệp/ngân hàng thích nắm giữ tiền mặt hơn khi họ kỳ
vọng rằng thời gian tới sẽ xảy ra thiểu phát, tức giá cả giảm đi. L c đó, dù có
giữ tiền mặt thì trên thực tế số tiền đó của người ta v n tăng lên về giá trị
trong tương lai tới.
 Người dân/doanh nghiệp/ngân hàng thích tích cóp, tiết kiệm hơn là đầu tư,
chi tiêu. Trường hợp này xảy ra khi có suy thoái kinh tế hay triển vọng kinh
tế u ám. L c đó tất cả các chủ thể kinh tế bi quan hơn và tiến hành “tích cốc
phòng cơ”, đề phòng rủi ro bằng cách tăng cường tiết kiệm hơn là mang tiền
ra chi tiêu, đầu tư. Cũng trong l c suy thoái thì ngân hàng lại càng ngần ngại
cho vay hơn vì sợ rủi ro đến từ các doanh nghiệp khách hàng phá sản, mất
khả năng thanh toán. Vì vậy, NHNN hạ lãi suất cơ bản x% cũng không đồng
nghĩa với lãi suất cho vay thương mại cũng sẽ giảm đi y% như kỳ vọng vì
đơn giản là các ngân hàng không muốn cho vay để giảm rủi ro.
 Ngân hàng thiếu hụt thanh khoản. Các ngân hàng đã bị ảnh hưởng nặng nề
bởi nợ xấu nên tập trung củng cố bảng cân đối tài sản của mình, họ rất miễn
cưỡng cho vay vì sợ làm xấu thêm bảng cân đối tài sản.
4


 Ngân hàng không muốn chia sẻ lợi ích thu được từ việc NHNN hạ lãi suất
chính sách, trần lãi suất huy động cho khách hàng vay tiền.
 Nhà đầu tư không mặn mà với việc nắm giữ trái phiếu. Nếu lãi suất thấp một

cách bất thường, người ta sẽ kỳ vọng lãi suất sẽ tăng trở lại. Khi đó, giá của
trái phiếu sẽ sụt giảm đi (giá trái phiếu tỷ lệ nghịch với lãi suất của trái
phiếu). Vì thế, nhà đầu tư/ngân hàng thà nắm giữ tiền mặt (cho những mục
đích đầu tư khác) còn hơn là đầu tư vào trái phiếu.
2.2
 Với chính sách tiền tệ truyền thống, cơ chế tăng cung tiền thông qua nghiệp
vụ M

(làm tăng MB và tác động số nhân).

 Doanh nghiệp, cá nhân, và ngân hàng không có động cơ giữ tiền vượt nhu
cầu giao dịch mà đầu tư vào TSTC sinh lợi (trái phiếu, cổ phiếu) –điều này
chỉ gắn với giả định lãi suất i>0 hay không quá thấp.
 Khi chi phí cơ hội của việc giữ tiền gần hay bằng

ro người ta sẽ giữ tiền

ngay cả vượt số nhu cầu tiền cần cho giao dịch.
Tất cả điều này d n đến chính sách tiền tệ mất vai trò kích thích kinh tế d n đến
giảm phát.
2.3
Khi nền kinh tế suy thoái, ngân hàng trung ương sẽ nới lỏng chính sách tiền tệ
bằng việc giảm lãi suất để kích thích tiêu dùng và kích thích đầu tư tư nhân d n
tới tăng tổng cầu, thoát khỏi suy thoái. Tuy nhiên, nếu việc giảm l i suất là liên
tục và xuống thấp quá mức thì, theo thuyết ưa chuộng tính thanh khoản, mọi
người sẽ giữ tiền mặt chứ không gửi vào ngân hàng hay mua chứng khoán. Hậu
quả là đầu tư tư nhân khó có thể được th c đẩy vì ngân hàng không huy động
được tiền gửi thì cũng không thể cho xí nghiệp vay và chứng khoán không bán
được thì xí nghiệp cũng không huy động được vốn. Chính sách tiền tệ trở nên bất
lực trong việc th c đẩy đầu tư tư nhân và do đó là bất lực trong kích thích tổng

cầu.
Tổng cầu tiếp tục giảm d n đến giảm phát.

iảm phát kéo dài kết hợp với lãi

suất quá thấp sẽ d n đến:
 Vòng xoắn sản lượng đình đốn và suy thoái.
5


 Kỳ vọng giảm phát tạo ra lãi suất thực gia tăng ảnh hưởng đầu tư và hố
cách suy thoái mở rộng.
2.4
Suy thoái do giảm phát khác với suy thoái thông thường ở ch suy thoái giảm
phát có %

0 trong khi suy thoái thông thường có %P>0.

iảm phát hầu hết trong các trường hợp là tác động của sụt giảm tổng cầu làm
cho nền kinh tế suy thoái và gia tăng thất nghiệp.
hay bằng

iảm phát làm i tiến đến gần

ro – b y thanh khoản và tạo trục trặc cho nền kinh tế và chính sách.

6


2


C


I.

Thời kì trì trệ kinh tế kéo dài của Nhật Bản suốt thập kỷ 1990 hay thường được gọi
với tên “Thập kỉ mất mát”. Sau khi bong bóng tài sản vỡ vào những năm 1990-1991,
tốc độ tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản thấp hẳn đi. Bình quân hàng năm trong suốt
thập niên 1990, tổng sản phẩm quốc nội thực tế của Nhật Bản l n tổng sản phẩm
quốc dân bình quân đầu người chỉ tăng 0,5%, thấp hơn so với hầu hết các nước công
nghiệp tiên tiến khác. Tỷ lệ thất nghiệp gia tăng nhanh qua từng năm.

1.1
Nền kinh tế suy thoái, tốc độ tăng trưởng D giảm mạnh so với thời kì trước.

H3: T

ộ ă

ng GDP thực t

ì

ă

kỷ m t mát so với các thời kỳ
7

a Nh t B n trong th p

ớc.




ă

: Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm

của GDP trên đầu người của Nhật Bản giảm xuống mức thấp trong những
năm 1990 có thể là do mức tăng của năng suất tổng nhân tố (TFP)
giảm Sở dĩ mức tăng của TFP ở Nhật Bản thời kỳ 1991-2000 lại giảm
mạnh là do chính sách h trợ các doanh nghiệp hoạt động thiếu hiệu quả.
Việc này khiến cho các nhà sản xuất thiếu hiệu quả lại sản xuất được một
phần sản lượng nhiều thêm. Chính sách này còn hạn chế đầu tư tăng năng
suất.[1] Từ khi Nhật Bản thực hiện Các biện pháp tạm thời ổn định các
ngành đặc biệt khó khăn vào năm 1988, ngay năm đó mức tăng TF chỉ ở
mức vô cùng thấp 0,64%. Ba năm trước đó, mức tăng TF là 2,5%/năm,
thế mà sáu năm sau đó, mức tăng chỉ còn là 2,18%/năm.[2] Năng suất lao
động giảm còn có thể do phân bổ nguồn lực giữa các ngành thiếu hợp lý nghĩa là các ngành có tiềm năng tăng trưởng mạnh lại không được đầu tư
đ ng mức.[3] Còn nguyên nhân khiến có sự không hợp lý trong phân bổ
nguồn lực giữa các ngành là thị trường yếu tố sản xuất kém linh hoạt.




: Nợ đọng (bao gồm nợ khó đòi và nợ xấu) đã làm phương hại

nền kinh tế Nhật Bản th o hướng làm cho việc phân phối nguồn lực bị
bóp méo. Thêm vào đó, nợ đọng tự nó mang những nhân tố khiến cho tình

trạng nợ kéo dài. Nợ đọng làm cho chức năng phân bổ nguồn lực bị bóp
méo qua nhiều con đường. Cho vay thêm khiến cho nguồn tài chính bị
điều chỉnh về khu vực không có hiệu suất, góp phần giữ lao động tại khu
vực này, trong khi đó những khu vực có hiệu suất và những ngành nghề
mới không được phân bổ đầy đủ nguồn lực tài chính và lao động nên gặp
khó khăn trong phát triển hoạt động của mình. Tóm lại, nợ động vừa d n
đến đầu tư quá mức ở các xí nghiệp hoạt động kém hiệu quả, vừa d n đến
đầu tư không đủ ở các xí nghiệp có khả năng mở rộng sản xuất. Hai hiện
tượng này che lấp l n nhau khiến cho tác hại của nợ đọng khó nhận ra
được. Và đây là một nguyên nhân nữa khiến nợ đọng lại đẻ ra nợ động.
 Đầ

ư ư

â

m: Nhu cầu đầu tư tư nhân giảm làm tổng cầu giảm

có thể là nguyên nhân kinh tế suy giảm. Còn nguyên nhân khiến nhu cầu
đầu tư tư nhân giảm là tình trạng đói tín dụng. Nợ xấu khiến cho các ngân
8


hàng ngần ngại cho vay; và điều này ảnh hưởng đến đầu tư. Các xí nghiệp
nhỏ, nhất là trong ngành chế tạo, phải đối mặt với tình trạng này nhiều
hơn.
1.2 Nguyên nhân
1.2.1
Nhà kinh tế học Hoa Kỳ đoạt giải Nobel năm 2008 là Paul Krugman cho rằng
chính b y thanh khoản đã làm cho nền kinh tế Nhật Bản trì trệ kéo dài. B y

thanh khoản xảy ra khi năng lực sản xuất tương lai thấp hơn năng lực sản
xuất hiện tại. Già hóa dân số và sinh ít khiến cho nhóm dân số trong độ tuổi
lao động ở Nhật Bản giảm trung bình hàng năm 0,7% trong vòng 30 năm tới
và giảm 1% trong vòng 25 năm sau đó. Khi lực lượng lao động giảm nhanh
hơn dân số, thì năng lực sản xuất bình quân đầu người của tương lai được dự
tính là sẽ giảm đi so với hiện nay. Mặt khác, vấn đề kinh tế dai dẳng của Nhật
Bản là do người tiêu dùng muốn tiết kiệm nhiều hơn doanh nghiệp muốn đầu
tư. Dự tính về lực lượng lao động trong tương lai giảm sẽ làm giảm lợi tức kỳ
vọng của đầu tư. Ngoài ra, vấn đề nợ xấu của khu vực ngân hàng khiến cho
họ khắt kh hơn trong phê duyệt các khoản cho vay, nên sẽ có tác động tiêu
cực đến đầu tư của xí nghiệp
1.2.2
Trong thập kỷ 1990, trước thực tế nền kinh tế trì trệ triền miên, một số biện
pháp kích cầu đã được thực hiện nhằm vực dậy nền kinh tế Nhật Bản. Nhưng,
nền kinh tế v n tiếp tục trì trệ. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy chính sách kích
cầu của Nhật Bản có phát huy tác dụng, nhưng mức độ hiệu quả lại thấp.
Nguyên nhân khiến hiệu suất của chính sách kích cầu thấp có thể là:
 Chi tiêu công cộng của Chính phủ đã hướng hết vào các công trình
công cộng vô bổ.
 Chính sách tài chính của Nhật Bản không được thiết kế với mục tiêu
tối đa hóa tác động vĩ mô của nó. Đáng lẽ, các gói kích cầu phải chủ
yếu dành cho chi tiêu vào mạng lưới an sinh xã hội và giảm thuế tiêu
dùng, chứ không nên dựa vào chi cho câc công trình công cộng và
giảm thuế chung chung như chính phủ Nhật Bản đã thực hiện.
9


 Phần chi tiêu công cộng do các chính quyền địa phương triển khai
không đủ mức đề ra do các chính quyền này đã dùng một phần gói
kích cầu để bù đắp thâm hụt ngân sách địa phương. Các công trình

công cộng địa phương đã không có tác dụng nâng cao năng suất của
vốn đầu tư tư nhân.
 Giá trị các gói kích cầu nhỏ, không đủ vực dậy nền kinh tế.
1.2.3
Ngân hàng Nhật Bản bị phê phán là đã chậm trễ trong việc nới lỏng chính
sách tiền tệ (giảm lãi suất). Đến khi quyết định giảm lãi suất, thì lại giảm
không đủ mức; thậm chí còn vội vàng nâng lãi suất ngày khi nền kinh tế có
dấu hiệu phục hồi vào cuối năm 1993.
Đến mùa hè và thu năm 1995, lãi suất ngắn hạn từ mức trên 2% xuống còn
0,4~0,5%. Khi kinh tế Nhật Bản lại rơi vào suy thoái từ đầu năm 1997, Ngân
hàng Nhật Bản đã không còn khả năng giảm lãi suất. Từ năm 1998, nền kinh
tế chính thức rơi vào trạng thái giảm phát. Khu vực tư nhân bắt đầu hình
thành dự tính rằng xu hướng giảm phát sẽ tiếp tục (tức là dự tính lạm
phát mang dấu âm).

ai điều này d n đến lãi suất thực tế tăng lên, vì lãi suất

thực tế bằng lãi suất danh nghĩa trừ đi dự tính lạm phát. Đầu tư và tiêu dùng
tư nhân bắt đầu giảm càng làm cho khoảng cách giữa tổng cầu và tổng
cung càng tăng. iảm phát càng nghiêm trọng hơn, và đây chính là "b y giảm
phát" mà Nhật Bản mắc phải. Giảm phát làm cho gánh nặng nợ của xí nghiệp
lớn thêm vì nợ quá hạn gia tăng, làm cho lợi nhuận của xí nghiệp giảm vì lãi
suất thực tế và tiền công thực tế trở nên cao hơn. Do đó, xí nghiệp trở nên dè
dặt trong đầu tư thiết bị khiến cho nhu cầu đầu tư tư nhân giảm làm tổng cầu
giảm theo.
1.3 Ứng phó c a Nh t B n
Ban đầu, Ngân hàng Trung ương Nhật ứng phó với khủng hoảng bằng cách đưa
ra một số chính sách tiền tệ thông thường đó là cắt giảm lãi suất tái chiết khấu.
Ngoại trừ một lần ngắt quãng vào năm 1994, Ngân hàng Trung ương Nhật đều
đặn hạ lãi suất trong khoảng giữa năm 1991 đến giữa năm 1995. Lãi suất đã


10


được hạ đến 8 lần trong khoảng thời gian trên. Ngân hàng Trung ương Nhật sau
đó chuyển mục tiêu sang lãi suất cơ bản, mức lãi suất mục tiêu là 0,5%.
Năm 1997, việc một số tổ chức tài chính lớn sụp đổ cho thấy rõ hơn về quy mô
khủng hoảng và cho thấy cần đưa ra thêm nhiều biện pháp để làm giảm căng
thẳng điều kiện tín dụng. Môi trường kinh tế vĩ mô đi xuống nhanh chóng, điều
kiện tín dụng thắt chặt. Tuy nhiên Ngân hàng Trung ương không còn có thể tiếp
tục nới lỏng.
Để tiếp tục h trợ thanh khoản và đóng vai trò thay thế cho thị trường liên ngân
hàng đang gặp khó khăn, Ngân hàng Trung ương Nhật mở rộng biên độ và sự
linh hoạt của các công cụ tiền tệ: tăng bảo đảm trái phiếu doanh nghiệp, thương
phiếu đảm bảo bằng tài sản và một số loại hình chứng khoán đảm bảo bằng tài
sản khác, cung cấp thanh khoản trong dài hạn.
II. Đ i khủng ho ng ở Mỹ (1930 – 1933)
Đại khủng hoảng là thời kỳ suy thoái kinh tế toàn cầu diễn ra từ năm 1929 đến hết
các năm 1930 và lấn sang đầu thập kỷ 1940, bắt đầu sau sự sụp đổ của thị trường
chứng khoán Phố Wall vào 29 tháng 10 năm 1929 (còn được biết đến như Thứ Ba
Đen tối). Nó bắt đầu ở Hoa Kỳ và nhanh chóng lan rộng ra toàn Châu Âu và mọi nơi
trên thế giới, phá hủy cả các nước phát triển. Thương mại quốc tế suy sụp rõ rệt,
từ thu nhập cá nhân, thuế, lợi tức đều bị ảnh hưởng và suy thoái.
1.1 Nguyên nhân
1.1.1

ng c a vi

ơ ồ ạt


Thập niên 1920 là thập niên tăng trưởng tại mỹ.Từ năm 1921 đến 1929,
sản lượng công nghiệp tăng khoảng 40%( 50% tùy theo nguồn), nghành
nông nghiệp bắt đầu đi vào hiện đại hóa, người nông dân vay mượn để đầu
tư săn xuất, đưa sản lượng nông nghiệp đến tình trạng sản xuất thừa. Thập
niên 1920 đưa nước Mỹ đến xã hội tiêu thụ, Ngân hàng phát triển tín
dụng, cho phép người dân mua sắm hàng hóa tiêu dung lâu bền, x hơi,
nhà ở. Đây cũng là thời kỳ thị trường chứng khoán phát triển mạnh . Đầu
tư chứng khoán không phải là không có cơ sở, nó gắn liền với viễn tưởng
phồn thịnh do nền kinh tế thực mang lại. Tuy nhiên, nhà đầu tư nhanh
chóng trở thành nhà đầu cơ: những cổ đông l c này không quan tâm đến

11


cổ tức được chi trả bao nhiêu và chỉ quan tâm vào giá bán cổ phiếu được
bao nhiêu.
Và đầu cơ đẩy lên cao trào là vào năm 1929.Chỉ trong năm 1929, đã có
một lượng cổ phần kỷ lục là 1,124,800,410 được giao dịch trên sàn NYSE.
Từ đầu năm 1928 đến tháng 9 năm 1929, chỉ số công nghiệp Dow
Jones tăng từ 191 điểm lên 38139 điểm. Không một nhà đầu tư nào có thể
bỏ qua mức lợi nhuận như vậy. Nguy hiểm hơn, với sự tăng ổn định của giá
cổ phiếu, người ta bắt đầu vay để mua chứng khoán. Chẳng hạn nhà đầu tư
A có thể có 10 USD và vay 75 USD từ người môi giới của mình. Nếu anh ta
bán cổ phiếu khi giá là 420$ ở thời điểm một năm sau, anh ta đã biến từ 10
USD đầu tư ban đầu thành 341.25 USD (420 trừ 75 và 5% lãi suất trả cho
người môi giới). Tức là lợi suất lên đến 3400%. Con số này càng th c đẩy
"cơn điên" cổ phiếu. Cho đến giữa năm 1929, tổng lượng cho vay đang lưu
hành của những đơn vị môi giới là hơn 7 tỷ USD, ba tháng sau con số này
là 8,5 tỷ USD. Lãi suất thanh toán cho các khoản vay này cũng tăng nhanh
không kém, đạt mức 20% vào năm 1929. Cơn bùng nổ đầu cơ này hoàn

toàn chỉ dựa trên những niềm tin vô căn cứ, và nó trái ngược với sự sụp đổ
khủng khiếp vài tháng sau đó cũng chính ở cơ sở, sụp đổ bắt nguồn từ sự sợ
hãi. Hầu hết nước Mỹ không thể quên cái ngày THỨ BA ĐEN TỐI, ngày
29 tháng 10 năm 1929 mở đầu một thập niên của tình trạng thất nghiệp tràn
lan, nghèo túng và vật lộn chống lạm phát .
Vào tháng 4/1929, lãi suất bắt đầu tăng dần, khiến lợi nhuận từ đầu cơ
chứng khoán yếu đi, và kéo th o đó, nhũng người đi vay để đầu cơ mất
dần khả năng trả nợ.Khi lợi nhuận từ việc đầu cơ vào cổ phiếu không còn,
các nhà đầu cơ lần lượt báo tháo cổ phiếu làm giá cổ phiếu giảm mạnh
trên thị trường. Hiện tượng ồ ạt bán cổ phiếu hàng loạt diễn ra từ ngày 18
đến 23/10/1929. Đến ngày 24/10 thì thị trường chứng khoán ở New York
tuột dốc tự do, gây ra hoảng loạn.
Sự sụp đổ của thị trường chứng khoán đã đẩy Mỹ vào suy thoái.Tiêu dùng
và đầu tư bị ảnh hưởng trực tiếp.Người dân bắt đầu lo lắng về thu nhập, họ
tiêu dung ít hơn trước.Các ngân hàng đua nhau phá sản nguyên nhân do
người vay vốn đầu cơ không còn khả năng trả nợ, cổ phiếu đầu cơ không
còn giá trị, còn những người gửi tiền lo lắng và rủ nhau ồ ạt rút tiền gửi ra
khỏi ngân hàng.
12


Chỉ vài tháng sau, khủng hoảng chứng khoán biến thành khủng hoảng
ngân hàng. Điều này khiến các công ty không thể tiếp cận nguồn vốn vay
để đầu tư, khiến cho hoạt động kinh doanh sản suất bị đình trệ.
1.1.2 Chính sách ti n t thi u h p lý
Thêm vào đó chính sách tiền tệ và chi tiêu đã làm cho sự việc thêm
nghiêm trọng.Chính quyền mỹ l c đó chỉ quan tâm đến cân bằng ngân
sách hơn việc chấp nhận thâm hụt ngân sách để duy trì việc làm và sản
lượng.
1.1.3 Duy trì t giá c


ịnh

Mặt khác, muốn duy trì bản vị vàng – một dạng của chính sách tỷ giá cố
định, FED đã không thực hiện chính sách nới lỏng chính sách tiền tệ cần
thiết.Chính sách nay đã góp phần gây ra giảm phát, mức giá chung trong
giai đoạn 1929-1933 giảm và d n đến tình trạng giảm phát nợ.Mức giá
tiêu dung giảm đồng nghĩa với giá trị thực của nợ tăng.Các món nợ quá
hạn và nợ xấu tăng lên khiến các ngân hàng phải bán tài sản của họ. Điều
này càng làm cho tình hình tài chính ở các ngân hàng càng trở nên tồi
tệ.Tình trạng giảm phát nợ một mật đẩy các ngân hàng yếu ớt nhanh
chóng sụp đổ, làm giảm lượng tín dụng, thu hẹp đầu tư và tiêu dung, một
mặt vì không có lợi cho người đi vay nên cũng không kích thích vay để
đầu tư.
Tất cả tạo nên một ảnh hưởng dây chuyền mạnh mẽ làm tổng cầu sụt giảm
nặng nề. Khủng hoảng ngân hàng đưa nước mỹ đến khủng hoảng kinh tế
năm 1931 và đi vào đại suy thoái: sản lượng công nghiệp giảm 50%, tỷ lệ
thất nghiệp lên đến 25% trong giai đoạn 1930 – 1932.
1.2

ng c

Đại kh ng ho

GSản xuất công nghiệp
Giá bán buôn
i
Mua bán ngoại thương
Tỷ lệ thất nghiệp
B

B .

n n n kinh t
Mỹ
-46
-32
-70
607

Anh
-23
-33
-60
129

i ch s kinh t 1929 – 1932 ( ơ

Pháp
-24
-34
-54
214

Đức
-41
-29
-61
232

ị %)


Giữa năm 1930, tỷ lệ lãi suất đã giảm xuống mức thấp. Tháng 5 năm 1930,
doanh số bán hàng ô tô đã giảm dưới mức năm 1928 . Giá cả nói chung bắt đầu

13


giảm, mặc dù mức lương v n ổn định vào năm 1930, nhưng sau đó một xoắn ốc
giảm phát bắt đầu vào năm 1931 . Điều kiện được tồi tệ hơn trong khu vực nông
nghiệp, giá cả hàng hóa giảm, và trong khai thác mỏ và khai thác g khu vực, nơi
tỷ lệ thất nghiệp cao và có ít việc làm khác. Sự suy giảm trong nền kinh tế Mỹ là
yếu tố kéo xuống hầu hết các nước khác l c đầu, sau đó điểm yếu nội bộ hay sức
mạnh ở m i nước điều kiện tồi tệ hơn hoặc tốt hơn . Đến cuối năm 1930, một sự
suy giảm ổn định trong nền kinh tế thế giới đã thiết lập.
 S n xu t công nghi p: sản xuất công nghiệp của thế giới trung bình giảm 38
% , riêng Mĩ giảm 46%, Đức chịu tốc độ âm 47%, riêng ở Mĩ đã có 13 vạn
công ty bị phá sản.

H4. S n xu t công nghi p Mỹ (1928 – 1939)
 Tài chính: hàng ngàn ngân hàng đóng cửa, riêng ở Mỹ có 5000 ngân hàng
phá sản chiếm 40% số ngân hàng thế giới.
 Tình tr ng th t nghi p: Hàng chục triệu công nhân bị thất nghiệp. Ở Mỹ,
năm 1929 có 3% thất nghiệp trong tổng số người lao động, đến năm 1933 đã
lên tới 25%. Hàng triệu nông dân bị phá sản, đời sống của những người lao
động hết sức cùng cực.

14


H5. T l th t nghi p Mỹ 1910 – 960 ( ơ


ị %)

1.3 Gi i pháp
Để cứu vãn tình hình, chính phủ các nước tư bản thi hành một số chính sách như
đánh thuế nhập cảng nặng để hạn chế hàng hoá nước ngoài vào, lấy tiền trong
ngân quỹ nhà nước trợ cấp cho các nhà tư bản. Ở Mỹ. ban đầu, các nhà hoạch
định chính sách cố gắng khôi phục lòng tin cho thị trường bằng các bài phát biểu
trấn an người dân, tổng thống

rb rt

oov r làm yên lòng người Mỹ rằng kinh

tế nước này v n tiến triển tốt.
Mọi thứ chỉ thay đổi sau khi tổng thống Franklin D Roosevelt lên làm tổng thống
năm 1932, chính phủ can thiệp vào để khởi động lại chương trình trợ cấp thất
nghiệp cho người dân, ổn định thị trường bằng cách hạn chế sản xuất, khuyến
khích phát triển chương trình an sinh xã hội. Tuy nhiên, chính quyền của ông
Roosevelt không có nhiều thành công trông hồi phục tăng trưởng kinh tế và lòng
tin người tiêu dùng v n ở mức thấp. Cuộc Đại Khủng Hoảng kéo dài bất chấp
một loạt các biện pháp mới nhằm giảm nhẹ thiệt hại cho người dân, cụ thể là
cung cấp thêm việc làm mới, h trợ hay bảo vệ các khoản thế chấp. Mãi đến đầu
Chiến tranh Thế giới thứ Hai, khi chính phủ Mỹ áp dụng lý thuyết kinh tế học
Keynes với trọng tâm chính là nêu bật vai trò tăng trưởng tiền lương (để tăng
tổng cầu) và vai trò của nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế, nền kinh tế mới
hồi phục. Sản lượng sản xuất tăng gấp đôi trong chiến tranh, tình trạng thất
nghiệp biến mất khi phụ nữ và người da đ n được kêu gọi tham gia vào lực
lượng lao động thay cho hàng triệu người đã tham gia vào quân ngũ. Vào l c
đỉnh cao, chính phủ Mỹ đã vay nợ một nửa tiền cần thiết để có tiền chi trả cho

chiến tranh.

15


3
1999 – 2002)

I.

Đây là giai đoạn xu hướng lạm phát đổi chiều thành giảm phát. Nếu như tỷ lệ lạm
phát năm 1998 còn khá cao 7,9% thì sang các năm sau, con số cứ giảm dần xuống còn
4,1% vào năm 1999; 3,6% vào năm 2000 và 0,8% vào năm 2001. Sang năm 2002, nền
kinh tế có dấu hiệu phục hồi, chỉ số giá chung cho 10 tháng đầu năm tăng 3,4% so với
tháng 12/2001.
Năm

1995

1996

1997

1998

1999

2000

2001


2002

Chỉ tiêu

10

10

7

7.8

10

6

5

5

Thực hiện

12.7

4.5

3.6

9.0


0.1

-0.6

0.8

0.3

B2.

ộ ạ

Nguồn: báo cáo thường niên của ngân hàng nhà nước
Diễn biến lạm phát trong từng năm đều có đặc điểm riêng mà ch ng ta sễ lần lượt
nghiên cứu sau đây.
1. .





Từ tháng 3 đến tháng 12/1999, tức là trong 8 tháng liên tục, chỉ số giá cả giảm.
Tính riêng từng mặt hàng, có ảnh hưởng quan trọng đến chỉ số giá cả ở Việt Nam thì
giá lương thực sụt giảm trong cả năm: chỉ số giá lương thực giảm 7,8% so với tháng
12 năm 1998, thậm chí giảm tới 10,5% ở thời điểm tháng 12/1999. Sự giảm s t giá
lương thực là do được mùa l a (sản lượng lương thực quy thóc đạt mức cao chưa
từng có ở nước ta: 33,8 triệu tấn) và giá gạo xuất khẩu giảm 17,8% (so với năm
1998) dưới tác động của xu hướng đi xuống của giá gạo trên thị trường thế giới.
Sang năm 2000, chỉ số giá liên tục giảm và tình trạng này kéo dài trong nhiều

tháng ở quý II và quý III; một số tháng C I có nhích lên nhưng không đáng kể. So
với tháng 12/1999, chỉ số giá giảm suốt từ tháng 3 cho đến tháng 12 và bình quân cả
năm đã giảm 0,6%. Rõ ràng thiểu phát đã xảy ra với tốc độ 0,6% vào năm 2000. iá
hàng lương thực- thực phẩm (đặc biệt là lương thực) v n tiếp tục giảm. Trong cả
năm này, giá lương thực giảm 9,5%, giá thực phẩm giảm 2,3% so với năm 1999.
Tuy các hàng hoá khác đều có giá tăng từ 1% đến 3% nhưng do trọng số của nhóm
lương thực - thực phẩm trong rổ hàng hóa để tính C I lớn (gần 50%) nên chỉ số giá
chung cả năm bị kéo xuống thấp.
16


Đến năm 2001, giá cả khá ổn định. Chỉ số trượt giá tháng 12/2001 so với cùng kỳ
năm 2000 là 100,8% hay tỷ lệ lạm phát của năm đó là 0,8%. Nền kinh tế đã trải qua
5 tháng chỉ số giá tăng, 3 tháng chỉ số giá đứng và 4 tháng rơi vào thiểu phát. Tuy
nhiên, biên độ dao động của chỉ số giá qua các tháng rất nhỏ, chưa đến 0,5%/ tháng
(trừ tháng 12/2001, mức giá chung tăng 1%). Trong năm 2001, giá hàng lương thực
giảm mạnh, ở thời điểm tháng 6, tháng 7 năm 2001 chỉ bằng 94% so với tháng
12/2000. Với nhóm hàng thực phẩm, mặt bằng giá thị trường qua các tháng đều ở
mức xấp xỉ 100% so với tháng 12/2000. Đến cuối năm, nhất là từ tháng 10, chỉ số
giá của tất cả các nhóm hàng đều có xu hướng gia tăng mạnh mẽ. Vào tháng
10/2001, chỉ số giá vàng tăng cao hơn tháng 12/2000 là 6%. iá lương thực đặc biệt
tăng mạnh vào tháng 12, so với cùng kỳ tăng 6%.
u hướng giá cả trong mười tháng đầu năm 2002 cho thấy thị trường nước ta
không còn tình trạng cung vượt cầu, giá cả liên tục giảm như vài ba năm vừa qua.
Ngay từ những tháng đầu năm, giá hàng lương thực, thực phẩm (đặc biệt là giá một
số loại thực phẩm tươi sống) tăng mạnh. Tốc độ trượt giá lương thực, thực phẩm qua
10 năm là 5,4%, riêng giá thực phẩm (nhất là thịt lợn) tăng 8,6%.

iá cả các nhóm


hàng khác không phải là lương thực, thực phẩm tăng không đáng kể. Diễn biến tích
cực của giá lương thực, thực phẩm đã kéo th o chỉ số giá tiêu dùng của 10 thấng đầu
năm 2002 lên 103,4% hay tỷ lệ lạm phát là 3,4%.
Như vậy, trong gần 4 năm qua, giá cả nói chung có chiều hướng giảm. Với từng
nhóm hàng cụ thể thì hàng lương thực, thực phẩm thường xuống giá mạnh còn các
hàng hoá khác lại có giá tăng.
1. .
a)



Chỉ số giá tiêu dùng thấp phản ánh sức mua kém của xã hội. Điều này ảnh
hưởng lớn đến sản xuất và tốc độ tăng trưởng kinh tế.

àng hóa ế thừa,

không tiêu thụ được, sản xuất cầm chừng ở nhiều doanh nghiệp đã khiến cho
66% doanh nghiệp quốc doanh bị l , trong đó có tới 16% thua l triền miên
(tính đến giữa năm 2000). Tốc độ tăng trưởng trung bình của giai đoạn 19992001 thấp hơn so với các giai đoạn trước khoảng 2%.

17


iai đoạn

Tăng trưởng D bình quân hàng năm

Ba năm đầu cải cách (1989 - 1991)

6,1%


10 năm đầu cải cách (1989 - 1998)

7,7%

Từ bắt đầu cải cách đến nay

7,1%

10 năm vừa qua (1992 - 2001)

7,5%

Ba năm vừa qua (1999 - 2001)

5,4%

B3. ă

ì



Những biểu hiện cụ thể hơn của tình trạng suy giảm tốc độ tăng trưởng là
hiệu quả sử dụng vốn giảm và tỷ lệ thất nghiệp gia tăng.

ệ số IC R tăng

nhanh : năm 1995 là 1,44 thì đến năm 2000 lên tới 3,48 và đến năm 2001 là
3,82. Điều này cũng có nghĩa là để tăng được một đồng D phải bỏ ra nhiều

vốn đầu tư hơn.
b)


ét về tỷ lệ thất nghiệp năm 1999, tại

à Nội, số người thất nghiệp so với

tổng dân số trong độ tuổi lao động là 10,3%, ở thành phố

ồ Chí Minh là

7,04%. Tính chung cho khu vực thành thị thì tỷ lệ thất nghiệp trong hai năm
1999 và 2000 ở mức cao hơn hẳn so với giai đoạn trước đó; với các con số
tương ứng là 7,4% và 8,4%. Nếu xét trên toàn quốc, số người trong độ tuổi
lao động thất nghiệp là 1,45 triệu người. Điều này một phần là do sự gia nhập
lực lượng lao động của số người đến tuổi lao động (m i năm chiếm 2,9% dân
số), một phần xuất phát từ tình trạng làm ăn thua l , kém hiệu quả nhiều
doanh nghiệp trong điều kiện mức giá chung giảm, không kích thích sản xuất.
c)









Sự tăng giảm thất thường của tỷ lệ lạm phát trong những năm qua thể hiện sự

thiếu ổn định của giá trị đồng tiền và do đó người ta không tin tưởng vào giá
trị đồng nội tệ, d n đến hiện tượng đô-la hoá. Mức độ đô la hoá ở nước ta
hiện nay là trên 30%, tỷ lệ tiết kiệm ngoại tệ lên đến 40% tổng tiền gửi tại các
ngân hàng; ngoài ra còn một lượng USD khó xác định được trong dân ch ng
và các tổ chức được dùng làm phương tiện cất trữ.

iện tượng này làm giảm

tác dụng của các chính sách lãi suất, chính sách điều hành tỷ giá hối đoái.

18


1.3. Nguyên nhân


a)

iá l a vùng đồng bằng sông Cửu Long vào giữa năm 1998 là 2170 đồng/kg,
năm 1999 là 1759 đồng/kg, đến năm 2000 chỉ còn 1300 đồng/kg.
nông sản khác như cà-phê, hạt điều.... cũng diễn biến tương tự.

iá các

iá 1 kg cà-

phê niên vụ 1998 - 1999 là 22.700 đồng, sang niên vụ 1999 - 2000 và 2000 2001, giá tương ứng chỉ còn 9000 đồng và 5000 - 8000 đồng.
Tỷ trọng hàng nông sản, đặc biệt là lương thực trong cơ cấu hàng hoá tính chỉ
số giá hàng tiêu dùng là lớn nên khi giá nông sản giảm mạnh thì chỉ số C I
cũng giảm đáng kể.

b)
 Cơ cấu đầu tư thời gian qua đã không đ m lại hiệu quả cao. Trong chủ
trương, đường lối phát triển kinh tế, nông nghiệp được coi là mặt trận
hàng đầu song khi thực hiện, khu vực này chưa thực sự được ưu tiên đ ng
mức. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký vào ngành nông
nghiệp từ năm 1998 đến năm 1999 chỉ chiếm 3,6% tổng vốn FDI, trong
khi chỉ tiêu này đối với công nghiệp là 9,5%. Nếu như công nghiệp tăng
được xấp xỉ 2,7 lần thì nông nghiệp chỉ tăng khoảng 1,4 lần so với giai
đoạn 1990-1998.

ơn nữa, sau cơn bão tài chính - tiền tệ Châu Á (1997 -

1998), nguồn vốn FDI đăng ký vào nước ta giảm từ năm 1997 đến năm
1999, năm 2000 - 2001 tuy có tăng nhưng v n thấp hơn năm 1997 (năm
1997 là 2.768 triệu USD, năm 2000 là 1.900 triệu USD, sơ bộ năm 2001
là 2.100 triệu USD; ước tính 8 tháng đầu năm 2002 chỉ ở mức 1.450 triệu
USD).
 Về cơ chế, chính sách cũng như trong quá trình thực hiện đầu tư, việc cấp
vốn chưa th o đ ng cơ chế thị trường nên vốn dễ bị thất thoát lớn; đôi khi
cấp vốn mà không x m xét hiệu quả của dự án đầu tư, quan hệ cung cầu
cũng như khả năng cung ứng nguyên liệu cho dự án.
c)
Có thể kể ra nhiều lý do khác nữa d n đến tình trạng giảm phát vừa qua, như
hiệu ứng lan tỏa của suy thoái và giảm phát ở khu vực và thế giới, ảnh hưởng
19


của sự phá giá tiền tệ ở nhiều nước lân cận, mức thu nhập thấp của dân cư
nông thôn.
1. .

Trước tình hình giảm phát và trì trệ kinh tế, một loạt chính sách vĩ mô được Nhà
nước đề ra và đưa vào thực hiện nhằm kích thích đầu tư và tiêu dùng, khôi phục phát
triển kinh tế: chương trình giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động;
khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài; nới lỏng chính sách tiền tệ và chính
sách tài khoá.
a)







Năm 1999, chính phủ đã tăng thêm 50 tỷ đồng vốn đầu tư phát triển để giải
quyết công ăn việc làm cho người lao động. Đến năm 2000, thêm 1,3 triệu lao
động trong cả nước có việc làm. Nhờ đó, người lao động có nguồn thu nhập
và sức mua của xã hội sẽ tăng lên.
Cũng để tăng sức mua của người tiêu dùng, làm tăng tổng cầu, Nhà nước đã
bơm tiền từ Ngân sách vào lưu thông thông qua chính sách tăng lương tối
thiểu từ 120.000 lên 144.000 (năm), rồi tăng tiếp lên 180.000 (năm 1998) và
ở mức 210.000 đồng/ tháng (năm 2000).
Tuy nhiên, chính sách việc làm và thu nhập chưa ăn khớp với chính sách giáo
dục, đào tạo, tỷ lệ thất nghiệp v n cao, nơi thiếu lao động thì v n thiếu, còn
nơi thừa lao động v n có những người đổ xô vào. Lương công chức nhà nước
còn thấp, không đảm bảo mức sống trung bình trong điều kiện tỷ lệ lạm phát
không ổn định.
b)






Động thái rõ nét nhất thể hiện chủ trương của chính phủ khuyến khích đầu tư
là sự ra đời của một số văn bản cam kết đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư.
Trước hết phải kể tới việc ban hành luật sửa đổi Luật Khuyến Khích đầu tư
trong nước có hiệu lực từ 1/1/1999 và Nghị định 51/1999/NĐ-CP.
Ngày 26/3/1999, Quyết định 53/1999/ QĐ-TTg về việc áp dụng một giá
thống nhất cho đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư trong nước được ban
hành. Các nhà đầu tư nước ngoài dần dần được đối xử bình đẳng như các nhà
đầu tư trong nước về mặt kinh tế. Vào đầu năm 2002, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
20


(M I) đã hoàn thành việc kiểm tra và phân loại các dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài do Bộ quản lý để đưa ra các đề xuất về chính sách với Chính phủ
nhằm tháo gỡ khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Nhờ đó, lượng vốn FDI vào Việt Nam sau sự sụt giảm năm 1999 đã bắt đầu
tăng trở lại còn vốn đầu tư trong nước cũng tăng cả về giá trị l n tỷ trọng.
Những n lực của chính phủ, các bộ, ngành và địa phương nhằm cải thiện
môi trường đầu tư đã đ m lại nhiều kết quả tích cực nhưng nhìn chung chưa
tạo được bước chuyển lớn trong việc thu h t vốn đầu tư. Nước ta chưa trở
thành điểm đến hấp d n đối với các nhà đầu tư nước ngoài, mà Nhật Bản là
một ví dụ. Lượng vốn FDI của Nhật vào Việt Nam hiện nay tăng gấp đôi so
với năm 2000, với tổng số vốn 160 triệu USD cho 39 dự án, nhưng chỉ bằng
1/12 và 1/33 so với FDI của Nhật tương ứng vào Thái Lan và Trung Quốc.
c)


Nhà nước đã đẩy mạnh đầu tư từ ngân sách nhằm tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước) cải tiến, đổi mới công nghệ,

nâng cao hiệu quả đầu tư và tái đầu tư phát triển. Chi Ngân sách Nhà nước
năm 2000 gấp 2,9 lần về mặt số tuyệt đối so với năm 1991; còn nếu tính th o
giá hiện hành thì con số so sánh lên tới 8,5 lần. Ngân sách đầu tư cho phát
triển trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn vào năm 1999 tăng 57% so với
năm 1998. Đối với các doanh nghiệp, 2000 tỷ đồng từ Ngân sách đã được cấp
cho các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn kém hiệu quả nhằm tăng vốn lưu
động từ năm 1998 đến năm 2000. Mức bội chi Ngân sách đã được tăng lên
tới 4,9% và 5% D tương ứng vào các năm 1999, 2000.
Tuy nhiên, chính sách đầu tư từ ngân sách nhà nước còn nhiều điểm chưa phù
hợp với yêu cầu phát triển kinh tế hiện nay. hần lớn vốn nhà nước được rót
vào khu vực kinh tế nhà nước song hiệu quả đầu tư lại thấp. Ngoài ra, tới
80% lượng tín dụng thương mại được cấp cho các doanh nghiệp nhà nước mà
thực chất là một hình thức trợ cấp.
Cơ cấu đầu tư cũng còn nhiều điều bất hợp lý. Chẳng hạn, đầu tư trong nông
nghiệp chỉ chiếm 6% ngân sách là rất thấp so với các nước trong khu vực.
Trong khi giá nông sản thường xuyên giảm thì Nhà nước chưa có chính sách
21


khuyến khích nghiên cứu để đưa ra các dịch vụ x c tiến, h trợ buôn bán các
mặt hàng nông sản.
Chính phủ còn giành nhiều ưu đãi về thuế nhằm bảo hộ và th c đẩy sản xuất
trong nước. Từ năm 1999, thuế suất thuế giá trị gia tăng đối với hàng xuất
khẩu và thuế suất thuế xuất khẩu nông sản đều là 0%. Thuế thu nhập doanh
nghiệp cũng được giảm nhẹ. Đây là những bước đi có ý nghĩa quan trọng để
hạ giá thành hàng xuất khẩu, làm tăng kim ngạch xuất khẩu, giải quyết bớt
tình trạng hàng hóa trong nước ứ đọng, không tiêu thụ được.
Nghị quyết số 05/NQ- C ngày 24/25/2001 còn quy định về việc miễn giảm
thuế sử dụng đất nông nghiệp năm 2001 cho tất cả các hộ nghèo trên toàn
quốc, giảm 50% thuế đất trồng l a, cà phê nhằm h trợ làm tăng thu nhập của

nông dân, nâng cao sức mua của họ. Một số loại thuế, phí và lệ phí khác như
thuế chuyển quyền sử dụng đất, lệ phí trước bạ, lệ phí cấp chứng nhận văn
phòng đại diện của nước ngoài cũng được miễn giảm. Những ưu đãi thuế của
Chính phủ thực sự là đòn bẩy cho đầu tư, mở rộng sản xuất, kích thích tiêu
dùng.
d)
Ngoài các biện pháp quan trọng kể trên, cần kể tới một biện pháp có tác dụng
tích cực trong kích cầu đầu tư và tiêu dùng là chính sách tiền tệ nới lỏng với
các công cụ lãi suất, dự trữ bắt buộc , tái cấp vốn và hoạt động thị trường mở.


:
Ngân hàng Nhà nước (N NN) đã liên tục giảm lãi suất cơ bản. Riêng
trong năm 2001, lãi suất cơ bản được giảm 4 lần: từ 0,75%/ tháng (vào
ngày 1/3/2001) xuống còn 0,72%/ tháng (1/4/2001), 0,65%/ tháng
(1/6/2001) và 0,6% (vào ngày 1/10/2001), nhưng biên độ dao động
v n là 0,3% và 0,5% tưong ứng với các khoản vay ngắn hạn và dài
hạn. 7/2002, Thống đốc N NN đã ra quyết định 546/2002/QĐ N NN về thực hiện lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng
thương mại bằng đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng đối với khách
hàng.

22


Song song với việc giảm lãi suất cho vay, lãi suất tiền gửi của hệ
thống ngân hàng đã giảm đến mức thấp nhất từ trước đến nay, bình
quân từ 0,6% - 0,7%/tháng. Về lãi suất cho vay ngoại tệ, Ngân hàng
Nhà nước v n quy định lãi suất cho vay ngắn hạn bằng lãi suất SIB R
kỳ hạn 3 tháng cộng với 1%, còn lãi suất cho vay trung hạn bằng
SIB R kỳ hạn 6 tháng cộng với 2,5%.



r
Ngày 1/12/2001, Ngân hàng Nhà nước giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối
với tiền gửi ngoại tệ không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng từ mức
15% xuống còn 8%. 18/11/2002, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã
ban hành quyết định số 1277/ 2002/ QĐ- N NN về việc giảm tỷ lệ dự
trữ bắt buộc xuống còn 5% tổng số dư tiền gửi bằng ngoại tệ của các
tổ chức tín dụng. Sự cắt giảm như vậy gi p các tổ chức tín dụng có
thêm vốn để cho khách hàng vay, th c đẩy sản xuất và tiêu dùng, khắc
phục giảm phát.
Th o quy định của Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với
nội tệ được giảm từ mức 5% xuống còn 3% luợng vốn huy động bằng
đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng kể từ ngày 1/12/2001. Như
vậy, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đã giảm mạnh so với mức
giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc áp dụng cho nội tệ và điều này làm cho lãi
suất tiền gửi VND cao hơn tương đối so với lãi suất tiền gửi bằng
USD, góp phần hạn chế tình trạng đô-la hóa tiền gửi trong hệ thống
ngân hàng, cải thiện lòng tin của người dân vào VND trong tương lai.


Khi muốn kích thích đầu tư và tiêu dùng, khắc phục giảm phát, N NN
sẽ tăng cường các hoạt động tái cấp vốn hoặc giảm lãi suất tái cấp vốn.
ần đây N NN đã có những bước điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn cho
phù hợp với thực trạng kinh tế. Để tạo thêm cơ hội cho các ngân hàng
thương mại chủ động hơn đối với các nguồn vốn vay, đồng thời tăng
cung ứng tiền và kích cầu, khắc phục giảm phát, lãi suất tái cấp vốn

23



được giảm liên tục 0,85%/tháng xuống còn 0,7%/tháng vào ngày
4/9/1999 và đến 1/7/2001 chỉ còn 0,4%/tháng.




rườ



Đây là một công cụ quan trọng được ngân hàng trung ương các nước
sử dụng để điều hành có hiệu quả chính sách tiền tệ. Tại thị trường
mở, Ngân hàng trung ương mua bán tín phiếu, trái phiếu và các công
cụ tài chính khác với các, tổ chức tín dụng nhằm làm thay đổi lượng
tiền cơ bản, qua đó tác động đến mức cung tiền cho toàn bộ nền kinh
tế.
Nghiệp vụ thị trường mở mới được đưa vào sử dụng ở nước ta từ ngày
12/7/2000 và đã đạt được một số kết quả khả quan. Doanh số giao dịch
trên thị trường mở ngày càng tăng: năm 2000 đạt gần 2000 tỷ đồng,
năm 2001 đạt 4000 tỷ đồng, riêng 6 tháng đầu năm 2002 đạt 5.500 tỷ
đồng.
Tuy nhiên, v n tồn tại nhiều vấn đề cần bàn xung quanh hoạt động của
thị trường này ở Việt Nam. Đến tháng 11/2002, N NN mới chủ yếu
sử dụng công cụ tín phiếu kho bạc và tín phiếu ngân hàng nhà nước
còn các công cụ khác như chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, chấp
phiếu ngân hàng v n chưa được lưu thông trên thị trường mở. Vì vậy,
hàng hóa trên thị trường này chưa phong ph về chủng loại cũng như
thời hạn hoạt động thị trường mở chưa thật sôi động.
Những n lực của Chính phủ nhằm khắc phục giảm phát và kích cầu đã phần nào

khôi phục lại tổng đầu tư xã hội và tăng trưởng D thực tế, chặn đứng đà s t giảm
tăng trưởng kinh tế và tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ
châu Á.
II.


Vừa qua, Việt Nam phải đối mặt với tình trạng lạm phát cao nhưng không vì thế mà
gạt bỏ n i lo về giảm phát.
Nến kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế đang trải qua thời kỳ khó khăn do các chính
sách thắt chặt; chỉ số giá cả CPI lên tới 20.82%; lãi suất cho vay ra nền kinh tế ở
mức 20-22%; các ngân hàng không thiếu thanh khoản nhưng chưa sẵn sàng cho vay
24


ra nền kinh tế do chi phí vốn cao trong khi các doanh nghiệp lành mạnh không thể
có lãi với chi phí lãi vay quá cao; khoảng 30% doanh nghiệp đã bị phá sản; chính
sách tài khóa không hẳn là thắt chặt và do vậy chính sách tiền tệ sẽ v n được dùng là
công cụ chính để điều tiết kinh tế.
Trong nền kinh tế này, nếu tiếp cận theo hướng khi nào lạm phát về mức mong đợi
thì l c đó mới giảm lãi suất thì có thể vòng luẩn quẩn mới lại tiếp tục bởi những
chính sách giật cục sẽ mang lại những cú sốc với nền kinh tế. Phần lớn giới nghiên
cứu đều đưa ra nhận định rằng chỉ số giá hàng tháng đã giảm và chỉ số giá th o năm
được dự báo sẽ đạt đỉnh vào tháng 8/2011 ở mức khoảng 22%, cho thấy rằng xu thế
lạm phát đang sẵn sàng để thay đổi th o hướng giảm xuống. Vấn đề mấu chốt của
quan ngại lạm phát không còn nằm ở việc nó sẽ đạt mức bao nhiêu, mà là xu thế lạm
phát có thay đổi hay không.
Th o đánh giá, nếu mặt bằng lãi suất tiếp tục ở mức cao, nền kinh tế Việt nam sẽ đối
diện với nguy cơ giảm phát trong thời gian tới bởi sự sụt giảm của cả cung và cầu.
Số liệu của tổng cục thống kê tính đến hết tháng 6/2011 cho thấy, trong khi tổng
mức bán lẻ hàng hóa giảm đều trong thời gian qua, từ khoảng 25-26% cuối năm

trước xuống 22-23% ở hiện tại, thì giá trị sản xuất công nhiệp đã có những sự sụt
giảm mạnh trong thời gian gần đây, giảm còn 9.7% so với trung bình khoảng 14%
trước đó. Điều này phù hợp với quan sát về sự khó khăn của doanh nghiệp nêu trên
và có nghĩa là thời kỳ khó khăn nhất của doanh nghiệp thực sự đang bắt đầu.
Sự khó khăn của doanh nghiệp trong nước và sự giảm s t của sản xuất nội địa cũng
được nhìn thấy qua việc tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp hơn trong nửa đầu năm
(5.57% so với cùng thời kỳ năm trước) và giá trị thâm hụt thương mại gia tăng (liên
tiếp từ tháng 2-5, thâm hụt thương mại trên 1tỷ đô la, tháng Sáu thâm hụt nhẹ là do
xuất khẩu vàng). Với những diễn biến này, ch ng tôi dự báo chỉ số giá sẽ giảm mạnh
trong thời gian tới, và giảm thậm chí dưới 15% vào cuối năm 2011 nếu điều kiện
hiện tại tiếp diễn.

25


×