Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Đề tài QUẢN lý vốn KHẢ DỤNG của VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.94 KB, 21 trang )

Phụ lục
A. Quản lý VKD
I.
II.

Vốn khả dụng
Quản lý vốn khả dụng
1. Khái niệm
2. Tại sao phải quản lý VKD?

III.

Quy trình quản lý VKD của NHNNVN
1. Dự báo sự tác động của VKD
2. Xác định liều lượng, thời hạn và biện pháp can thiệp
B. Thực trạng quản lý VKD

I.

Cơ sở lý luận
1. Nghiệp vụ thị trường mở
a. Khái niệm
b. Cơ chế tác động
2. Nghiệp vụ tái cấp vốn
a. Khái niệm
b. Cơ chế tác động
3. Quản lý ngoại hối
a. Khái niệm
b. Cơ chế tác động

II.


III.

Thực trạng quản lý VKD của NHNN VN từ 2008 đến đầu 2011
Đánh giá, một số đề xuất


A.
Quản lý VKD
I. Vốn khả dụng
Vốn khả dụng (VKD) của các TCTD là nguồn vốn sẵn sàng để đáp ứng các nghĩa vụ tài
chính của TCTD như các yêu cầu rút tiền gửi của khách hàng, nhu cầu thanh toán các
khoản nợ của TCTD và nghĩa vụ phải trả khác.
Trên góc độ quản lý của NHTW: Vốn khả dụng là số tiền gửi của các NHTM tại NHTW
gồm: tiền gửi DTBB, tiền gửi thanh toán, tiền gửi khác…
Ở Việt Nam: Vốn khả dụng là số tiền gửi của TCTD (gồm: tiền gửi thanh toán, DTBB, tiền
gửi khác) được gửi tại NHTW nhằm đảm bảo thực hiện DTBB và và các nhu cầu thanh
toán khác( theo mục tiêu của CSTT quốc gia)
II.

Quản lý VKD
1. Khái niệm

Quản lý vốn khả dụng là sự kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước đối với sự thay đổi tiền
gửi của các tổ chức tín dụng tại Ngân hàng Nhà nước và thông qua việc sử dụng các công
cụ của chính sách tiền tệ, đặc biệt là nghiệp vụ thị trường mở để tác động vào khả năng
thanh toán của các tổ chức tín dụng nhằm đạt được mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia
trong từng thời kỳ.
2. Tại sao phải quản lý VKD?
NHNN dự báo và quản lý VKD của hệ thống các TCTD nhằm:



Bảo đảm an toàn hoạt động cho toàn bộ hệ thống



Thực hiện mục tiêu CSTT quốc gia



Tạo điều kiện cho các TCTD sử dụng vốn có hiệu quả hơn.

Dự báo VKD làm cơ sở để NHTW chủ động đề ra những giải pháp điều hành CSTT phù
hợp, góp phần điều tiết VKD, điều tiết lãi suất trên thị trường theo mục tiêu của CSTT
quốc gia trong từng thời kì. Giúp NHTW luôn sẵn sàng chuẩn bị các giải pháp để điều tiết
VKD, đảm bảo sự cân bằng giữa cung- cầu VKD, tạo cơ sở cho NHTW thực hiện các biện
pháp điều hành CSTT. Với việc chủ động dự báo xu hướng biến động VKD trên thị
trường, NHTW có thể quyết định lượng VKD trên thị trường và sử dụng các công cụ
CSTT để can thiệp, đặc biệt công cụ NVTTM

Tác động đến
cung-cầu VKD


Dự báo VKD

Can thiệp bằng
OMO, tái cấp vốn

Tác động đầu tư
và tiêu dùng


Tác động cho tới
lãi suất cho vay nền
kinh tế

Tác động lãi suất
cho vay qua đêm
trên thị trường liên
ngân hàng

Ổn định giá cả
thực hiện mục tiêu
chính sách tiền tệ
3.Quy trình quản lý VKD của NHNN VN
a. Dự báo sự biến động vốn khả dụng:
 Cung- cầu VKD của hệ thống ngân hàng:
Cầu vốn khả dụng:
Cầu vốn khả dụng xuất phát từ yếu tố tự sinh của bản thân ngân hàng, đó là: đảm
bảo nhu cầu thanh toán giữa các NH, đảm bảo khả năng rút tiền mặt của KH, thực hiện
nghĩa vụ đối với NSNN, thưc hiện các GD ngoại tệ.
Xuất phát từ yêu cầu quản lý của NHTW: Phải gửi dự trữ tại NHTW, xuất phát từ
quan hệ ngoại tệ với NHTW
Cung VKD::
Nguồn cung VKD của NHTM được hình thành từ 2 nguồn: Tiền gửi của công
chúng, nguồn tiền từ NHTW qua các kênh phát hành.
Nguồn cung ứng VKD bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên tài sản Có của NHTW
 Phương pháp dự báo sự biến động VKD:
 Dự báo trên cơ sở phương pháp tiếp cận Bảng cân đối tiền tệ của NHTW.
Tiền dự trữ của các NHTM = TSC – Tiền ngoài NHTW
Cung VKD= TSC ngoại tệ ròng + cho vay CP ròng + TSC khác ròng – Tiền mặt

lưu thông ngoài NH + CV các NHTM
Cầu VKD = DTBB + DTDT
Phương pháp, kỹ thuật dự báo
Một là: xác định các yếu tố cần dự báo:
Các yếu tố ảnh hưởng đến cung VKD


Các yếu tố ảnh hưởng đến cầu VKD
Hai là: Lập dãy số liệu lịch sử về các yếu tố cần dự báo:
Ba là : Phân tik các nhân tố ảnh hưởng đến các tiêu thức dự báo trong kì dự báo
Bốn là : Phân tích lỗi của kỳ dự báo trước
Năm là: Tiến hành dự báo sự biến động trong cung và cầu VKD:
Việc dự báo có thể phối kết hợp hai phương pháp:
PP1: phân tích theo số liệu lịch sử và điều chỉnh theo tính thời vụ
PP2: dựa trên cơ sở phân tích các số liệu theo kế hoạch hoặc các khoản thu chi
đến hạn theo hợp đồng.
 Dự báo theo cách tiếp cận từ các TCTD
Cơ sở dự báo: Phân tích luồng tiền các TCTD; bao gồm theo dõi, phân tích theo thời
hạn còn lại của các khoản mục tài sản có và tài sản nợ trên bảng cân đối của TCTD trên
cơ sở hợp đồng và dự báo các khoản phát sinh bên tài sản có và tài sản nợ.
Vị thế luồng tiền ròng = tổng các luồng tiền vào – tổng các luồng tiền ra
Phân tích lỗi của kì dự báo trước:
- Sai số do thời điểm thực hiện một số khoản mục khác so với dự kiến
- Sai số do sơ suất trong khâu nhập số liệu đầu vào
- Sai số do quá trình dự báo có thể không sử dụng tất cả các thông tin thích hợp
- Các sai số khác
Phương pháp dự báo:
- Phương pháp hiệu quả nhất là từng TCTD có hệ thống theo dõi và thực hiện
việc phân tích luồng tiền của đơn vị mình. NHTW tổng hợp các kết quả và dự
-


báo của các TCTD và xem xét điều chỉnh nếu thấy cần thiết.
Phương pháp dự báo chủ yếu căn cứ vào việc quản lý và theo dõi online tất cả
các khoản mục phát sinh bên tài sản có và tài sản nợ trong toàn hệ thống các
TCTD. Đồng thời các TCTD có thể sử dụng mô hình kinh tế lượng trên cơ sở
các số liệu lịch sử và căn cứ vào thông tin từ phía khách hàng, thị trường dể dự

báo các khoản mục phát sinh bên TS có và TS nợ.
b. Xác định liều lượng, thời hạn và biện pháp can thiệp:
Dựa vào kết quả dự báo VKD, NHNN sẽ chủ động đưa ra các biện pháp điều tiết VKD
cho phù hợp với CSTT từng thời kì:
• Nếu cầu > cung, NHTW cần bơm thêm tiền thông qua các kênh: tái cấp vốn


hoặc nghiệp vụ thị trường mở.
Nếu cầu < cung, NHTW sẽ hút bớt lượng VKD dư thừa thông qua nghiệp vụ thị
trường mở.

B.

Thực trạng QLVKD ở VN
I. Cơ sở lý luận


NHTW quản lý vốn khả dụng của hệ thống TCTD qua 4 kênh: Nghiệp vụ thị
trưởng mở, nghiệp vụ tái cấp vốn và quản lý ngoại hối.
1. Nghiệp vụ thị trường mở
a. Khái niệm
Nghiệp vụ thị trường mở là việc Ngân hàng Nhà nước thực hiện mua, bán ngắn
hạn các loại giấy tờ có giá của các tổ chức tín dụng thông qua hình thức đấu

thầu
b. Cơ chế tác động
 Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng:
Hành vi mua bán chứng khoán trên thị trường mở của NHTW có ảnh hưởng
ngay lập tức đến tình trạng dự trữ của NHTM thông qua ảnh hưởng đến tiền gửi
của các ngân hàng tại NHTW và tiền gửi của KH tại NHTM. Việc mua bán chứng
khoán cho các đối tác, NHTW có thể làm giảm đi một khối lượng dự trữ tương ứng
dù người mua là NHTM hay khách hàng của nó, khi tiền thanh toán cho lượng
chứng khoán này được ghi nợ vào tài khoản của ngân hàng tại NHTW.Trong
trường hợp người mua là khách hàng của NHTM thì số tiền mua chứng khoán sẽ
làm giảm số dư tiền gửi của khách hàng đó tại NHTM.Sự giảm xuống của dự trữ
dấn đến giảm khả năng cho vay của HTNH và vì thế và vì thế mà giảm khối lượng
tiền cung ứng theo bội số,được đo lường bằng số nhân tiền tệ. Hành vi mua chứng
khoán của NHTW sẽ có tác động ngược lại.
 Tác động vào lãi suất:
Hoạt động mua bán chứng khoán trên OMO của NHTW có ảnh hưởng gián
tiếp đến mức lãi suất thị trường thông qua hai con đường:
Thứ nhất:Khi dự trữ của các ngân hàng bị ảnh hưởng,nó có ảnh hưởng đến cung
cầu vốn NHTW trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng.Đến lượt nó,cung cầu tiền
trung ương thay đổi sẽ dẫn đến lãi suất thị trường tiền NHTW thay đổi.Mức lãi
suất ngắn hạn này,thông qua dự đoán của thị trường và các hoạt động artbitrage
về lãi suấ, sẽ truyền tác động của nó đến mức lãi suất trung và dài hạn trên thị
trường tài chính.Tại một mức lãi suất thị trường xác định, tổng cầu nền kinh kế
và do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ được quyết định.
Thứ hai:Việc mua bán chứng khoán sẽ làm ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu về
loại chứng khoán đó trên thị trường mở và giá cả của nó.Khi giá chứng khoán
thay đổi, tỷ lệ sinh lời của chúng cũng thay đổi.Nếu đó là loại chứng khoán
chiếm tỉ trọng lớn trong giao dịch trên thị trường tài chính thì sự thay đổi tỉ



trọng sinh lời của nó sẽ tác động trở lại lãi suất thị trường,tổng cầu và sản
lượng.
NVTCV.
2. Nghiệp vụ tái cấp vốn
a. Khái niệm
Tái cấp vốn là hình thức tín dụng có đảm bảo của NHTW nhằm cung ứng nhu cầu
vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các NHTM
Các hình thức tái cấp vốn


Chiết khấu các giấy tờ có giá



Cho vay có đảm bảo bằng cầm cố GTCG



Các hình thức tái cấp vốn khác

b. Cơ chế tác động
NHTW ấn định hạn mức tái chiết khấu lãi suất tái chiết khấu và các điều kiện tái chiết
khấu. Những thay đổi này ảnh hưởng đến mục tiêu cuối cùng chỉ khi các NHTM có
nhu cầu vay NHTW và ảnh hưởng qua cả hai con đường : khối lượng và giá
Khối lượng vốn khả dụng được bổ sung từ NHTW có thể bị giới hạn hoặc nới lỏng căn
cứ vào hạn mức tái chiết khấu và các điều kiện tái chiết khấu, qua đó nó ảnh hưởng đến
khả năng tạo tiền của NHTM, quan hệ cung cầu vốn và ảnh hưởng đến lãi suất liên
ngân hàng
Khi lãi suất chiết khấu tăng lên (hoặc giảm), các NHTM không thể vay NHTW một
cách dễ dàng( hoặc mở rộng khả năng cho vay), điểu này buộc các NHTM giảm bớt

khả năng cung ứng tín dụng để hồi phục dự trữ, hoặc mở rộng cho vay trong trường
hợp ngược lại
Lãi suất tái chiết khấu được coi như dấu hiệu của định hướng chính sách tiền tệ của
NHTW. Vì thế nó có hiệu ứng thông báo do sự trông đợi và dự đoán của thị trường
Khi lãi suất tái chiết khấu tăng lên (dấu hiệu của CSTT thắt chặt) hoặc giảm
xuống( dấu hiệu của CSTT nới lỏng) có tác dụng hướng dẫn của hành vi của thị trường
theo định hướng CSTT
Hiệu ứng thông báo chỉ có hiệu quả khi lãi suất thị trường phù hợp với lãi suất thị
trường
3. Quản lý ngoại hối
a. Khái niệm


Ngoại hối bao gồm các phương tiện thanh toán được sử dụng trong thanh
toán quốc tế: ngoại tệ, các giấy tờ có giá ghi bằng ngoại tệ, vàng tiêu chuẩn
quốc tế, đông tiền quốc gia khác do người không cư trú nắm giữ.
 Đối tượng mua bán trên thị trường ngoại hối chỉ gồm:
- Mua bán ngoại tệ
- Mua bán vàng tiêu chuẩn quốc tế
Quản lý ngoại hối là việc nhà nước áp dụng các chính sách, biện pháp tác động
vào quá trình nhập, xuất ngoại hối (đặc biệt là ngoại tệ) và việc sử dụng ngoại hối
theo những mục tiêu đã định.
b. Cơ chế tác động
NHNN VN thực hiện việc mua bán các loại ngoại tề trên thị trường LNH nhằm
mục đích điều tiết VKD của các NHTM, điểu tiết cung cầu ngoại tệ để ổn định tỷ giá.
NHNNVN vừa là người tổ chức, điều hành thị trường ngoiaj tệ LNH, vừa là thành
viên trên thị trường. Trên thị trường ngoại tệ LNH, việc mua bán ngoại tệ giữa các
thành viên được thực hiện bằng các nghiệp vụ: giao dịch giao ngay, giao dịch kỳ hạn,
giao dịch hoán đổi ngoại tệ và các hình thức giao dịch theo quy định.
• Mua bán trên thị trường trong nước

Thông qua việc mua bán ngoại tệ NHTW thực hiện việc cung ứng tiền tệ hoặc
rút bớt tiền tệ ra khỏi lưu thông, trên cơ sở đó ổn định tỷ giá hối đoái của đồng bản


tệ.
Mua bán trên thị trường quốc tế
Với nhiệm vụ quản lý quỹ dự trữ ngoại hối,NHTW thực hiện việc mua
bán trên thị trường quốc tế nhằm bảo tồn và phát triển quỹ dự trữ ngoại hối. NHTW
thực hiện việc mua bán ngoại hối sẽ tác động trực tiếp vào tiền TW (MB) từ đó có

thể can thiệp nhằm đạt được tỷ giá mong muốn.
II. Thực trạng quản lý VKD của NHNN Việt Nam từ 2008 đến nay
1. NĂM 2008
Có thể nói rằng, năm 2008 là năm mà nền kinh tế trong nước có những biến động rất lớn.
Năm 2008, thị trường ngân hàng trong nước đã trải qua những biến động chưa từng có về
lãi suất, tỷ giá... Thực hiện chính sách tài chính tiền tệ linh hoạt, hiệu quả, lúc thắt chặt,
lúc nới lỏng. Việc thắt chặt tiền tệ đầu năm và nới lỏng dần cuối năm đã tạo nên tần suất
điều chỉnh chính sách nhiều chưa từng có trong lịch sử.
Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, trong vòng 3 tuần đầu của tháng 2 năm 2008
NHTM đã thực hiện đồng thời 4 biện pháp thắt chặt tiền tệ của NHNN
1. Quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11% đồng thời mở rộng thêm phạm vi
tiền gửi dự trữ bắt buộc.


2. Phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN bắt buộc. Ba NHTM nhà nước lớn nhất, mỗi
ngân hàng phải mua 3000 tỷ đồng
Các loại tín phiếu trước đây được giao dịch trên thị trường mở với NHNN thì giờ NHNN
nói rõ là không được vay tái cấp vốn
3. Từ tháng 2 năm 2008, các loại lãi suất chủ đạo của NHNN tăng hơn trước.
4. NHNN ban hành quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN ngày 1/2/2008 về sửa đổi chỉ thị về

cho vay chứng khoán. Quyết định 03 còn thắt chặt về cho vay chứng khoán hơn Chỉ thị 03
trước đây.
Với 4 quyết định được coi là cứng rắn và kiên quyết nói trên trong điều hành CSTT của
NHNN đã gây ra các tác động sốc và phản ứng tiêu cực tức thì của thị trường tiền tệ và
của NHTM. Có thể nói đây là một cú phanh gấp trong quá trình tụt dốc của nền kinh tế
nhằm ngăn chặn vật giá leo thang và lạm phát.
Tính chung cả năm, NHNN đã 3 lần tăng và 5 lần giảm lãi suất cơ bản. Lãi suất tái cấp
vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng có tần suất điều chỉnh tương ứng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có
1 lần tăng trong tháng 2, 4 lần giảm trong 3 tháng cuối năm (2 lần giảm đối với dự trữ
bằng ngoại tệ). Lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc có 5 lần điều chỉnh (3 lần tăng, 2 lần
giảm). Ngày 17/3 NHNN phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc và 2 lần điều chỉnh
lãi suất cho tín phiếu, 1 lần tăng từ 7,8% lên 13%, tháng 12 giảm xuống còn 4,5%. Lần
đầu tiên kể từ 1/12/2005, lãi suất cơ bản được điều chỉnh tăng, từ 8,25% lên 8,75% vào
1/2/2008. Đặc biệt, trong lần điều chỉnh ngày 19/5 (lên 12%), ngoài sự điều chỉnh trên,
NHNN chính thức áp cơ chế lãi suất trần trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín
dụng (ko quá 150% lãi suất cơ bản theo quy định của Bộ luật Dân sự).
Mấy ngày cuối tháng 1/2008, lãi suất qua đêm thị trường liên NH vọt lên tới 27% trong
khi đầu tháng, thị trường này đã bắt đầu với lãi suất 6,52%. Sở dĩ lãi suất qua đêm cao
như vậy bởi các NH phải nhanh chóng tập trung 1 lượng tiền mặt lớn nhằm đáp ứng quy
định tăng dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11%. Ngày 13/2 NHNN lại ra quyết định buộc các
NHTM phải mua 1 lượng tín phiếu trị giá 20.300 tỷ đồng, nhu cầu tiền mặt ngay lập tức
lên tới hơn 40.000 tỷ đồng làm náo loạn các tổ chức tín dụng.


Như vậy, trên đây là điều chỉnh mở rộng nghiệp vụ thị trường mở của NHNN nhằm thu
hồi lượng tiền mặt quá lớn đồng thời thắt chặt tín dụng của các NHTM
Lãi suất:
Lãi suất biến động mạnh và liên tục tăng cao trong những tháng đầu năm và giải dần trong
những tháng cuối năm:
Trong những tháng đầu năm 2008, đặc biệt là trong khoảng thời gian tháng 2/2008 đến

tháng 5/2008, lãi suất huy động liên tục tăng cao trong cuộc chạy đua về lãi suất... Tuy
nhiên, những tháng cuối năm, lãi suất thị trường có xu hướng giảm: Lãi suất huy động và
cho vay bằng VND giảm 2,5%-3%/năm.

Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở và lãi suất liên NH tăng cao chóng mặt, đặc biệt lãi suất
liên NH ngày 15/2/2008 lên tới 30,1%/năm, ngày 18/2/2008 lên tới 33%/năm, ngày
19/2/2008 lên tới 43%/năm.
Lãi suất thị trường mở qua đấu thầu giấy tờ có giá ngắn hạn tại NHNN lên tới 10%, thậm
chí 15%/năm cho kỳ hạn vay 2 tuần, gấp 2-3 lần mức lãi suất bình thường. Ngày
22/2/2008, NHNN phải bơm thêm 6000 tỷ đồng qua nghiệp vụ thị trường mở cho 1 số
NHTM trúng thầu với lãi suất tới 13%/năm cho kỳ hạn 14 ngày, giảm 2% so với mức
15%/năm của ngày 21/2/2008.
Ngày 5/12/2008, lãi suất thị trường liên NH qua đêm và kỳ hạn dưới 1 tháng từ 9,510,5%/năm, giảm khoảng 1-1,5%/năm so với ngày 4/12/2008; Thị trường tiền tệ tiếp tục


dư cung vốn khả dụng, NHNN VN tiếp tục điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở
để hỗ trợ cho các NHTM quản trị tốt vốn khả dụng.
Tác động của việc thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt: việc thực thi chính sách thắt chặt
tiền tệ của NHTW thông qua công cụ dự trữ bắt buộc, phát hành tín phiếu bắt buộc và
công cụ lãi suất đã tác động trực tiếp đến thị trường tiền tệ và hoạt động kinh doanh của
các NHTM, theo hướng làm giảm quy mô nguồn vốn; giảm khả năng cho vay. Quá trình
này tác động làm tăng chi phí kinh doanh, tăng lãi suất cho vay của các NHTM và trực
tiếp đến thanh khoản của các NHTM trong thời gian này.
Dự trữ bắt buộc:
Những tháng cuối năm 2008, để ngăn chặn suy giảm kinh tế, NHNN đã điều chỉnh giảm
tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng VND từ 11% xuống 6% và tiền gửi bằng ngoại tệ từ
11% xuống 7%
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc được điều chỉnh giảm, việc điều chỉnh này của NHNN, một mặt,
nhằm đưa ra tín hiệu nới lỏng tiền tệ; mặt khác, thông qua việc nâng cao hệ số nhân tiền
chính thức mở rộng khả năng cho vay, kích thích các ngân hàng thương mại đẩy mạnh

hoạt động tín dụng, tích cực cung ứng vốn cho nền kinh tế.
Như vậy, năm 2008 là năm hệ thống Ngân hàng Việt Nam phải đối mặt với những khó
khăn, thách thức chưa từng có trong hơn hai mươi năm đổi mới. Các công cụ chính sách
tiền tệ được điều hành linh hoạt để hút tiền từ lưu thông nhưng vẫn đảm bảo tính thanh
khoản cho nền kinh tế, điều hành linh hoạt tỷ giá theo tín hiệu thị trường. Ngân hàng Nhà
nước đã tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của thị trường ngoại hối và của
các tổ chức tín dụng, hạn chế tăng trưởng tín dụng quá nóng có thể gây mất an toàn hệ
thống của các tổ chức tín dụng. Đến cuối năm 2008, để chủ động ngăn chặn suy giảm
kinh tế, chính sách tiền tệ thắt chặt được chuyển dần sang nới lỏng một cách thận trọng.
Chính sách tền tệ chưa thể nói là cực chuẩn nhưng có thể nói là thành công.
Tuy nhiên, do Chính phủ không dự đoán được tình hình khủng hoảng xảy ra nên việc áp
dụng CSTT của NHNN được thực hiện trong bị động và tình hình căng thẳng, Việc thắt
chăt CSTT đột ngột trong giai đoạn đầu sẽ tạo ra sú sốc lớn và gây ra các phản ứng tiêu
cực tức thời của thị trường tiền tệ và của NHTM. Thêm vào đó, sự mâu thuẫn giữa các


mục tiêu trong ngắn hạn sẽ khiến cho nền kinh tế trong ngắn hạn không thể thực hiện
được tất cả các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
2. NĂM 2009
Năm 2009, một năm mà chính sách tiền tệ (CSTT) đã phải đối mặt với nhiều thách thức
khó lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác động bất lợi của khủng hoảng
tài chính và suy thoái kinh tế Nhìn nhận một cách khách quan có thể thấy, lạm phát cao
năm 2008, cùng với sự đảo chiều của vốn đầu tư nước ngoài và thâm hụt mạnh cán cân
thương mại (12,783 tỷ USD) đã có tác động mạnh đến tâm lý các nhà đầu tư trên thị
trường ngoại hối, gây những biến động khó lường đến tỷ giá
Trước những tác động bất lợi như vậy, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực thi CSTT
một cách linh hoạt phối hợp đồng bộ với nhiều giải pháp khác để giữ bình ổn thị trường.
Từ đầu năm 2009 đến nay, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và dân cư trong xã hội
tiếp cận được với vốn vay của hệ thống ngân hàng theo tinh thần của các gói giải pháp
kích cầu của Chính phủ cũng như tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động ổn định và hiệu

quả, NHNN đã hạ thấp lãi suất chỉ đạo từ 14% xuống 7%, hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ
11% xuống 5%.
Để tăng nguồn cung và ổn định thị trường ngoại tệ, NHNN đã triển khai quyết liệt nhiều
giải pháp như mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD/VND của các ngân hàng
thương mại từ +/-3% lên +/-5% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng cùng phối hợp với
các biện pháp điều tiết cung cầu ngoại tệ trên thị trường như bán ngoại tệ hỗ trợ nhu cầu
nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống; điều hòa ngoại tệ
trên thị trường ngoại tệ trên ngân hàng
Đồng thời, trình Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính bán nguồn ngoại tệ thu được từ
phát hành trái phiếu Chính phủ cho NHNN; đề nghị một số doanh nghiệp nhập khẩu lớn
chuyển từ mua ngoại tệ sang vay bằng ngoại tệ; phối hợp chặt chẽ với Bộ Công thương
trong việc kiểm soát nhập siêu và đáp ứng các nhu cầu ngoại tệ thiết yếu của nền kinh tế.
Đặc biệt, áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế tâm lý găm giữ ngoại tệ của các doanh
nghiệp và người dân như đẩy mạnh công tác tuyên truyền và công bố công khai, rộng rãi
các thông tin về tình hình ngoại hối, tỷ giá; yêu cầu các NHTM nhà nước giảm lãi suất


cho vay và huy động bằng ngoại tệ (lãi suất cho vay giảm từ mức 6-6,5%/năm xuống
không quá 4%/năm kể từ ngày 15/4/2009 và giảm tiếp xuống mức không quá 3%/năm kể
từ ngày 01/6/2009, lãi suất huy động giảm xuống mức không quá l,5%/năm kể từ ngày
01/6/2009)
Đồng thời đề nghị Hiệp hội Ngân hàng yêu cầu các NHTM cổ phần đồng thuận giảm lãi
suất huy động và cho vay bằng ngoại tệ như các NHTM nhà nước kể từ ngày 8/6/2009.
Các biện pháp trên đã có tác động giảm áp lực thiếu cung ngoại tệ trên thị trường, giữ
được thị trường ổn định.
Tuy nhiên, diễn biến kinh tế những tháng cuối năm vẫn tiếp tục là thách thức cho thực thi
CSTT như thâm hụt cán cân thương mại không được cải thiện mà vẫn tiếp tục gia tăng
(theo số liệu của Tổng cục Hải quan 11 tháng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước đạt
113,6 tỷ USD, giảm 14,7% so với cùng kỳ năm 2008, trong đó, xuất khẩu là 51,33 tỷ
USD, giảm 11,5% và nhập khẩu là 62,28 tỷ USD, giảm 17%.

Cán cân thương mại hàng hóa 11 tháng thâm hụt 10,95 tỷ USD bằng 21,3% xuất khẩu),
nguồn bù đắp cho thâm hụt này suy giảm như nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm sút
mạnh so với năm 2008, đầu tư gián tiếp nước ngoài không tăng mà còn giảm; nguồn kiều
hối cũng giảm do khủng hoảng kinh tế toàn cầu... do vậy dẫn đến thâm hụt cán cân thanh
toán, tình hình này tiếp tục gây bất lợi cho việc ổn định tỷ giá.
Thêm vào đó, thâm hụt ngân sách tăng cao, năm 2009 mức thâm hụt ngân sách ở mức
6,5% GDP buộc ngân sách phải vay nợ nhiều, qua đó mà gây áp lực giảm giá VND.
Trên thị trường tiền tệ xuất hiện những hiện tượng bất cập, mâu thuẫn nhau: Tốc độ tăng
trưởng tín dụng cao, nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp, VND
vẫn khan hiếm, biểu hiện ở áp lực tăng lãi suất, thanh khoản VND mỏng manh.
Sự khan hiếm tiền đồng về mặt lý thuyết là làm cho VND lên giá. Nhưng chính sách điều
tiết vĩ mô thì lãi suất lại thấp (lãi suất cho vay hỗ trợ, trần lãi suất cho vay..) gây áp lực
giảm giá VND, đồng thời kích thích nhu cầu sử dụng tiền đồng, tăng nhu cầu tín dụng,
gây ra vòng xoáy khan hiếm tiền đồng, gây áp lực cho NHNN phải cung ứng thêm tiền
đồng. Điều này tiếp tục gây áp lực giảm giá VND. Đồng thời, sự biến động mạnh của giá
vàng cũng có những tác động bất lợi đến tỷ giá.


Trước tình hình này, ngày 26/11, NHNN đã kịp thời điều chỉnh tỷ giá, nâng tỷ giá công bố
lên 17.980 VND/USD, tăng 5,4% so với ngày trước đó, thu hẹp biên độ tỷ giá từ +/-5%
xuống còn +/-3%, đồng thời yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm biên độ tỷ
giá.
Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng có trạng thái ngoại tệ từ âm 5% trở xuống lại được
NHNN bán ngoại tệ hỗ trợ nhằm đảm bảo hệ thống ngân hàng cam kết cung cấp đủ ngoại
tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đặc biệt ưu tiên những mặt hàng nhập khẩu phục
vụ sản xuất.
Đồng thời với điều chỉnh tỷ giá, NHNN đã thực hiện nâng các mức lãi suất chỉ đạo lên
thêm 1%. Đây là giải pháp có tính đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tế, vừa có tác dụng
tiếp tục duy trì tăng trưởng của nền kinh tế đồng thời chủ động ngăn chặn nguy cơ lạm
phát và trước mắt ổn định thị trường ngoại hối.

Như vậy, có thể nói những khó khăn nhất đã qua, năm 2009 mặc dù phải đối mặt với rất
nhiều thách thức trong quá trình thực thi CSTT, nhưng với sự điều hành linh hoạt, sự ứng
phó kịp thời với những biến động của tình hình, về cơ bản CSTT đã đạt được mục tiêu
của năm 2009 là kiềm chế lạm phát từ mức 19,98% năm 2008 xuống còn 6,52%, hỗ trợ
tăng trưởng kinh tế ở mức 5,2% và CSTT đã góp phần quan trọng vào ổn định kinh tế vĩ
mô. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ và đòi hỏi CSTT của NHNN
phải có phản ứng kịp thời để ngăn chặn.
3. Năm 2010
Trong năm 2010, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và thận
trọng, phù hợp với Nghị quyết Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ và bám sát tình hình thực
tế, góp phần quan trọng để thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô, thể hiện cụ thể là:
Với mục tiêu duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế bền
vững trong năm 2010, chủ động đối phó với diễn biến phức tạp của thị trường tài chính và
kinh tế thế giới, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định điều chỉnh lãi suất cơ bản tăng từ
7%/năm lên 8%/năm, tăng lãi suất tái cấp vốn tăng từ 7%/năm lên 8%/năm, lãi suất chiết
khấu tăng từ 5%/năm lên 6%/năm áp dụng từ 1/12/2009.


Phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương triển khai Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày
12/4/2010 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn, trong đó
quy định hộ sản xuất và hợp tác xã vay vốn từ 50-500 triệu đồng không phải thế chấp,
cầm cố tài sản; ban hành cơ chế khuyến khích các tổ chức tín dụng (TCTD) mở rộng cho
vay vốn đối với nông nghiệp và nông thôn với lãi suất thấp hơn lĩnh vực khác, thông qua
giảm dự trữ bắt buộc, cho vay tái cấp vốn, mở rộng mạng lưới TCTD. Bên cạnh đó,
NHNN chỉ đạo các TCTD tập trung vốn cho vay đối với xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và
vừa, khắc phục hậu quả thiên tai. Tín dụng đối với nền kinh tế tăng 27,65% (giảm dần
trong 3 tháng cuối năm); tín dụng đối với nông nghiệp và nông thôn tăng 23,2%, cao hơn
năm 2009 (18,8%).
• Trong 10 tháng đầu năm, lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn ổn định ở mức 8%/năm,
kết hợp với điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở và giám sát việc thực hiện các tỷ

lệ an toàn của TCTD, đã điều tiết lãi suất huy động và cho vay giảm dần theo chỉ đạo của
Chính phủ (đến cuối tháng 10, lãi suất huy động VND bình quân 10,44%/năm, cho vay
13,18%/năm).
• Hai tháng cuối năm, NHNN điều chỉnh lãi suất cơ bản và tái cấp vốn tăng 1%/năm, kết
hợp với điều hành chặt chẽ lượng tiền cung ứng, quy định trần lãi suất huy động VND
14%/năm để ổn định thị trường tiền tệ, đã làm tăng lãi suất thị trường và giảm cầu tín
dụng (cuối tháng 12, lãi suất huy động VND bình quân 12,44%/năm, cho vay
14,96%/năm, cho vay nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu 12-14%/năm; lãi suất thị trường
nội tệ liên ngân hàng 9,5 - 12%/năm).
Điều chỉnh tỷ giá mua - bán ngoại tệ của các TCTD tăng 5,52%; thực hiện các biện pháp
ổn định thị trường ngoại tệ, như kết hối ngoại tệ đối với 7 tập đoàn, tổng công ty nhà
nước, quy định trần lãi suất tiền gửi của tổ chức kinh tế bằng USD 1%/năm, bán ngoại tệ
cho nhập khẩu mặt hàng thiết yếu, chỉ đạo các TCTD hạn chế cho vay nhập khẩu mặt
hàng không thiết yếu và không khuyến khích. Thị trường ngoại tệ và tỷ giá tương đối ổn
định trong hơn 9 tháng đầu năm; từ tháng 10, tỷ giá thị trường tăng phù hợp với điều kiện
kinh tế vĩ mô.
Thực hiện các giải pháp kiểm soát chặt chẽ thị trường vàng ngay từ đầu năm. Đóng cửa
sàn giao dịch vàng và chấm dứt kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài; điều hành
xuất - nhập khẩu vàng phù hợp với nhu cầu thị trường; ban hành Thông tư số 22/2010/TTNHNN ngày 29/10/2010 thu hẹp huy động và cho vay bằng vàng; phối hợp với các bộ,


ngành chống đầu cơ, buôn lậu vàng. Giá vàng trong nước tăng bám sát giá thế giới, hiện
tượng tâm lý đám đông và đầu cơ có xu hướng giảm.
Giám sát chặt chẽ diễn biến thị trường tiền tệ và thực hiện các giải pháp đảm bảo an toàn
hệ thống. Hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM; ban hành quy định mới phù hợp với thông
lệ, chuẩn mực quốc tế và điều kiện thực tế của hệ thống TCTD nước ta về tỷ lệ an toàn,
cấp giấy phép thành lập và hoạt động NHTM cổ phần, sáp nhập, hợp nhất, mua lại TCTD,
quản trị kinh doanh của NHTM; giãn tiến độ tăng vốn điều lệ của các TCTD theo Nghị
định 141/2006/NĐ-CP đến cuối năm 2011; Cơ quan Thanh tra giám sát, NHNN chi nhánh
tỉnh, thành phố tăng cường thanh tra, kiểm tra các TCTD. Năm 2010, tài sản có của hệ

thống TCTD tăng 28%, tỷ lệ an toàn kinh doanh phù hợp với quy định của NHNN, tỷ lệ
nợ xấu khoảng 2,5%; tình hình thanh khoản và lãi suất thị trường tiền tệ trong nửa cuối
tháng 12 tương đối ổn định.
Tiếp tục hỗ trợ lãi suất đối với các khoản vay được giải ngân năm 2009 và các khoản cho
vay năm 2010 theo Quyết định số 2072/QĐ-TTg ngày 11/12/2009 và Quyết định số
2213/QĐ-TTg ngày 31/12/2009; cuối tháng 12, dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất khoảng
95.000 tỷ đồng, trong đó cho vay hỗ trợ lãi suất lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn 8.000 tỷ
đồng, cho vay hộ nghèo và đối tượng chính sách 28.000 tỷ đồng.
Phối hợp giải pháp trong điều hành chính sách tiền tệ với chính sách tài khoá, các NHTM
sử dụng số vốn dự trữ thanh toán để mua trái phiếu Chính phủ, ngân sách Nhà nước có
vốn để đầu tư phát triển, tăng tỷ lệ vốn hóa thị trường vốn và thanh khoản của thị trường
tiền tệ.
Nâng cao tần suất, chất lượng và hiệu quả của công tác truyền thông về điều hành chính
sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
Tình hình điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng nổi lên các vấn đề cần
được quan tâm sau:
(1) Việc điều hành chính sách tiền tệ đảm bảo hài hòa giữa ổn định kinh tế vĩ mô và tăng
trưởng kinh tế cho nên khả năng linh hoạt chưa ở mức cao;
(2) Thị trường tiền tệ và ngoại hối chưa ổn định, kỷ cương pháp luật trên thị trường chưa
nghiêm;


(3) Tỷ trọng tín dụng đối với lĩnh vực phi sản xuất (kinh doanh chứng khoản, bất động
sản, tiêu dùng) giảm chậm; tín dụng có sức ép tăng, nếu không kiểm soát chặt chẽ sẽ vượt
xa mục tiêu 25%, ảnh hưởng xấu đến lạm phát và cán cân thanh toán quốc tế;
(4) Năng lực tài chính, quản trị kinh doanh và khả năng cạnh tranh của các TCTD còn hạn
chế; tính tương trợ cộng đồng và liên kết hệ thống TCTD còn yếu, nợ xấu tăng.
Nhìn chung, thị trường tiền tệ, tín dụng trong năm 2010 tương đối ổn định và diễn biến
phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội.Tính đến 31/12, tăng trưởng tín dụng ước
đạt 29,81%, tổng dư nợ tăng 27,6%; tổng phương tiện thanh toán tăng 25,3% so với cuối

năm 2009. Sau khi thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận và các biện pháp điều hành tiền tệ
linh hoạt của NHNN, lãi suất huy động và cho vay VND của các NHTM giảm dần. Hiện
nay, các ngân hàng đã thực hiện đồng thuận lãi suất huy động VND không vượt quá
14%/năm; lãi suất cho vay bình quân 15,27%/năm.
Thị trường ngoại tệ, thị trường vàng đã dần ổn định, nguồn cung ngoại tệ được cải thiện
đáng kể, tỷ giá diễn biến phù hợp với mục tiêu khuyến khích xuất khẩu, góp phần hạn chế
nhập siêu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Giá vàng trong nước diễn biến tương đối
sát với giá vàng thế giới, chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới đã được thu hẹp.
Từ thực tiễn điều hành chính sách tiền tệ năm 2010 và các năm gần đây, NHNN rút ra một
số kinh nghiệm cho điều hành năm tới:
Một là, tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và thận trọng nhằm mục
tiêu hàng đầu là ổn định kinh tế vĩ mô; sử dụng đồng bộ, hài hòa các công cụ vận hành
theo cơ chế thị trường, kết hợp với các quy định quy phạm pháp luật để ổn định thị trường
tiền tệ, kiểm soát tín dụng và tổng phương tiện thanh toán gia tăng ở mức hợp lý;
Hai là, tạo điều kiện cho các TCTD huy động vốn trong và ngoài nước, đi đôi với chuyển
dịch cơ cấu và nâng cao chất lượng tín dụng để tập trung vốn cho lĩnh vực sản xuất, nhất
là lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa;
Ba là, thông tin ra thị trường một cách công khai, minh bạch, kịp thời và nhất quán về
điều hành chính sách tiền tệ, để củng cố lòng tin và sự đồng thuận của cộng đồng doanh
nghiệp, dân cư, các nhà đầu tư ở trong và ngoài nước;


Bốn là, tiếp tục cơ cấu lại hệ thống TCTD phù hợp với các chuẩn mực an toàn, hiệu quả
của thông lệ quốc tế, với các bước đi thích hợp; đảm bảo kỷ cương trong điều hành;
Năm là, phối hợp ngay từ đầu năm kế hoạch các giải pháp cụ thể trong điều hành chính
sách tiền tệ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
4. NHỮNG THÁNG ĐẦU NĂM 2011
"Năm 2011, NHNN sẽ điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và thận trọng
nhằm mục tiêu hàng đầu là kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần tăng
trưởng kinh tế." - Đây là một định hướng chiến lược mới, thay cho hỗ trợ tăng trưởng của

chinh sách tiền tệ năm 2010.
Lãi suất cơ bản 9%
Lãi suất tái chiết khấu 12%
Lãi suất tái cấp vốn 13%
TGBQLNH ngày 19/4/2011 là 1USD = 20.733,00VND
Ngày 8/3/2011, Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 379/QĐ-NHNN về lãi suất
tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên
ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà
nước đối với các ngân hàng.
Theo quyết định trên, Ngân hàng Nhà nước quy định các mức lãi suất tái cấp vốn, lãi suất
tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho
vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân
hàng là 12,0%/ năm
Như vậy, đây là lần thứ hai kể từ đầu năm Ngân hàng Nhà nước tăng một số loại lãi suất
điều hành. Lần trước, ngày 17/2, mức tăng lãi suất tái cấp vốn là từ 9%/năm lên 11%/năm,
lần này thì từ 11% lên 12%.


Đáng chú ý là trong lần điều chỉnh này, lãi suất tái chiết khấu được tăng mạnh, từ 7%/năm
lên 12%/năm.
9/4/2011, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Quyết định số 750/QĐNHNN điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ từ 4% lên 6% đối với các tổ
chức tín dụng. Quyết định này có hiệu lực kể từ kỳ duy trì dự trữ bắt buộc tháng 5/2011.
Tuy nhiên, thực tế sau 3 tháng đầu năm 2011, tăng trưởng tín dụng vẫn còn cao, lạm phát
chưa có dấu hiệu giảm.
Con số tăng trưởng tín dụng quý I/2011 tính đến gần cuối tháng 3 khoảng 4,3% và trong
những ngày cuối tháng 3 các ngân hàng hầu như cũng ít giải ngân nên khó có thể vượt
ngưỡng 5%. Do vậy, biện pháp tăng dự trữ bắt buộc khó có thể xảy ra, nhưng với việc
tăng các mức lãi suất chỉ đạo như vừa qua, và nếu NHNN tiếp tục tăng các loại lãi suất
này, chắc chắn sẽ tác động trực tiếp tới lãi suất huy động và cho vay trên thị trường của
các ngân hàng

III.Đánh giá và một số đề xuất
1. Đánh giá
Các công cụ chính sách tiền tệ được sử dụng linh hoạt, đa dạng hơn và có sự kết hợp
khá nhuần nhuyễn giữa các công cụ. (1) Lãi suất cơ bản, tái chiết khấu, tái cấp vốn được
giữ ổn định trong năm 2007 nhưng năm 2008 chuyển sang điều hành linh hoạt (tăng 3 lần,
giảm 6 lần), trong năm 2009 (giảm 2 lần, tăng 1 lần), giữ ổn định trong 6 tháng đầu năm
2010; trong điều hành, có kết hợp cả biện pháp trực tiếp. Quy định trần lãi suất theo Công
điện số 02 vào tháng 2/2008 để ổn định nhanh khi thị trường tiền tệ bị xáo trộn bởi cuộc
đua lãi suất. Khi thị trường tiền tệ có dấu hiệu tích cực, NHNN dỡ bỏ trần lãi suất huy
động VND và thay cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, theo đó, các tổ chức tín dụng (TCTD)
ấn định lãi suất kinh doanh bằng VND đối với khách hàng không được vượt quá 150% của
lãi suất cơ bản do NHNN công bố. Sang năm 2010, triển khai cơ chế cho vay theo lãi suất
thỏa thuận đối với các khoản vay ngắn hạn từ tháng 2/2010 và các khoản vay trung dài hạn
từ tháng 4/2010; (2) Công cụ dự trữ bắt buộc được điều chỉnh linh hoạt, tăng một lần lên
gấp đôi vào giữa năm 2007 và tăng 1 lần và giảm 4 lần trong năm 2008; năm 2009 (giảm 3
lần). Bên cạnh quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc (DTBB), trong giai đoạn này NHNN còn
linh hoạt trong việc trả lãi cho dự trữ bắt buộc (giữ không đổi đối với lãi suất trong DTBB


đối với VND là 1,2%/năm trong năm 2007, tăng lên 3,6 - 5 - 10% năm và giảm còn 9 8,5% trong năm 2008; tiếp tục giảm còn 3,6% xuống 1,2% trong năm 2009 trước khi giữ
ổn định trong năm 2010. Đối với lãi tiền gửi DTBB vượt bằng ngoại tệ giữ nguyên trong
năm 2007 - 2008 ở mức 1%/năm, giảm xuống 0,5% - 0,1% trong năm 2009 và ổn định
trong năm 2010; đối với công cụ nghiệp vụ thị trường mở, đây có thể nói là công cụ được
sử dụng chủ yếu để điều tiết tiền tệ của NHNN trong những năm qua. Trong năm 2007,
vốn khả dụng của các TCTD có tình trạng dư thừa nên NHNN đã tổ chức các phiên đấu
thầu bán là chủ yếu, nhưng từ 2008 đến nay, NHNN chủ yếu thực hiện mua giấy tờ có giá
để hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD. Cùng với việc điều hành linh hoạt khối lượng tiền
qua kênh này, lãi suất áp dụng đối với các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở cũng được
điều chỉnh khá linh hoạt phù hợp với mục tiêu điều hành từng thời điểm; (4) về hoạt động
tái cấp vốn, trong giai đoạn 2007-2009, NHNN đã thực hiện tái cấp vốn một cách linh hoạt

nhằm hỗ trợ khả năng thanh khoản cho các ngân hàng (trong năm 2007, khối lượng tái cấp
vốn của NHNN cho các NHTM ở mức thấp, nhưng từ năm 2008 đến nay, tái cấp vốn là
một kênh quan trọng khi các ngân hàng gặp khó khăn trong thanh khoản, cần hỗ trợ từ phía
NHNN); (5) lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu áp dụng khi thực hiện nghiệp vụ tái cấp
vốn, tái chiết khấu phù hợp với mức điều chỉnh lãi suất cơ bản; (6) tỷ giá, được điều hành
theo hướng linh hoạt, thông qua mở rộng biên độ tỷ giá mua bán USD của các NHTM từ
+0,25% tăng lên +0,5% (từ tháng 1/2007) và tăng lên ±0,75% (vào cuối tháng 12/2007),
lên ±3% trong năm 2008 và ±5% trong năm 2009, trở lại mức 3% trong năm 2010; can
thiệp ngoại tệ linh hoạt với liều lượng hợp lý trên thị trường ngoại hối; thực hiện hoán đổi
ngoại tệ với các TCTD để giúp các TCTD điều hoà cân đối vốn; (7) phát hành 20.300 tỷ
đồng tín phiếu bắt buộc vào tháng 3/2008 với kỳ hạn 365 ngày, lãi suất 7,8% đồng thời quy
định không cho phép các TCTD được sử dụng tín phiếu bắt buộc để tham gia giao dịch
trong các nghiệp vụ tái cấp vốn, thị trường mở. Từ tháng 10/2008, nhằm tạo điều kiện cho
các TCTD giảm lãi suất cho vay, duy trì tăng trưởng bền vững, NHNN đã cho phép các
TCTD được sử dụng tín phiếu bắt buộc để tham gia giao dịch trong các nghiệp vụ tái cấp
vốn, thị trường mở và được rút trước hạn theo yêu cầu.
Một số hạn chế
NHNN còn gặp nhiều khó khăn trong điều hành nghiệp vụ thị trường mở nhằm
kiểm soát lượng tiền cung ứng, điều này ảnh hưởng bởi:
Hoạt động nghiệp vụ thị trường mở không mang tính bắt buộc, vì vậy, số lượng thành
viên tham gia thị trường mỗi phiên cũng khiêm tốn: hai năm 2008 - 2009 khoảng


50 - 60% các TCTD được công nhận là thành viên thị trường mở; năm 2010, các thành
viên tham gia tích cực hơn, có phiên số lượng thành viên tham gia là 40; năm 2011,
các thành viên tham gia cao nhất trong một phiên đã lên tới 44 thành viên.
Chính sách tiền tệ đa mục tiêu kiểm soát lạm phát, vừa hỗ trợ tăng
trưởng kinh tế (đầu năm 2011 mục tiêu của Chính phủ là tăng trưởng kinh tế
6,5%, lạm phát 8,0%, đến nay chỉ tiêu này đã được điều chỉnh), do vậy, việc
bơm tiền qua nghiệp vụ thị trường mở vẫn phải nằm trong chỉ tiêu lượng tiền

cung ứng tăng thêm được Chính phủ phê duyệt. Do đó, phần nào làm giảm
tính chủ động trong điều hành nghiệp vụ thị trường mở của NHNN Việt
Nam.
Dự báo cung - cầu vốn khả dụng của NHNN đôi khi chưa thật chính
xác. Sai số trong dự báo thường không đồng đều nên khó khắc phục. Các dự
báo có thời gian trên 1 tháng tuy đã được thực hiện, nhưng không thường
xuyên và chỉ mang tính dự báo về xu hướng và ước đoán theo dãy số liệu
lịch sử và NHNN chưa có hệ thống theo dõi kịp thời, đầy đủ.
Khả năng hỗ trợ vốn khả dụng chưa đáp ứng được yêu của tất cả các
TCTD tham gia thị trường. Thực tế 6 tháng đầu năm 2011, đã có 49 thành
viên tham gia thị trường, song tham gia giao dịch thường xuyên chủ yếu là
các TCTD có quy mô lớn với ưu thế về điều kiện giao dịch. Các TCTD quy
mô nhỏ hoặc chưa quan tâm, hoặc điều kiện tham gia thị trường yếu nên
không thường xuyên tham gia thị trường. Do vậy, khi thiếu vốn khả dụng
tạm thời họ phải vay trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng với lãi suất cao, từ
đó gây xáo trộn trên thị trường tiền tệ.
Còn nhiều bất cập trong việc điều tiết lãi suất nghiệp vụ thị trường
mở.
Thời gian qua, NHNN Việt Nam đã điều hành linh hoạt lãi suất
nghiệp vụ thị trường mở gắn với lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu
để định hướng lãi suất thị trường, phát tín hiệu trong điều hành chính sách
tiền tệ. Thực tế cho thấy vẫn có thời điểm, NHNN lúng túng trong việc điều
tiết lãi suất trên thị trường mở trong mối quan hệ với các loại lãi suất khác.
Những năm gần đây và đặc biệt trong 6 tháng đầu năm 2011, NHNN thực
hiện đấu thầu khối lượng với lãi suất công bố, điều này cũng hạn chế phần
nào khả năng cạnh tranh của các TCTD.
2. Một số đề xuất
Một là: Về cơ sở pháp lý
Cho phép đa dạng hóa kỳ hạn giao dịch, tiến tới đưa ra giao dịch mua, bán
kỳ hạn qua đêm để thúc đẩy thị trường mở hoạt động linh hoạt và kịp thời, sau

đó bổ sung phương thức giao dịch hoán đổi ngoại tệ nhằm linh hoạt hơn trong việc
kiểm soát lượng tiền cung ứng.
Đối với quy chế quản lý vốn khả dụng, cần điều chỉnh theo hướng cho
phép linh hoạt các hình thức thu thập thông tin, nội dung thông tin phù hợp
với chế độ báo cáo thông tin, lộ trình hiện đại hóa công nghệ ngân hàng,
những thay đổi trong hoạt động ngân hàng và nền kinh tế và trách nhiệm của
đơn vị cung cấp thông tin.
Hai là: Nên xác định nghiệp vụ thị trường mở đóng vai trò chủ yếu
trong điều tiết tiền tệ của NHNN, được thực hiện trong mối quan hệ chặt chẽ
với các công cụ khác của CSTT nhằm đạt mục tiêu CSTT.
Ba là: Đa dạng hóa và tăng tính hấp dẫn của các hàng hóa giao dịch
trên thị trường mở.
Bốn là: NHNN cần hoàn thiện công tác dự báo hiệu quả hoạt động


nghiệp vụ thị trường mở.
Công tác dự báo hiệu quả phải đảm bảo nguồn số liệu chính xác, đầy
đủ bao gồm: số lượng tiền cung ứng, dự trữ, nhu cầu vốn của các TCTD, cho
vay chính phủ, cho vay các TCTD, lãi suất liên ngân hàng, tỷ lệ lạm phát,
tốc độ tăng trưởng kinh tế,... Hệ thống số liệu phải được thu thập theo ngày,
xác định cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Nguồn số liệu từ NHNN,
Tổng cục Thống kê, Bộ Tài chính và các TCTD,...
Phải xây dựng mô hình dự báo, tuy nhiên, việc quyết định mô hình
cần có sự tham vấn và có kiểm định để đảm bảo đưa ra kết quả phân tích tốt
nhất
Cần phải có đội ngũ chuyên gia đảm nhiệm công tác thống kê, phân
tích, xử lý mô hình và đưa ra kết quả báo cáo ban điều hành phục vụ cho
công tác điều hành hoạt động nghiệp vụ thị trường mở trong ngắn và dài
hạn. Đội ngũ chuyên gia phải là những cán bộ có kiến thức về kinh tế lượng,
kinh tế vĩ mô, công nghệ tin học để có thế đưa ra các kết quả đáp ứng yêu

cầu.
Năm là: Phải có đội ngũ cán bộ chuyên môn nghiệp vụ giỏi để điều
hành thị trường
Trước tiên cần phân định rõ cán bộ triển khai công việc mang tính
nghiệp vụ hàng ngày, đội ngũ chuyên gia là người trực tiếp điều hành, hoạch
định chiến lược làm công tác tham mưu lãnh đạo.
Đối với cán bộ nghiệp vụ, cần tuyển chọn cán bộ từ khâu thi tuyển,
sau đó có kế hoạch bồi dưỡng chuyên sâu, phân công vị trí công tác phải
đảm bảo số lượng và chất lượng công việc. Đối với cán bộ quản lý cần sắp
xếp, quy hoạch, bồi dưỡng theo từng vị trí công tác. Muốn vậy, NHNN phải
có quỹ hỗ trợ đào tạo với nguồn kinh phí cố định hàng năm được phê duyệt
các nguồn tài trợ khác từ bên ngoài.



×