Tải bản đầy đủ (.docx) (67 trang)

Đánh giá tăng trưởng kinh tế việt nam giai đoạn 2001 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (631.93 KB, 67 trang )

ĐỀ TÀI
Đánh giá tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001 đến nay
Nhóm 3


MỤC LỤC

2


LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ một nền kinh
tế nông nghiệp truyền thống sang một nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Các
thành tựu trong quá trình phát triển kinh tế của nước ta đã được các tổ quốc tế
đánh giá cao như duy trì tốc độ tăng trưởng cao và ổn định trong thập niên gần
đây, sự tăng lên liên tục của chỉ số phát triển con người (HDI), chất lượng cuộc
sống của đại bộ phận dân cư trong xã hội được cải thiện.
Nền kinh tế nước ta đã và đang trải qua rất nhiều cột mốc quan trọng về
sự phát triển của kinh tế, trong đó phải kể đến giai đoạn 2001 - 2013.Đây là giai
đoạn quan trọng có ảnh hưởng quyết định tới nền kinh tế Việt Nam. Ta có thể
thấy bên cạnh những, thành tựu, thuận lợi, cơ hội có được thì chúng ta cũng
đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức. Để hiểu rõ hơn những vấn
đề trong quá trình tăng trưởng Việt Nam giai đoạn này, nhóm chúng tôi đã thảo
luận và đi sâu nghiên cứu đề tài “ Đánh giá tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai
đoạn 2001 đến nay” .
Bài viết này nhằm cung cấp cho người đọc một cái nhìn toàn cảnh những
thành tựu, thuận lợi và khó khăn, hạn chế của nền kinh tế Việt Nam trong suốt
quá trình tăng trưởng của giai đoạn.
Trong quá trình nghiên cứu nhóm đã tập trung phân tích nguồn số liệu
tổng cục thống kê và các nguồn đáng tin cậy khác để hướng tới một bài tiểu luận
đầy đủ và khách quan nhất


Để thể hiện được những vấn đề về tăng trưởng kinh tế giai đoạn 20012013 nhóm đã xây dựng đề tài với nội dung:
* Chương I trình bày lý thuyết về tăng trưởng kinh tế. Trong chương này
chúng tôi sẽ làm rõ khái niêm tăng trưởng kinh tế, các mô hình tăng trưởng kinh
tế và những nhân tố ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế
* Chương II trình bày thực trạng tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn
2001-2013.Trong chương này chúng tôi sẽ đưa ra số liệu từ các nguồn khác nhau:
hệ số ICOR, HDI, hệ số năng suất lao đông của Việt Nam và các nước trong khu
vực nhằm so sánh tăng trưởng của Việt Nam với các nước trong khu vực. Phần
thứ hai của chương chúng tôi nêu ra thực trang của Việt Nam: những thành tựu
đạt được của quá trình tăng trưởng của đồng thời cũng nêu ra những mặt hạn
chế của quá trinh tăng trưởng và nguyên nhân của nó.
*Chương III đưa ra định hướng, giải pháp và kiến nghị tăng trưởng của
Việt Nam trong những năm tới.
3


Ba chương được trình bày logic, liên quan mật thiết với nhau.Trong quá
trình nghiên cứu, chúng tôi không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận
được ý kiến đóng góp của cô và các bạn để bài tiểu luận được hoàn chỉnh.

CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
I. Tổng quan về tăng trưởng kinh tế
1. Khái niệm về tăng trưởng kinh tế
Mục tiêu của tất cả các quốc gia nền kinh tế là phát triển kinh tế - đó là
quá trình tăng tiến, toàn diện và về mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội. Trong đó
được chia thành 3 yếu tố chính: Tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
đúng hướng và cuối cùng là tiến bộ xã hội. Như vậy, tăng trưởng kinh tế chỉ là
mặt lượng của vấn đề. Khi thay đổi lượng đủ nhiều thì kéo theo chất thay đổi cũng
như là khi tăng trưởng kinh tế với quy mô lớn, trình độ cao sẽ kéo theo cơ cấu
kinh tế chuyển dịch đúng hướng, sau đó là an sinh xã hội.

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về thu nhập hoặc thu nhập bình quân
đầu người của nền kinh tế trong một thời kì nhất định (thường là 1 năm). Sự gia
tăng đó được thể hiện ở cả về quy mô và tốc độ. Quy mô tăng trưởng phản ánh sự
gia tăng tuyệt đối, trong khi đó tốc độ tăng trưởng thể hiện sự so sánh tương đối
giữa các thời năm.
Đối với các nước đang phát triển có thu nhập bình quân đầu người thấp
như Việt Nam, để nhanh chóng đạt được những tiến bộ về kinh tế - xã hội và hội
nhập với các nước đi trước, tăng trưởng kinh tế lại càng có ý nghĩa đặc biệt, nhất
là tốc độ tăng trưởng.
2. Mối quan hệ giữa tăng tưởng kinh tế và các yếu tố khác của phát triển
kinh tế
2.1.

Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với cơ cấu kinh tế

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế có mối liên hệ chặt chẽ với tăng trưởng và phát
triển kinh tế, vừa là kết quả của quá trình phát triển kinh tế xã hội trong một giai
đoạn nhất định vừa là yếu tố cực kì quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã
quốc gia lên một trình độ mới. Để phục vụ cho việc xây dựng chiến lược tăng
trưởng kinh tế trong giai đoạn hiện tại và chiến lược tăng trưởng kinh tế của
quốc gia trong một giai đoạn dài, cơ cấu kinh tế và sự chuyển dịch của nó cần
phải được xem xét tổng quát để rút ra các ưu nhược điểm, phát hiện các điểm
mạnh, xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh hơn. Nếu trước đây nông
4


nghiệp đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và chiếm một tỷ lệ lao
động vào nông nghiệp rất lớn, thì nay nền kinh tế của ta đã có sự phát triển đồng
đều hơn, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong tổng sản phẩm kinh tế quốc dân
đã chiếm một khối lượng đáng kể và đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế chung

của đất nước.
Trong lịch sử phát triển kinh tế của nhân loại, chưa có một cách thức, mô
hình tăng trưởng kinh tế nào là trường tồn mà thông thường và phổ biến là khi
đến một thời điểm nhất định, mô hình tăng trưởng của một quốc gia sẽ không còn
phù hợp, cần phải thay đổi do những chuyển biến của các yếu tố bên ngoài và bên
trong nền kinh tế. Bởi vậy, sự vươn lên hay thất bại của một quốc gia được quyết
định ở khả năng tự thay đổi để vượt qua các ngưỡng phát triển. Thực tế sự phát
các nước Đông Á cho thấy: với cùng một xuất phát điểm, nhưng trải qua vài thập
kỷ, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, Hồng Kông, Singapore trở thành các con
rồng Châu Á, trong khi các nước Đông Nam Á khác rơi vào hoặc có nguy cơ rơi
vào “bẫy thu nhập trung bình”. Hiện thực nêu trên xuất hiện bởi nhiều căn nguyên,
song tựu chung là do mọi nền kinh tế, mọi quốc gia đều không ngừng vận động,
biến đổi. Quá trình vận động đó xuất hiện những nhân tố mới, đồng thời làm cũ và
lỗi thời những nhân tố trước đó, nếu không có sự thay đổi phù hợp thì chính nó sẽ
trở thành những yếu tố cản trở sự phát triển; mặt khác cùng với sự vận hành của
nền kinh tế, nội tại nền kinh tế cũng nảy sinh những vấn đề cần được giải quyết.
Bên cạnh đó, với tư cách là một bộ phận trong nền kinh tế khu vực, toàn cầu, mỗi
nền kinh tế đều chịu tác động, ảnh hưởng từ hệ thống chung cả trên phương diện
tích cực lẫn tiêu cực và ở chừng mức nhất định cũng yêu cầu sự thay đổi.
2.2.

Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội

Kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội là mục tiêu
"kép" của sự phát triển nhanh, lành mạnh và bền vững mà nhiều quốc gia trên thế
giới đều mong muốn đạt tới. Tuy nhiên, trên thực tế, đây là bài toán khó, mà
không phải nước nào cũng có thể tìm ra lời giải thỏa đáng. Bởi lẽ để biến mục tiêu
đó thành hiện thực, thì phải có hàng loạt điều kiện khách quan và chủ quan cần
thiết, phải giải quyết nhiều mối quan hệ - đặc biệt là mối quan hệ giữa thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Từ sau Chiến tranh

thế giới thứ hai đến những thập niên gần đây, trên thế giới có một số mô hình
phát triển khác nhau đã được áp dụng. Mỗi loại mô hình đều dựa vào một lý
thuyết phát triển, thể hiện bản chất chế độ chính trị - xã hội và truyền thống văn
hóa ở nước áp dụng mô hình ấy. Cơ bản nhất bao gồm 2 xu hướng phát triển
chính là: Một là tăng trưởng kinh tế trước, sau đó mới quan tâm đến công bằng
và tiến bộ xã hội. Điển hình của nhóm nước này là Mỹ, Canada, Nhật Bản và các
5


nước phương Tây, các nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Xu
hướng thứ hai là, mô hình nhấn mạnh công bằng trước và tăng trưởng kinh tế
sau, điển hình là các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa. Và một mô hình nữa
là kết hợp đồng thời tăng trưởng và công bằng xã hội.

II. Một số mô hình tăng trưởng kinh tế và các chỉ tiêu đánh giá
tăng trưởng kinh tế
1. Mô hình tăng trưởng ngoại sinh
Các yếu tố ảnh hưởng

1.1.

Các yếu tố trong mô hình tăng trưởng ngoại sinh là: vốn (K), lao động (L)
và kỹ thuật công nghệ (T).
Hàm sản xuất tổng quát có dạng:
Y= F(K, L, T)
T: yếu tố kĩ thuât công nghệ, tạo nên hiệu quả lao động (E), hiệu quả lao
động phản ánh trình độ công nghệ của xã hội. E và L luôn đi đôi với nhau, L*E
được gọi là số lao động hiệu quả.
T là yếu tố ngoại sinh.
Hàm sản xuất cụ thể có dạng:

Y(t)= F(K, E*L)
Trong đó, yếu tố kỹ thuật (T) tạo nên hiệu quả lao động (E), hiệu quả lao
động phản ánh trình động công nghệ của xã hội. L*E được gọi là số lao động hiệu
quả.
Vai trò của các yếu tố trong mô hình

1.2.

Dựa trên các yếu tố tác động tới mô hình: K, L, T, ta có thể tổng quát về vai
trò của các yếu tố như sau:
-

Với một tỷ lệ tiết kiệm cao, thì sẽ duy trì được mức sản lượng cao nhưng
không duy trì được tốc độ tăng trưởng cao.

-

Nếu quốc gia nào có tốc độ tăng dân số cao, thì tổng sản lượng tăng
bằng tốc độ tăng dân số nhưng lại có mức thu nhập bình quân đầu
người thấp hơn do tăng dân số sẽ khiến mức vốn bình quân trên một
công nhân giảm xuống.

-

Với tốc độ tiến bộ công nghệ tăng lên thì cả GDP lẫn GDP/người đều
tăng lên tương ứng.
6


Qua đó có thể thấy được trong mô hình tăng trưởng ngoại sinh thì yếu tố

kỹ thuật công nghệ được coi là yếu tố quyết định nhất đến tăng trưởng do tiến bộ
công nghệ giải thích cho sự tăng trưởng của nền kinh tế trong dài hạn.
1.3.

Sự vận dụng mô hình vào các nước đang phát triển
-

Tính chất hội tụ của các nền kinh tế: nếu hai nền kinh tế do điều kiện
lịch sử mà xuất phát với hai mức vốn khác nhau thì quốc gia nào có
mức thu nhập thấp hơn tất yếu sẽ tăng trưởng nhanh hơn, dần đuổi kịp
các quốc gia có mức tăng trưởng cao hơn do tăng tỷ lệ vốn trên lao
động.

-

Đánh giá tiết kiệm và chính sách tăng trưởng ở các nước đang phát
triển.

-

Chuyển giao công nghệ nước ngoài.

-

Thực hiện sự kết hợp hiệu quả vốn và lao động trong tăng trưởng kinh
tế và áp dụng chính sách công nghệ thích hợp.

2. Mô hình tăng trưởng nội sinh
2.1.


Các yếu tố ảnh hưởng

Hàm sản xuất của mô hình tăng trưởng nội sinh bao gồm 3 yếu tố: vốn (K),
lao động (L) là yếu tố vật chất tác động đến tăng trưởng; yếu tố năng suất tổng
hợp (TFP) là yếu tố phi vật chất.
Y = F(K,L,TFP)
2.2.

Vai trò của các yếu tố trong mô hình

Nếu trong mô hình Solow, tiết kiệm dẫn đến tăng trưởng nhất thời, và
tăng trưởng chỉ phụ thuộc vào tiến bộ công nghệ là ngoại sinh, thì trong mô hình
tăng trưởng nội sinh, tiết kiệm và đầu tư có thể dẫn tới tăng trưởng vĩnh viễn.
Có 2 biến quyết định quan trọng trong mô hình này là tỷ lệ thu nhập được
sử dụng cho tiết kiệm và đầu tư (s), tỷ lệ lao động trong các trường đại học (u) sẽ
quyết định đến tốc độ tăng trưởng của kiến thức. Và trong mô hình này, sự tăng
trưởng liên tục là nhờ tốc độ tạo ra kiến thức ở các trường đại học không hề suy
giảm.
Như vậy, trong mô hình này thì yếu tố vốn nhân lực có vai trò quyết định
nhất đến tăng trưởng của một quốc gia.
2.3.

Sự vận dụng mô hình vào các nước đang phát triển
7


-

Giải pháp thoát nghèo và bắt kịp các nước giàu: một nước đầu tư phát
triển nguồn nhân lực nhiều hơn sẽ có thể đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng

dài hạn, và do đó sẽ dần bắt kịp các nước giàu.

-

Tăng cường vai trò của nhà nước thông qua các chính sách tác động
trực tiếp đến yếu tố năng suất tổng hợp như các chính sách phát triển
vốn nhân lực, chuyển giao công nghệ nước ngoài có hiệu quả, các chính
sách nghiên cứu và triển khai trong nước.

3. Các chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng kinh tế
3.1.

Thước đo tăng trưởng kinh tế

3.1.1.

Dấu hiệu nhận biết tăng trưởng kinh tế

Bản chất của tăng trưởng là sự tăng lên về mặt số lượng của tổng thu
nhập hay thu nhập bình quân đầu người:
Tuyệt đối : ∆Y = Yt – Yt-1 : phản ánh sự thay đổi quy mô của nền kinh tế.
Tương đối : gt = X 100%: phản ánh tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Tốc độ trung bình của 1 thời kì:

- 1 ≈ Yt = Yt-n x (1+g)n

=

Đối với các nền kinh tế nói chung, ∆Y quan trọng hơn. Nhưng đối với các
nước đang phát triển, gt quan trọng hơn vì mục tiêu của các nền kinh tế này là

phát triển nhanh để đuổi kịp các nền kinh tế đi trước.
3.1.2.

Thước đo tăng trưởng kinh tế


GO ( tổng giá trị sản xuất ) :

Là tống giá trị sản phẩm hàng hóa và dịch vụ do kết quả hoạt động của
một nền kinh tế tạo ra trong 1 thời gian nhất định, thường là 1 năm.
GO = IC + VA
Trong đó : IC là chi phí trung gian để sản xuất bao gồm hao phí vật chất và
hao phí dịch vụ.
VA là giá trị tăng thêm trong kì bao gồm thu nhập của người lao động
( lương, bảo hiểm..), quỹ khấu hao TSCĐ, thuế sản phẩm, thặng dư sản xuất.
GO không được sử dụng rộng rãi vì nó có nhược điểm là tính trùng, tính
toàn bộ giá trị hàng hóa sản xuất ra, nhưng hàng hóa sản xuất ra vẫn có những
hàng hóa phục vụ sản xuất không phải tất cả đều phục vụ nhu cầu tiêu dùng →
phản ánh quy mô không phản ánh hiệu quả và GO thường lớn hơn các chỉ số khác
như GDP, GNI.
8




GDP ( tổng sản phẩm quốc nội ) :

Là tổng giá trị sản phẩm hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được tạo nên
trong phạm vi lãnh thổ của 1 nền kinh tế trong 1 thời gian nhất định thường là 1
năm.

Có 3 phương pháp tính GDP :
Phương pháp sản xuất : GDP = GVA + thuế sản phẩm – trợ cấp sản
phẩm.
( GVA = ∑VAi )
Phương pháp sử dụng : GDP = C + I + G +NX.
Trong đó : C, I, G lần lượt là chi tiêu của người tiêu dùng, nhà đầu tư và
chính phủ. NX là xuất khẩu ròng, bằng xuất khẩu đã trừ nhập khẩu.
Phương pháp thu nhập : GDP = W + R + Pr + In + Dp + Ti.
Trong đó : W là tiền lương, R là tiền thuê đất. In là tiền lãi đầu tư, Pr là lợi
nhuận trước thuế, Dp là khấu hao tài sản, Ti là thuế gián thu.
Trong thực tế, các nền kinh tế hay dùng phương pháp 2 vì ít sai số nhất.


GNI ( tổng thu nhập quốc dân ) :

Là tổng giá trị sản phẩm hàng hóa và dịch vụ cuối cùng do công dân của 1
nước tạo ra trong 1 giai đoạn nhất định thường là 1 năm.
GNI = GDP + chênh lệch thu nhập nhân tố ròng với nước ngoài.
Trong điều kiện các nước đang phát triển, GDP > GNI do thu từ nước ngoài
lớn hơn chi cho nước ngoài. GDP tính theo cách 3 là căn cứ để tính GNI.


NI ( NNI ) : Là phần giá trị mới sáng tạo ra của 1 nền kinh tế trong
thời gian nhất định thường là 1 năm.
NNI = GNI – Dp



NDI : thu nhập quốc gia sử dụng dành cho tiêu dùng cuối cùng và
tích lũy thuần.


NDI = GNI + chênh lệch chuyển nhượng hiện hành với nước ngoài như kiều
hối, ODA…
Chuyển nhượng hiện hành là sự trao đổi 1 chiều hoặc nhận lại không
tương đương hàng hóa hoặc dịch vụ với mục đích là tiêu dùng cuối cùng với quy
mô nhỏ.


Thu nhập bình quân : (Y ) ̅ = Y/N
9


Dùng chỉ tiêu này để đo lường thì sẽ dễ dàng trong việc so sánh, xếp hạng
mức sống, trình độ phát triển giữa các quốc gia.
3.2.

Theo yếu tố đầu vào

3.2.1.

Hệ số ICOR ( tỷ số gia tăng của vốn so với sản lượng)

Đầu tư vừa tác động đến tốc độ tăng trưởng vừa tác động đến chất lượng
tăng trưởng. Tăng qui mô vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư hợp lý là những
nhân tô quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng năng suất nhân tố
tổng hợp, tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH,
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế... do đó, nâng cao chất lượng tăng
trưởng kinh tế. Biểu hiện tập trung của mối quan hệ giữa đầu tư phát triển với
tăng trưởng kinh tế thể hiện ở công thức tính hệ số ICOR.
Về tổng quát, hệ số ICOR được tính như sau:

ICOR = Vốn đầu tư tăng thêm
GDP tăng thêm

= Đầu tư trong kỳ
GDP tăng thêm

ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ phát
triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước. Ở các nước phát triển, ICOR thường
lớn 6- 10 do thiếu vốn, thiếu lao động, vốn được sử dụng nhiều để thay thế cho lao
động, do sử dụng công nghệ hiện đại có giá cao. Ở các nước đang phát triển, ICOR
thấp từ 3-5 do thiếu vốn, thừa lao động nên có thể và cần phải sử dụng lao động để
thay thế cho vốn, do sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ. Thông thường, ICOR
trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ
chế chủ yếu do tận dụng nguồn lực.
3.2.2.

Năng suất lao động

Năng suất lao động là việc so sánh hiệu quả đầu ra với nguồn lực đầu vàonguồn nhân lực. Năng suất lao động là biểu hiện hiệu quả lao động có ích của con
người trong một đơn vị thời gian, là nói đến hiệu quả hoạt động sản xuất của con
người trong một đơn vị thời gian nhất định.
Đặc trưng của năng suất lao động:
Con số bình quân vì tính bình quân cho một đơn vị thời gian hoặc
thời gian bình quân tính cho một đơn vị sản phẩm.
Chỉ tính cho những đối tượng , những khu vực sản xuất kinh doan,
nơi có sản xuất sản phẩm cụ thể.
-

Phản ánh hiệu quả hoạt động của con người, là chỉ tiêu chất lượng.
10



Năng suất lao động có vai trò to lớn do tạo ra thu nhập và sức mua có khả
năng thanh toán, làm tăng tiêu thụ ở trong nước - động lực của tăng trưởng kinh
tế, là “cứu cánh” của tăng trưởng kinh tế trước những bất ổn ở bên ngoài.
Năng suất lao động có ý nghĩa quan trọng đối với cá nhân người lao động,
doanh nghiệp và cả xã hội. Nâng cao năng suất lao động là quá trình làm tăng
năng lực sản xuất của người lao động, tăng năng suất của máy móc và làm tăng
số lượng sản phẩm làm ra trong một đơn vị thời gian do đó làm giảm thời gian
hao phí để sản xuất ra sản phẩm. Tăng năng suất lao động là sự thay đổi về cách
thức lao động, làm giảm nhẹ lao động, tăng số lượng sản phẩm, là cơ sở cho
người lao động nâng cao thu nhập, gắn kết người lao động với doanh nghiệp, tạo
động lực cho người lao động hăng say làm việc hơn, tăng năng suất lao động cá
nhân làm tăng năng suất chung toàn xã hội và tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế.
Năng suất lao động tăng tạo điều kiện để các doanh nghiệp trong nước
giảm giá thành sản phẩm, hạ giá cả , tăng tích lũy, cải thiện đời sống người lao
động và giành thắng lợi trong cạnh tranh, phát triển sản xuất kinh doanh, mở
rộng thị trường làm gia tăng sản lượng trong nước và có thể xuất khẩu ra nước
ngoài, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Năng suất lao động là con đường tăng tổng sản phẩm xã hội không có
giới hạn, con đường làm giàu cho mỗi quốc gia và các thành viên trong xã hội.
Nhờ tăng năng suất lao động mà khối lượng sản phẩm vật chất và dịch vụ cho xã
hội, doanh thu và lợi nhuận tăng. Năng suất lao động tăng lên là cơ sở cho tích
lũy tái sản xuất xã hội và tăng cường quỹ tiêu dùng, thỏa mãn nhu cầu xã hội, tạo
điều kiện tăng trưởng kinh tế.
3.2.3.

Chỉ số TFP

Chỉ số TFP ( năng suất các nhân tố tổng hợp) là chỉ tiêu phản ánh kết quả

sản xuất mang lại do nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và lao động, nhờ vào tác
động lao động của công nhân,.. ( gọi chung là các nhân tố tổng hợp)
Đối với người lao động, nâng cao TFP sẽ có góp phần nâng lương, nâng
thưởng, điều kiện lao động được cả thiên, công việc ổn định hơn. Đối với doanh
nghiệp thì có khả năng mở rộng tái sản xuất. Còn đối với nên kinh tế sẽ đẩy nhanh
tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao sức cạnh trang trên trường quốc tế, nâng
cao phúc lợi xã hội.
Tốc độ tăng TFP =
Tốc độ tăng GTGT – ( tốc độ tăng GTGT do VCĐ đóng góp + Tốc độ tăng
GTGT do lao động đóng góp)
11


GTGT: giá trị gia tăng
VCĐ: vốn cố định
3.3.

Theo yếu tố đầu ra

Về phía đầu ra, từ góc độ kinh tế thuần túy, để bảo đảm sự ổn định và tính
bền vững cho bản thân tăng trưởng, chắc chắn phải xem xét nhiều vấn đề như vấn
đề tiêu thụ sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, tái đầu tư và phân bổ nguồn lực...
Riêng về phía đầu ra của tăng trưởng phục vụ cho con người, nghĩa là về các khía
cạnh của tăng trưởng liên quan đến chất lượng cuộc sống, đến các lĩnh vực xã hội
và môi trường, từng bước người ta đã đưa vào sử dụng các tiêu chí khác nhau,
trong số đó có lẽ được biết đến nhiều nhất là tiêu chí tổng hợp "Chỉ số phát triển
con người - HDI" (được công bố hàng năm trong Báo cáo phát triển con người
của UNDP, bắt đầu từ 1990). Gần đây, nhiều tài liệu nói đến "Chỉ số thịnh vượng
kinh tế bền vững" (ISEW), do một nhóm học giả Mỹ đề xuất cuối thập niên 80 của
thế kỷ trước, với ý tưởng hình thành một thước đo mới thay thế cho GDP (còn

được gọi là "GDP xanh"). Ngoài ra, một số tiêu chí cụ thể khác về y tế, giáo dục,
xóa đói giảm nghèo và tiêu chí đặc thù đánh giá về môi trường cũng được áp
dụng với mức độ khác nhau. Tiếp theo chúng ta sẽ tìm hiểu sâu hơn về một số tiêu
chí trong số đó.
3.3.1.
a)

Khía cạnh chất lượng cuộc sống
Chỉ số phát triển con người (HDI)

HDI là một chỉ số đo lường thống nhất các mục tiêu kinh tế-xã hội cần đạt
được và phản ánh toàn bộ các khía cạnh của cuộc sống. HDI phản ánh mức độ
trung bình đạt được của một nước về các năng lực cơ bản của con người.
Chỉ số phát triển con người HDI chứa đựng ba yếu tố phản ánh tương ứng
ba khía cạnh thuộc về năng lực phát triển con người, gồm:
-

Thu nhập: mức sống đo bằng thu nhập quốc dân bình quân đầu

người.
Tri thức hay trình độ dân trí với hai tiêu thức: tỷ lệ người lớn biết
chữ và tỷ lệ nhập học.
-

Sức khỏe: được đo bằng tuổi thọ trung bình


Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển con người

Giữa tăng trưởng kinh tế với chỉ số HDI có mối quan hệ với nhau. Tăng

trưởng kinh tế là quá trình tạo thu nhập, trở thành điều kiện hàng đầu trong việc
nâng chất lượng cuộc sống, mức sống trong dân cư cùng với việc phân phối hợp
12


lý kết quả của tăng trưởng. Thông thường, các nước có mức thu nhập trung bình
cao hơn thì tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh thấp hơn, tuổi thọ trung bình có xu hướng
cao hơn. Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về thu nhập của nền kinh tế trong
một khoảng thời gian nhất định. Con người có thu nhập cao hơn thì có điều kiện
để đào tạo, nâng cao trình độ của mình hay trình độ dân trí và giáo dục cao hơn.
Từ các yếu tố trên thì có chỉ số HDI cao hơn.
-

Giữa thứ hạng HDI và thước đo tăng trưởng kinh tế GNI/người

Những nước có thứ hạng theo GNI trừ thứ hạng HDI là dương phản ánh
các nước này quan tâm nhiều đến phát triển con người, chú trọng sử dụng thành
quả tăng trưởng kinh tế để cải thiện cuộc sống con người. Mức chênh lệch này có
thể làm cơ sở cho việc điều chỉnh chính sách nhằm tạo khả năng tái định hướng
các nguồn lực nhằm phát triển con người. Với phép trừ thứ hạng xếp loại theo thu
nhập bình quân đầu người cho thứ hạng HDI nhận giá trị dương thể hiện sự lan
tỏa tích cực của tăng trưởng kinh tế đến phát triển con người.
-

Giữa thứ hạng HDI và thước đo tăng trưởng kinh tế GNI/người

Những nước có thứ hạng theo GNI trừ thứ hạng HDI là dương phản ánh
các nước này quan tâm nhiều đến phát triển con người, chú trọng sử dụng thành
quả tăng trưởng kinh tế để cải thiện cuộc sống con người. Mức chênh lệch này có
thể làm cơ sở cho việc điều chỉnh chính sách nhằm tạo khả năng tái định hướng

các nguồn lục nhằm phát triển con người. Với phép trừ thứ hạng xếp loại theo thu
nhập bình quân đầu người cho thứ hạng HDI nhận giá trị dương thể hiện sự lan
tỏa tích cực của tăng trưởng kinh tế đến phát triển con người.
-

Hệ số tăng trưởng vì con người GHR

Hệ số đo độ co giãn của thành tựu phát triển con người với tăng trưởng
kinh tế đo lường độ nhạp cảm hay tốc độ chuyển đổi lợi ích của tăng trưởng đến
phát triển con người.
% HDI
GHR =

( y là GNI/ người)
%y

Hệ số này càng cao thể hiện hiệu quả tăng trưởng vì mục tiêu phát triển
con người được đánh giá càng cao.
Nếu GHR>0 cho thấy phát triển con người đang được cải thiện nhờ vào
tăng trưởng kinh tế .
Nếu GHR<0 cho thấy tăng trưởng kinh tế không phải động lực chính giúp
nâng cao chất lượng cuộc sống con người.
13


-

Đường vành đai phát triển con người

Đường vành đai phát triển con người là tập hợp tất cả các điểm, mà ở mỗi

điểm đó chỉ số HDI cao nhất tương ứng với mỗi mức thu nhập, hay tại đó tăng
trưởng thu nhập đạt được mức hiệu quả nhất trong việc chuyển hóa thành các
thành tựu phát triển con người.
Nếu chỉ số HDI càng nằm gần đường vành đai phát triển con người thì
quốc gia đó có trình độ phát triển càng sát với mức phát triển cao nhất hiện có
tương ứng mức thu nhập đạt được. Xây dựng và sử dụng đường vành đai phát
triển con người cung cấp cho một quốc gia có cái nhìn tổng thể về trình độ phát
triển con người hiện tại của mình nhờ đó nhà nước và người dân có thể đưa ra
nhứng chính sách hợp lý nhằm thực hiện sự lan tỏa của tăng trưởng đến phát
triển con người.
b)

Chỉ số GDP xanh

GDP phản ánh chính xác nhất kết quả sản xuất và dịch vụ của nền kinh tế ,
tuy vậy chỉ số này chưa pahir hoàn hảo khi sử dụng để phân tích và đánh giá tăng
trưởng. Quá trình tăng trưởng kinh tế cũng đồng thời tăng sử dụng tài nguyên
thiên nhiên, ô nhiễm môi trường và suy giảm sinh thái. Thế nhưng GDP chỉ phản
ảnh tổng số đầu ra của nền kinh tế mà không lính đến phí tổn về môi trường và hệ
sinh thái. Ngày nay, tăng trưởng bền vững với sự phát triển trên ba cực: Kinh tế Xã hội - Môi trường đang trở thành xu thế phổ biến của hầu hết các quốc gia trên
thế giới. Những nghiên cứu gần đây đều cho thấy có sự liên quan chặt chẽ giữa
tăng trưởng kinh tế với vấn đề ô nhiễm môi trường và sử dụng tài nguyên. Yếu tố
tài nguyên và môi trường chính là một trong những tiêu chí đánh giá tăng trưởng
chất lượng.Nhiều nước phát triển đã xem xét đến những thiệt hại môi trường và
sự suy giảm tài nguyên trong tăng trưởng kinh tế, nỗ lực giảm thiểu các thiệt hại
này trong quá trình tăng trưởng. Từ đó, khái niệm tăng trưởng kinh tế
xanh( GDP) đã hình thành.
GDP xanh phản ánh mối quan hệ giữa kinh tế với môi trường, là thước đo
tăng trưởng bền vững. GDP xanh phản ánh sự tăng trưởng của một quốc gia một
cách toàn diện về kinh tế, xã hội và môi trường. GDP xanh chính là phần còn lại

của GDP thuần sau khi đã trừ các chi phí do tiêu dùng tài nguyên và mất mát về
môi trường do các hoạt động kinh tế.
Trong đó các hoạt động kinh tế của con người tác động đến môi trường
xét về quá trình sản xuất này thể hiện cả đầu vào và đầu ra.
Tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển trong những thập kỷ
qua chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, tăng trưởng liên quan đến
14


các ngành công nghiệp gây ô nhiễm và cường độ sử dụng lượng cao. Chỉ số GDP
xanh cho phép chúng ta có được những chính sách tăng trưởng bền vững hơn,
tránh tình trạng tăng trưởng bất chấp mọi giá.
c)

Chỉ số thịnh vượng kinh tế bền vững (ISEW)

Ý thức được những hạn chế của chỉ tiêu GDP trong việc đo lường, đánh giá
chất lượng tăng trưởng, nhất là về những khía cạnh liên quan đến chất lượng
cuộc sống và đòi hỏi của phát triển bền vững, trong những năm gần đây, các học
giả trên thế giới đã nghiên cứu đề xuất nhiều tiêu chí và phương pháp đánh giá
khác nhau, trong số đó tiêu chí mang tính tổng hợp được nói đến nhiều là ISEW.
Sau khi được đề xướng năm 1989, chỉ số này được bổ sung, hoàn thiện,
từng bước ứng dụng ở Mỹ và một số nước công nghiệp châu Âu. Đây thực chất là
một cách chỉnh lý lại số liệu thống kê GDP thông thường lâu nay. Căn cứ để chỉnh
lý là dựa trên tính chất của các hoạt động kinh tế: chỉ những lợi ích kinh tế thực
sự mới được cộng vào, kể cả lợi ích từ các hoạt động không phát sinh tiền như
công việc nội trợ. Trong khi đó, những chi phí phát sinh trong quá trình phát triển
kinh tế, kể cả chi phí về mặt xã hội và môi trường, mà không đóng góp gì vào chất
lượng cuộc sống sẽ được trừ ra. Đồng thời, trong khi tính toán chỉ số ISEW, người
ta không dựa trên giá trị làm ra mà căn cứ vào chi tiêu do người dân trong nước

bỏ ra để thụ hưởng hàng hóa và dịch vụ. Điều đó đòi hỏi chỉ số ISEW phải được
điều chỉnh giảm tương ứng với mức mất cân đối trong phân phối thu nhập.
3.3.2.

Theo góc độ kinh tế thuần

Theo góc độ này, chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng kinh tế được sử dụng nhiều
nhất hiện nay đó là tiêu thụ sản phẩm. Chỉ tiêu tiêu thụ sản phẩm không chỉ quyết
định đến sự thịnh vượng của doanh nghiệp mà còn có tác động đến sự tăng
trưởng bền vững của đất nước.
Khái niệm: theo nghĩa hẹp: Tiêu thụ sản phẩm hàng hóa được hiểu như là
hoạt động bán hàng là việc chuyển quyền sở hữu hàng hóa của doanh nghiệp cho
khách hàng đồng thời thu tiền về.
Vai trò của tiêu thụ sản phẩm:
-

Đối với doanh nghiệp:

Đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm là điều kiện để doanh nghiệp thực hiện tái
sản xuất, đầu tư đổi mới dây chuyền công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất.
Thông qua tiêu thụ hàng hóa, các doanh nghiệp sẽ xây dựng được các kế
hoạch kinh doanh phù hợp, đạt hiệu quả cao do họ dự đoán được nhu cầu của xã
hội trong thời gian tới.
15


-

Đối với xã hội:


Tiêu thụ sản phẩm hàng hóa có vai trò trong việc cân đối giữa cung và
cầu, vì nền kinh tế là một thể thống nhất với những cân bằng, những tương quan
tỷ lệ nhất định. Sản phẩm hàng hóa được tiêu thụ tạo điều kiện cho hoạt động sản
xuất kinh doanh diễn ra bình thường trôi trảy tránh được sự mất cân đối, giữ
được bình ổn trong xã hội.
Mức tiêu thụ sản phẩm của người tiêu dùng trong nước có tác động mạnh
đến nền kinh tế. Nếu tình hình tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp cao, ổn
đinh giúp cho nền tài chính của công ty vững mạnh và thực hiện tốt nghĩa vụ đối
với nhà nước ( nộp thuế, vấn đề môi trường,..). Đây là yếu tố tác động mạnh đến
chỉ số giá tiêu dùng, ảnh hưởng đến ổn định vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Ngược lại, nếu quá trình tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp không tốt thì sẽ
là nguyên nhân kìm hãm kinh tế, đăc biệt là các mặt hàng như: xăng dầu, điện,
giá dịch vụ y tế,....

III. Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế
1. Các nhân tố kinh tế
1.1.

Các nhân tố tác động trực tiếp tới tổng cung
Theo quan điểm hiện đại: Y= F(K,L,TFP)

Vốn (K) và lao động (L) được xem như các yếu tố vật chất có thể lượng hóa
được mức độ tác động của nó đến tăng trưởng kinh tế và được coi là những
nhân tố tăng trưởng theo chiều rộng, phản ánh tăng thu nhập dựa vào tăng quy
mô vốn, số lượng nguồn lao động và khai thác tài nguyên thiên nhiên. TFP được
coi là yếu tố phi vật chất tác động đến tăng trưởng, được coi là yếu tố tăng
trưởng theo chiều sâu, là sự gia tăng thu nhập do tác động của công nghệ đến
hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào: nâng cao năng suất lao động, nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn.
Cơ chế tác động của các yếu tố nguồn lực đến tăng trưởng kinh tế:


16


Ban đầu, điểm cân bằng của nền kinh tế là Eo với mức giá PLo và thu nhập
Yo.
Trường hợp 1: Vì một lý do nào đó mà các yếu tố nguồn lực thay đổi tăng
lên (tăng máy móc thiết bị, tăng quy mô lực lượng lao động,…) thì tổng cung tăng
lên, đường ASo dịch phải sang đường AS1, điểm cân bằng dịch chuyển từ Eo
xuống E1 (Y1>Yo, PL1Trường hợp 2: Vì một lý do nào đó mà các yếu tố nguồn lực thay đổi giảm
làm cho tổng cung giảm, ASo dịch trái sang AS2, điểm cân bằng dịch chuyển từ Eo
sang E2 ( Y2<Yo, PL2>Plo), tức là thu nhập giảm đi, mức giá tăng lên.
Theo phân tích trên, sự thay đổi các nguồn lực tham gia hoạt động kinh tế,
sẽ làm cho thu nhập và mức giá cả chung sẽ thay đổi đồng biến (với giả thiết các
yếu tố khác không đổi). Nếu nền kinh tế có lạm phát thì chính phủ nên tác động về
phía cung vì lúc đó cần làm cho mức giá giảm xuống, còn nếu nền kinh tế thiểu
phát thì nên tác động về phía cầu.
1.2.

Các nhân tố tác động tới tổng cầu

Yếu tố liên quan trực tiếp đến đầu ra của nền kinh tế chính là khả năng chi
tiêu, sức mua và năng lực thanh toán.
Y= C + G + I + NX
-

Chi cho tiêu dùng cá nhân (C): bao gồm các khoản chi cố định, chi
thường xuyên và các khoản chi tiêu tiêu khác ngoài dự kiến phát sinh.
17



Chi cho tiêu dùng cá nhân phụ thuộc vào tổng thu nhập khả dụng (DI)
và xu hướng tiêu dùng biên.
-

Chi tiêu của chính phủ (G): bao gồm các khoản mục chi mua hàng hóa
và dịch vụ của chính phủ. Nguồn chi tiêu của chính phủ phụ thuộc vào
khả năng thu ngân sách bao gồm chủ yếu là các khoản thu từ thuế và lệ
phí.

-

Chi cho đầu tư (I): bao gồm các khoản chi tiêu cho các nhu cầu đầu tư
của các doanh nghiệp và các đơn vị kinh tế (đầu tư vốn cố định và đầu
tư vốn lưu động). Nguồn chi tiêu cho đầu tư được lấy từ khả năng tiết
kiệm từ các khu vực của nền kinh tế, trong đó đầu tư khôi phục tức là bù
đắp giá trị hao mòn được lấy từ quỹ khấu hao còn đầu tư thuần túy
được lấy từ các khoản tiết kiệm của khu vực nhà nước, các hộ gia đình
và doanh nghiệp.

-

Hoạt động xuất nhập khẩu (NX = X-M): giá trị hàng hóa xuất khẩu là các
khoản phải chi tiêu cho yếu tố nguồn lực trong nước, giá trị nhập khẩu
là giá trị của các loại hàng hóa sử dụng trong nước nhưng lại không
phải bỏ ra các khoản chi phí cho các yếu tố nguồn lực trong nước nên
chênh lệch giữa kim ngạch xuất và nhập khẩu (NX) chính là khoản chi
phí ròng phải bỏ ra cho quan hệ thương mại quốc tế.


Cơ chế tác động của tổng cầu đến tăng trưởng kinh tế:

Ban đầu, điểm cân bằng của nền kinh tế là Eo (Yo, PLo).
Trường hợp 1: vì một lý do nào đó làm cho một trong 4 yếu tố tổng cầu
thay đổi theo hướng tăng lên, làm cho tổng cầu tăng lên, đường ADo dịch lên trên
18


(AD1). => Eo dịch chuyển lên E1 => Y tăng từ Yo đến Y1, giá tăng PLo đến PL1. =>
tăng trưởng kinh tế kèm theo giá tăng.
Trường hợp 2: vì một lý do nào đó làm cho một trong 4 yếu tố tổng cầu
thay đổi theo hướng giảm xuống, làm cho tổng cầu giảm, đường ADo dịch trái
(AD2). => Eo dịch chuyển đến E2 => Y giảm từ Yo đến Y2, giá giảm PLo đến PL2.
2. Các nhân tố phi kinh tế
Khác với các yếu tố kinh tế, các nhân tố phi kinh tế có ảnh hưởng gián tiếp
và không thể lượng hóa cụ thể được mức tác động của nó đến tăng trưởng kinh
tế.
Các nhân tố phi kinh tế không tác động một cách riêng rẽ mà mang tính
tổng hợp, đan xen vào nhau. Có rất nhiều nhân tố phi kinh tế tác động đến tăng
trưởng và phát triển:
Đặc điểm văn hóa - xã hội: đây là nhân tố quan trọng có tác động nhiều
tới qua trình phát triển của đất nước. Nhân tố này bao trùm nhiều mặt
từ tri thức phổ thông đến các tích luỹ tinh hoa của nhân loại về khoa
học, công nghệ, văn học, lối sống và cách ứng xử trong quan hệ giao
tiếp, những phong tục tập quán v.v…Trình độ văn hóa cao đồng nghĩa
với trình độ văn minh cao của mỗi quốc gia. Trình độ văn hóa của mỗi
dân tộc là nhân tố cơ bản tạo ra các yếu tố về chất lượng lao động, của
kỹ thuật, của trình độ kinh tế - xã hội. Để tạo dựng quá trình tăng
trưởng và phát triển bền vững thì đầu tư cho sự nghiệp phát triển văn
hóa phải được coi là những đầu tư cần thiết nhất và đi trước một bước

so với đầu tư sản xuất.

-

-

Nhân tố chính trị - kinh tế - xã hội: Chính trị - kinh tế - xã hội của 1 quốc
gia tạo hành lang pháp lý và môi trường xã hội cho các nhà đầu tư. Một
thể chế chính trị - kinh tế - xã hội ổn định và mềm dẻo sẽ tạo điều kiện để
đổi mới liên tục cơ cấu và công nghệ sản xuất phù hợp với những điều
kiện thực tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng và phát triển nhanh chóng.
Ngược lại, một thể chế không phù hợp sẽ gây cản trở, mất ổn định, phá
vỡ những mối quan hệ kinh tế cơ bản làm cho nền kinh tế rơi vào khủng
hoảng, suy thoái hoặc gây ra những xung đột chính trị - xã hội.

-

Cơ cấu dân tộc: sự phát triển của tổng thể kinh tế có thể đem lại những
biến đổi có lợi cho dân tộc này nhưng lại bất lợi cho dân tộc kia. Vì vậy
phải lấy tiêu chuẩn bình đẳng cùng có lợi cho tất cả các dân tộc, nhưng
lại bảo tồn được bản sắc riêng và các truyền thống tốt đẹp của mỗi dân
19


tộc, khắc phục các xung đột mất ổn định chung của cộng đồng. Điều đó
sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tăng trưởng và phát triển.
-

Cơ cấu tôn giáo: những ý thức tôn giáo thường là cố hữu, ít thay đổi
theo sự phát triển kinh tế - xã hội. Những thiên kiến của tôn giáo có ảnh

hưởng tới sự tiến bộ xã hội tùy theo mức độ, song có thể là sự hòa hợp,
nếu có chính sách đúng đắn của chính phủ.

-

Sự tham gia của cộng đồng: Dân chủ và phát triển là hai vấn đề có tính
tương hỗ lẫn nhau. Sự phát triển làm tăng thêm năng lực thực thực
hiện quyền dân chủ của cộng đồng dân cư trong xã hội. Sự tham gia
cộng đồng là nhân tố đảm bảo tính bền vững và tính động lực cho phát
triển kinh tế, xã hội. Để sự tham gia của cộng đồng thật sự có hiệu quả
thì cần thiết pải có cơ chế xác định mức độ tham gia của dân cư trong
các hoạt động phát triển và phải gắn liền với các hình thức tổ chức
tham gia cụ thể như: công đoàn, các hiệp hội trên địa bàn dân cư, các
hội đồng trong đó có sự góp mặt của thành phần dân cư.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001 - 2013
I. Tổng quan về thực trạng tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2001 –
2013
1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Đối với Việt Nam, tăng trưởng kinh tế có tầm quan trọng hàng đầu trong
thể kỉ XXI, không chỉ do xuất phát điểm của nước ta còn thấp, phải tăng trưởng
nhanh để chống nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, để sớm đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển, làm tiền đề để thực hiện nhiều mục tiêu kinh tế - xã hội
khác.
Trong hơn 20 năm qua, Việt Nam đã đạt được thành tích ấn tượng về tăng
trưởng kinh tế. Từ năm 1991 đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua bốn thời
kỳ tăng trưởng khác nhau. Thời kỳ 1991 – 1996, nền kinh tế tăng trưởng cao do
tác động của nhiều cải cách trong nước cũng như do sự gia tăng mạnh mẽ của
thương mại và đầu tư nước ngoài từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thời kỳ

1997 – 1999, tăng trưởng giảm sút do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ châu Á, tạo nên sự giảm sút đột ngột về thương mại và đầu tư. Thời kỳ
2000 – 2007, nền kinh tế phục hồi và tăng trưởng trở lại nhờ những cải cách sâu
20


rộng hơn trong nước và hội nhập tích cực hơn vào nền kinh tế thế giới. Từ 2008
đến nay, nền kinh tế lại suy giảm do những bất ổn kinh tế vĩ mô trong nước và do
tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Như vậy có thể khẳng định rằng
kinh tế Việt Nam trong những năm vừa qua phụ thuộc rất lớn với những nhân tố
từ bên ngoài – xuất nhập khẩu và đầu tư nước ngoài – cũng như rất dễ bị tổn
thương khi những tiêu cực từ bên ngoài làm ảnh hưởng đến các nhân tố này. Bốn
quá trình này được thể hiện rõ qua các số liệu thống kê sau:
Biểu đồ 1: Tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2001-2013
(Đơn vị tính: %)
Nguồn: Tổng cục thống kê.

Tốc độ tăng trưởng bình quân năm thời kì 2001-2013 đạt 6,84% thấp hơn
so với mức 7,58% của giai đoạn 1991 - 2000, tốc độ tăng trưởng nhìn chung chưa
thật sự ổn định, trong đó tăng trưởng cao vào những năm 2004-2007 và tăng
trưởng thấp ở những năm 2001 và 2008-2013. Tính bình quân cả giai đoạn 20012013, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 7,17%/năm. Có thể nói, tốc độ tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam trong hơn 20 năm qua thuộc loại cao hơn so với các nước và
vùng lãnh thổ.
Thời kỳ 2001 - 2007 chứng kiến đà tăng trưởng lại của nền kinh tế. Sau
khi cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á lắng xuống, cùng với các chương
trình cải cách hướng vào cải tổ cơ cấu kinh tế, tốc độ cổ phần hóa các doanh
nghiệp nhà nước tăng lên. Tốc độ tăng trưởng tăng từ 6,89% năm 2001 lên
8,44% năm 2005, 8,23% năm 2006. Cụ thể, tăng trưởng kinh tế phục hồi nhanh
từ 2002, tốc độ tăng đều qua các năm. Đáng chú ý là trong giai đoạn này, hiệu
ứng tích cực từ các biện pháp cải cách kinh tế được thực hiện trong thập niên

1990 đã cạn kiệt. Nhưng thay vào đó, trong điều kiện nền kinh tế thế giới tăng
trưởng nóng, xuất khẩu và chính sách kinh tế (chính sách tiền tệ và chính sách tài
khóa) mở rộng, đặc biệt đầu tư công trở thành hai động lực chính của tăng
trưởng. Nhờ vào đó nền kinh tế tăng khá cao và đạt mức sản lượng tiềm năng vào
năm 2005 (Theo Ủy ban Kinh tế Quốc hội, 2013)
Với việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), năm 2007, tốc độ
tăng trưởng đat 8,46%. Theo đánh giá của Ngân hàng Phát triển Châu Á – ADB
thì năm 2007 Việt Nam nằm trong số các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao trong khu vực. (Con số này ở Trung Quốc là 11,2%, Singapore là 7,5%,
Phillipine là 6,6%, Indonesia là 6,2%, Malaysia là 5,6% và Thái Lan là 4%). Nhìn
chung trong thời kỳ này, nhịp độ tăng trưởng cao và khá ổn định.
21


Năm 2008, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra, kinh tế Việt Nam
có dấu hiệu suy giảm và chịu tác động nặng nề của suy thoái kinh tế toàn cầu. Tốc
độ tăng trưởng của Việt Nam giảm xuống do các thị trường xuất khẩu lớn bị ảnh
hưởng, sức mua trong nước giảm. Tốc độ tăng trưởng năm 2008 giảm chỉ còn
6,31%, năm 2009, giảm còn 5,32%. Năm 2010, nền kinh tế đã từng bước vượt qua
khó khăn và có sự phục hồi, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn so với năm 2009,
đạt 6,78%.
Giai đoạn 2011 - 2013 là nửa đầu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
giai đoạn 2011-2015. Với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, kinh
tế tăng trưởng với tốc độ thấp. Năm 2012, kinh tế - tài chính của Việt Nam tiếp
tục bị ảnh hưởng bởi sự bất ổn của kinh tế thế giới, do khủng hoảng tài chính và
nợ công châu Âu chưa được giải quyết. Do đó, tốc độ tăng trưởng năm 2012 giảm
xuống chỉ còn 5,03%. Năm 2013, nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi, tốc độ tăng
trưởng là 5,42% tuy còn thấp nhưng đã cao hơn so với 2012.
2. Mức độ đóng góp của các ngành, lĩnh vực vào tăng trưởng kinh tế giai
đoạn 2001 – 2013

Trong 13 năm qua, mức độ đóng góp vào tăng trưởng GDP của nhóm
ngành Công nghiệp và xây dựng, Dịch vụ luôn cao hơn nhóm ngành Nông, lâm
nghiệp và thủy sản. Mức độ đóng góp của các nhóm ngành phù hợp với xu thế
phát triển của nền kinh tế, có thể thấy rõ điều này qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 2: Tốc độ tăng trưởng GDP của các nhóm ngành kinh tế
giai đoạn 2001-2013
Nguồn: Tổng cục thống kê

Khu vực công nghiệp và xây dựng có tốc độ tăng cao nhất, đạt trung bình
năm 8,2%, so với mức 7,19% năm của ngành dịch vụ và 3,48% năm của ngành
nông nghiệp. Nhóm ngành Công nghiệp và xây dựng, Dịch vụ chưa bền vững, có
xu hướng giảm. Nhóm ngành dịch vụ trong giai đoạn 2001 – 2013 tăng trung
bình 3,5%, nhóm ngành Công nghiệp và xây dựng giảm 5,2%, nhóm ngành Nông,
lâm nghiệp và thủy sản giảm 2,4%.


Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản.

Trong thời kỳ 2001-2008, mặc dù nông nghiệp gặp nhiều khó khăn (do
hạn hán kéo dài, dịch cúm gia cầm lan rộng, bão lũ xảy ra liên tục…), nhưng nhờ
thủy sản vẫn tăng khá (trung bình 11,4%), nên tính chung tăng trưởng của nhóm
ngành nông - lâm nghiệp và thủy sản đạt bình quân 4%/năm. Năm 2009, sản xuất
22


nông lâm nghiệp và thủy sản gặp nhiều khó khăn do hạn hán, sâu bệnh và mưa lũ
xảy ra ở một số địa phương nên tốc độ tăng trưởng của nhóm ngành nông nghiệp
đã sụt giảm, chỉ còn 1,82%. Năm 2010, cả ba bộ phận của nhóm này đều có sự
phục hồi về tốc độ tăng trưởng, tính chung nhóm ngành nông nghiệp tăng trưởng
2,78% so với năm 2009. Năm 2011, tốc độ tăng trưởng của ngành lại tăng trở lại

mức 4%/năm. Tuy nhiên, tốc độ này đang có xu hướng chậm lại khi chỉ đạt
2,68% năm 2012 và 2,67% năm 2013.


Công nghiệp và xây dựng.

Bình quân giai đoạn 2001-2013 đạt 8,2%. Từ năm 2001 đến năm 2007,
tốc độ tăng trưởng đạt 2 chữ số (chỉ có năm 2002, đạt 9,48%). Năm 2008, do ảnh
hưởng của suy thoái toàn cầu, tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp và xây
dựng giảm mạnh chỉ còn 5,98%, năm 2009 đạt 5,52%. Năm 2010, tốc độ tăng
trưởng của nhóm này được cải thiện, đạt 7,7%. Tuy nhiên, ba năm tiếp theo, tốc
độ tăng trưởng lại giảm xuống mức xấp xỉ 5% (năm 2011 đạt 5,53%, năm 2012
đạt 4,52%, năm 2013 đạt 5,43%).
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp thời kỳ này đạt mức cao ở một số ngành
chủ yếu như: than, hóa chất, da, gỗ, kim loại,…Đặc biệt, trong những năm gần đây,
sự phát triển mạnh mẽ của các ngành sản xuất và lắp ráp ô tô, xe máy, thiết bị
máy tính, điện,..đã đóng góp đáng kể vào tăng trưởng của toàn ngành.


Dịch vụ.

Trong ba năm 2005-2007, GDP do nhóm ngành này tạo ra tăng trên 8%,
cao nhất tính từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á xảy ra (1997). Tuy
nhiên, do ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế mà tốc độ tăng trưởng của khu
vực dịch vụ giảm xuống còn 7,37% năm 2008. Trong những năm gần đây, Việt
Nam đã chú trọng đầu tư vào ngành dịch vụ song hiệu quả chưa cao, tốc độ tăng
trưởng còn thấp ( năm 2011, đạt 6,99%, năm 2012 giảm xuống còn 6,42% và
năm 2013 là 6,56%), tỷ trọng trong GDP chỉ khoảng 38-39%, thấp hơn so với bình
diện chung của thế giới và thấp hơn nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á, như
Philippines, Thái Lan, Malaysia, Indonesia.


II. Thực trạng tăng trưởng kinh tế theo các nhân tố tác động
1. Các nhân tố từ phía cung
Nền kinh tế nước ta trong giai đoạn vừa qua tăng trưởng kinh tế theo
chiều rộng dựa trên yếu tố vốn là chính, được thể hiện qua bảng số liệu và biểu đồ
dưới đây:
23


Bảng 1: Đóng góp của các nhân tố đầu vào đối với tăng trưởng GDP
giai đoạn 2001–2013
Tốc độ
tăng
trưởng
GDP

Theo điểm phần trăm
(%)

Theo tỷ lệ phần trăm (%)

K

L

TFP

K

L


TFP

2001 –
2005

7.2

3.6

0.5

3.1

49

7

43

2006 –
2010

6.8

5.4

1.8

-0.4


80

26

-6

2011 –
2013

5.8

3.5

1.4

0.9

60

24

16

Nguồn: www.gso.gov.vn

Biểu đồ 3: Tỷ lệ đóng góp của các yếu tố đầu vào đến tăng trưởng
GDP giai đoạn 2001-2013 (đơn vị: %)
Nguồn: “Mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2011 – 2020”, Ủy ban kinh tế Quốc
hội, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2012), Niên giám Thống kê (2013).


Nhìn chung từ biểu đồ trên ta thấy xu hướng của các yếu tố vốn, lao động
và năng suất tổng hợp tác động tới tăng trưởng trong giai đoạn từ 2001 - 2013.
Tỷ lệ vốn đóng góp vào tăng trưởng trong giai đoạn này có xu hướng tăng, từ
41,1% năm 2001 lên đến 55,8% năm 2013, đã tăng 14,7%. Tỷ lệ đóng góp của lao
động có xu hướng giảm từ 29,6% (2001) xuống còn 17,1% (2013), giảm 12,5%.
Tỷ lệ đóng góp của TFP cũng có xu hướng giảm nhẹ, từ 29,3% (2001) xuống còn
27,1% (2013). Và qua số liệu thống kê này, tỷ lệ đóng góp của vốn vào tăng
trưởng chiếm tỷ trọng lớn nhất, luôn cao hơn mức đóng góp của lao động và
nhân tố năng suất tổng hợp.
Qua bảng số liệu trên, ta có thể tính được tỷ lệ phần trăm đóng góp của
TFP trung bình vào tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2001 – 2013 là xấp xỉ
18,5%; tỷ lệ đóng góp trung bình của lao động vào GDP là 25,3% và tỷ lệ đóng góp
trung bình của vốn vào tăng trưởng giai đoạn này là 56,2%.
- Về yếu tố vốn:
24


Từ giai đoạn 2001 - 2005 đến 2011 - 2013, đóng góp của K vào tăng
trưởng đã tăng từ 49% lên 60% (tăng 11%). Trong giai đoạn từ năm 2001 –
2006 nhìn chung thì tỷ trọng đóng góp của vốn vào GDP luôn ổn đinh ở mức cao,
không có sự thay đổi đáng kể nào, cụ thể là năm 2001 là 41,1% đến năm 2006 là
43,5%. Nhưng từ năm 2007 trở đi, đóng góp của nhân tố vốn vào tăng trưởng đã
có những biến động đáng kể. Đóng góp của nhân tố vốn vào tăng trưởng trong
những năm 2006 - 2010 chiếm trên 50%, thậm chí gần 60% mà đỉnh điểm là
năm 2008 và năm 2009 đóng góp của nhân tố vốn vào tăng trưởng kinh tế tăng
lên tới 83,2% và 84,1%; cao hơn hẳn đóng góp của nhân tố lao động và các nhân
tố năng suất tổng hợp (TFP). Như vậy có thể thấy nền kinh tế Việt Nam chủ yếu
vẫn tăng trưởng dựa vào vốn đầu tư; mô hình tăng trưởng hiện nay là tăng
trưởng theo chiều rộng (dựa trên sự mở rộng nguồn vốn đầu tư), chưa chú trọng

đến tăng trưởng theo chiều sâu (tăng trưởng dựa trên việc cải thiện năng suất,
chất lượng, năng lực cạnh tranh…). Chúng ta tăng trưởng phần lớn dựa trên sự
gia tăng về quy mô vốn nhưng hiệu quả sử dụng vốn là không cao, hệ số ICOR cao
trong khi nước ta vẫn là nước có trình độ công nghệ thấp, gây thất thoát nguồn
lực, bên cạnh đó làm gia tăng nguy cơ về lạm phát, gây bất ổn kinh tế vĩ mô làm
cho công tác quản lý, điều tiết cực kỳ khó khăn.
Rõ ràng tăng trưởng cao với một nền kinh tế quy mô nhỏ là một điều cần
thiết nhưng mô hình tăng trưởng theo chiều rộng mà không chú ý phát triển theo
chiều sâu dường như sẽ là không bền vững khi mà mức độ hấp thụ của nền kinh
tế suy giảm và những tác động tiêu cực của môi trường bên ngoài tới một nền
kinh tế phát triển quá cao trong một thời gian dài.
Thực tế đã chứng minh trong giai đoạn từ 2009 đến nay, mô hình này
không còn phù hợp. Tăng trưởng là chững lại và bộc lộ quá nhiều những nguy cơ
như lạm phát, sản xuất trì trệ, đầu tư không hiệu quả... do thâm dụng vốn. Từ
năm 2009 trở đi tới nay, tỷ trọng đóng góp của vốn vào tăng trưởng giảm mạnh
trong giai đoạn từ năm 2009 – 2011, từ 84,1% năm 2009 còn 55,5% năm 2011
và hầu như không có sự cải thiện đáng kể cho tới nay, cụ thể là năm 2013 vẫn là
55,8%. Sự thay đổi này có lẽ 1 phần chúng ta đã quá phụ thuộc vào nguồn vốn từ
các tổ chức tín dụng mà xem nhẹ các nguồn huy động vốn khác mà lẽ ra có thể sử
dụng hiệu quả hơn, đồng thời do hiệu quả sử dụng vốn thấp, hệ số ICOR cao, vốn
đầu tư cho khu vực nhà nước thì sử dụng kém hiệu quả, thất thoát và lãng phí
lớn, hiệu quả sử dụng và giải ngân các nguồn vốn đầu tư nước ngoài thấp, các
chính sách ưu đãi và thu hút vốn đầu tư nước ngoài hạn chế, hệ thống luật pháp
còn chưa được hoàn thiện, phù hợp với thông lệ quốc tế. Ngoài ra, cuộc khủng
25


×