LỜI MỞ ĐẦU
Trong xã hội hiện đại, vai trò của khoa học - công nghệ (KH&CN) ngày
càng trở nên quan trọng. Những tiến bộ như vũ bão của KH&CN trong hai thập
kỷ qua, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,
công nghệ Nano, tự động hoá đã làm thay đổi căn bản về tư duy và chiến lược
của nhiều quốc gia. Không ai còn có thể hoài nghi về vai trò của KH&CN trong
phát triển kinh tế toàn cầu và của mỗi quốc gia. Trong xu thế ấy, bất kỳ quốc
gia nào hay địa phương nào khi xây dựng kế hoạch chiến lược phát triển cũng
phải chú ý tới vai trò đặc biệt của KH&CN và mối quan hệ mật thiết của chúng
đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Theo đó ,công nghệ nội sinh,công nghệ ngoại sinh cũng đang phát triển rất
mạnh mẽ,và để lại những tác động tích cực cho sự phát triển kinh tế,văn hóa và
xã hội.Để tìm hiểu rõ các tác động của chúng,biết được những tác động của
công nghệ nội sinh,công nghệ ngoại sinh, ưu điểm cũng như các hạn chế thì sau
đây nhóm tôi xin trình bày chủ đề “ Tác động của công nghệ nội sinh,công nghệ
ngoại sinh ở nước ta trong thời kì công nghiệp hóa,hiện đại hóa.”
•
Cấu trúc của bài tiểu luận gồm 3 phần:
Chương 1: Cơ sở lý luận.
Chương 2:Thực trạng các tác động của công nghệ nội sinh,công nghệ ngoại
sinh ở Việt Nam trong thời kì công nghiệp hóa,hiên đại hóa (CNH,HĐH).
Chương 3: Định hướng phát triển và những giải pháp.
CHƯƠNG 1:CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.Khái quát về công nghệ nội sinh
1.1 Khái niệm
Công nghệ nội sinh là công nghệ được tạo ra thông qua quá trình hình thành, nghiên
cứu và triển khai ở trong nước.
1.2 Chu trinh hình thành: gồm 5 giai đoạn
Tiềm hiểu nhu cầu Thiết kế Chế tạo thử Sản xuất Truyền bá và đổi mới
2. Khái quát về công nghệ ngoại sinh
2.1 Khái niệm
Công nghệ ngoại sinh là công nghệ có được thông qua mua, chuyển giao công nghệ
do nước ngoài sản xuất.
2.2 chu trình hình thành: gồm 3 giai đoạn
Nhập Thích nghi Làm chủ
2.3Các hình thức nhập công nghệ
Mua thiết bị, nhá máy chìa khóa trao tay, hay sản phẩm trao tay
Liên doanh, hợp tác kinh doanh với công ty xuyên quốc gia trong đó phía nước
ngoài chịu trách nhiệm cung cấp phần chủ yếu của công nghệ.
Mua giấy phép bản quyền công nghệ rồi tạo ra công nghệ.
Thông qua tự phát như di dân, qua các thương gia, người đi sứ,…
2.4 Các tiêu thức lựa chọn công nghệ ngoại sinh phù hợp.
Thu hút số lượng lớn lao động,đáp ứng nhu cầu cơ bản của nhân dân.
Bảo tồn và phát triển công nghệ truyền thống,tạo ra các ngành nghề mới.
Tiết kiệm tài nguyên,thu hút sử dụng vật liệu trong nước.
Tạo tiền đề tăng cường xuất khẩu.
Tạo tiềm năng nâng cao dần năng lực công nghệ trong nước.
3 Khái quát về Công nghiệp hóa,hiện đại hóa.
3.1 Trước đổi mới
3.1.1 Mục tiêu
Đại hội lần thứ V của Đảng (1982) đã xác định phải lấy nông nghệp làm mặt trận
hàng đầu,ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng,việc xây dựng và phát
triển công nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức độ,vừa sức.
3.1.2 Đặc trưng
Công nghiệp hóa theo mô hình khép kín,hướng nội và thiên về công nghiệp nặng.
Công nghiệp hóa chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động,tài nguyên,đất đai và viện
trợ của các nước xã hội chủ nghĩa.
Phân bổ nguồn lực được thông qua cơ chế kế hoạch hóa tập trung,quan liêu bao
cấp.
Nóng vội,đơn giản,chủ quan,ham làm nhanh làm lớn,không quan tâm đến hiệu
quả kinh tế xã hội.
3.2 Thời kì đổi mới
Hội nghị Trung Ương VII (1/1994) có bước đột phá mới trong việc nhận thức về
CNH,HĐH “ CNH,HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản ,toàn diện các hoạt động sản
xuất ,kinh doanh,dịch vụ và quản lí kinh tế,xã hội từ việc sử dụng lao động thủ công là
chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ,phương tiện và
phương pháp tiên tiến,hiện đại,dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ của
khoa học và công nghệ,tạo ra năng xuất lao động cao”.
3.2.1 Mục tiêu
Cải biến nước ta thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiên đại,có cơ
cấu kinh tế hợp lí,quan hệ sản xuất tiến bộ,phù hợp với trình độ phát triển của sản
xuất,mức sống vật chất và tinh thần cao,quốc phòng –an ninh vững chắc,dân
giàu,nước mạnh,xã hội công bằng,dân chủ và văn minh.
3.2.2 Nội dung cơ bản của quá trình CNH,HĐH.
•
Quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ cho tất cả các hoạt động từ chổ sử
dụng các công cụ thủ công sang sử dụng máy móc thiết bi ngày càng hiện đại.
•
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân và cơ cấu nội tại của mỗi ngành
kinh tế.
• Quá trình tạo ra những chuyển biến cơ bản về thể chế và xã hội.
• Công nghiệp hóa,hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.
• Quá trình mở rộng hợp tác quốc tế
Chương 2:THỰC
TRẠNG
TÁC ĐỘNG CỦA CÔNG
NGHỆ NỘI
SINH,NGOẠI SINH Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ CNH,HĐH
2.1 Tác động đến quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ cho tất cả các hoạt
động.
Khoa học công nghệ và trình độ trang bị kỹ thuật là một trong những yếu tố tiên
quyết, quan trọng. Tuy nhiên, đối với hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam trước
đây,tình trạng máy móc thiết bị công nghệ thể hiện rõ sự quá cũ kỹ, lạc hậu:
•
Trang thiết bị hầu hết đã cũ nát, chắp vá không thể sản xuất được những sản
phẩm yêu cầu độ chính xác cao, không thể đáp ứng được thị hiếu ngày càng
cao của thị trường trong và ngoài nước. Có đến 70% thiết bị máy móc thuộc
thế hệ những năm 60- 70, trong đó có hơn 60% đã hết khấu hao, gần 50%
máy móc cũ được tân trang lại để dùng, việc thay thế chỉ đơn lẻ từng bộ
phận, chắp vá thiếu đồng bộ. Tình trạng máy móc có tuổi thọ trung bình trên
20 năm chiếm khoảng 38% và dưới 5 năm chỉ chiếm có 27%.
• Trước đây chúng ta đa số là nhập máy móc thiết bị từ nhiều nguồn khác
nhau: 25% từ Liên Xô, 21% từ các nước Đông Âu, 20% từ các nước
ASEAN,…nên tính đồng bộ kém, khi sử dụng năng lực sản xuất chỉ đạt hơn
50% công suất.
• Do đầu tư thiếu đồng bộ nên doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn về phụ
tùng thay thế, suất tiêu hao vật liệu, nhiên liệu trên một đơn vị sản phẩm còn
quá lớn, nhiều tiêu chuẩn định mức đã lỗi thời không còn phù hợp nhưng
chưa sửa đổi. Máy móc thiết bị cũ làm cho số giờ máy chết cao…Những điều
này chính là nguyên nhân làm cho giá thành sản phẩm cao, chất lượng thấp
và không đủ sức cạnh tranh cả trong thị trường nội địa.
Xuất phát từ thực trạng máy móc thiết bị trên đòi hỏi tất yếu các doanh nghiệp phải
đổi mới máy móc thiết bị mới có thể đáp ứng được nhu cầu thị trường, chiến thắng
trong cạnh tranh.Quá trình trang bị và trang bị lại cho tất cả các hoạt động chuyển từ
chỗ sử dụng thủ công là chính sang sử dụng máy móc thiết bị hiện đại nhờ ứng dụng
công nghệ nội sinh và công nghệ ngoại sinh vào sản xuất.Đó là quá trình tạo sự chuyển
biến căn bản về lực lượng sản xuất nhằm nâng cao năng suất,chất lượng,hiệu quả và
khả năng cạnh tranh của nền kinh tế thế giới.
Trong lĩnh vực y tế
Từng bước đổi mới công tác quản lý, sắp xếp và tổ chức lại hệ thống .Những
trang thiết bị y tế thông thường, thiết bị nội thất bệnh viện sản xuất trong nước đã
được tăng cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng được nhu cầu của ngành Y tế và
bước đầu xuất khẩu.
Tại các bệnh viện tỉnh, các khoa chủ yếu như: chẩn đoán hình ảnh, xét nghiệm
sinh hoá, phòng mổ và hồi sức cấp cứu đã được trang thiết bị một số thiết bị cơ
bản: máy X-quang cao tần - tăng sáng truyền hình, máy siêu âm, máy nội soi, máy
xét nghiệm sinh hoá nhiều chỉ số, máy huyết học, máy gây mê, máy thở, máy sốc
tim, máy theo dõi bệnh nhân v.v...
Tại 61 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều được trang bị đủ trang thiết bị
để sàng lọc phát hiện bệnh nhân bị nhiễm HIV, viêm gan, một yêu cầu đặc biệt
quan trọng trong công tác truyền máu an toàn.
Trong lĩnh vực công nghiệp
Yếu tố không thể thiếu trong việc nâng cao chất lượng là phải tích cực đầu tư,
đổi mới trang thiết bị công nghệ, tiếp thu những thành tựu KHKT hiện đại áp dụng
vào sản phẩm và quá trình sản xuất sản phẩm.Các doanh nghiệp đã tiến hành đầu
tư nâng cấp hàng loạt máy công cụ hiện đại cho tất cả các khâu trong dây chuyền
sản xuất. Bên cạnh những thiết bị sản xuất có năng suất cao, loại trừ những sai số
chủ quan của con người với những tính năng điều khiển cao cấp Tại phòng kiểm
nghiệm, hiệu chỉnh sản phẩm đã có những thiết bị cân bằng động hiện đại với điều
khiển bằng kỹ thuật số chạy chương trình trên máy tính PC và những thiết bị đo
lường của các các nước tiên tiến: Anh, Nhật, CHLB Đức v..v .
Một số thiết bị hiện đại được tạo ra từ việc ứng dụng những công nghệ nôi
sinh,ngoại sinh
Bộ điều khiển lập trình logic Môđun (PLCs)
Máy cắt Laze
Sản phẩm của TOMECO ngày càng đa dạng phong phú,
chất lượng ngày càng được hoàn thiện.
Trong lĩnh vực giáo dục.
Chỉ tính riêng trong năm học 2011-2012, nhiều địa phương trên cả nước đã
đầutư mua sắm bổ sung thiết bị dạy học tối thiểu, sách giáo khoa, sách giáo viên,tủ
sách dùng chung... với tổng kinh phí hơn 844 tỷ đồng.Nhiều địa phương đã đầu tư
mua sắm các thiết bị giảng dạy hiện đại phục vụ tốt công tác đổi mới phương
phương pháp dạy học của giáo dục mầm non và các cấp học phổ thông.Cùng với
cơ sở vậtchất trường, lớp học thì thiết bị giảng dạy đầy đủ là một trong những điều
kiệnquyết định thành công của việc đổi mới phương pháp dạy học. Nhất là việc sử
dụng thiết bị giảng dạy sẽ tránh được tình trạng truyền thụ kiến thức một chiều; tạo
động lực khuyến khích tư duy sáng tạo của đội ngũ giáo viên và học sinh, bồi
dưỡng năng lực tự học, phát triển năng lực thực hành. Có được các thiết bị giảng
dạy thích hợp, người giáo viên sẽ phát huy hết năng lực sáng tạo của mình trong
công tác giảng dạy, làm cho hoạt động nhận thức của học sinh trở nên nhẹ nhàng
và hấp dẫn hơn, tạo ra cho học sinh những tình cảm tốt đẹp với môn học
Máy chiếu 28/2x/3x
2.2 Tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân và cơ cấu nội tai
của mỗi ngành kinh tế.
•
Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Dưới tác động của công nghệ nội sinh,ngoại sinh,cơ cấu kinh tế nước ta cũng có
những chuyển biến rõ rệt.Trong 10 năm 1991-2000, tăng trưởng GDP đạt 7,5%
(mục tiêu 6,9%-7,5%) tất cả các ngành chủ chốt đều tăng trưởng. Trong đó công
nghiệp tăng nhanh nhất 12,9% (mục tiêu 9,5%-12,5%), dịch vụ 8,2% (mục tiêu 1213%), nông nghiệp khoảng 5,4% (mục tiêu 4%-4,2%). Với mức tăng trưởng trên
so với các nước là một thành tựu đáng kể.
Thời kì 2000-2007 chứng kiến sự tăng trưởng trở lại của nền kinh tế. Cùng với các
chương trình cảI cách hướng vào cảI tổ cơ cấu kinh tế,tốc độ cổ phần hóa các
doanh nghiệp nhà nước cũng tăng lên,đăc biệt từ năm 2002 trở lại đây.Tất cả
những đổi thay này đưa nền kinh tế trở lại đà tăng trương từ 6,8% năm 2000 lên
8,4% năm 2005, 8,2% năm 2006, và 8,48% năm 2007 qua đó tốc độ tăng trưởng
GDP bình quân 7 năm qua đạt hơn 7,6%.
Cơ cấu kinh tế qua một số mốc thời gian (%)
Trong giai đoạn 2001-2007,mặc dù nông nghiệp gặp nhiều khó khăn nhưng nhờ
thủy sản vẫn tăng khá(11,4% / năm) nên tính chung giá trị sản xuất của nhóm
ngành nông lâm nghiệp và thủy sản đạt bình quân trên 5%/ năm.Còn tốc độ tăng
trưởng của công nghiệp trong thời kì này trên 7,3% / năm bên cạnh đó qua 2 năm
2005-2006 GDP do nhóm ngành dịch vụ tạo ra tăng trên mức 8% ,lần đầu tiên kể
từ
năm
1996,đã
cao
hơn
tốc
độ
tăng
chung
của
nền
kinh
tế
Chuyển dịch nền kinh tế theo hướng CNH, nông nghiệp tăng khá về giá trị tuyệt
đối, từ 38,7% năm 1980 xuống còn 25% năm 2000, tương ứng công nghiệp và xây
dựng tăng từ 22,7% lên khoảng 34,5% và dịch vụ 38,6% lên 40,5% trong GDP
(mức độ thay đổi trong 10 năm đối với nông nghiệp là -13,7%, công nghiệp 11,8%,
dịch vụ là 1,9%)
•
Cơ cấu nội tại của mỗi ngành kinh tế
Ngành nông nghiệp
Mức tăng trưởng sản xuất duy trì ở mức 4,8% liên tục trong 10 năm. Nhiều
lĩnh vực sản xuất được mở rộng về diện tích cũng như tăng trưởng về sản lượng
như gạo, cà phê, chế biến thủy hải sản, tạo ra một khối lượng hàng hóa lớn phục vụ
cả tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Ví dụ như ngành lúa gạo, từ một nước nhập
khẩu gạo Việt Nam đã trở thành quốc gia hàng đầu thế giới về xuất khẩu gạo. Sản
lượng gạo tăng liên tục từ mức 16 triệu tấn/năm (1986) lên mức 19,2 triệu tấn/năm
(1990) và 38,9 triệu tấn/năm (2009), tăng gấp 2,4 lần sau hơn 20 năm đổi mới.
Tính riêng trong các năm 2008 và 2009, sản lượng và giá trị các loại cây trồng, đặc
biệt là những cây tạo nguồn nguyên liệu cho xuất khẩu như: cà phê tăng 40,4%,
cao su tăng 37%, chè tăng 33,3% điều tăng 28,3% so với năm 2005. Tỷ trọng của
ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP luôn chiếm trên 30% trong giai
đoạn 1986 – 1990 và giảm dần trong các giai đoạn tiếp sau theo xu hướng tích cực,
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Nông nghiệp đã góp phần không nhỏ vào kim ngạch xuất khẩu với giá trị xuất
khẩu tăng bình quân trên 10% năm. Nếu như năm 1995, kim ngạch xuất khẩu hàng
hóa nông lâm thủy sản của khu vực nông nghiệp chỉ đạt 2,5 tỷ USD thì đến cuối
năm 2009, ước đạt 13,2 tỷ USD, cao gấp 5 lần so với năm 1995. Trong 24 mặt
hàng xuất khẩu chủ lực của cả nước thì nông lâm thủy sản đã đóng góp tới 11 mặt
hàng, chiếm gần ½ số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam trong đó có những mặt
hàng được xem là hàng chủ lực như gạo, cà phê, cao su, gỗ, với kim ngạch trên 1
tỷ USD. Cùng với việc mở rộng thị trường xuất khẩu, nhiều mặt hàng nông sản gia
tăng thị phần và chiếm vị thế cao trên thị trường thế giới, như hạt điều, hạt tiêu
chiếm vị trí thứ nhất, lúa gạo, cà phê đứng thứ hai, cao su đứng thứ tư, chè đứng
thứ năm và thủy sản đứng thứ bảy trong nhóm các nước sản xuất mặt hàng này.
Khu vực nông nghiệp đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu
lao động, tiếp tục là ngành chính tạo ra thu nhập cho người nghèo. Tính đến cuối
năm 2009, khu vực nông nghiệp, nông thôn có 15,57 triệu hộ gia đình (chiếm
69,37% tổng số hộ gia đình của cả nước) và dân số là 60,41 triệu người (chiếm
70,37% tổng số dân cả nước), có trên 24 triệu lao động đang làm việc trong lĩnh
vực nông nghiệp, chiếm tỷ trọng gần 60% tổng số lao động đang làm việc trong
các khu vực kinh tế của cả nước.
Một nền nông nghiệp hướng vào sản xuất hàng hóa đã bước đầu hình thành.
Diện tích gieo trồng các loại cây trồng mà sản phẩm tạo ra dành nhiều cho xuất
khẩu hoặc phục vụ trực tiếp cho người tiêu dùng trong nước đã tăng lên như diện
tích các loại cây rau, quả, cây công nghiệp ngắn ngày có hướng tăng nhẹ khoảng 24%/năm. Diện tích các cây lâu năm tăng gần 80 nghìn ha riêng trong năm 2009 do
giá xuất khẩu một số nông sản này tăng. Những dịch chuyển này đã tạo ra sự hình
thành các vùng chuyên canh, đặc biệt là vùng sản xuất các loại cây rau, quả xuất
khẩu như vải, bưởi, sầu riêng, na, xoài, thanh long,… cùng với sự hình thành các
mô hình sản xuât hàng hóa nông sản lớn. Bên cạnh đó thì những cây trồng có định
hướng phục vụ cho các ngành công nghiệp chế biến các sản phẩm chỉ tiêu dùng nội
địa thể hiện sự khó khăn, không có năng lực phát triển như cây mía đường, bông,
cây thức ăn gia súc,…
Ngành công nghiệp –xây dựng
Sự chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp và tỷ trọng của các phân ngành
công nghiệp trên GDP cho thấy nền công nghiệp của Việt Nam mới ở giai đoạn
đầu của quá trình công nghiệp hoá. Tỷ trọng các ngành khai thác khoáng sản, thâm
dụng lao động, sản xuất hàng tiêu dùng thay thế nhập khẩu đang tăng lên
Ngành dịch vụ
Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
dịch vụ phát triển, nhờ vậy khu vực dịch vụ đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản
xuất, tiêu dùng và đời sống dân cư, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế…
Ngành dịch vụ tăng khá nhanh trong giai đoạn 1991-1995, đạt 8,6%, nhưng sang
giai đoạn 1996-2000 tốc độ tăng chậm lại, chỉ đạt 5,7% và đang có xu hướng hồi
phục trong những năm gần đây (năm 2001 đạt 6,1% năm 2002 đạt 6,54% và 2003
đạt 6,57%).
Tỷ trọng của ngành dịch vụ ở Việt Nam chưa cao, chỉ đạt 36-37% trong GDP (tính
quy luật chung là 45%). Ngoài ra xu thế tỷ trọng này đã giảm từ 37,1% năm 1995
xuống còn 36,1% năm 2002…
Cơ cấu ngành dịch vụ Việt Nam đa dạng với nhiều phân ngành dịch vụ khác nhau.
Tuy nhiên hiện nay, Việt Nam chỉ tập trung ở hai công đoạn lắp ráp và gia công
chế biến. Các dịch vụ khác như nghiên cứu khoa học, thiết kế kiểu dáng hay tiếp
thị, nghiên cứu thị trường… đều kém phát triển. Các phân ngành dịch vụ quan
trọng như tài chính, viễn thông, cơ sở hạ tầng…chưa đủ mạnh. Đến nay cả dịch vụ
vận tải và dịch vụ viễn thông mới chỉ chiếm 9,6% trong toàn ngành dịch vụ và dịch
vụ tài chính chỉ chiếm 5% …
Ngành dịch vụ tạo ra nhiều việc làm tuy nhiên,ước tính ở Việt Nam mới chỉ có
25% lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực dịch vụ. Với sức ép hàng năm
Việt Nam cần phải tăng thêm khoảng 1,7 triệu lao động, trong khi đó ngành công
nghiệp và nông nghiệp chỉ thu hút được tối đa là 1,1 triệu lao động, vì vậy ngành
dịch vụ cần phải tạo ra 0,9 triệu lao động hàng năm, nhưng với tốc độ tăng trưởng
hiện nay, ước tính mỗi năm, chỉ đáp ứng được 0,5 triệu lao động.
Ngành dịch vụ ở Việt Nam chưa thực sự tạo ra môi trường tốt cho toàn bộ nền kinh
tế phát triển. Hiện tại các chi phí dịch vụ viễn thông, cảng biển, vận tải…của Việt
Nam đang cao hơn mức trung bình của các nước trong khu vực (viễn thông cao
hơn 30-50%, vận tải đường biển cao hơn từ 40-50%).
2.3 Tác động đến quá trình tạo ra những chuyển biến cơ bản về thể chế và nội
dung.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tổng thể đường lối,
chủ trương, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, hệ thống pháp luật, chính sách,
hệ thống đảm bảo xã hội, các quy tắc, quy chế mà Đảng, Nhà nướccó nghệ thuật
ban hành nhằm đảm bảo sự phát triển đất nước theo đúng mục tiêu định hướng xã
hội chủ nghĩa đã lựa chọn. Cải cách thể chế có tính hệ thống, bao hàm hai lĩnh vực
thể chế trọng yếu, nổi bật nhất trong đời sống xã hội. Đó là thể chế kinh tế và thể
chế chính trị.
Quá trình CNH-HĐH cũng tạo nên những biến đổi hết sức sâu sắc về mặt thể
chế kinh tế và về mặt xã hội .Ở Việt Nam hiện nay, để phát triển mạnh mẽ kinh tế
thị trường thì phải ra sức xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề chính trị và xã hội,
là bảo đảm chính trị và bảo đảm xã hội cho sự vận hành và phát triển kinh tế. Đó là
bảo đảm tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội, thể hiện trong từng
chính sách, kế hoạch phát triển. Đối tượng thụ hưởng các lợi ích do cải cách thể
chế đem lại chính là người dân, hộ dân và các cộng đồng dân cư Việt Nam - một
quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo và đa văn hóa
Cải cách thể chế kinh tế tạo ra môi trường và động lực phát triển kinh tế, củng cố
cơ sở kinh tế cho những cải cách chính trị và hệ thống chính trị. Đến lượt nó, cải
cách chính trị, nhất là cải cách thể chế nhà nước và luật pháp lại tạo ra cơ sở chính
trị - pháp lý cho sự phát triển kinh tế.
Mô hình và cơ chế quản lý kinh tế kiểu hành chính - mệnh lệnh trước đổi mới dẫn
đến tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước, sự trì trệ và sự thiếu vắng trách nhiệm cá
nhân. Khuyết tật và hạn chế này dần dần được khắc phục khi xã hội và các công
dân làm quen với cơ chế thị trường và thích ứng với kinh tế thị trường. Nó đòi hỏi
mỗi người dân và từng tổ chức phải tỏ rõ năng lực và trách nhiệm, ý thức chấp
hành luật pháp, tính chủ động tháo vát, tính thiết thực và chú trọng kết quả, hiệu
quả công việc, nhất là đối với các chủ thể sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp,
công ty, các cơ quan kinh tế. Chuyển sang cơ chế thị trường và kinh tế thị trường,
ngay các tổ chức chính trị (Đảng, Nhà nước), các đoàn thể xã hội và những người
hoạt động trong lĩnh vực này cũng phải thay đổi tư duy, đổi mới phương pháp và
phong cách hoạt động sao cho phù hợp với những đòi hỏi mới, yêu cầu mớiTrong
tiến trình cải cách thể chế chính trị ở Việt Nam, có những thay đôi đáng chú ý là:
Thứ nhất, chế độ chính trị - xã hội ở Việt Nam là chế độ xã hội chủ nghĩa. ý thức
hệ ở Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phấn đấu cho
lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, mô hình thể chế chính trị ở Việt Nam là nhất nguyên chứ không phải là
đa nguyên chính trị.
Thứ ba, ở Việt Nam không có chế độ đa đảng, không có đảng đối lập. Đảng cầm
quyền và duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản. Trong điều kiện một Đảng duy
nhất cầm quyền, để bảo đảm dân chủ, phát huy quyền tự do dân chủ và làm chủ
của mọi người dân, bảo đảm cho Nhà nước và các tổ chức đoàn thể do Đảng lãnh
đạo thực sự có vai trò và tác dụng, luôn đặt ra như một vấn đề thời sự và phải
không ngừng tìm tòi các giải pháp đổi mới để giải quyết vấn đề này, trước hết
thuộc về trách nhiệm của Đảng đối với toàn xã hội, đồng thời phải có một Nhà
nước mạnh với pháp luật được coi là tối thượng. Phân định rõ mối quan hệ giữa
Đảng và Nhà nước theo chức năng - nhiệm vụ, thẩm quyền - trách nhiệm là một
trong những vấn đề cốt yếu nhất trong lý luận thể chế và thực tiễn cải cách thể chế.
Thứ tư, Nhà nước ở Việt Nam cũng như nhà nước của các nước trên thế giới,
trong cơ cấu tổ chức có lập pháp, hành pháp và tư pháp. Song cơ quan lập pháp ở
Việt Nam được tổ chức theo mô hình một viện là Quốc hội chứ không phải "lưỡng
viện" như nhiều nước khác (Thượng viện và Hạ viện). Việt Nam xây dựng Nhà
nước pháp quyền nhưng không theo cơ chế tam quyền phân lập mà quyền lực tập
trung thống nhất, thuộc về nhân dân. Các cơ quan nhà nước hoạt động theo cơ chế
phân công phù hợp với chức năng, nhiệm vụ. Có phân công và phân quyền nhưng
phải bảo đảm quyền lực là thống nhất, không phân chia quyền lực. Theo đó, Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Đảng lãnh đạo Nhà nước để bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ năm, trong cơ cấu hệ thống chính trị Việt Nam, ngoài Đảng, Nhà nước còn có
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (trước đây là Mặt trận dân tộc thống nhất) với tư cách
là một liên minh chính trị rộng lớn bao gồm nhiều tổ chức thành viên.
Thứ sáu, cải cách thể chế chính trị ở Việt Nam trong đổi mới, nhất là trong giai
đoạn hiện nay, đang nổi lên một nhiệm vụ bức xúc, gay gắt là đấu tranh chống
quan liêu, tham nhũng. Tình trạng này ở Việt Nam hiện nay là khá trầm trọng và
phổ biến, đã trở thành quốc nạn. Đây là nguy cơ đối với sự ổn định và phát triển
bền vững của chế độ. Đây cũng là một trong những thách thức lớn đối với Việt
Nam trong hội nhập quốc tế, trong bối cảnh và xu thế toàn cầu hóa.
Nói tóm lại, những biến đổi kinh tế - xã hội, từ cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội đến
các quan hệ kinh tế và các quan hệ xã hội trong nền kinh tế thị trường, mở cửa và
hội nhập đòi hỏi tổ chức và hoạt động chính trị phải đổi mới để thích ứng với
những cải cách kinh tế và thúc đẩy xã hội phát triển.
2.4 Tác động đến CNH.HĐH nông nghiệp nông thôn.
Nước ta xuất phát từ nền nông nghiệp lạc hậu,phân tán,năng suất thấp nên
CNH,HDH nông nghiệp nông thôn giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong toàn bộ tiến trình
CNH,HĐH đất nước.Đến nay,các nước có khoảng 80% dân số ở nông thôn,trong đó tỷ
lệ đói nghèo vẫn còn trên 22%,ở một số huyện miền núi còn trên 42%.Điều đó làm cho
thu nhập và tích lũy của đại bộ phận dân cư nông thôn còn bấp bênh,sức mua,khả năng
thanh toán về tư liệu sản xuất tiêu dùng hạn chế.
So với các giải pháp khác thì giải pháp về khoa học công nghệ đem lại hiệu quả
cao.Theo đánh giá chung,trong nông nghiệp ước tính 1/3 giá trị tăng của sản xuất lương
thực thời gian qua là do người dân tiếp thu,ứng dụng các tiến bộ về khoa học kĩ thuật
mới vào sản xuất.Nhờ ứng dụng những thành tựu về công nghệ mà nước ta đã tạo ra
được nhiều giống tốt,kết hợp với việc phát triển các quan hệ thị trường đùng hướng,có
thể chuyển cơ cấu sản xuất nông nghiệp từ thuần nông,độc canh sang đa dạng hóa các
cây trồng.
Gần đây,nhà nước tiếp tục tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho
nông nghiệp,nông thôn.Hiện nay có rất nhiều vấn đề về kĩ thuật để đảm bảo hiệu quả
vốn đầu tư của nhà nước chưa được giải quyết tôt.Do đó,nông nghiệp nông thôn đang
rât cần có sự tác động của khoa học công nghệ.
Việc áp dụng các biện pháp,các công nghệ ,áp dụng các tiến bộ kĩ thuật phục vụ
kinh tế nông nghiệp và nông thôn là một việc làm hiệu quả,khẳng định vai trò,động lực
chủ đạo phát triển kinh tế nông nghiệp và chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn,vận
động thành phong trào rộng lớn đưa khoa học công nghệ về phục vụ CNH,HĐH.Tạo ra
bước chuyển biến rõ rệt về năng suất chất lượng,hiệu quả và sức cạnh tranh của nông
sản hàng hóa,chủ động hội nhập với khu vực và quốc tế,góp phần chuyển đổi nhanh cơ
cấu nông nghiệp,nông thôn,thực hiện đa dạng hóa cây trồng vật nuôi để có cơ sở lựa
chọn,nhân giống các sản phẩm có ưu thế ở các vùng,từng địa phương,phát triển công
nghiệp,công nghệ chế biến,ứng dụng các công nghệ sau thu hoạch nhằm hạn chế tổn
thất,duy trì chất lượng nông sản,khai thác các tiềm năng chưa phát huy hết,tăng cường
luận cứ khoa học để đảm bảo hiệu quả đầu tư cho khu vực nông nghiệp và nông thôn.
2.5 Tác động đến quá trình mở rộng hợp tác quốc tế.
Trong điều kiện hiện nay,toàn cầu hóa đã trở thành một xu thế khách quan,chi phối
trực tiếp sự phát triển kinh tế của các nước.Trong hệ thống toàn cầu,nền kinh tế của mỗi
quốc gia trở thành bộ phận của nền kinh tế thế giới,có tác động tương hỗ ở các mức độ
khác nhau với nền kinh tế của một quốc gia.Hơn thế nữa,sự phát triển của công nghệ
nội sinh,ngoại sinh tác động rất lớn đến quá trình mở rộng hợp tác quốc tế của các
nước.
Trước hết, Việt Nam đã mở rộng quan hệ kinh tế với hàng loạt quốc gia và khu
vực, trở thành thành viên của các tổ chức kinh tế, thương mại chủ chốt, tạo điều
kiện thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng hiệu quả hơn.
Việt Nam có quan hệ thương mại với hơn 220 nước và vùng lãnh thổ, thu hút
được hơn 8.000 dự án FDI từ 80 nước và lãnh thổ với tổng số vốn đăng ký hơn 100
tỷ USD. Nhiều nhà đầu tư lớn, các tập đoàn xuyên quốc gia đã và đang đặc biệt
quan tâm đến Việt Nam. Tại các Hội nghị tư vấn tài trợ cho Việt Nam, tổng cam
kết tài trợ liên tục tăng, từ 4,4 tỷ USD năm 2006 đến hơn 7,9 tỷ USD năm 2010.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những nội dung quan trọng hàng đầu trong
quá trình hội nhập quốc tế của nước ta. Nước ta thực sự đẩy mạnh việc tham gia hội
nhập kinh tế với khu vực và quốc tế từ khi tham gia ASEAN (1995) và các định
chế kinh tế, tài chính thương mại của ASEAN như: Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA), Khu vực đầu tư ASEAN (AIA); ký Hiệp định khung với EU
(1995); tham gia Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM) năm 1996, Diễn đàn APEC
năm 1998; ký Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ (2000) dựa trên những nguyên
tắc cơ bản của WTO và năm 2007 đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của
WTO. .
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam ngày càng năng động tiếp
thu khoa học và công nghệ, kỹ năng quản lý, góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ quản
lý và cán bộ kinh doanh. Đồng thời, từng bước đưa hoạt động của các doanh
nghiệp và cả nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh, tạo tư duy làm ăn mới, thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
ASEAN là một trong những đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam. Năm
2009, xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN đạt 8,9 tỷ USD, tương đương 15%
tổng kim ngạch xuất khẩu. Giá trị nhập khẩu từ ASEAN đạt 14 tỷ USD, chiếm
20% tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước. Tổng vốn đầu tư trực tiếp đăng ký của
ASEAN tại Việt Nam khoảng trên 60 tỷ USD. Bên cạnh đó Việt Nam còn tham gia
với tinh thần trách nhiệm cao vào các cơ chế hợp tác đa phương của ASEAN với
các đối tác bên ngoài như: ASEAN+1, ASEAN+3, Hợp tác Á-Âu (ASEM), Hội
nghị Thượng đỉnh Đông Á.
Bên cạnh việc phát triển quan hệ với các nước láng giềng và khu vực, Việt Nam
còn năng động cải thiện quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn và các tổ chức
quốc tế trong quá trình hội nhập.
Bình thường hoá quan hệ với Mỹ là một hướng lớn trong hoạt động đối ngoại
của Việt Nam
Năm 1994, chính quyền Mỹ huỷ bỏ cấm vận chống Việt Nam và tháng
11/7/1995 bình thường hoá quan hệ với Việt Nam.
Năm 2010, kim ngạch mậu dịch hai chiều vượt 18,3 tỉ USD. Kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam sang Mỹ trong 8 tháng đầu năm 2011 đạt 11,3 tỷ USD, tăng
20,6% so với cùng kỳ năm 2010 và xuất khẩu của Mỹ sang Việt Nam đạt 2,7 tỷ
USD, tăng 21,5%. Hiện Mỹ đang là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.
Với Liên minh châu Âu (EU), Việt Nam đã ký với hầu hết các nước EU Hiệp
định khung về hợp tác, Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, Hiệp định tránh
đánh thuế hai lần... tạo cơ sở pháp lý cho xây dựng và phát triển mối quan hệ hợp
tác ổn định, lâu dài. Phát triển quan hệ song phương đã góp phần thúc đẩy quan hệ
hợp tác Việt Nam - EU. Việt Nam đang tích cực thực hiện “Đề án tổng thể về
quan hệ Việt Nam - EU đến năm 2010 và định hướng đến 2015” được đưa ra từ
tháng 6/2005.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,nhờ vào việc ứng dụng công nghệ nội
sinh,công nghệ ngoại sinh vào quá trình sản xuất. Việt Nam đã và đang gặt hái
được những thành tựu trong việc tự do hoá thương mại và mở cửa thị trường
Thời kỳ 2001-2010, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình quân
17,42%, cao hơn 2,42% so với chỉ tiêu đề ra tại Chiến lược phát triển xuất khẩu
2001-2010.
Tính riêng trong giai đoạn 2007-2010, là giai đoạn sau khi gia nhập WTO, xuất
khẩu tăng bình quân 14% năm, nhập khẩu tăng bình quân 11% năm.
Đến năm 2011, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, kim ngạch hàng hóa xuất
khẩu đạt 96,3 tỷ USD là là mức cao nhất từ trước tới nay, tăng 33,3% so với kỷ lục
đạt được trong năm 2010. Đồng thời, mức nhập siêu của năm 2011 là mức thấp
nhất trong vòng 5 năm qua.
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 đã có sự
chuyển dịch khá tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng nhóm hàng chế biến và
giảm dần hàng xuất khẩu thô. Trong đó, tỷ trọng của nhóm hàng nông, lâm, thuỷ
sản giảm dần từ 29,37% năm 2001 xuống còn 23,3% vào năm 2010; nhóm hàng
công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp đã tăng mạnh từ 35,72% vào năm 2001,
lên 48,9% năm 2010; nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản giảm từ 34,92% năm 2001
xuống còn 27,8% năm 2010.
Thị trường ngoài nước ngày càng mở rộng, đa dạng. Số lượng thị trường xuất
khẩu đã tăng gấp hơn 1,4 lần sau 10 năm, từ 160 thị trường lên trên 230 thị trường.
Cơ cấu thị trường xuất, nhập khẩu đã có sự chuyển dịch theo hướng giảm dần lệ
thuộc vào thị trường Châu Á.
Dưới tác động của công nghệ nội sinh,ngoại sinh,quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ,nó cũng tác động đến quá trình trang bị và
trang bị lại các phương tiện,tạo ra các trang thiết bị ngày càng hiện đại hơn,góp
phần nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm nhờ ứng dụng những công nghệ
trong nước cũng như nhập các công nghệ nước ngoài.Nó làm thay đổi cơ cấu
ngành cũng như nội bộ ngành,hợp tác quốc tế sẽ tạo ra nhiều cơ hội hơn cho các
quốc gia,làm tăng tỉ trọng của công nghiệp nhẹ,giảm ti trọng công nghiệp nặng,góp
phần phát triển đất nước.Và nó cũng tác động mạnh mẽ đến quá trình CNH,HĐH ở
nông thôn,làm cho sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn đạt được những
thành tựu to lớn,góp phần ổn định và phát triển kinh tế xã hội,đư nước ta sang giai
đoạn mới.
2.3 Đánh giá
Công nghệ nội sinh
Ưu điểm:
Tạo được công nghệ phù hợp với thực tế cơ sở, địa phương mình, của quốc gia.
Dễ dàng làm chủ công nghệ và dễ dàng quản lí
Tận dụng được các nguồn lực sẵn có của từng địa phương, từng vùng miền hay
2.3.1
của cả quốc gia.
Tiết kiệm được ngoại tệ khi không phải nhập khẩu công nghệ từ nước ngoài vào
Việt Nam.
Không phụ thuộc vào nước ngoài, đặc biệt là kĩ thuật.
Nếu công nghệ trong nước hoàn thiện và đạt được trình độ cao thì có công nghệ
đó có thể được chuyển giao sang các nước khác.
Các cơ quan nghiên cứu trong nước có điều kiện tích lũy được kinh nghiệm và
nâng cao trình độ cá nhân, đồng thời nâng cao trình độ công nghệ của cả dân tộc.
Góp phần đào tạo và nâng cao trình độ nhân lực, chăm sóc sức khoẻ nhân dân,
bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc và phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp của
dân tộc.
Hạn chế :
Để có một công nghệ cần nhiều thời gian, tiền của và nhân lực, do việc tạo ra
công nghệ mới là hoạt động nghiên cứu – triển khai, do đó nếu chỉ dựa hoàn toàn
vào công nghệ nội sinh thì thời gian công nghiệp hóa sẽ bị kéo dài.
Nếu trình độ NC&KT không cao, công nghệ tạo ra sẽ ít giá trị, gây lãng phí do
không thể sử dụng, nhất là trong điều kiện nền kinh tế hội nhập công nghệ lạc
hậu tạo ra sản phẩm không thể cạnh tranh trên thị trường ngay cả trên thị trường
trong nước.
Nguyên nhân:
Việc đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ còn hạn hẹp
Chất lượng đào tạo cán bộ khoa học công nghệ thấp,và cơ chế quản lý kinh tế
chưa tạo môi trường thuận lợi cho phát triển khoa học và công nghệ.
2.3.2 Công nghệ ngoại sinh
Ưu điểm:
Các quốc gia nhanh chóng có được công nghệ mà họ cần,tiết kiệm được thời
•
•
•
gian, đáp ứng nhu cầu và sức ép cạnh tranh.
Có điều kiện nâng cao được trình độ công nghệ.
Nhược điểm:
Chi phí cho chuyển giao công nghệ là rất cao
Bị phụ thuộc nhiều vào các kỹ sư nước ngoài
Các nước nhận chuyển giao công nghệ nếu không tìm hiểu kỹ về công nghệ
được chuyển giao có thể nhập về các công nghệ đã lỗi thời, khi đó sản phẩm
được tạo ra không có sức cạnh tranh, và các quốc gia nay sẽ trở thanh bải rác
công nghệ
• Các công nghệ nhập về có thể không phù hợp với điều kiện ở địa phương.
Nguyên nhân :
Nguyên nhân khách quan
Không quốc gia nào trên thế giới có đủ mọi nguồn lực đẻ làm ra tất cả các công
nghệ cần thiết một cách kinh tế, do đó nhiều nước muốn có một công nghệ
thường cân nhắc giữa mua và làm.
Sự phát triển không đồng đều giữa các quốc gia trên thế giới về công nghệ (85%
các sáng chế công nghệ nằm trong tay sáu nước ), nhiều nước không có khả
năng tạo ra công nghệ mà mình cần, buộc phải mua để đáp ứng nhu cầu cấp
thiết.
Xu thế mở rộng hợp tác, khuyến khích thương mại tạo điều kiện thuận lợi cho
mua bán, kể cả mua bán công nghệ
Các thành tựu KH-CN hiện đại làm rút ngắn tuổi thọ của các công nghệ, khiến
nhu cầu đổi mới công nghệ tăng cao.
Những lý do xuất phát từ bên giao:
Thu được lợi nhuân cao hơn ở địa phương và chính quốc (do giảm chi phí
nguyên vật liệu, nhân công và các chi phí cao về cơ sở hạ tầng khác)
Chấp nhận cạnh tranh về sản phẩm để nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư, do đó có
điều kiện đổi mới công nghệ.
Thu được các lợi ích khác như: bán nguyên vật liệu, linh kiện, phụ tùng thay
thế, tận dụng nguồn chất xám ở địa phương,..
Lý do xuất phát từ bên nhận:
Thông qua CGCN tranh thủ vốn đầu tư của nước ngoài, tạo điều kiện đẩy nhanh
tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Tận dụng nguồn lực sẵn có mà chưa khai thác được vì thiếu công nghệ cần thiết,
đặc biệt tạo việc làm tăng thu nhập cho người lao động.
Nhanh chóng đáp ứng các nhu cầu cấp bách, nhu cầu thiết yếu của xã hội,nhu
cầu đổi mới công nghệ để đáp ứng sức ép của cạnh tranh
Có điều kiện nhanh chóng nâng cao trình độ công nghệ, học tập các phương pháp
quản lý tiên tiến.
Tránh được rủi ro nếu phải tự làm nhờ mua bản quyền công nghệ
Có cơ hội rút ngắn thời gian công nghiệp hóa, đồng thời đi tắt đón đầu công
nghệ hiện đại, đạt được đồng thời hai mục tiêu CNH-HĐH
CHƯƠNG 3 :ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
3.1 Định hướng
3.1.1 Định hướng chung cho chiến lược khoa học và công nghệ từ nay đến
nǎm 2020 là: