BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Quỳnh Loan
LỊCH SỬ TIẾP NHẬN TIỂU THUYẾT
VŨ TRỌNG PHỤNG Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Thành phố Hồ Chí Minh - 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Quỳnh Loan
LỊCH SỬ TIẾP NHẬN TIỂU THUYẾT
VŨ TRỌNG PHỤNG Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN HOÀI THANH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2015LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kì công
trình nào khác.
Học viên thực hiện
Nguyễn Thị Quỳnh Loan
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này, bên cạnh sự cố gắng của bản thân, tôi đã
nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ thầy cô, gia đình, bạn bè.
Đầu tiên, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến TS. Nguyễn Hoài Thanh người thầy đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn những thầy cô đã trực tiếp giảng dạy, truyền thụ
kiến thức chuyên ngành Lý luận văn học cho tôi; các thầy cô trong khoa Ngữ văn;
các thầy cô ở Phòng sau đại học trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh;
Tổ thông tin Thư viện Đại học Sư phạm Thành Phố Hồ Chí Minh, Đại học Khoa
học xã hội và nhân văn, Thư viện Khoa học Tổng hợp đã hỗ trợ, giúp đỡ tôi trong
việc tìm kiếm thông tin.
Xin gửi lời cảm ơn đến các chị trong lớp Lý luận văn học khóa 24 – những
người bạn đã đồng hành cùng tôi trong quá trình học tập, chia sẽ cho tôi những
kinh nghiệm quý báu. Và lời sau cùng, tôi xin cảm ơn gia đình đã luôn là chỗ dựa
vững chắc cho tôi trên con đường học vấn.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 09 năm 2015
Học viên thực hiện
Nguyễn Thị Quỳnh Loan
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU …………………………………………………………………………..1
Chương 1. TIẾP NHẬN TIỂU THUYẾT VŨ TRỌNG PHỤNG TỪ
PHÊ BÌNH ĐẠO ĐỨC VÀ PHÊ BÌNH PHÂN TÂM HỌC…………………….1
1.1. Tiếp nhận tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng từ phê bình đạo đức……………...11
1.1.1. Cơ sở tiếp nhận……………………………………………………....11
1.1.2. Nội dung tiếp nhận…………………………………………………...17
1.2. Tiếp nhận tiểu thuyết Vũ Trọng phụng từ phê bình phân tâm học………..23
1.2.1. Cơ sở tiếp nhận……………………………………………………....23
1.2.2. Nội dung tiếp nhận…………………………………………………...28
1.3. Tiểu kết…………………………………………………………………....37
Chương 2. TIẾP NHẬN TIỂU THUYẾT VŨ TRỌNG PHỤNG TỪ
PHÊ BÌNH MÁC XÍT…………………………………………………………...40
2.1. Cơ sở tiếp nhận……………………………………………………………40
2.2. Nội dung tiếp nhận………………………………………………………...51
2.3. Tiểu kết……………………………………………………………………61
Chương 3. TIẾP NHẬN TIỂU THUYẾT VŨ TRỌNG PHỤNG TỪ
GÓC ĐỘ THI PHÁP THỂ LOẠI………………………………………………64
3.1. Cơ sở tiếp nhận……………………………………………………………64
3.2. Nội dung tiếp nhận………………………………………………………...69
3.3. Tiểu kết…………………………………………………………………....83
KẾT LUẬN……………………………………………………………………….86
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………….88
7
MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
Vũ Trọng Phụng là một cây bút có sức viết dồi dào. Chỉ với hai mươi bảy
tuổi đời nhưng ông đã để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ. Ông thành công ở
nhiều thể loại, đặc biệt là tiểu thuyết. Ông được tôn vinh là “nhà tiểu thuyết trác
tuyệt” (Nguyễn Đình Thi). Những đóng góp của Vũ Trọng Phụng vào quá trình
hình thành và phát triển của tiểu thuyết Việt Nam vừa mang tính khai mở, vừa
khẳng định tính hiện đại của thể loại này. Ngay từ những ngày đầu xuất hiện trên
văn đàn, Vũ Trọng Phụng đã khẳng định được tài năng của mình, tạo được sức
hút đối với công chúng độc giả nói chung cũng như giới phê bình nói riêng.
Năm 1934, Vũ Trọng Phụng cho ra mắt cuốn tiểu thuyết tâm lý đầu tiên Dứt
tình (còn có tên khác là Bởi không duyên kiếp) đăng trên tờ Hải Phòng tuần
báo. Với tiểu thuyết này, ông chứng tỏ là ngòi bút tả chân khéo léo và tác phẩm
có thể coi là "một bức tranh... phỏng theo sự thực của cuộc đời, không tô điểm
cho đẹp thêm, cũng không bôi nhọ cho xấu đi" (báo Tràng An). Sang năm 1936,
ngòi bút tiểu thuyết của ông nở rộ, đạt kỷ lục xuất sắc: chỉ trong vòng một năm,
bốn cuốn tiểu thuyết được lần lượt xuất hiện trên báo, thu hút sự tìm đọc của công
chúng. Đó là Giông tố (trên Hà Nội báo từ số 1- 01/01/1936); rồi Số đỏ (cũng
trên Hà Nội báo, từ số 40, 7/10/1936). Tiếp đó là Vỡ đê (trên báo Tương lai, từ số
ngày 27/09/1936) rồi đến Làm đĩ (đăng trên Sông Hương, phát hành tại Huế năm
1936). Tiếp đó là tiểu thuyết Quý phái (đăng dở dang trên Đông Dương tạp chí
năm 1937), Lấy nhau vì tình (1937), Trúng số độc đắc (1938) và tập di cảo Người
tù được tha. Những tiểu thuyết của ông ngay từ khi ra đời đã tạo nên những cuộc
tranh luận sôi nổi. Nói đến Vũ Trọng Phụng là nói đến một hiện tượng văn học
độc đáo, hiện tượng ấy đã thách thức các giới hạn tiếp nhận văn học trong lịch
sử. Mỗi giai đoạn người ta luôn đặt câu hỏi xoay quanh giá trị tác phẩm của ông.
8
Nghiên cứu văn học không chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu hoạt động sáng
tác mà còn nghiên cứu cả hoạt động tiếp nhận.Việc nghiên cứu người đọc,
nghiên cứu tiếp nhận văn học đã được nhiều nhà lý luận văn học hàng đầu thế
giới quan tâm, tìm hiểu. Ở Việt Nam, cũng có hàng loạt công trình về vấn đề tiếp
nhận văn học của Hoàng Trinh, Nguyễn Văn Hạnh, Mai Quốc Liên, Trần Đình
Sử, Phương Lựu, Nguyễn Văn Dân, Huỳnh Như Phương,… đã đề cập đến tầm
quan trọng của việc nghiên cứu tiếp nhận, mối quan hệ giữa sáng tác và tiếp
nhận, giữa tác phẩm và người đọc,…
Tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng từ khi ra đời đã trải qua nhiều thăng trầm,
biến động của lịch sử. Ở những giai đoạn khác nhau lại xuất hiện những cách
nhìn nhận, đánh giá khác nhau về tiểu thuyết của ông. Tiểu thuyết Vũ Trọng
Phụng có lịch sử nghiên cứu phong phú đòi hỏi phải có một cái nhìn bao quát về
lịch sử tiếp nhận, thấy được các hướng tiếp cận, những thành công và hạn chế
trong việc nhận định, đánh giá để hướng tới một sự tiếp nhận khoa học khách
quan, khám phá ra những chân giá trị còn tiềm ẩn trong thành tựu sáng tác này
của ông.Vì vậy, chúng tôi đã chọn đề tài Lịch sử tiếp nhận tiểu thuyết Vũ Trọng
Phụng ở Việt Nam để nghiên cứu.
2.
Lịch sử vấn đề
Tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng đã trở thành đề tài nghiên cứu của nhiều
nhà phê bình. Theo thời gian, chúng ta có thể chia lịch sử tiếp nhận tiểu thuyết
Vũ Trọng Phụng làm bốn giai đoạn:
2.1. Giai
đoạn 1934 – 1945
Năm 1934, cuốn tiểu thuyết Dứt tình - tiểu thuyết đầu tiên của Vũ Trọng
Phụng được công bố trên Hải Phòng tuần báo, sau đó được nhiều nhà nghiên
cứu, phê bình giới thiệu trên các báo Tràng An, Đông Tây, Đuốc Nhà Nam, Tao
Đàn. Năm 1936, Vũ Trọng Phụng cho ra đời các tiểu thuyết: Giông tố, Số đỏ,
Vỡ đê, Làm đĩ. Từ đó, đã dấy lên cuộc tranh luận “Dâm hay không dâm” của
9
tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng qua các ý kiến của Thái Phỉ, Nhất Chi Mai,... Sau
khi Vũ Trọng Phụng mất, nhiều nhà văn, nhà thơ (Nguyễn Tuân, Thanh Châu,
Ngô Tất Tố, Tam Lam, Lan Khai, Nguyễn Triệu Luật, Trương Tửu) đã viết bài
phê bình và tưởng niệm về tác giả Giông tố đăng trên tạp chí Tao đàn số đặc biệt
về Vũ Trọng Phụng, những nhận xét này chủ yếu là có tính chất tưởng niệm,
đánh giá cao về nhân cách và đạo đức của Vũ Trọng Phụng hơn là chú ý đến tác
phẩm của ông.
Bên cạnh đó, còn có một số nhận định khác về tiểu thuyết Vũ Trọng
Phụng được trình bày trong các công trình phê bình, khảo cứu: Dưới mắt tôi
(Trương Chính), Nhà văn hiện đại (Vũ Ngọc Phan), Văn học và triết luận
(Mộng Sơn). Như vậy trước 1945, tiểu thuyết vũ Trọng Phụng đã được nhiều
nhà nghiên cứu quan tâm, đánh giá, dù có những ý kiến khen ngợi về nghệ thuật
tả chân của Vũ Trọng Phụng nhưng đa phần các nhà phê bình và khảo cứu ở giai
đoạn này vẫn chưa có cái nhìn khách quan và hệ thống về tài năng của Vũ Trọng
2.2.
Phụng.
Giai đoạn 1945 – 1954
Trong Hội nghị tranh luận văn nghệ tại Việt Bắc, khi bàn về “Vấn đề hiện
thực xã hội chủ nghĩa”, nhiều nhà văn đã lấy Vũ Trọng Phụng làm dẫn chứng
như Nguyên Hồng, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi. Ở giai đoạn này, do yêu cầu lịch
sử của đất nước, nên tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng ít được quan tâm, nghiên cứu
đầy đủ.
2.3.
Giai đoạn 1954 – 1975
2.3.1. Ở miền Bắc
Sau khi hòa bình được lập lại, ba tiểu thuyết Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê được
in và phát hành rộng rãi. Tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng lại trở thành vấn đề được
nhiều người quan tâm. Ta có thể bắt gặp những nhận xét về tiểu thuyết Vũ Trọng
Phụng của Nguyên Hồng trong lời giới thiệu Giông tố, Trương Tửu trong lời
10
giới thiệu Vỡ đê, Nguyễn Tuân khi Đọc lại chuyện Giông tố, Nguyễn Đình Thi
trong Nhất lãm về văn học Việt Nam.
Trong thời kì này đã xuất hiện một số công trình chuyên khảo về Vũ
Trọng Phụng. Có thể kể đến tập san phê bình Vũ Trọng Phụng – đời sống và con
người. Trong công trình này, Thiều Quang đã đề cập nhiều vấn đề liên quan đến
con người và tác phẩm Vũ Trọng Phụng, cung cấp nhiều tư liệu đáng quý và
bước đầu có những nhận xét khá xác đáng về tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng:
“Trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Vũ Trọng Phụng, tiểu thuyết Số đỏ là một
tác phẩm tiêu biểu nhất, nó thể hiện rõ nhất tất cả cái tính chất tư tưởng của Vũ
Trọng Phụng”.
Cuốn sách Vũ Trọng Phụng – nhà văn hiện thực của Văn Tâm là một
trong những công trình đầu tiên nghiên cứu về Vũ Trọng Phụng khá công phu.
Cuốn sách gồm bảy chương, chủ yếu xoay quanh con người và văn chương Vũ
Trọng Phụng. Nhà phê bình đã phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật và bút
pháp trào phúng trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng. Đồng thời, ông đã phủ nhận
lại những nhận xét quy chụp nặng nề của Thái Phỉ, Nhất Chi Mai, Lan Khai về
“cái dâm” trong sáng tác Vũ Trọng Phụng.
Cuốn sách Vũ Trọng Phụng với chúng ta do Nhà xuất bản Minh Đức phát
hành (1956) tập hợp các bài viết của các nhà văn, nhà phê bình: Phan Khôi,
Trương Tửu, Hoàng Cầm, Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Văn Tâm. Các
bài viết chủ yếu có tính chất tưởng niệm, ca ngợi Vũ Trọng Phụng – “một nhà
văn tả chân dũng cảm”.
Trong Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam (1957), nhóm Lê Quý Đôn đã
đánh giá về đóng góp và hạn chế của tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng. Đồng thời,
cũng cho thấy thái độ không đồng tình với “cái dâm” trong tác phẩm của nhà
văn họ Vũ.
11
Khi nhóm nhân văn giai phẩm đề cao Vũ Trọng Phụng cũng là lúc xuất
hiện hàng loạt ý kiến phê bình tiêu cực cho tiểu thuyết của ông. Tiêu biểu có thể
kể đến một số cây bút như Nguyễn Đình Thi (Nhà văn với quần chúng lao động,
báo Nhân dân, số ra ngày 1/5/1958), Hoàng Văn Hoan, Nguyễn Đức Đàn (Mấy
vấn đề về văn học hiện thực phê phán), Vũ Đức Phúc (Bàn về những cuộc đấu
tranh tư tưởng trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại).
Tuy nhiên, vẫn có những công trình nghiên cứu đã có cái nhìn khách quan
hơn về tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng: Phan Đệ Cự trong giáo trình Văn học Việt
Nam 1930 – 1945 (tập 2, Nhà xuất bản Giáo dục, 1961) đã đưa Vũ Trọng Phụng
vào giáo trình đại học như một một tác gia văn học lớn với tiêu đề: “Vấn đề Vũ
Trọng phụng” và trong công trình này, ông đã góp phần khẳng định Vũ Trọng
Phụng là một nhà văn hiện thực không thể quên lãng của văn học giai đoạn 1930
– 1945. Nguyễn Công Hoan trong cuốn Đời viết văn của tôi (Nhà xuất bản Văn
học, 1971) đã minh oan cho Vũ Trọng Phụng khỏi những tội trạng mà trước đó
người ta đã gán cho ông như “làm mật thám”, “phản động”. Nguyễn Đăng Mạnh
trong một bài viết đã tập trung lý giải “sự mâu thuẫn trong thế giới quan và
trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng”, nhà phê bình đánh giá cao nghệ thuật cá
thể hóa nhân vật trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng, tuy nhiên, ông lại cho rằng
“khuynh hướng suy đồi của văn học tư sản phản động” đã đến với Vũ Trọng
Phụng. Phan Cự Đệ trong Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại đã nhiều lần lấy tiểu
thuyết Vũ Trọng Phụng làm dẫn chứng cho việc nghiên cứu những khuynh
hướng hiện thực trước cách mạng, vấn đề điển hình hóa trong các tiểu thuyết
hiện thực phê phán, đặc trưng thẩm mỹ của tiểu thuyết, xây dựng nhân vật, kết
cấu, cốt truyện trong tiểu thuyết.
2.3.2. Ở đô thị miền Nam
Các nhà nghiên cứu thừa nhận tài năng tả chân của Vũ Trọng Phụng, tuy
nhiên vẫn chưa có công trình chuyên sâu nghiên cứu về Vũ Trọng Phụng. Các
12
tạp chí Văn học, Nghiên cứu văn học nhiều lần xuất bản chuyên đề về Vũ Trọng
Phụng, trong đó họ in lại một số bài viết của các nhà văn trước Cách mạng tháng
Tám. Một số luận điểm có giá trị xuất hiện trong các công trình Việt Nam Văn
học sử giản ước tân biên của Phạm Thế Ngũ, Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết của
Nguyễn Văn Trung, Bảng lược đồ văn học Việt Nam, phê bình thế hệ 1932 –
1945 của Thanh Lãng, bài Viết về Vũ Trọng Phụng của Dương Nghiễm Mậu.
2.4. Giai
đoạn từ sau 1975 đến nay
Từ sau ngày đất nước thống nhất, vị trí của Vũ Trọng Phụng đã từng bước
được khẳng định. Năm 1983, Vũ Trọng Phụng đã được đưa vào Từ điển văn
học. Năm 1987, Tuyển tập Vũ Trọng Phụng do Nguyễn Đăng Mạnh và Trần Hữu
Tá biên soạn đã được xuất bản. Đây là công trình tập hợp những bài viết xoay
quanh cuộc đời và tác phẩm của Vũ Trọng Phụng từ khi ra đời cho đến năm
1987. Trong lời giới thiệu, Nguyễn Đăng Mạnh đã lý giải hiện tượng Vũ Trọng
Phụng bằng phương pháp văn học sử. Nguyễn Hoành Khung trong bài viết Nhìn
lại và suy nghĩ xung quanh một vụ án văn học đã thấy được hạn chế của phương
pháp nghiên cứu văn học cũ: “Đáng lẽ tìm hiểu, nghiên cứu một nhà văn, nó lại
chỉ đi tìm con người chính trị trong nhà văn đó”. Bên cạnh những bài viết trình
bày trong hai cuộc hội thảo lớn về Vũ Trọng Phụng tại Thành phố Hồ Chí Minh
(12/1987) và tại Hà Nội (10/1989), còn có những bài nghiên cứu đăng trên các
tạp chí: Văn học, Ngôn ngữ học và trong các sách tiểu luận phê bình của các nhà
nghiên cứu: Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Hoàng Khung, Phan Cự Đệ, Trần
Hữu Tá, Hoàng Ngọc Hiến, Đỗ Đức Hiểu, Văn Tâm, Hoàng Thiếu Sơn, …
Trong những thập niên cuối cùng của thế kỉ XX, nhiều công trình tuyển
tập và biên soạn lại tác phẩm của Vũ Trọng Phụng ra đời, đem đến cái nhìn hệ
thống, khách quan hơn về con người và tác phẩm của ông. Tuyển tập Vũ Trọng
Phụng của Nguyễn Đăng Mạnh là công trình đầu tiên sưu tầm, tuyển chọn, giới
thiệu về Vũ Trọng Phụng. Tiếp đó hàng loạt công trình ra đời: Vũ Trọng Phụng
13
– con người và tác phẩm (Nguyễn Hoàng Khung, Lại Nguyên Ân); Vũ Trọng
Phụng – tài năng và sự thật, Chống nạng lên đường, Vẽ nhọ bôi hề (Lại Nguyên
Ân); Vũ Trọng Phụng – hôm qua và hôm nay, Nhà Văn Vũ Trọng Phụng với
chúng ta (Trần Hữu Tá); Bản sắc hiện đại trong các sáng tác của Vũ Trọng
Phụng (Hà Minh Đức); Vũ Trọng Phụng về tác gia và tác phẩm (Tôn Thảo
Miên),… Bên cạnh đó, còn có những bài báo đi sâu nghiên cứu một vài bình
diện trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng của Đỗ Đức Hiểu, Hoàng Ngọc Hiến,
Phong Lê, Hoàng Như Mai, Trần Đăng Suyền, Vương Trí Nhàn,...
Ngoài ra, còn có những công trình tiến sĩ nghiên cứu về tiểu thuyết Vũ
Trọng Phụng của Bùi Văn Tiếng (Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Vũ
Trọng Phụng), Nguyễn Quang Trung (Tiếng cười Vũ Trọng Phụng), Trần Đăng
Thao (Đóng góp tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng đối với lịch sử văn học Việt Nam
hiện đại qua hai thể loại phóng sự và tiểu thuyết phóng sự), Đinh Trí Dũng
(Nhân vật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng), Nguyễn Thành (Tiểu thuyết Vũ Trọng
Phụng), Đinh lựu (Nghệ thuật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng),…
Ở trên, chúng tôi vừa điểm qua một số công trình mang tính tập hợp
những tư liệu với các qui mô lớn, nhỏ, khác nhau. Như vậy, có thể thấy chưa có
công trình nào nghiên cứu một cách tổng quát lịch sử tiếp nhận tiểu thuyết Vũ
Trọng Phụng theo các khuynh hướng phê bình. Tuy một số công trình không
trực diện phân tích hay đặt trọng tâm nghiên cứu về vấn đề mà luận văn này đặt
ra nhưng đó là nguồn tư liệu gợi mở, quí báu, hữu ích để chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài Lịch sử tiếp nhận tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng ở Việt Nam.
3.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.
Đối tượng nghiên cứu
Trong luận văn này, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là những ý kiến,
những bài báo, công trình liên quan đến việc tiếp nhận tiểu thuyết Vũ Trọng
Phụng.
14
3.2.
Phạm vi
Với luận văn Lịch sử tiếp nhận tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng ở Việt Nam,
chúng tôi sẽ nghiên cứu về sự tiếp nhận tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng từ năm
1934 đến nay ở Việt Nam. Mặc dù có nhiều khuynh hướng phê bình khác nhau
trong việc tiếp cận, lý giải tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng, nhưng luận văn chỉ giới
hạn phạm vi đề tài trong những khuynh hướng phê bình nổi bật mà cụ thể là
khuynh hướng phê bình đạo đức, phê bình phân tâm học, phê bình mác xít và
hướng tiếp cận thi pháp học của những các nhà phê bình.
4.
Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài Lịch sử tiếp nhận tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng ở Việt Nam,
chúng tôi vận dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
-
Phương pháp hệ thống: để triển khai đề tài, chúng tôi đặt tiểu thuyết Vũ Trọng
Phụng trong hệ thống tiểu thuyết Việt Nam và hệ thống các thể loại khác trong
sự nghiệp sáng tác của Vũ Trọng Phụng. Bên cạnh đó, chúng tôi tìm hiểu việc
tiếp nhận tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng trong hệ thống lý luận tiếp nhận tiểu
-
thuyết ở Việt Nam. Từ đó, tránh đưa ra những kết luận sai lầm.
Phương pháp lịch sử chức năng: Trong luận văn này, khi tìm hiểu sự tiếp nhận
tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng, chúng tôi vận dụng phương pháp lịch sử chức năng
để mô tả, phân tích sự tiếp nhận tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng theo tiến trình lịch
sử.
Ngoài ra luận văn còn sử dụng thao tác nghiên cứu hỗ trợ như:
-
Thao tác phân tích: Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi vận dụng thao
tác phân tích để minh họa cho những nhận xét, lập luận của mình trên cơ sở
phân tích những dẫn chứng từ các công trình đánh giá, nghiên cứu về tiểu thuyết
-
Vũ Trọng Phụng.
Thao tác so sánh: Khi nghiên cứu về lịch sử tiếp nhận tiểu thuyết Vũ Trọng
Phụng, chúng tôi có sự so sánh về sự khác nhau trong việc tiếp nhận tiểu thuyết
15
Vũ Trọng Phụng giữa các khuynh hướng hay thậm chí trong cùng một khuynh
hướng phê bình.
5. Đóng góp của luận văn
Chọn đề tài Lịch sử tiếp nhận tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng ở Việt Nam,
chúng tôi mong muốn: đem lại một cái nhìn bao quát hệ thống về vấn đề tiếp
nhận tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng ở Việt Nam từ khuynh hướng phê bình đạo
đức, phê bình phân tâm học, phê bình mác xít và hướng tiếp cận thi pháp học.
Từ đó có thể góp phần khẳng định vai trò của chủ thể tiếp nhận đối với sự phát
triển văn học. Đồng thời, luận văn có thể trở thành một trong những tài liệu
tham khảo có ích cho công việc giảng dạy tác phẩm Vũ Trọng Phụng trong nhà
trường.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn được triển
khai theo ba chương.
Chương 1: Tiếp nhận tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng từ phê bình đạo đức và phê
bình phân tâm học
Trong chương này, chúng tôi tìm hiểu về việc tiếp nhận tiểu thuyết Vũ
Trọng Phụng, mà cụ thể là vấn đề “cái dâm” trong tiểu thuyết của ông và lý giải
sự tiếp nhận ấy theo hai khuynh hướng: phê bình đạo đức và phê bình phân tâm
học.
Chương 2: Tiếp nhận tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng từ phê bình mác xít
Trong chương này, chúng tôi tập trung phân tích, đánh giá sự tiếp nhận
tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng từ quan niệm của phê bình mác xít.
Chương 3: Tiếp nhận tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng từ góc độ thi pháp thể loại
16
Trong chương này, chúng tôi tập trung trình bày những tiền đề lý luận và
lịch sử xã hội cùng với những nội dung tiếp nhận tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng từ
thi pháp thể loại và đánh giá thành tựu của hướng tiếp nhận này.
17
CHƯƠNG 1. TIẾP NHẬN TIỂU THUYẾT VŨ TRỌNG PHỤNG TỪ
PHÊ BÌNH ĐẠO ĐỨC VÀ PHÊ BÌNH PHÂN TÂM HỌC
1.1. Tiếp nhận tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng từ phê bình đạo đức
1.1.1. Cơ sở tiếp nhận
Ở Việt Nam, nói đến phê bình đạo đức là nói đến phê bình dựa trên quan
điểm đạo đức của Nho giáo. Nho giáo vốn là một học thuyết chính trị - xã hội, là
hệ tư tưởng chính thống của giai cấp phong kiến Trung hoa. Tư tưởng nho giáo
xuất hiện từ thời Tây Chu (TK X đến TK VII TCN), nhưng phải đến thời kỳ
Xuân Thu, Khổng Tử (551-479 TCN) đã sưu tập, chỉnh lý các điển tịch, tư
tưởng của các Nho gia tiền bối, hệ thống lại thành một học thuyết. Sang đến thời
Chiến quốc, Mạnh Tử (372-289TCN), một nhà nho xuất sắc đã kế thừa và phát
triển tư tưởng theo hướng duy tâm chủ nghĩa khách quan. Đến đời Hán, Đổng
Trọng Thư đã thần bí hóa, tôn giáo hóa Nho học bằng cách đưa vào các học
thuyết Khổng - Mạnh, các tư tưởng của phái Âm-Dương, Ngũ hành, các tư
tưởng mê tín khác, đồng thời thiết lập hệ thống nghi lễ mới.
Theo một số học giả Trung Quốc thì “Nho giáo đã vào Việt Nam vào thời
Triệu Đà chiếm Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải tự xưng Triệu Việt vương “lấy
Thi, Thư để uốn nắn phong tục”” [84]. Nước ta một thời gian dài bị phương Bắc
đô hộ, chính vì vậy nền văn hóa nước ta bị ảnh hưởng sâu sắc bởi văn hóa phong
kiến phương Bắc: “…dân tộc Việt Nam ngay từ khi thành lập đã chịu ảnh hưởng
của văn hóa Tàu. Cái văn hóa ấy truyền sang nước ta có nhiều cách, nhưng thứ
nhất là do văn học, tức là nhờ sự học chữ nho và sách chữ nho của người Tàu
tràn sang. Chính cái văn học của người Tàu ấy đã chi phối tư tưởng, học thuật,
luân lý, chính trị, phong tục của dân tộc ta. Trong các trào lưu tư tưởng của
người Tàu tràn sang bên ta, có ảnh hưởng sâu sắc đến dân tộc ta, nhất là Nho
giáo” [19, tr.32].
18
Nói đến phê bình đạo đức trong văn học Việt Nam phải kể đến sự ảnh
hưởng của tư tưởng Khổng Tử - người sáng lập Nho giáo. Khổng Tử cho rằng
trách nhiệm của một thánh nhân đó là “phát biểu văn thành Đạo, dùng văn
truyền bá Đạo cho dân sinh” [23, tr.25].
Trong luận ngữ, khi Nhan Uyên hỏi về việc trị nước, Khổng Tử đã đáp
rằng: “dùng lịch nhà Hạ, cưỡi xe nhà Ân, đội mũ miện nhà Chu, múa nhạc
Thiều. Bỏ ca nhạc nước Trịnh, đuổi xa những người ăn nói khéo (nịnh). Ca nhạc
nước Trịnh dâm, những người ăn nói khéo nguy hiểm” [23, tr.30]. Theo Khổng
Tử, về âm nhạc nên múa nhạc Thiều và bỏ ca nhạc Trịnh. Sở dĩ như vậy là do
“ca nhạc nước Trịnh vì hiếu lạm nên làm cho chí dâm, ca nhạc nước Tống vì say
đắm nữ sắc nên làm cho chí đắm đuối, ca nhạc nước Vệ vì quá gấp gáp, rậm rật
nên làm cho chí rồi loạn, ca nhạc nước Tề vì quá phóng túng nên làm cho chí
kiêu” [23, tr.30]. Cả bốn loại nhạc trên đều bị liệt vào hàng “dâm ư sắc”, “làm
hại đức”. Bên cạnh đó, ông ca ngợi: “Thơ quan thư vui mà không dâm, đau đớn
mà không bi thương” [23, tr.30]. Như vậy, rõ ràng Khổng Tử cho rằng văn là để
truyền đạo và cái “dâm” nó ảnh hưởng đến đạo đức của con người, đến việc trị
nước.
Nho giáo ảnh hưởng tới văn học Việt Nam với tư cách là một học thuyết,
một hệ thống quan điểm về thế giới, về xã hội, về con người,… nên cũng có một
cách quan niệm văn học riêng: “văn học có một nguồn gốc linh thiêng, một chức
năng xã hội cao cả. Nho giáo hy vọng dùng văn chương để giáo hóa, động viên,
tổ chức, hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội” [23, tr.40].
Về cái hay, cái đẹp trong văn chương, Nho giáo cho rằng: “Văn chương
phải là để giáo hóa, có quan hệ đến thế đạo nhân tâm, có tác dụng dị dưỡng tính
tình nên phải có nội dung đạo lý. Không những về nội dung không được nói cái
vô đạo, cái thiếu trang nhã mà về hình thức biểu đạt cũng phải thấm nhuần tinh
19
thần khoan thứ, nhân nghĩa (…) cái phải tránh là tà và dâm, tức là bất chính, bất
chính vừa với ý nghĩa vô đạo vừa với ý nghĩa quá mức” [23, tr.51].
Tóm lại, có thể thấy, theo quan niệm của Nho gia, văn là biểu hiện của
đạo đức, dùng để truyền đạt đạo lý thánh hiền, đem gương sáng đạo đức để giáo
hóa. Văn tất nhiên phải có tài “nhả ngọc phun châu” tức là có tài sử dụng ngôn
ngữ nhưng trước hết văn phải có cái ẩn chứa bên trong là đạo đức, cái để đưa ra
giáo hóa.
Vào nửa đầu TK XV, các vua Lê đã từng bước xây dựng một quốc gia độc
lập trên nền của hệ tư tưởng Nho giáo, trong đó rất chú trọng đến việc xây dựng
luật và vận hành xã hội theo luật. Qua một số bộ luật, các điều giáo huấn và một
số hương ước hiện còn lưu giữ được, chúng ta nhận thấy rất rõ nhiều điều luật,
điển chế mang đậm nét tư tưởng của Nho giáo như trong Quốc triều hình luật,
Thiên Nam dư hạ tập, Hồng Đức thiện chính thư, 24 điều Huấn dân đại cáo của
Lê Thánh Tông.
Từ TK XVI trở đi, hầu hết các làng xã ở đồng bằng Bắc Bộ tinh thần của
Nho giáo đã được thể hiện khá rõ qua các điều lệ được lập trong hương ước “bộ luật thành văn của làng xã” thời quân chủ. Đến TK XVII, đời vua Lê Huyền
Tông, Trịnh Tạc tiếp tục ban bố 47 điều giáo hóa theo kinh điển Nho gia phong
kiến. Trong đó, có những điều luật cấm đoán những tác phẩm truyện thơ có nội
dung ca ngợi tình yêu nam nữ vì cho rằng đó là “dâm thư”. Sau đó, Nhữ Đình
Toản phiên 47 điều giáo hóa ấy thành thơ lục bát để phổ biến.
Như vậy, có một thời kì, Nho giáo được coi là ý thức hệ chính thống ở
Việt Nam và “Ở vị trí ý thức hệ chính thống, Nho giáo chi phối văn học nghệ
thuật. Tác dụng chi phối của Nho giáo sâu sắc, nhiều mặt, qua nhiều nhân tố
khác nhau. Tất cả hình thành trong lịch sử cả vùng một loại hình văn sĩ, nghệ sĩ,
20
một loại hình văn học nghệ thuật, viết cùng những thể loại, theo cùng một quan
niệm văn học, cùng những tiêu chuẩn về cái đẹp nghệ thuật” [23, tr.20].
Quan niệm “dĩ văn tải đạo”, văn chương có chức năng giáo hóa con
người, nhưng đồng thời văn chương cũng phải hay, phải đẹp đã trở thành kim
chỉ nam cho hoạt động sáng tác và hoạt động đánh giá, phê bình văn chương
nghệ thuật thời trung đại.
Nguyễn Tư Giản đời nhà Nguyễn cũng đã từng nói: “Văn của thánh nhân
là để chở đạo, văn của văn nhân là để bàn về đạo”. Vũ Phạm Khải nói: “Văn là
cái khí cụ để chứa đựng đạo đức”. Cao Xuân Dục khẳng định: “Văn là để chở
đạo” [51, tr.200]. Nguyễn Văn Siêu trong Thư gửi Lục Luân Anh cho rằng: “Văn
với đạo tuy khác tên, như kì thực văn là do đạo mà ra” [51, tr.225].
Đồ Chiểu – một nhà nho yêu nước thế kỉ XIX cũng đã thể hiện quan niệm
văn chương ấy: “Văn chương ai chẳng muốn nghe/ Phun châu nhả ngọc báu
khoe tinh thần”. Nói đến “phun châu nhả ngọc” là nói tới vẻ đẹp của văn
chương. Nói tới “báu khoe tinh thần” là nói tới giá trị nội dung của nó. Như vậy,
văn chương phải có sự kết hợp hài hòa giữa nội dung và hình thức nghệ thuật.
Nhưng quan trọng hơn hết là văn chương phải dùng để truyền tải đạo đức: “Chở
bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/ Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”.
Và sang những năm đầu thế kỉ XX, đây là thời kỳ có tính chất giao thời:
“giao thời từ trung cổ qua hiện đại, mà cũng là giao thời giữa Đông và Tây, giữa
văn học truyền thống Đông Á và văn học hiện đại thế giới” [23, tr.71]. Quan
niệm văn học của Nho gia lúc này tuy không còn giữ vị trí độc tôn nhưng vẫn
tiếp tục là cơ sở để đánh giá, phê bình văn chương. Sự tiếp xúc và ảnh hưởng từ
văn hóa phương Tây bên cạnh quan niệm truyền thống đạo đức phương Đông đã
tạo nên sự chuyển biến của quan niệm văn chương đầu thế kỉ XX. Trong bối
cảnh mà sự đối kháng giữa văn hóa truyền thống bản địa và văn hóa du nhập
21
phương Tây ngày càng gay gắt, khi các nhà nho cảm thấy giá trị truyền thống
ngày càng bị lung lay cũng là lúc phê bình đạo đức với đối với vấn đề tính dục
và nhục thể lại trở nên nổi bật. Các nhà nho vẫn đứng trên lập trường cũ để thẩm
bình những tác phẩm văn chương. Họ vẫn đề cao giá trị đạo đức, luân lý trong
văn học. Bên cạnh đó, thể loại tiểu thuyết ở giai đoạn này cũng phát triển và
nhìn nhận tích cực hơn.
Đặng Trần Phất (1921) trong Mấy nhời nói đầu viết cho Cành hoa điểm
tuyết đánh giá một thiên tiểu thuyết có giá trị “như ngọn đèn pha chiếu thấu tối
chốn hang hầm tối tăm dọc qua tưởng tượng như trông thấy cả cái đoàn thể một
xã hội về đường phong tục luân lí vậy” [39, tr.42].
Nhà văn Trọng Khiêm trong lời tựa tiểu thuyết Kim Anh lệ sử (1924) cho
rằng tiểu thuyết có hiệu quả giáo dục đạo đức luân lí thông qua những câu
chuyện cụ thể về những con người, những số phận: “Nếu đem câu chuyện một
người có tài, có trí, vì kém học thức nên đường công danh cách xử thế đã thua
thiệt lại vất vả, mà nói cho đứa trẻ biếng học nghe; nếu đem câu chuyện của một
người con gái giang hồ gặp những sự nhơ nhuốc, điêu đứng, sự lừa lọc đảo điên,
mà kẻ cho người con gái có tính lẳng lơ nghe, thiết tưởng đứa trẻ không chịu
học, người con gái có tính nguyệt hoa nghe lại thiết tha mà ghê sợ hơn là câu đe
dọa” [39, tr.47].
Nguyễn Đình Long khẳng định: “Cái giá trị con người, cái giá trị của
công trình của con người là cái giá trị luân lí vậy. Nghĩa là cái gì vô luân lí
không thể có mỹ thuật được” [72, tr.55].
Hay tuyên ngôn của tiểu thuyết thứ bảy, 2/6/1934 quan niệm: “Một thiên
tiểu thuyết có giá trị, dầu thuộc loại mạo hiểm hay trinh thám, xã hội hay hoạt
kê, nghĩa hiệp hay ngôn tình… đều có ảnh hưởng sâu xa tốt đẹp cho tri thức, cho
học vấn, cho đạo đức, cho sự lịch duyệt của người đọc” [39, tr.103].
22
Trong khi đó, nhiều nhà trí thức lúc bấy giờ có điều kiện tiếp xúc với văn
hóa phương Tây thông qua các sách báo được lưu hành. Do đó, quan niệm thẩm
mỹ đã ít nhiều có sự thay đổi, họ đề cao cái tôi cá nhân của mỗi người, họ có cái
nhìn cởi mở hơn đối với những vấn đề về tính dục, về tình yêu đôi lứa trong
sáng tác văn học. Ý kiến của Lưu Trọng Lư đã có thấy sự chuyển biến ấy: “Nhìn
một cô gái xinh xắn, ngây thơ, các cụ coi như đã làm một điều tội lỗi, ta thì cho
là mát mẻ như đứng trước một cánh đồng xanh. Cái ái tình của các cụ thì chỉ là
sự hôn nhân, nhưng đối với ta thì trăm hình muôn trạng: cái tình say đắm, cái
tình thoảng qua, cái tình gần gần gụi, cái tình xa xôi (…) cái tình trong giây
phút, cái tình ngàn thu” [79].
Sự đối kháng giữa cái cũ và cái mới đã tạo nên những cuộc tranh luận,
hàng loạt tác phẩm cũ và mới được đưa ra mổ xẻ, phân tích. Trong đó, phải kể
đến vụ Ngô Đức Kế phê phán Phạm Quỳnh và phong trào sùng bái Kiều (1924).
Phạm Quỳnh thì đề cao Truyện Kiều: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta
còn, nước ta còn”. Còn Ngô Đức Kế, đứng trên lập trường yêu nước vạch mặt
âm mưu văn hóa thực dân của Phạm Quỳnh. Trong khi công kích Phạm Quỳnh,
Ngô Đức Kế đã lên án Truyện Kiều là dâm thư, và nhân vật Kiều là con đĩ không
hơn không kém. Một tác phẩm, mà giá trị đạo đức là con số không, bởi “ai, dâm,
sầu, oán, đạo, dục, tăng, bi” – tám chữ ấy không tránh đường nào cho khỏi...
Cuộc tranh luận giữa thơ mới và thơ cũ: hai lập trường, hai suy nghĩ trái ngược
nhau, một bên là sự ủng hộ thơ ca truyền thống với hệ thống niêm luật chặt chẽ,
hình ảnh thanh cao; một bên là mong muốn thể hiện sự cách tân trong thơ ca,
đem đến cho thơ ca một bình diện mới, một phạm trù thẩm mỹ mới, hay việc
phân tích giá trị thơ Nôm Hồ Xuân Hương, các nhà nho theo quan điểm đạo đức
dù công nhận tài năng của Bà chúa thơ Nôm, nhưng họ vẫn phê phán nội dung
thơ là “thô tục”, “lả lơi”. Như Dương Quảng Hàm nhận xét: “Suốt tập thơ của
nàng mấy bài là không có ý lả lơi, dầu tả cảnh gì, vịnh vật gì cũng vậy”.
23
1.1.2. Nội dung tiếp nhận
Đối với nhà văn Vũ Trọng Phụng, ngay từ những sáng tác đầu tay, ngòi
bút tả chân sâu sắc của ông đã được công chúng chú ý đến. Khi tiểu thuyết Dứt
tình ra đời, nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định tài năng của Vũ Trọng Phụng:
“Vũ Trọng Phụng đã vẽ nên cái ẩn tình khuất khúc của lòng người” [18, tr.364],
hay “cái tài nghệ tinh vi của ông Vũ Trọng Phụng trong cuốn Dứt tình thiệt là
một điều không thể chối cãi” [18, tr.372]. Đặc biệt, đến năm 1936 với tiểu thuyết
Giông tố, Số đỏ,... tác phẩm của ông đã trở thành một hiện tượng làm chấn động
dư luận lúc bấy giờ. Đồng thời một cuộc tranh luận sôi nổi xung quanh những
tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đã nổ ra. Tiêu điểm của cuộc tranh luận này là
vấn đề dâm hay không dâm trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng.
Có thể nói Thái Phỉ - chủ bút báo Tin văn là người châm ngòi cho cuộc
tranh luận qua bài Văn chương dâm uế. Ông cho rằng: "Họ ( bọn văn sĩ tả chân)
thấy thiên hạ ưa thích cái dâm uế thì hoặc là cố nhồi nhét cái cảnh dâm uế vào
bất cứ chuyện gì mình viết, hoặc là viện cái chủ nghĩa tả chân, dụng tâm tả cái
dâm uế một cách quá táo bạo và vì thế thành ra sống sượng khó coi, cố làm rung
động giác quan người đọc hơn là nghĩ đến nghệ thuật” [41, tr.120]. Thái Phỉ còn
nhấn mạnh chính cái sự thực mà những nhà văn sĩ tả chân đem vào tác phẩm của
mình khiến người đọc cảm thấy khó chịu, thậm chí “ghê tởm”: "Bởi họ tả một
cách lõa lồ, sống sượng nên những người biết đọc thành ra thấy ghê tởm. Họ
muốn bầy ra cái sự thực trần truồng hẳn, nhưng họ quên rằng khi nói cái sự thực
đã trần truồng thì người ta sợ mà không thích nó nữa” [41, tr.121]. Và cuối cùng
ông nhắn nhủ với những cây bút ấy: “mong các nhà kỹ nghệ viết văn dâm uế
nên hãm bớt cái đà của các ông lại thì vừa, đừng để đến lúc công chúng phải nói
lòng công phẫn" [41, tr.121].
Cần phải nhận xét khách quan rằng: trong bài Văn chương dâm uế, Thái
Phỉ không nhằm vào cá nhân Vũ Trọng Phụng mà ông chỉ muốn gióng lên hồi
24
chuông cảnh báo một khuynh hướng văn chương nguy hại tả cái dâm uế một
cách quá táo bạo, gây phản cảm trong độc giả. Thái Phỉ không hẹp hòi đối với
việc lấy dâm uế, sự xấu xa bẩn thỉu làm đối tượng miêu tả của văn chương.
Ông chỉ phản đối cách miêu tả những cái đó một cách quá đà, quá mức đến lõa
lồ, sống sượng cốt đánh vào cân não người đọc mà không chú trọng đến mục
đích cao đẹp hoàn toàn của nghệ thuật lành mạnh. “Có thể thấy, trên những nét
cơ bản, quan điểm của Thái Phỉ cũng như của Vũ Trọng Phụng về đối tượng và
mục đích viết về những cái xấu xa, dâm uế, nhơ bẩn của xã hội... là gần gũi,
đồng thuận nhau. Chỗ khác nhau trong quan niệm của mỗi ông chỉ là ở chỉ
mức độ và cách viết như thế nào thì là phải và có thể chấp nhận được, để
không rơi vào tình trạng khiêu dâm người đọc” [85].
Nhân bài trả lời của Vũ Trọng Phụng xoay quanh thiên phóng sự Lục xì ra
mắt công chúng, một độc giả khác ký tên Nhất Chi Mai đã lên án đích danh Vũ
Trọng Phụng bằng những lời lẽ phẫn uất và nặng nề qua bài viết Dâm hay không
dâm: "Tôi phải chỉ trích những cái khốn nạn, lầy lụa của những đoạn văn mà
một bọn văn sĩ nửa mùa về hùa nhau cho là kiệt tác, là đúng sự thật, là can
đảm..." [35, tr.138], rồi ông nêu lên cảm xúc của mình sau khi đọc những trang
văn ấy: “Đọc xong một đoạn văn, tôi thấy trong lòng phẫn uất, khó chịu, tức tối.
Không phải phẫn uất, khó chịu, vì cái vết thương xã hội tả trong câu văn, mà
chính là vì cảm thấy tư tưởng hắc ám, căm hờn, nhỏ nhen ẩn trong đó. Đành
rằng nhà văn có cái thiên chức nêu những cái thống khổ của nhân loại, vạch cái
xấu xa của loài người, nhưng bao giờ cũng cần phải có một ý nghĩa cao thượng,
một tư tưởng vị tha, một lòng tín ngưỡng ở sự tiến hóa, mong cho nhân loại ra
khỏi nơi u ám và một ngày một hay hơn, một sung sướng hơn lên. Đọc văn Vũ
Trọng Phụng, thực không bao giờ tôi thấy một tia hy vọng, một tư tưởng lạc
quan. Đọc xong ta phải tưởng tượng nhân gian là một nơi địa ngục và chung
quanh mình toàn những kẻ giết người, làm đĩ, ăn tục, nói càn, một thế giới khốn
nạn vô cùng. Phải chăng đó là tấm gương phản chiếu tính tình, lý tưởng của nhà
25
văn, một nhà văn nhìn thế gian qua cặp kính đen, có một bộ óc cũng đen và một
nguồn văn càng đen nữa?" [35, tr.139].
Như vậy, theo Nhất Chi Mai, văn chương của Vũ Trọng Phụng không có
giá trị bởi vì đó là thứ văn chương mang tư tưởng hắc ám của một nhà văn có bộ
óc đen, không mang lại cho con người sự tin tưởng, hi vọng.
Trên Ích Hữu số 26, ngày 25/5/1937, Hiện Chi cũng đã thể hiện quan
điểm của mình trong bài Đọc Giông tố của Vũ Trọng Phụng. Dù đưa ra những
nhận xét cụ thể, tích cực về tiểu thuyết Giông tố thì Hiện Chi cũng vẫn cho rằng:
“Thiếu nữ và trẻ em nên tránh xa cho! Cả các cụ già đạo mạo bên ngoài cũng
đừng mó tới! Đọc thiết tha, đọc chúi mũi chúi lái một mạch từ đầu đến cuối, rồi
đỏ mặt, rồi nóng bừng người thì tác giả không chịu trách nhiệm đâu” [6, tr.140],
và “Giông tố là một truyện cho người lớn đọc” [6, tr.141]. Với nhà phê bình thì
Giông tố thích hợp cho những người muốn mua vui “mà không cần trộn lẫn đạo
đức vào cuộc mua vui. Chỉ muốn mua vui – một thứ vui đáng với tên vui – thì
đọc giông tố là một điều nên” [6, tr.141].Từ những quan điểm của Hiện Chi, ta
thấy dù không lên án một cách kịch liệt như những nhà “đạo đức học” trước đó,
nhưng Hiện Chi cũng nhận ra rằng, tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, mà cụ thể
là Giông tố không phù hợp với nền đạo đức đã có từ trước đến nay ở nước ta.
Trương Chính trong công trình Dưới mắt tôi (1939), sau khi nhận xét về
Giông tố của Vũ Trọng Phụng, bên cạnh những lời khen như “Vũ Trọng Phụng
đã dùng một cách rất thích đáng ngòi bút mình để vạch mặt nạ bọn trưởng giả ô
trọc, cần tránh xa và bài trừ như một thứ vi trùng nguy hiểm” [8, tr.148], “Ông
Vũ Trọng Phụng là một tiểu thuyết gia có óc quan sát và nhiều kinh nghiệm” [8,
tr.150], “Giông tố là một cuốn phim tài liệu cần cho những nhà sử học tương lai
muốn tái thiết xã hội Việt Nam trong thế kỉ XX” [8, tr.150], “Tác giả Giông tố
có nhiều hi vọng trở thành một nhà văn tả chân xứng đáng, một nhà văn xã hội
có giá trị” [8, tr.150], … thì Trương Chính đã có sự gặp gỡ với Thái Phỉ khi cho