Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

giải pháp phát triển kinh tế biển việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (513.31 KB, 41 trang )

BÀI TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Lạm phát
1.1.1. Khái niệm
Lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế. Trong một
nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi
so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ
so với các loại tiền tệ khác.
1.1.2. Phân loại : Người ta chia lạm phát
thành 3 loại :
+ Lạm phát vừa phải.
+ Lạm phát phi mã.
+ Siêu lạm phát.
Nhưng nếu gắn 3 loại lạm phát
trên với thời gian lạm phát thì lại
chia nó làm 3 loại là: Lạm phát kinh
niên, lạm phát nghiêm trọng, siêu lạm phát.
Ngoài ra cịn có lạm phát dự kiến và lạm phát không dự kiến.
1.1.3. Tác động của lạm phát.
 Tác động tích cực

Khi lạm phát vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế, làm cho chi phí thực tế mà nhà
sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao động giảm đi. Điều này khuyến khích nhà sản
xuất đầu tư mở rộng sản xuất. Việc làm được tạo thêm. Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm.
 Tác động tiêu cực

Tác hại chủ yếu của lạm phát không phải là ở giá cả tăng lên mà là mức giá cả
tương đối đã thay đổi. Nó gây lên những tác hại lớn sau:

GVHD: Phạm Thị Bích Duyên


Trang 1


BÀI TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
 Thứ nhất nó làm phân phối lại thu nhập và của cải của các thành viên trong xã hội

đặc biệt là với những ai giữ nhiều tài sản danh nghĩa như tiền mặt và những người
làm cơng ăn lương.
 Thứ hai nó làm biến dạng cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trong nền kinh tế đặc biệt là
khi lạm phát tăng nhanh cùng với sự biến động mạnh của giá cẳ tương đối.
Đối với lạm phát dự kiến được
Chi phí mịn giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền và
lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát làm cho
người ta giữ ít tiền hay làm giảm cầu về tiền.
Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các doanh
nghiệp sẽ mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.
Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn.
Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với ý
muốn của người làm luật do một số luật thuế khơng tính đến ảnh hưởng của lạm phát.
Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: Đồng tiền được sử dụng để làm thước
đo trong tính tốn các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này co giãn và vì
vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của mình.
Đối với lạm phát khơng dự kiến được
Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại của cải giữa
các cá nhân một cách độc đoán. Khi lạm phát thấp hơn dự kiến người cho vay sẽ
được lợi còn người đi vay chịu thiệt hại.
1.1.4. Nguyên nhân lạm phát
- Lạm phát do cầu kéo
Lạm phát do sự tăng lên về cầu được gọi là “lạm phát do cầu kéo”, nghĩa là cầu
về một hàng hoá hay dịch vụ ngày càng kéo giá cả của hàng hố hay dịch vụ đó lên

mức cao hơn. Các nhà khoa học mơ tả tình trạng lạm phát này là”quá nhiều tiền đuổi
theo quá ít hàng hố”.
- Lạm phát do chi phí đẩy

GVHD: Phạm Thị Bích Duyên

Trang 2


BÀI TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Nếu tiền cơng danh nghĩa tăng lên, thì chi phí sản xuất của các xí nghiệp tăng.
Các xí nghiệp vì muốn bảo tồn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành sản phẩm.
Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng tăng.
- Lạm phát do cơ cấu

Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động.
Ngành kinh doanh khơng hiệu quả, vì thế, khơng thể khơng tăng tiền cơng cho người
lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh
kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm làm nảy sinh lạm phát.
- Lạm phát do xuất khẩu

Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được
huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm
khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất
cân bằng.
- Lạm phát do nhập khẩu

Khi giá sản phẩm nhập khẩu tăng thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng.
Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.
- Lạm phát tiền tệ


Cung tiền tăng mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so
với trong nước khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra
lạm phát.
- Lạm phát đẻ ra lạm phát

Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý đó là tâm lý dự trữ, giá
tăng lên người dân tự phán đoán, tự suy nghĩ là đồng tiền khơng ổn định thì giá cả sẽ
tăng cao tạo nên tâm lý dự trữ đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại tổng cầu trở nên cao hơn
tổng cung hàng hóa sẽ càng trở nên khan hiếm kích thích giá lên => gây ra lạm phát.
1.1.5. Giải pháp hạn chế lạm phát
Một là, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt.
GVHD: Phạm Thị Bích Duyên

Trang 3


BÀI TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Hai là, cắt giảm đầu tư cơng và chi phí thường xun của các cơ quan sử
dụng ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố
gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách.
Ba là, tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc
phục nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực,
thực phẩm.
Bốn là, bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm
nhập siêu.
Năm là, triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng.
Sáu là, tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát việc chấp hành
pháp luật nhà nước về giá.
Bảy là, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội

Một số giải pháp kiềm chế lạm phát của nước ta hiện tại trọng nghị quyết 11:
+ Đối với chính sách tiền tệ:
-

Quy định tốc độ tăng trưởng tín dụng phải giữ ở mức dưới 20%
Trong tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 15 -16% và ưu tiên cho việc phát
triển nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ và khối doanh nghiệp

-

nhỏ và vừa.
Thắt chặt tín dụng đối với lĩnh vực phi sản xuất đặc biệt là bất động sản và chứng

-

khốn. Ngồi ra còn giảm tỷ lệ dư nợ đối với lĩnh vực này
Đưa ra chính sách bình ổn thị trườn ngoại tệ và vàng nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất
kinh doanh và tăng dự trữ ngoại hối. Hiện nay chính phủ đang cầm giao dịch mua bán
ngoại tệ tại thị trường tự do và cấm các cửa hàng vàng cá nhân giao dịch mua bán
vàng miếng.
+ Đối với chính sách tài khóa:

-

Phấn đấu tăng thu ngân sách khoảng 7 – 8% so với dự tốn đã được quốc hội thơng

-

qua.
Sắp xếp lại chi thường xuyên nhằm tiết kiệm thêm 10% chi thường xun trong 9

tháng cịn lại
GVHD: Phạm Thị Bích Dun

Trang 4


BÀI TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
-

Cắt giảm bội chi ngân sách xuống dưới 5% GDP
Giám sát chặt chẽ và rà sốt lại nợ chính phủ, quốc gia và khơng mở rộng đối tượng

-

được chính phủ bảo lãnh.
Đối với đầu tư cơng: Chính phủ quyết định cắt giảm tối thiểu 10% lượng vốn theo kế
hoạch tín dụng đầu tư từ ngân sách.
Ngồi các giải pháp nói trên, Nhà nước ta một mặt cũng cần có biện pháp tích
cực kiềm chế mức độ tăng giá từ các yếu tố độc quyền, lũng đoạn thị trường, mặt
khác cần có giải pháp tích cực về tài chính tiền tệ, bảo đảm tăng thu, giảm chi, nâng
cao khả năng đáp ứng vốn tín dụng ngân hàng cho nhu cầu hợp lý của doanh nghiệp,
hộ gia đình, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, nhất là xuất khẩu, thúc đẩy nền
kinh tế tăng trưởng cao và tạo số đông việc làm mới cho người lao động. Từ việc tăng
thu, hạn chế chi trợ cấp cho doanh nghiệp, sẽ có thêm nguồn để trợ cấp cho người
hưởng lương hưu và hưởng trợ cấp xã hội.
1.2. Chính sách tài khóa
1.2.1. Khái niệm
Chính sách tài khóa: là các chính sách của Chính phủ nhằm tác động lên các
định hướng phát triển của nền kinh tế thông qua những thay đổi trong chi tiêu chính
phủ và thuế khóa.

1.2.2. Phân loại: Bao gồm 3 loại



Chính sách tài khóa mở rộng: là chính sách tăng cường chi tiêu của chính phủ hoặc
giảm bớt nguồn thu từ thuế hoặc kết hợp cả 2. Việc này sẽ dẫn đến thâm hụt ngân
sách nặng nề hơn hoặc thặng dư ngân sách ít hơn nếu trước đó có ngân sách cân

bằng.
• Chính sách tài khóa trung lập: là chính sách cân bằng ngân sách. Chi tiêu của chính
phủ hồn tồn được cung cấp do nguồn thu từ thuế và nhìn chung kết quả có ảnh
hưởng trung tính lên mức độ của các hoạt động kinh tế.
• Chính sách tài khóa thu hẹp:là chính sách trong đó chi tiêu của chính phủ ít đi thơng
qua việc tăng thu từ thuế hoặc giảm chi tiêu hoặc kết hợp cả 2. Việc này sẽ dẫn đến

GVHD: Phạm Thị Bích Duyên

Trang 5


BÀI TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
thâm hụt ngân sách ít đi hoặc thặng dư ngân sách lớn lên so với trước đó, hoặc thặng
dư nếu trước đó có ngân sách cân bằng.
1.2.3. Ý nghĩa của việc thực hiện chính sách tài khóa:
Nội dung cơ bản của Chính sách tài khóa là kiểm sốt thu chi ngân sách do
những khoản thu chi này có tác động trực tiếp đến tăng trưởng, lạm phát và nhiều chỉ
số kinh tế vĩ mô khác. Vì thế, Chính sách tài khóa được coi là một trong những chính
sách quan trọng đối với việc ổn định và thực thi chính sách kinh tế vĩ mơ. Một Chính
sách tài khóa vững mạnh sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và làm cơ sở để các doanh
nghiệp đưa ra các quyết định đầu tư lớn. Trong mối quan hệ với giá cả, Chính sách tài

khóa là một trong những nguyên nhân cơ bản của lạm phát, một sự nới lỏng Chính
sách tài khóa đều gây áp lực tăng giá cả hàng hóa dịch vụ trên hai kênh là thúc đẩy
tăng tổng cầu và tài trợ thâm hụt.
1.2.4. Cơng cụ thực hiện:
Hai cơng cụ chính của chính sách tài khóa là chi tiêu của chính phủ và hệ thống
thuế. Những thay đổi về mức độ và thành phần của thuế và chi tiêu của chính phủ có
thể ảnh hưởng đến các biến số sau trong nền kinh tế:
• Tổng cầu và mức độ hoạt động kinh tế
• Kiểu phân bổ nguồn lực
• Phân phối thu nhập

1.2.5. Tác động của chính sách tài khố
Chính sách tài khóa sử dụng chi tiêu chính phủ và các chương trình thuế để
kích thích nền kinh tế quốc gia trong thời gian thất nghiệp cao và lạm phát thấp ( nền
kinh tế suy thoái), hoặc để xoa dịu nền kinh tế trong thời kỳ lạm phát cao và thất
nghiệp thấp.
Khi nền kinh tế suy thối: biểu hiện tình trạng sản lượng quốc gia ở mức thấp
hơn mức sản lượng tiềm năng, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao. Chính phủ áp dụng chính
sách tài khóa mở rộng bằng cách tăng chi ngân sách hoặc giảm thuế hoặc cả hai. Kết

GVHD: Phạm Thị Bích Duyên

Trang 6


BÀI TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
quả là làm tổng cầu tăng lên, sản lượng tăng, tạo thêm nhiều việc làm và giảm thất
nghiệp.
Khi nền kinh tế có lạm phát cao: biểu hiện sản lượng quốc gia vượt quá mức
sản lượng tiểm năng, đồng thời chỉ số giá cũng tăng cao tác động xấu đến nền kinh tế.

Chính phủ cần áp dụng chính sách tài khóa thu hẹp, cụ thể giảm chi ngân sách, tăng
thuế. Kết quả là làm giảm tổng cầu, sản lượng giảm, lạm phát giảm và việc làm có xu
hướng giảm.
1.3. Kinh tế biển Việt Nam
1.3.1. Các hoạt động kinh tế biển: Bao gồm:
+Khai thác
+Đánh bắt, nuôi trồng và chế biến hải sản
+Du lịch biển – đảo
+Khai thác và chế biến khống sản
+Giao thơng vận tải biển
1.3.2. Các đặc trưng của kinh tế biển Việt Nam
Đối với Việt Nam, biển Đơng đóng vai trị quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc cả trong lịch sử, hiện tại và tương lai. Việt Nam có bờ biển
dài khoảng 3.260km từ Bắc xuống Nam, chiếm tỷ lệ khoảng 100km2 đất liền/1km bờ
biển (mức trung bình trên thế giới là 600km2 đất liền/1km bờ biển) và hơn 3.000 hịn
đảo, trong đó có quần đảo Hồng Sa và Trường Sa.
Biển Đông không những cung cấp nguồn thức ăn cho cư dân ven bờ từ hàng
ngàn năm, mà còn là cửa ngõ để Việt Nam phát triển các ngành kinh tế có quan hệ
trực tiếp với các miền của đất nước, giao thương với thị trường khu vực và quốc tế, là
nơi trao đổi và hội nhập với nhiều nền văn hóa.

GVHD: Phạm Thị Bích Dun

Trang 7


BÀI TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Xét về khía cạnh kinh tế, biển Đông đã tạo điều kiện để Việt Nam phát triển
những ngành kinh tế mũi nhọn như thủy sản, dầu khí, giao thơng hàng hải, đóng tàu,
du lịch... Điều kiện tự nhiên của bờ biển Việt Nam đã tạo ra tiềm năng vô cùng to lớn

cho ngành giao thông hàng hải Việt Nam. Dọc bờ biển Việt Nam có mười điểm có thể
xây dựng cảng biển nước sâu và nhiều điểm cảng trung bình với tổng sản lượng hàng
hóa vận chuyển có thể đạt 50 triệu tấn/năm.
Biển Đơng cung cấp nguồn lợi hải sản rất quan trọng. Theo các điều tra về nguồn lợi
thủy hải sản, tính đa dạng sinh học, trong vùng biển nước ta đã phát hiện được
khoảng 11.000 lồi sinh vật cư trú, trong đó có 6.000 lồi động vật đáy, 2.400 lồi cá
(trong đó có 130 lồi cá kinh tế), 653 lồi rong biển, 657 loài động vật phù du, 537
loại thực vật phù du, 225 lồi tơm biển... Trữ lượng cá biển ước tính trong khoảng 3,1
- 4,1 triệu tấn, khả năng khai thác là 1,4 - 1,6 triệu tấn. Nguồn lợi hải sản phong phú
đã góp phần đưa ngành thủy sản trở thành một trong những ngành kinh tế chủ đạo với
giá trị xuất khẩu đứng thứ ba cả nước.
Dầu khí là nguồn tài nguyên lớn nhất ở thềm lục địa Việt Nam có tầm chiến
lược quan trọng. Đến nay, người ta đã xác định được nhiều bể trầm tích như các bể
Cửu Long, Nam Cơn Sơn... được đánh giá có triển vọng dầu khí lớn nhất và khai thác
thuận lợi. Tổng trữ lượng dự báo địa chất của toàn thềm lục địa Việt Nam xấp xỉ 10 tỷ
tấn dầu quy đổi, trữ lượng khai thác 4-5 tỷ tấn. Trữ lượng khí dự báo khoảng 1.000 tỷ
m3.
Biển Việt Nam đã cho thấy nhiều điều kiện để phát triển du lịch, ngành công
nghiệp khơng khói, hiện đang đóng góp khơng nhỏ vào nền kinh tế của đất nước. Do
đặc điểm kiến tạo khu vực, các dãy núi đá vôi vươn ra sát biển đã tạo nhiều cảnh
quan thiên nhiên sơn thủy rất đa dạng, nhiều vũng, vịnh, bãi cát trắng, hang động, các
bán đảo và các đảo lớn nhỏ liên kết với nhau thành một quần thể du lịch hiếm có trên
thế giới như di sản thiên nhiên Hạ Long. Các thắng cảnh trên đất liền nổi tiếng như
Phong Nha, Bích Động, Non Nước..., các di tích lịch sử và văn hóa như cố đô Huế,
phố cổ Hội An, tháp Chàm, nhà thờ đá Phát Diệm…Tiềm năng du lịch này rất phù
GVHD: Phạm Thị Bích Duyên

Trang 8



BÀI TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
hợp để Việt Nam phát triển và đa dạng các loại hình du lịch hiện đại như nghỉ ngơi;
dưỡng bệnh; tắm biển; du lịch sinh thái; nghiên cứu khoa học vùng ven bờ, hải đảo,
đáy biển; du lịch thể thao: bơi, lặn sâu, lướt ván, nhảy sóng, đua thuyền...; có thể tổ
chức các giải thi đấu thể thao quốc gia và quốc tế quanh năm; dịch vụ hội nghị, hội
thảo trong nước và quốc tế.
Ngoài ra, vùng ven biển Việt Nam chứa đựng một tiềm năng to lớn về quặng sa
khoáng như titan, zircon, thiếc, vàng, sắt, mangan, thạch cao, đất hiếm trong đó cát
nặng, cát đen là nguồn tài nguyên quý giá, chúng được biết đến với nhiều tên gọi
khác nhau, sa khoáng titan, sa khoáng ilmenit, sa khoáng cát đen.
Xét về mặt an ninh quốc phịng, biển Đơng đóng vai trị quan trọng là tuyến phịng
thủ hướng đơng của đất nước. Các đảo và quần đảo trên biển Đông, đặc biệt là quần
đảo Hồng Sa và Trường Sa, có ý nghĩa phịng thủ chiến lược rất quan trọng.

Kinh tế biển của Việt Nam phát triển với hai lợi thế quan trọng:
Một là, tiềm năng tự nhiên to lớn (bờ biển dài, diện tích lãnh hải thuộc chủ
quyền rộng, khả năng tiếp cận dễ dàng đến các đại dương, có các nguồn tài ngun
thiên nhiên giàu có – thủy sản, dầu khí và nhiều loại khoáng sản khác, nhiều bãi biển
đẹp, v.v.)

GVHD: Phạm Thị Bích Duyên

Trang 9


BÀI TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Hai là, vị trí địa - kinh tế và địa - chiến lược đặc biệt (nằm trên các tuyến hải
hành và các luồng giao thương quốc tế chủ yếu của thế giới, nhất là trong thời đại
bùng nổ phát triển của châu Á – Thái Bình dương).
Theo “Chiến lược biển đến năm 2020”, kinh tế biển được xác định gồm một số

ngành : hải sản, dầu khí, vận tải biển, dịch vụ cảng biển, đóng tàu, và du lịch biển.
Trong số này, tới nay chưa một ngành nào tận dụng được hết tiềm năng của
một quốc gia ven biển có nhiều lợi thế như Việt Nam ( trừ dầu khí, thì lại là tài
ngun không thể phục hồi ). Tổng giá trị kinh tế thu được từ biển chỉ chiếm 12%
GDP, còn rất xa mới đạt tới mức trên 50% GDP như “Chiến lược biển đến năm 2020”
đề ra.
 Kinh tế biển đã và đang đóng góp một phần rất lớn cho nền kinh tế nước nhà.

1.3.3. Giải pháp trước mắt
Để xây dựng chiến lược phát triển kinh tế biển, phải đặt nó trong chiến lược
phát triển chung của quốc gia và xây dựng những chủ trương, chính sách hỗ trợ phù
hợp, cụ thể cho từng ngành kinh tế khác nhau, có đủ sức thu hút vốn đầu tư của nước
ngoài, nếu cần xây dựng một cảng trung chuyển đủ tầm cho quốc gia và quốc tế thì
chỉ nên tập trung ở một nơi và đầu tư đủ tầm để đảm bảo hiệu quả, không thể đầu tư
tràn lan như hiện nay. Bên cạnh đó, việc đầu tư cho giáo dục và đào tạo cán bộ cho
các ngành kinh tế liên quan là không thể chậm trễ.
Để phát triển kinh tế biển, mở rộng một không gian phát triển mới, tăng cường
một động lực phát triển hiện đại ở tầm chiến
lược mạnh bậc nhất, Việt Nam cần
có cách tiếp cận mới, khác căn bản
cách tiếp cận phát triển kinh tế
“đất liền” truyền thống.
Hướng ra biển, phát triển
kinh tế biển một cách chiến lược –
GVHD: Phạm Thị Bích Duyên

Trang 10


BÀI TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

như Nghị quyết về Chiến lược phát triển kinh tế biển xác định, trở thành một nhu cầu
bức bức bách, đồng thời, là một cơ hội lớn cho sự trỗi dậy mang tính bùng nổ của
Việt Nam.
Với Chiến lược phát triển kinh tế biển đã được xây dựng, cùng với việc Việt
Nam trở thành thành viên WTO, thế giới đang chuyển sang thời đại tồn cầu hóa (tự
do hóa) và cơng nghệ cao, khi phát triển kinh tế biển được mọi quốc gia coi là một
trọng tâm chiến lược hàng đầu, chúng ta cần tái cấu trúc mơ hình tăng trưởng, trong
đó, việc “nạp” kinh tế biển ở một tầm nhìn mới vào mơ hình tăng trưởng mới là một
nội dung quan trọng.

Chương 2: KHÁI QUÁT KINH TẾ BIỂN VIỆT NAM.
TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ĐẾN
PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN.
2.1.

Khái quát kinh tế biển Việt Nam
Việt Nam là nước gắn liền với lục địa nhưng có tỷ lệ bờ biển trên diện tích

thuộc top 10 thế giới. Với bờ biển dài hơn 3.200km và diện tích lãnh thổ trên bộ rộng
320.000km2, tính đơn giản thì cứ 100km2 diện tích, ta có tương đương 1km bờ biển.
Theo Luật Biển quốc tế, vùng đặc quyền kinh tế của một nước có biển là 200
hải lý nên diện tích vùng đặc quyền kinh tế trên biển của Việt Nam gấp ba lần lãnh
thổ trên bộ. Do đó kinh tế biển là một lĩnh vực vô cùng quan trọng của nước ta.
Tại các nước đang phát triển cũng như các nước phát triển nhanh nhất hiện nay,
ven biển luôn là vùng phát triển nhất. Các thành phố lớn phát triển trên thế giới phần
lớn đều có cảng biển. Ngay tại nước ta, Hội An trước đây là một thành phố cảng,
nhưng ngày nay trở thành phố cổ vì cảng Hội An khơng đủ sức tiếp nhận tàu bè và Đà
Nẵng đã thay thế để làm cửa ngõ cho miền Trung.
Biên Hòa và Mỹ Tho có trước Sài Gịn, nhưng Sài Gịn có cảng sâu, có thể cho
tàu viễn dương trọng tải đến 30 ngàn tấn cập bến nên Sài Gòn đã trở thành thành phố

công nghiệp - thương mại dịch vụ phát triển nhất phía Nam. Điều đó nằm trong một
quy luật: thành phố nhờ cảng để phát triển, cảng tồn tại nhờ sự phát triển của thành
phố.
GVHD: Phạm Thị Bích Duyên

Trang 11


BÀI TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Nhìn dưới góc độ chiến lược kinh tế biển thì tiềm năng của chúng ta thật sự to
lớn. Từ diện tích mặt nước, tài nguyên dưới biển, ngoài hải đảo và ở bờ biển đều có
thể cho phép xây dựng một chiến lược phát triển kinh tế biển với nhiều ngành nghề
quan trọng khác nhau. Chỉ riêng về đánh bắt, nuôi trồng hải sản, khai thác năng
lượng, khai thác dịch vụ du lịch dọc bờ biển và xây dựng các khu kinh tế, dịch vụ
cảng, giao thơng đường biển... đã đóng góp khơng nhỏ cho nền kinh tế, nhưng kết
quả đó hồn tồn chưa cân xứng với tiềm năng với nguồn tài nguyên cũng như ưu thế
về biển cả của nước ta.
Vậy vấn đề gì cản trở sự phát triển và chúng ta cịn thiếu điều kiện nào? Nếu
suy nghĩ sâu hơn sẽ thấy một đất nước, một dân tộc đã sống tồn tại và phát triển hằng
ngàn năm trên dải đất ven biển như thế mà cho đến nay vẫn chưa có một đội thương
thuyền hùng mạnh, chưa có một cảng biển đủ mạnh khả dĩ làm cửa ngõ giao thương
trực tiếp với năm châu bốn biển và làm cửa ngõ cho các nước, các vùng đất khơng có
điều kiện ra biển (như Lào, vùng Đông Bắc Thái Lan, Campuchia, vùng Tây Nam
Trung Quốc).
Bờ biển nước ta đẹp như thế nhưng doanh thu ngành du lịch của ta vẫn còn
kém nhiều nước xung quanh. Các khu kinh tế ven biển như khu kinh tế Dung Quất
vẫn chưa trở thành động lực của khu vực.
Mặc dù là một dân tộc sống ven biển, nhưng tư duy của người Việt nặng về
nông nghiệp. Phải chăng chúng ta chưa hình thành được tư duy của dân tộc gắn liền
biển cả như người Nhật, Anh… Họ dám khám phá, dám ra khơi đương đầu với sóng

gió và cũng biết vào bờ tránh bão theo quy luật sinh tồn của thiên nhiên.
Họ có ý chí nhưng khơng duy ý chí, ln nắm bắt quy luật tự nhiên để hành xử
theo đúng quy luật. Họ vừa mạnh dạn tiếp nhận cái mới từ bên ngoài, vừa sáng tạo ra
cái mới từ bên trong, không cục bộ bảo thủ, tức là chỉ nhìn cái lợi trước mắt mà
khơng thấy cái lợi tồn cục, tổng thể, lâu dài. Hơm nay, chúng ta bàn về kinh tế biển
là đã quá chậm rồi!
Khi nói đến kinh tế biển là nói đến cảng nước sâu, khu kinh tế, sân bay tại các
thành phố biển… nhưng nhiều nơi lại hay đua nhau xây dựng resort, sân goft ven
GVHD: Phạm Thị Bích Duyên

Trang 12


BÀI TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
biển để đón du khách. Những đề án đó xét về lý thuyết thì không sai, nhưng nhiều
tỉnh thành đã đề ra các đề án phát triển tương tự nhau, nơi nào cũng có tiềm năng và
đều muốn mời gọi đầu tư cả. Điều đó thật sự khơng ổn.
Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng luôn là “thượng đế”. Nguồn vốn của
chúng ta có hạn nên khơng thể lãng phí vốn đầu tư. Do đó khi thực hiện đề án, thiết
nghĩ cần phải xem xét ba yếu tố sau:
1. Khách hàng là người quyết định tất cả. Họ là người lựa chọn trên cơ sở so
sánh lợi thế của chúng ta với các nơi khác. Đây chính là yếu tố đầu tiên và cơ bản
nhất mà chúng ta phải điều nghiên, cân nhắc để tiến hành đề án gì, ở đâu, quy mơ cỡ
nào, khách hàng là ai, những hệ quả kèm theo là gì… khi đề án được thực hiện.
2. Các điều kiện nội tại như cơ sở hạ tầng kinh tế (đường sá, điện, nước, thông
tin), hạ tầng xã hội, luật pháp, hệ thống thủ tục hành chính… có đáp ứng được u
cầu của nhà đầu tư hay chưa.
3. Cịn có đề án nào hiệu quả hơn, thiết thực hơn khi thực hiện một đề án mà
phải cạnh tranh với một đề án tương tự ở gần bên ta, nhất là cạnh tranh hay ảnh
hưởng đến một đề án khác ngay trong nước ta.

2.2. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN VIỆT NAM
2.2.1
Đối với ngành công nghiệp khai thác, đánh bắt và ni trồng thủy hải


sản:
Bối cảnh khai thác hải sản ở Việt Nam
Năm 2009, tổng số tàu thuyền khai thác hải sản của cả nước có gần 130 nghìn
chiếc, trong đó số tàu thuyền máy là 122.521 chiếc (chiếm trên 94%) với tổng cơng
suất 6.356.734 cv (bình qn 52 cv/chiếc). Sản lượng khai thác hải sản đạt 2.086.700
tấn.
Trong giai đoạn 2001 - 2009, số lượng tàu thuyền máy tăng 48.064 chiếc
(64,6%), công suất tăng 2.828.210 cv (82,7%), sản lượng tăng 605.500 tấn (40,9%).
Bình quân tàu thuyền máy tăng 6,4%/năm, tổng công suất tăng 7,8% và sản lượng
tăng 4,4%/năm.

GVHD: Phạm Thị Bích Duyên

Trang 13


BÀI TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Hiện tại, cả nước có trên 40 nghề khai thác, tập trung vào 6 họ nghề chính:
Lưới kéo, lưới rê, lưới vây, lưới vó, mành, nghề câu, và ngư cụ cố định. Riêng họ
nghề lưới rê chiếm tỷ trọng cao nhất, khoảng trên 30%.
Theo kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Hải sản, trữ lượng hải sản vùng
biển Việt Nam ước đạt 4 đến 5 triệu tấn, khả năng khai thác 1,8 đến 2 triệu
tấn/năm. Hiện nay, vùng biển ven bờ đang bị khai thác quá mức, nguồn lợi hải sản có
nguy cơ bị cạn kiệt. Với 84% số lượng tàu thuyền lắp máy có cơng suất dưới 90 cv và

thuyền thủ cơng hoạt động chủ yếu ở vùng nước ven bờ đã gây ra sức ép lớn đối với
nguồn lợi ven bờ. Ngoài ra, trong số tàu khai thác xa bờ, vẫn còn nhiều tàu hoạt động
cả ở vùng nước xa bờ và ven bờ, gây ảnh hưởng đến nguồn lợi ven bờ.
Cường lực khai thác hải sản tăng nhanh, trong khi ngư trường khai thác hải sản
chưa được mở rộng, làm mất cân đối giữa cường lực khai thác hải sản và nguồn lợi.
Hiệu quả hoạt động của phần lớn các đội tàu đều giảm, năng suất khai thác giảm từ
0,95 tấn/cv (1991) xuống còn 0,33 tấn/cv (2009). Sản phẩm khai thác được thường có
kích thước nhỏ, chất lượng thấp, tỷ lệ cá tạp trong các mẻ lưới chiếm 40 - 50% đối
với nghề lưới kéo cá, 70 đến 80% đối với nghề lưới kéo tôm và 90 đến 95% đối với
nghề te xiệp, đáy và đăng ven bờ (Cục KT&BVNLTS, 2008).
Thời gian qua, số lượng tàu cá vẫn phát triển một cách tự phát. Mặc dù nguồn
lợi thuỷ sản ven bờ đang đứng trước nguy cơ cạn kiệt nhưng vì nhiều lý do kinh tế xã hội và việc làm, trong giai đoạn 2001 - 2009 số lượng tàu cá tăng bình quân 4
nghìn chiếc/năm và số ngư dân trực tiếp khai thác hải sản tăng bình quân 24 nghìn
người/năm. Điều này dẫn đến việc cạnh tranh gay gắt trong khai thác hải sản, đặc
biệt là ở vùng ven bờ. Vì cuộc sống trước mắt, ngư dân dùng các biện pháp để tăng
sản lượng như giảm kích thước mắt lưới, tăng cường độ khai thác, sử dụng những
biện pháp khai thác bị cấm như chất nổ, xung điện để khai thác, đánh bắt những đàn
cá non tuổi.
Từ năm 2004-2009, tổng trữ lượng khai thác thủy sản biển của nước ta đạt
khoảng 4 triệu tấn, trong đó trữ lượng cá nổi khoảng 2,8 triệu tấn, chiếm khoảng
70% tổng trữ lượng. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là hiện nay tại những vùng ven bờ
GVHD: Phạm Thị Bích Duyên

Trang 14


BÀI TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
đã và đang bị tận dụng khai thác quá mức, làm cho nguồn lợi thủy sản có nguy cơ bị
cạn kiệt. Cả nước với 84% số lượng tàu thuyền lắp máy có cơng suất dưới 90CV và
thuyền thủ công hoạt động chủ yếu ở vùng nước ven bờ đã gây sức ép quá lớn cho

nguồn lợi thủy sản ven bờ, làm tăng nguy cơ cạn kiệt. Vì nhiều lý do mà thời gian
qua, lượng tàu phát triển một cách tự phát, không theo định hướng quy hoạch phát
triển biển và số lượng tàu cá có cơng suất nhỏ vẫn tăng bình qn 2.300 chiếc/năm,
số lượng ngư dân trực tiếp khai thác hải sản tăng bình quân 23.155 người/năm. Điều
này đồng nghĩa với việc cạnh tranh trong khai thác ven bờ với cường độ cao, ráo riết
hơn. Vì cuộc sống trước mắt, nhóm ngư dân này dùng mọi biện pháp để đánh bắt:
giảm kích thước mắt lưới, tăng cường độ khai thác hoặc dùng những biện pháp khai
thác mang tính hủy diệt, như sử dụng chất nổ, chất độc, xung điện... Sự suy giảm
nguồn lợi cá đã ảnh hưởng nghiêm trọng và
trực tiếp đến hiệu quả đánh bắt của các loại
nghề khai thác hải sản. Tỷ lệ cá tạp, cá con
trong các mẻ lưới ngày càng cao, chiếm 4095% sản lượng đánh bắt, tùy theo loại ngành
nghề khai thác, kéo theo doanh thu các hoạt
động khai thác có xu hướng thấp dần.
Sự mất cân đối giữa năng lực khai
thác và khả năng hiện có của nguồn lợi vùng ven bờ ngày càng tăng, dẫn đến nguồn
lợi ven bờ bị giảm dần, hiệu quả kinh tế của hoạt động khai thác vùng biển ven bờ
ngày càng thấp. Trong khi đó, giá nhiên liệu và những chi phí đầu vào cho khai thác
tăng khơng ngừng, đang gây ra những khó khăn lớn cho ngành khai thác hải sản.
Hiệu quả kinh tế của các hoạt động khai thác đang giảm dần nên các tàu cá buộc
phải tận thu sản phẩm, từ đó dẫn đến giảm sút nguồn lợi thủy sản nghiêm trọng.
• Những thách thức đối với xuất khẩu thủy sản Việt Nam
Năm tháng đầu năm 2012, xuất khẩu thủy sản Việt Nam tuy vẫn đạt 2,324 tỷ
USD, tăng 11,1% so với cùng kỳ năm ngoái, nhưng thực trạng của ngành sản xuất và
xuất khẩu thủy sản Việt Nam đang khó khăn, với nhiều bất cập, khiến lợi nhuận giảm.
GVHD: Phạm Thị Bích Duyên

Trang 15



BÀI TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Nếu khơng có các tác động thay đổi, sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng bền vững
của ngành xuất khẩu thủy sản trong tương lai.
• Thiếu nguyên liệu
Mặc dù số lượng thống kê của Tổng cục Thủy sản về sản lượng khai thác và
nuôi trồng thủy sản của cả nước trong 5 tháng đầu năm nay vẫn tăng so với cùng kỳ
năm ngoái, nhưng ngành chế biến và xuất khẩu thủy sản vẫn chưa thốt khỏi tình
trạng thiếu ngun liệu ngày càng tăng như mấy năm trước. Nguyên nhân do sản
lượng 2 loài thủy sản ni chính khơng ổn định, dịch bệnh trên tôm làm giảm sản
lượng, nhất là với tôm sú, diện tích ni cá tra cũng giảm do nơng dân thiếu vốn đầu
tư nuôi và do giá cá bất ổn làm ảnh hưởng tâm lý người ni.
Sản lượng các lồi có giá trị kinh tế cao như cá ngừ, mực, bạch tuộc vẫn thấp, trong
khi sản lượng tăng lại tập trung chủ yếu vào các lồi cá có giá trị thấp, cá tạp…
Người nuôi và ngư dân thiếu vốn để sản xuất, đầu tư trở lại khi tôm hoặc cá tra bị rớt
giá, dịch bệnh. Các doanh nghiệp khó thu mua ngun liệu vì nơng dân khơng bán
chịu, trong khi vịng quay vốn chậm do thị trường tiêu thụ khó khăn về tài chính.
• Thiếu vốn
Với mức lãi suất q cao 19-20% trong 3 tháng đầu năm, cả nông, ngư dân và
doanh nghiệp đều thực sự khó khăn để duy trì sản xuất và chế biến khi mà các chi phí
đầu vào khác đang tăng mạnh (5-10%). Vốn vay định mức thấp, cùng với việc siết
chặt tín dụng của các ngân hàng đối với ngành thủy sản sau vụ vỡ nợ của một số
doanh nghiệp khiến cho nhiều doanh nghiệp không cịn vốn để duy trì sản xuất.
Đặc biệt đối với ngành sản xuất cá tra, thiếu vốn trở nên nghiêm trọng.
Theo khảo sát của Vasep, có đến hơn 90% số doanh nghiệp mong muốn được tăng
hạn mức vay vốn, từ 10-1.400 tỷ đồng, nhằm bổ sung vốn lưu động cho chế biến,
cho nuôi cá tra và mua nguyên nhiên liệu, vật liệu, thức ăn cho vùng nuôi. 53,85% số
doanh nghiệp tơm có nhu cầu vay vốn đầu tư cho hoạt động phát triển (từ 2-300 tỷ
đồng) để bổ sung đầu tư ni tơm chân trắng, trang bị máy móc, sửa chữa, bổ sung
năng lực cấp đông, vốn trung hạn cho hoạt động xuất khẩu, xây nhà máy thức ăn,
phát triển vùng nuôi, cải tạo và nâng cấp nhà xưởng, thiết bị. Đối với ngư dân, vấn đề

GVHD: Phạm Thị Bích Duyên

Trang 16


BÀI TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
tiếp cận vốn cũng rất khó khăn vì họ cần vốn cho cả việc mua sắm tàu cá và thiết bị
để bảo quản cá sau thu hoạch.
Bên cạnh đó, các chi phí sản xuất đểu tăng ảnh hưởng đến sức cạnh
tranh cho thủy sản xuất khẩu. Các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản còn phải đối phó
với áp lực tăng chi phí đầu vào cho sản xuất, như giá nhiên liệu, điện, nước, nhân
công, bao bì, cước phí vận chuyển… Bên cạnh đó, việc tăng các loại phí, thuế, như
thuế bảo vệ mơi trường đối với bao bì nhựa PE để bao gói hàng, trích 2% kinh phí
cho cơng đồn lấy từ quỹ lương, phí kiểm sốt chất lượng thủy sản xuất khẩu, phí
kiểm dịch thú y tăng 300%... cũng góp phần làm gia tăng chi phí và ảnh hưởng đến
sức cạnh tranh của thủy sản Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế thế giới có
nhiều suy giảm, cạnh tranh thị phần khá khốc liệt.
• Khó khăn về nguồn vốn và ngun liệu cùng với sự gia tăng chi phí sản xuất khiến
cho số doanh nghiệp tham gia xuất khẩu thủy sản trong quý I năm nay chỉ còn
khoảng 473 doanh nghiệp, giảm 40% so với 800 doanh nghiệp của cùng kỳ năm
ngối. Tuy nhiên số doanh nghiệp khơng xuất q I năm nay hầu hết là doanh nghiệp
thương mại với doanh số thấp, nên chỉ ảnh hưởng không nhiều. Trong khi đó, kim
ngạch của các doanh nghiệp lớn cao hơn so với năm ngoái. Top 10 doanh nghiệp quý
I/2011 chỉ chiếm 18,5% doanh số, nhưng năm nay tăng lên 20,5%. Kết quả trên
cho thấy đã có sự phân hóa mạnh trong quy mô và năng lực quản trị của các
doanh nghiệp thủy sản.
• Khủng hoảng thị trường
Thị trường châu Âu bị suy giảm do khủng hoảng nợ công cũng là một khó
khăn lớn cho xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Là thị trường lớn nhất trong số 129 thị
trường tiêu thụ thủy sản Việt Nam, nhưng trong quý I năm nay, xuất khẩu sang EU đã

sụt giảm 7,9% so với cùng kỳ năm ngối, do khủng hoảng nợ cơng ở khu vực này
khiến tình hình kinh tế tài chính khó khăn, nhu cầu nhập khẩu không ổn định và khả
năng thanh toán chậm.
Tỷ trọng của thị trường EU cũng bị giảm dần gần 5% (từ 24,2% xuống còn
19,7%). Xuất khẩu 2 mặt hàng chủ lực là tôm và cá tra đều giảm mạnh (giảm từ
GVHD: Phạm Thị Bích Duyên

Trang 17


BÀI TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
21,8% và 12,4%). Tuy nhiên, xuất khẩu cá ngừ, mực, bạch tuộc sang thị trường này
vẫn khả quan (cá ngừ tăng 29%, mực, bạch tuộc tăng trên 10,7%).
Xuất khẩu tôm sú giảm, khả năng cạnh tranh của tôm Việt Nam cũng giảm. Đối với
Việt Nam, với diện tích ni trên 600.000 ha, sản lượng tôm sú mỗi năm đạt trên
300.000 tấn tạo cho Việt Nam thế mạnh hơn so với nhiều nước khác. Tuy nhiên, dịch
bệnh bùng phát trên tôm sú thâm canh đã và đang ảnh hưởng đến chất lượng, uy tín
và giá trị mặt hàng này.
• Sụt giảm mặt hàng chủ lực
Năm 2011, trong hơn 97.000 ha tơm bị thiệt hại, có tới trên 82.000 ha là tôm sú
nuôi thâm canh bị chết, đã ảnh hưởng lớn tới mặt hàng chủ lực này của Việt Nam.
Giá trị xuất khẩu tôm chân trắng năm 2011 của Việt Nam đạt 704 triệu USD, chiếm
30% tổng giá trị xuất khẩu tôm, tăng 70% so với năm 2010. Trong khi đó, giá trị tơm
sú lại giảm 0,6% xuống còn 1,43 tỷ USD, chiếm 59% tổng giá trị xuất khẩu tôm của
Việt Nam. Quý I /2012, xuất khẩu tơm tiếp tục giảm 4,7% chỉ cịn 235 triệu USD. Giá
tôm trên thị trường thế giới giảm tác động không nhỏ tới giá trị xuất khẩu tôm của
Việt Nam trong quý I/2012. Mức tăng chỉ đạt 9%(so với trên 35% trong 3 tháng đầu
năm 2011). Ngồi ra giá tơm giảm tạo thêm áp lực cho các doanh nghiệp tôm đang
phải đối mặt với chi phí đầu vào như xăng, dầu, điện, lương nhân công… đều tăng.
Đây là vấn đề báo động đối với tơm Việt Nam, vì khả năng cạnh tranh đang bị sụt

giảm do giá thành sản xuất cao, dẫn đến giá chào bán cao hơn các nước.
• Nhập khẩu nguyên liệu tăng
Năm 2011, Việt Nam nhập 541 triệu USD thủy sản từ 74 nước (trong đó
khoảng hơn 30 triệu USD là hàng trả về). Ba tháng đầu năm 2012, Việt Nam nhập
157 triệu USD thủy sản từ 72 thị trường, trong đó, hàng nhuyễn thể để chế biến và tái
xuất chiếm khoảng 80%, còn lại là con giống và nhập khẩu để tiêu thụ nội địa. Trong
bối cảnh nguồn nguyên liệu trong nước không ổn định, giá nguyên liệu cao, nhập
khẩu nguyên liệu thủy sản để gia công chế biến xuất khẩu là giải pháohữu hiệu
cho doanh nghiệp duy trì sản xuất và tạo cơng ăn việc làm cho cơng nhân, tăng

GVHD: Phạm Thị Bích Dun

Trang 18


BÀI TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
doanh số. Tuy nhiêm khi mà khó khăn về vốn đang là vấn đ thuế nhập khẩu 275 ngày
càng có nguy cơ bị xóa bỏ sẽ ảnh hưởng rất nặng nề đến doanh nghiệp.
Qua diễn biến tình hình sản xuất và xuất khẩu thủy sản hiện nay, đặc biệt trong
bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước hết sức khó khăn, có thể nhận diện 3 thách
thức lớn của thủy sản Việt Nam là : tính bền vững của từng ngành hàng trong hoạt
động sản xuất nguyên liệu và chế biến xuất khẩu thủy sản chưa cao, đặc biệt là liên
kết chuỗi, quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm. Rào cản thương mại gia
tăng trong điều kiện kinh tế thế giới suy giảm, các nước nhập khẩu tăng cường bảo hộ
công nghiệp nội địa. Quảng bá và tiếp thị sâu hình ảnh thủy sản Việt Nam ra thế giới
theocách chuyên nghiệp và hiệu quả trong điều kiện tài chính eo hẹp hiện nay là hết
sức khó khăn.

Một số định hướng cho phát triển ngành khai thác
- Chính sách Thuế

Nhằm giảm bớt chi phí sản xuất, duy trì phát triển khai thác hải sản, cải thiện
đời sống, tạo thêm thu nhập và tích lũy cho ngư dân, khuyến khích phát triển đội tàu
xa bờ nhằm giảm áp lực khai thác ven bờ. Năm 2005, Nhà nước đã bãi bỏ thuế khai
thác tài nguyên và thuế thu nhập doanh nghiệp có tàu thuyền khai thác thủy sản, giảm
50% thuế trước bạ cho việc đóng mới, mua mới, thay máy cho tàu đánh cá xa bờ.
Chính sách miễn giảm 50% thuế trước bạ cho việc đóng mới, mua mới, thay
máy mới cho tàu khai thác xa bờ là một chính sách rất tốt, tạo điều kiện cho ngư dân
mạnh dạn phát triển đội tàu khai thác xa bờ. Trước năm 1997, đội tàu trên 90 cv khai
thác xa bờ đều của các công ty quốc doanh đánh cá với khoảng vài trăm chiếc. Đến
nay, cả nước có gần 25 nghìn tàu thuyền trên 90 cv khai thác xa bờ, trong đó, hầu hết
là của tư nhân.
Bên cạnh, việc bãi bỏ chính sách thuế khai thác tài nguyên có một số hạn chế:
Tạo nên sự bất bình đẳng giữa hoạt động khai thác nguồn tài nguyên thủy sản và các
nguồn tài nguyên khác, giữa những người khai thác nhiều nguồn tài nguyên với
những người khai thác ít nguồn tài nguyên hơn; Làm giảm nhận thức về trách nhiệm
và nghĩa vụ của ngư dân khai thác thủy sản đối cộng đồng.
- Hỗ trợ tín dụng ưu đãi đóng tàu khai thác xa bờ
GVHD: Phạm Thị Bích Duyên

Trang 19


BÀI TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Xuất phát từ nguồn tài nguyên thuỷ sản ven bờ đã khai thác tới hạn, trong khi
tiềm năng nguồn lợi xa bờ chưa được khai thác, để bảo đảm phát triển nghề cá bền
vững, Nhà nước đã có chính sách hỗ trợ ngư dân vay tín dụng với lãi suất ưu đãi để
đóng tàu công suất lớn hoạt động khai thác ở vùng xa bờ, nhằm giảm áp lực khai thác
vùng ven bờ.
Hỗ trợ thực hiện từ năm 1997 - 2001 cho đối tượng là ngư dân hoặc cơng ty
khai thác có kinh nghiệm, có kỹ năng chun mơn và kiến thức quản lý hoạt động

khai thác ở vùng biển xa bờ thuộc các tỉnh ven biển.
Tổng kinh phí hỗ trợ khoảng 1.300 tỷ đồng từ nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển
với lãi suất ưu đãi. Hỗ trợ này áp dụng cho đóng tàu khai thác có lắp máy chính cơng
suất từ 90 cv trở lên hoạt động ở vùng biển xa bờ, có đăng ký hành nghề tại địa
phương hoặc có giấy phép hành nghề đánh bắt xa bờ do cơ quan bảo vệ nguồn lợi
thủy sản cấp.
Thơng qua chương trình này đã có 1.365 tàu khai thác xa bờ được đóng mới,
góp phần chuyển dịch nghề nghiệp khai thác tại các ngư trường mới ở vùng xa bờ,
từng bước giảm dần áp lực khai thác vùng ven bờ.
Đây là chủ trương đúng đắn nhằm từng bước ổn định khai thác ven bờ và đẩy
mạnh khai thác xa bờ. Nhờ chính sách này, nhiều ngư dân có kinh nghiệm và năng
lực đã mạnh dạn đầu tư, vay vốn với lãi suất thơng thường để đóng tàu cơng suất lớn
hơn, chuyển đổi kỹ thuật khai thác để nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả khai
thác, tạo thêm nhiều việc làm, cải thiện đời sống, từng bước góp phần hiện đại hoá
nghề khai thác hải sản.
Đến năm 2009, số tàu thuyền công suất trên 90 cv đã lên tới gần 25 nghìn
chiếc. Đội tàu cơng suất lớn này đã đóng vai trò quan trọng trong hoạt động khai
thác, là tiền đề để thực hiện giảm dần số lượng tàu thuyền nhỏ khai thác ven bờ, góp
phần bảo vệ nguồn lợi thủy sản vùng ven bờ đang bị khai thác quá mức. Ngồi ra,
một số tàu cịn tham gia khai thác hải sản hợp pháp tại vùng biển các nước trong khu
vực hoặc tại vùng biển quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, vẫn cịn một số hạn chế: Công
tác đào tạo nguồn nhân lực cho khai thác hải sản xa bờ còn nhiều hạn chế dẫn đến
GVHD: Phạm Thị Bích Duyên

Trang 20


BÀI TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
thiếu nguồn lực lao động chất lượng cao để phát triển khai thác xa bờ. Chưa đầu tư

thoả đáng cho nghiên cứu đánh giá nguồn lợi để cung cấp kịp thời thông tin dự báo
ngư trường, nguồn lợi. Hạ tầng dịch vụ nghề cá xa bờ chưa đáp ứng được yêu cầu
dẫn đến hiệu quả khai thác chưa cao. Hoạt động tuyên truyền và nhận thức của ngư
dân về phát triển khai thác hải sản gắn với bảo vệ nguồn lợi còn chưa sâu rộng.
- Đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng nghề cá
Để đẩy mạnh phát triển khai thác, nhất là khai thác xa bờ, từng bước hình
thành cơ sở dịch vụ hậu cần nghề cá, Nhà nước đã đầu tư nâng cấp cơ sở các cảng cá
tạo hạ tầng dịch vụ cần thiết cho tàu cá hoạt động. Chính phủ cũng đầu tư xây dựng
các khu neo đậu, tránh trú bão cho tàu thuyền nhằm đảm bảo an toàn sản xuất trên
biển, hạn chế thiệt hại về người và của do thiên tai gây ra.
Hỗ trợ này được thực hiện hàng năm, từ cuối năm 1990 thông qua nguồn vốn trái
phiếu Chính phủ, vốn ODA, vốn vay khác. Các cảng cá được xây dựng tại nhiều tỉnh
ven biển theo quy hoạch hệ thống cảng cá, chợ cá. Ngoài những bến cá ở dạng tự
nhiên, tại các tỉnh sẽ được đầu tư xây dựng mới hoặc nâng cấp các cảng cá, bến cá
hiện tại. Các khu neo đậu, tránh trú bão được lựa chọn trên cơ sở điều kiện tự nhiên
phù hợp với mục đích an tồn của tàu thuyền khi có bão.
Tính đến 2007, đã có 66 cảng cá với tổng chiều dài 6.028 m tại 27 tỉnh ven biển đã
được đầu tư, nâng cấp đưa vào hoạt động và 16 khu neo đậu, tránh trú bão. Có 6 khu
cấp vùng là Quảng Bình, Đà Nẵng, Bình Định, Khánh Hồ, Bình Thuận, Cà Mau và
9 khu cấp tỉnh là Hải Phòng, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Thuận được
đưa vào sử dụng, có 10 khu đang được đầu tư xây dựng nhưng vẫn được đưa vào
hoạt động, đảm bảo cho gần 12 nghìn tàu cá neo đậu.
Hệ thống cảng cá được xây dựng đã góp phần cải thiện hạ tầng cơ sở vùng ven biển.
Ngư dân có nơi để bốc dỡ sản phẩm và tiếp nhận nhiên liệu, nhu yếu phẩm. Do vậy,
họ giảm được thời gian ở bến, giảm tổn thất về chất lượng sản phẩm khai thác, bảo
đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm. Tại một số cảng cá cịn có chợ cá đầu mối, góp phần
thúc đẩy thương mại phát triển.
- Hỗ trợ chi phí xăng dầu cho ngư dân
GVHD: Phạm Thị Bích Duyên


Trang 21


BÀI TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Những năm gần đây, giá xăng dầu thế giới và trong nước luôn biến động theo chiều
hướng tăng, có lúc tăng gần 100% từ 8.700đ/lít lên 16.200đ/lít. Ngư dân là những
người bị ảnh hưởng nặng nề, nhất là nhóm tàu khai thác xa bờ. Năm 2008, có thời
điểm 30 - 40% tàu thuyền khai thác hải sản phải nằm bờ do chi phí sản xuất, trong
khi giá sản phẩm khai thác lại có xu hướng giảm. Để góp phần ổn định đời sống, an
sinh xã hội, duy trì sự phát triển nghề khai thác hải sản, Chính phủ đã ban hành chính
sách hỗ trợ một phần chi phí xăng dầu cho ngư dân tham gia khai thác trên biển.
Chính sách hỗ trợ thực hiện trong năm 2008 cho đối tượng là ngư dân sở hữu
tàu khai thác hải sản hoặc tàu dịch vụ cho khai thác hải sản đi sản xuất trên biển
thường xuyên liên tục, có nguồn thu nhập chính từ khai thác hải sản.
Tổng kinh phí hỗ trợ nhiên liệu hơn 1.600 tỷ đồng. Điều kiện để được hỗ trợ là ngư
dân có tàu đánh bắt hải sản, tàu dịch vụ hoạt động từ 6 tháng trong một năm trở lên,
đã hoàn thành thủ tục mua bảo hiểm thân tàu, bảo hiểm tai nạn thuyền viên, có đăng
kiểm, đăng ký lưu hành phương tiện theo quy định, có giấy phép khai thác hải sản, có
địa chỉ cư trú hợp pháp và được chính quyền địa phương xác nhận sau mỗi chuyến
biển. Nhóm tàu công suất nhỏ hơn 40 cv hỗ trợ tối đa 20 triệu đồng/năm. Nhóm tàu
40 - < 90 cv hỗ trợ tối đa 24 triệu đồng/năm và nhóm tàu từ 90 cv trở lên hỗ trợ tối đa
30 triệu đồng/năm.
Mặc dù chỉ được hỗ trợ một phần chi phí xăng dầu chuyến biển, nhưng nhờ
chính sách hỗ trợ này hầu hết ngư dân đã phấn khởi và tiếp tục đi biển. Hoạt động
khai thác hải sản từng bước được khôi phục, số tàu khai thác nằm bờ đã giảm. Đời
sống cư dân ven biển được cải thiện, tuy vẫn cịn nhiều khó khăn.
Đây là loại hình hỗ trợ rủi ro cho người dân do biến động giá nhiên liệu nhằm duy trì
hoạt động khai thác hải sản, ổn định đời sống kinh tế - xã hội và đảm bảo nguồn sinh
kế của ngư dân ven biển. Thông qua hỗ trợ, cơ quan quản lý nghề cá đã nắm và quản
lý được số tàu thuyền khai thác.

Mặc dù vậy, hỗ trợ này cũng bộc lộ một số hạn chế: Do chính sách được ban
hành gấp để kịp thời hỗ trợ cho ngư dân ngay trong năm 2008 nhằm khôi phục sản
xuất, nên còn nhiều điểm chưa phù hợp, chưa thực sự khuyến khích phát triển khai
GVHD: Phạm Thị Bích Duyên

Trang 22


BÀI TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
thác xa bờ; Nhóm tàu được hỗ trợ có giải cơng suất rộng, từ dưới 10 cv đến 1.000 cv.
Trong khi mức độ tiêu hao nhiên liệu của tàu công suất lớn với tàu cơng suất nhỏ có
sự chênh lệch rất lớn. Hỗ trợ chỉ chia theo ba mức như trên là không hợp lý, nhất là
những nhóm tàu ở đầu và ở cuối của mỗi mức.
- Hỗ trợ đóng mới, mua mới tàu và thay máy mới
Với mục tiêu thay đổi cơ cấu tàu thuyền khai thác ven bờ sang khai thác xa bờ,
thay đổi tàu sử dụng máy cũ tiêu hao nhiều nhiên liệu sang sử dụng máy mới tiêu hao
ít nhiên liệu hơn, Chính phủ đã có chính sách hỗ trợ ngư dân đóng mới tàu cá xa bờ
(trên 90 cv), thay máy mới cho tàu có cơng suất từ 40 - 90 cv trở lên.
Thời gian áp dụng từ năm 2008 - 2010. Mức hỗ trợ tàu đóng mới là 70 triệu
đồng/năm và tàu thay máy mới là 18 triệu đồng/năm đối với tàu có cơng suất từ 90 cv
trở lên và tàu có cơng suất từ 40 - 90 cv được hỗ trợ 10 triệu đồng/năm. Tàu cá đóng
mới và thay máy mới trong năm 2008 được hỗ trợ 3 năm, nếu đóng và thay máy mới
năm 2009 được hỗ trợ 2 năm và trong năm 2010 được hỗ trợ 1 năm. Kinh phí thực
hiện năm 2008 là 88 triệu đồng.
Thực tế, giá thành đóng mới và thay máy mới quá cao so với mức hỗ trợ của Nhà
nước. Trong khi đó, ngư dân lại thiếu vốn do phải chống trả các đợt tăng giá dầu
trước đó, mặt khác các ngân hàng thương mại lại hạn chế đầu tư cho tàu khai thác hải
sản nên ngư dân không tiếp cận được với chính sách hỗ trợ này.
- Hỗ trợ bảo hiểm thân tàu và thuyền viên
Trong thực tế, các chủ tàu rất ít tham gia mua bảo hiểm tai nạn thuyền viên do

lao động trên tàu thường không ổn định. Để đảm bảo quyền lợi và an toàn cho thuyền
viên, lao động trên tàu, Nhà nước đã thực hiện chính sách hỗ trợ này.
Chính sách hỗ trợ này thực hiện từ 2008 - 2010. Mức hỗ trợ bảo hiểm thân tàu
là 30% và bảo hiểm tai nạn thuyền viên là 100% so với mức giá bán bảo hiểm của
các cơng ty bảo hiểm. Kinh phí hỗ trợ năm 2008 khoảng hơn 20 tỷ đồng.
Chính sách này được đơng đảo ngư dân hưởng ứng. Năm 2008, đã có gần 17
nghìn tàu được hỗ trợ bảo hiểm thân tàu và trên 260 nghìn thuyền viên được hỗ trợ
bảo hiểm tai nạn thuyền viên. Hỗ trợ kinh phí bảo hiểm có chi phí khơng lớn nhưng
đã thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với hoạt động khai thác thủy sản, đối với
GVHD: Phạm Thị Bích Duyên

Trang 23


BÀI TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
đời sống của ngư dân. Chính sách này đã có tác động rất lớn về mặt tinh thần cho
cộng đồng ngư dân.
2. 2.2. Đối với ngành giao tông vận tải biển:
Theo dự báo của các chuyên gia, năm 2012 nền kinh tế vẫn còn nhiều khó
khăn, chưa thể thốt ra được cuộc khủng hoảng chung toàn cầu. Cũng như nhiều
ngành nghề khác trong cả nước, lĩnh vực vận tải biển sẽ gặp rất nhiều thách thức.

Với lợi thế về vị trí địa lý, vận tải biển là lĩnh vực phát triển mạnh mẽ nhất
trong số lĩnh vực vận tải công nghiệp ở Việt Nam. Từ nhiều năm nay, lượng hàng hóa
thơng qua cảng biển tăng trưởng bình quân đạt tốc độ 15%/năm. Theo báo cáo của
Cục Hàng hải Việt Nam, năm 2011 lượng
hàng hóa thông qua cảng biển Việt Nam đạt
xấp xỉ 290 triệu tấn. Dự báo lượng hàng
thơng qua tồn bộ hệ thống cảng biển như
sau: 500 - 600 triệu tấn/năm vào năm 2015;

900 - 1.100 triệu tấn/năm vào năm 2020;
1.600 - 2.100 triệu tấn/năm vào năm 2030.
Có thể thấy, quy hoạch phát triển hệ
thống cảng biển Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 đã có những
thay đổi có tính chiến lược, nhằm phát triển hệ thống cảng biển xứng tầm quốc tế, thu
hút được sự quan tâm của hãng tàu lớn, nhà khai thác cảng hàng đầu thế giới đến đầu
tư và thúc đẩy phát triển ngành Hàng hải Việt Nam. Cụ thể, tập trung xây dựng một
số cảng nước sâu cho tàu trọng tải lớn đạt tiêu chuẩn quốc tế như Vân Phong - Khánh
Hòa để tiếp nhận được tàu container sức chở 9.000 - 15.000 TEU hoặc lớn hơn, tàu
chở dầu 30 - 40 vạn DWT; cảng cửa ngõ quốc tế tại Hải Phòng, Bà Rịa - Vũng Tàu
để tiếp nhận được tàu trọng tải 8 - 10 vạn DWT, tàu container sức chở 4.000 - 8.000
TEU và vùng kinh tế trọng điểm khác khi có điều kiện; cảng chuyên dùng cho các

GVHD: Phạm Thị Bích Duyên

Trang 24


BÀI TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
liên hợp hóa dầu, luyện kim, trung tâm nhiệt điện chạy than (tiếp nhận được tàu trọng
tải 10-30 vạn DWT hoặc lớn hơn).
• Khó khăn và thách thức
- Cục hàng hải cho biết, năm 2012 do tác động chung của hoạt động hàng hải thương mại thế giới và những khó khăn trong nước (thiếu tàu dầu, tàu chở khí hóa
lỏng, tàu container; giá cước vận tải giảm, giá nhiên liệu tăng, trượt giá...) nên phần
lớn các doanh nghiệp vận tải biển (nhất là các chủ tàu tư nhân) đều có lợi nhuận thấp
và vẫn gặp nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh, phổ biến là tình trạng khan
hiếm nguồn hàng; khơng ít phương tiện chỉ vận tải hàng một chiều hoặc chạy “rỗng”;
nhiều tuyến phải đỗ dài ngày do thiếu hàng chuyên chở. Do đó thu khơng đủ bù chi
phí, riêng phần trả lãi ngân hàng có thời điểm lãi suất vay lên tới 21% năm. Nhiều
doanh nghiệp bị nợ quá hạn kéo dài, nguy cơ dẫn đến phá sản là không thể tránh

khỏi. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp vận tải biển lại bị thiệt thịi bởi khó tiếp cận với
-

nguồn tài chính hỗ trợ thơng qua các gói kích cầu của Chính phủ.
Bên cạnh đó, hiện nay, hạ tầng giao thông kết nối cảng biển với các khu dân cư, khu
cơng nghiệp mặc dù đã được Chính phủ quan tâm đầu tư xây dựng, tuy nhiên vẫn
chưa đồng bộ với đầu tư xây dựng hạ tầng cảng biển, chưa đáp ứng được nhu cầu lưu
thơng hàng hóa xếp dỡ qua hệ thống cảng biển. Tình trạng trên là một trong những

-

nguyên nhân dẫn đến ách tắc giao thông và ứ đọng hàng hóa tại các cảng biển.
Đáng chú ý, thời gian gần đây, tai nạn hàng hải có xu hướng tăng lên. Tai nạn xảy ra
trên hải phận quốc tế và trên các luồng hàng hải Việt Nam. Đã xảy ra tàu vận tải Việt
Nam bị cướp biển tấn công bắt giữ tống tiền... Những vấn đề này dẫn đến tổn thất to
lớn về người và tài sản cho các doanh nghiệp hàng hải Việt Nam. Bên cạnh đó, số
lượng tàu vận tải của các doanh nghiệp Việt Nam bị lưu giữ tại các cảng nước ngoài
do khiếm khuyết kỹ thuật vẫn chưa giảm, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản

-

xuất kinh doanh và sự phát triển chung của Ngành.
Ngồi ra, vận tải hàng hóa bằng đường biển đang gặp khó khăn do sự cạnh tranh
khốc liệt với đội tàu trong và ngồi nước. Cước phí vận tải giảm trong khi giá nhiên
liệu tăng. Giá xếp dỡ hàng hóa tại cảng biển (đặc biệt là hàng container) thấp do đội
GVHD: Phạm Thị Bích Duyên

Trang 25



×