BAN THÔNG TIN DOANH NGHIỆP VÀ THỊ TRƯỜNG
Trung t©m th«ng tin vµ dù b¸o kinh tÕ-x· héi quèc gia
Báo cáo tổng hợp
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
TRƯỚC NGƯỠNG CỬA HỘI NHẬP
QUA CÁC CUỘC ĐIỀU TRA, KHẢO SÁT
Báo cáo tổng hợp
1
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
TRƯỚC NGƯỠNG CỬA HỘI NHẬP
QUA CÁC CUỘC ĐIỀU TRA, KHẢO SÁT
CHƯƠNG I - MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC CUỘC
ĐIỀU TRA VỀ DOANH NGHIỆP ĐÃ ĐƯỢC TIẾN HÀNH
Trong thời gian vài năm trở lại đây, nhiều cơ quan, tổ chức đã tiến hành nghiên cứu,
khảo sát về thực trạng của doanh nghiệp Việt Nam như: Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam (VCCI), Tổng cục Thống kê (GSO), Cục Phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa
(ASMED), Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM), Viện Kinh tế thế giới…
Chẳng hạn, cuối năm 1999, đầu năm 2000, Viện Kinh tế thế giới đã tiến hành cuộc điều
tra các doanh nghiệp FDI tại hai thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh. Khảo sát trên 79 doanh
nghiệp về các lĩnh vực liên quan như vốn, đầu tư, đào tạo lao động, đổi mới và chuyển giao
công nghệ… để từ đó đưa ra những khuyến nghị cho chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài, chính sách quản lý doanh nghiệp FDI và tận dụng hiệu quả sự lan tỏa do các doanh
nghiệp này mang lại.
Từ năm 2001 đến nay, GSO cũng tiến hành điều tra toàn bộ doanh nghiệp với sự trợ
giúp của Ngân hàng Thế giới (WB) nhằm phản ánh thực trạng của doanh nghiệp trong nước.
Cuộc điều tra thu thập thông tin về các yếu tố của sản xuất (lao động, vốn, tài sản…) và kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đánh giá năng lực của doanh
nghiệp thuộc các ngành và thành phần kinh tế khác nhau.
Năm 2002, trong khuôn khổ của Diễn đàn Doanh nghiệp được tổ chức hàng năm, VCCI
đã tổ chức điều tra về môi trường kinh doanh đối với 124 doanh nghiệp. Nội dung của cuộc
điều tra xoay quanh cảm nhận của doanh nghiệp về triển vọng kinh doanh và việc cải thiện
môi trường kinh doanh, từ đó đưa ra một số biện pháp để Chính phủ Việt Nam có thể cải thiện
môi trường đầu tư, tăng cường hiệu quả của các dịch vụ dành cho doanh nghiệp.
Cũng trong năm 2002, một cuộc điều tra về cổ phần hóa cũng được tiến hành bởi sự
tham gia của Ngân hàng Thế giới, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Ban Đổi mới
và Phát triển doanh nghiệp. Cuộc điều tra tiến hành nghiên cứu 309 doanh nghiệp thuộc 15
tỉnh thành đại diện cho ba vùng lãnh thổ Bắc, Trung và Nam nhằm xem xét thực trạng các
doanh nghiệp sau cổ phần hóa về tài chính, lao động - việc làm, cổ phần và cổ phiếu.
Tháng 12/2004, CIEM trong khuôn khổ dự án VIE 025 cùng phối hợp với Chương trình
Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) cũng đã tiến hành nghiên cứu “Khảo sát đổi mới công
nghệ tại các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam” hoạt động trong lĩnh vực dệt may và hóa
chất. Mục đích là khảo sát về đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công nghiệp ở Việt
2
Nam nhằm tìm hiểu hiện trạng công nghệ và tình hình đổi mới công nghệ, các nhân tố tác
động đến quá trình đổi mới công nghệ của doanh nghiệp, tạo cơ sở cho việc đưa ra các quyết
định mang tính chính sách.
Trong năm 2005, Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(ASMED) phối hợp với Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) đã tổ chức khảo sát toàn
bộ doanh nghiệp trên địa bàn 30 tỉnh, thành phố phía Bắc. Mục đích của cuộc điều tra nhằm
nắm rõ được cơ cấu của doanh nghiệp, hiện trạng trình độ và năng lực của doanh nghiệp, nhu
cầu hỗ trợ của doanh nghiệp cũng như năng lực trợ giúp kỹ thuật của các nhà cung cấp dịch
vụ.
Trong một thập kỷ gần đây, các cơ quan nghiên cứu trong ngành Khoa học xã hội và
nhân văn nói chung cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về doanh nghiệp trên nhiều khía
cạnh khác nhau nhằm đưa ra bức tranh tổng thể về doanh nghiệp, phân tích những điểm
mạnh, điểm yếu và đưa ra những kiến nghị, đề xuất nhằm giải quyết những vấn đề của khu
vực này, trong đó có các nghiên cứu sau:
- Chương trình khoa học cấp Nhà nước KX.04 do GS. Bùi Đình Thanh chủ trì năm
1995 nhằm thực hiện chỉ thị của Bộ Chính trị, BCH TƯ Đảng đã được tiến hành ở TP.HCM
về chủ doanh nghiệp tư nhân.
- Nghiên cứu “Nhìn nhận của xã hội về thị trường và kinh doanh” thuộc dự án “Góp
phần đổi mới sự nhìn nhận của xã hội với thị trường và kinh doanh” do GS. Đào Xuân Sâm
làm chủ nhiệm đề tài cùng với Khoa Quản lý kinh tế (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh) tiến hành từ năm 1998 - 2000 có khắc họa chân dung người chủ doanh nghiệp qua các
nhóm nghề nghiệp khác nhau.
Thông qua các kết quả nghiên cứu trên, thực trạng doanh nghiệp trước thềm hội nhập đã
phần nào được khắc họa trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Dưới đây, báo cáo sẽ đi sâu phân tích
những đặc điểm chủ yếu của các cuộc điều tra, nghiên cứu này.
1. Đối tượng nghiên cứu
a. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của các cuộc điều tra doanh nghiệp trong thời gian gần đây đều là
doanh nghiệp thuộc các loại hình khác nhau: Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài
quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp đang ngày càng có
vị thế cao trong nền kinh tế quốc gia, được xem là nhân tố quan trọng cho sự phát triển kinh
tế. Chính vì thế, việc khảo sát, điều tra doanh nghiệp để nắm được thực trạng phát triển cũng
như những khó khăn doanh nghiệp gặp phải là việc làm cần thiết nhằm tạo lập một môi
trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên, việc tiếp cận với khách thể nghiên cứu là doanh nghiệp phục vụ cho mục
đích thu thập thông tin về doanh nghiệp gặp phải nhiều khó khăn khách quan và chủ quan. Cơ
quan cung cấp giấy phép kinh doanh chỉ quản lý việc khai sinh ra doanh nghiệp mà chưa có
3
một chế tài nào theo dõi, giám sát quá trình hoạt động cũng như việc khai tử của doanh
nghiệp. Do đó, những cuộc điều tra, tổng điều tra, khảo sát… về doanh nghiệp sẽ giúp bổ
sung những phần khuyết số liệu về doanh nghiệp và quan trọng hơn là nắm bắt được những
vấn đề cấp bách liên quan đến quá trình phát triển của doanh nghiệp; từ đó, giúp đề xuất ra
những giải pháp hỗ trợ và khuyến khích doanh nghiệp.
b. Đối tượng nghiên cứu
Mặc dù trong thời gian gần đây tại Việt Nam đã tiến hành khá nhiều các cuộc nghiên
cứu về doanh nghiệp, mỗi cuộc điều tra lại hướng đến những đối tượng nghiên cứu không
giống nhau. Đối tượng nghiên cứu phụ thuộc vào mục đích, mục tiêu của các cuộc điều tra,
hơn nữa phụ thuộc vào cơ quan tiến hành điều tra. Tuy nhiên, nhìn chung, các đối tượng đều
xoay quanh những chủ đề mang tính thời sự liên quan đến doanh nghiệp như: năng lực cạnh
tranh, cảm nhận môi trường kinh doanh, tiếp nhận thông tin, vấn đề tài chính, năng lực quản
lý, đổi mới công nghệ, đổi mới doanh nghiệp (cổ phần hóa)…trong bối cảnh hội nhập đối với
doanh nghiệp.
Đối tượng nghiên cứu của các cuộc điều tra phần lớn xuất phát từ bối cảnh toàn cầu hóa
và hội nhập đang trở thành xu thế chung trên toàn thế giới. Yêu cầu đặt ra cho các nhà nghiên
cứu về doanh nghiệp là xem xét tất cả các lĩnh vực khác nhau có tác động tới khả năng tồn tại
và phát triển của doanh nghiệp.
Điều tra về cảm nhận môi trường kinh doanh của doanh nghiệp được VCCI tiến hành
hàng năm (bắt đầu từ năm 1997) nhằm chuẩn bị nội dung cho cuộc gặp mặt giữa Thủ tướng
chính phủ và doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp được miêu tả rõ nét
thông qua các tiêu chí như những yếu tố thuận, không thuận với doanh nghiệp, sự chuyển biến
trong các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước…và doanh nghiệp đã làm những gì nhằm
tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức. Trong đó, những yếu tố của quá trình hội nhập được
nghiên cứu chi tiết và cụ thể nhằm tìm hiểu xem doanh nghiệp cảm nhận thế nào về vận hội
của mình trước hội nhập.
Các nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đi sâu phân tích những yếu tố
nội tại theo tiêu thức 6Ms của Philip Kotler về đánh giá doanh nghiệp là vốn, nguyên vật liệu,
máy móc thiết bị/ công nghệ, nhân lực, quản lý và thị trường. Bên cạnh đó, những yếu tố khác
như môi trường kinh doanh, sự hỗ trợ của Chính phủ cũng được nghiên cứu đánh giá nhằm
xem xét vị thế của doanh nghiệp như một yếu tố đi đầu cho sự phát triển kinh tế của đất nước.
Nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp giúp cho việc phân tích khả năng phát
triển của doanh nghiệp khi ngày càng nhiều các doanh nghiệp nước ngoài với năng lực cạnh
tranh cao thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường Việt Nam.
Thông tin, đặc biệt là thông tin vĩ mô được xem là một nội dung nghiên cứu quan trọng
trong nhiều cuộc điều tra, khảo sát bởi thông tin đang trở thành một nguồn lực không thể thiếu
đối với doanh nghiệp ngày nay. Doanh nghiệp liệu có ‘đói’ thông tin, doanh nghiệp cần
những thông tin gì, doanh nghiệp tiếp nhận thông tin qua phương tiện nào có hiệu quả, họ cần
4
những kỹ năng gì trong việc thu thập và xử lý thông tin là những câu hỏi được đặt ra. Hơn thế
nữa, các nghiên cứu đều mong muốn tìm hiểu xem liệu doanh nghiệp Việt Nam đã nhận thức
được vai trò hết sức quan trọng của thông tin đối với quá trình sản xuất kinh doanh của mình
trong bối cảnh hiện nay.
Trình độ công nghệ, khả năng đổi mới công nghệ của doanh nghiệp cũng được quan
tâm nghiên cứu qua nhiều cuộc khảo sát. Nhiều tiêu chí đánh giá được đưa ra như: các hoạt
động đổi mới công nghệ, đầu tư cho đổi mới công nghệ (về tài chính và nhân lực), phương
thức tiến hành đổi mới, nhu cầu và chiến lược đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Các
nghiên cứu cũng phân tích khả năng nhận thức và đánh giá của bản thân doanh nghiệp về các
nhân tố thuận và không thuận tác động tới quá trình đổi mới công nghệ của doanh nghiệp khi
đổi mới công nghệ được xem là khâu đột phá quyết định đến khả năng phát triển sản xuất
kinh doanh và mở rộng thị trường của doanh nghiệp.
Đổi mới doanh nghiệp là một chủ trương lớn của Nhà nước, là xu hướng của nhiều
doanh nghiệp Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Do đó, nghiên cứu về quá trình cổ phần
hóa, đặc biệt là thực trạng sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp hậu cổ phần hóa là một yêu
cầu cần thiết. Những vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp cổ phần hóa là tình hình tài chính,
thực trạng lao động - việc làm - thu nhập, vấn đề cổ phần - cổ phiếu - chủ sở hữu doanh
nghiệp và trình độ công nghệ. Nghiên cứu về cổ phần hóa doanh nghiệp cũng đi sâu phân tích
hoạt động doanh nghiệp sau cổ phần xét về khía cạnh quản trị doanh nghiệp, định hướng phát
triển.
Trên đây là một số nội dung về doanh nghiệp được tập trung nghiên cứu nhiều trong vài
năm gần đây. Để phản ánh được đầy đủ, chân thực thực trạng, vị thế của doanh nghiệp thì
những kết quả trên chưa thể đáp ứng được. Trong khi đó, xét theo lý thuyết hệ thống, khi
nghiên cứu bản thân doanh nghiệp như một chỉnh thể, những vấn đề cơ bản nhất của doanh
nghiệp là vốn, lao động, công nghệ và thông tin cần phải được xem xét và đánh giá kỹ lưỡng.
Bên cạnh đó, khi nghiên cứu doanh nghiệp như một yếu tố cấu thành quan trọng của nền kinh
tế quốc gia, quốc tế, những câu hỏi về môi trường kinh doanh, chính sách vĩ mô, những yêu
cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu không thể thiếu. Đây cũng chính là
những mảnh đất cần khai phá trong thời gian tới, là yêu cầu đặt ra đối với các nhà nghiên cứu
doanh nghiệp nhằm một mặt, phân tích khả năng thực tế của doanh nghiệp Việt Nam trong
quá trình hội nhập và mặt khác đề xuất những giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình
phát triển.
2. Địa bàn điều tra
Các thành phố trung tâm với số lượng doanh nghiệp lớn thường được chọn làm địa bàn
điều tra: thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng... Ngoại trừ một số cuộc điều
tra tổng thể của GSO và ASMED, đa phần các doanh nghiệp ở vùng nông thôn, vùng cao ít
được tham gia. Do vậy, bức tranh miêu tả doanh nghiệp qua các nghiên cứu đã có thường chỉ
tập trung vào một số nhóm ngành tại một số địa bàn đô thị. Việc tiếp cận với các doanh
5
nghiệp ở nông thôn, vùng sâu và vùng cao khó khăn hơn nên việc nắm bắt tình hình thực tế
của những doanh nghiệp này cũng hạn chế hơn.
3. Cỡ mẫu
Đa phần các cuộc khảo sát doanh nghiệp là điều tra chọn mẫu với số lượng doanh
nghiệp dao động từ 100 đến dưới 1000 (riêng VCCI chọn 6.000 doanh nghiệp để phỏng vấn
cho nghiên cứu năng lực cạnh tranh). Mẫu thường được chọn theo phương pháp phân tầng và
phân tổ. Hai cơ quan là Tổng cục Thống kê và Trung tâm Hỗ trợ kỹ thuật Doanh nghiệp (Bộ
Kế hoạch và Đầu tư) có tiến hành điều tra tổng thể doanh nghiệp trên một số địa bàn. Do Việt
Nam chưa có cơ quan chuyên trách theo dõi việc đăng ký và khai tử của doanh nghiệp nên
danh sách các doanh nghiệp được chọn vào nghiên cứu, điều tra thường dựa trên hồ sơ của Sở
Kế hoạch các tỉnh, thành phố. Vì vậy, các mẫu được chọn và kết quả thu thập được do sai số
của quá trình tiếp cận và thu thập thông tin nên thường không đảm bảo tính đại diện cao.
4. Phương pháp
Phương pháp nghiên cứu phổ biến nhất thường được sử dụng là điều tra trên thực địa
kết hợp với nghiên cứu tại chỗ qua phân tích tài liệu và số liệu sẵn có. Phân tích tài liệu được
tiến hành để tìm ra những nghiên cứu đã có, những báo cáo về chủ đề nhằm có được cái nhìn
tổng quan về đối tượng nghiên cứu. Khảo sát trên thực địa thường được tiến hành sau, trực
tiếp hướng tới đối tượng nghiên cứu với những tiêu chí cụ thể. Tại Việt Nam, nhiều nghiên
cứu sử dụng kỹ thuật phỏng vấn trực tiếp, một số khác thì sử dụng phiếu hỏi và thu thập thông
tin qua điện thoại, thư. Tuy nhiên, kỹ thuật phỏng vấn trực tiếp tỏ ra có hiệu quả hơn cả bởi
thông tin được thu thập đầy đủ, kịp thời với độ tin cậy cao hơn so với những kỹ thuật khác.
5. Ưu điểm và hạn chế
Ưu điểm:
Các cuộc điều tra đều xác định được đối tượng nghiên cứu cụ thể, kết quả của các
nghiên cứu phần lớn đạt được mục đích đề ra ban đầu. Nhiều cuộc khảo sát được lặp lại hàng
năm với cùng một đối tượng nghiên cứu giúp cho việc thu thập số liệu, phân tích và dự báo
diễn biến trong doanh nghiệp được sâu sát, khoa học. Với cách tiến hành như vậy, các nhà
nghiên cứu có nhiều cơ sở khoa học hơn để nắm được thực trạng doanh nghiệp và góp phần
kiến nghị các giải pháp hữu ích cho cộng đồng doanh nghiệp về từng lĩnh vực.
Những khảo sát đã tiến hành đều trên cơ sở kết hợp các phương pháp nghiên cứu khác
nhau: phân tích tài liệu, điều tra khảo sát, phương pháp chuyên gia…Việc sử dụng các
phương pháp nghiên cứu một cách hợp lý mang lại hiệu quả cao hơn nhiều so với một phương
pháp đơn lẻ bởi lẽ mỗi phương pháp có những ưu điểm và hạn chế riêng, ưu điểm của phương
pháp này sẽ bổ khuyết cho hạn chế của phương pháp khác khi kết hợp với nhau. Có thể coi
đây là xu hướng chung thường được sử dụng trong các nghiên cứu về doanh nghiệp gần đây.
Số lượng doanh nghiệp thực tế tham gia vào các nghiên cứu đạt tỷ lệ tương đối cao so
với danh sách đề ra. Có hai lý do khiến tỷ lệ tham gia tương đối cao như vậy. Một là, cơ quan
6
tổ chức điều tra thực hiện nhiều phương án khác nhau nhằm khuyến khích sự tham gia của
doanh nghiệp: gửi câu hỏi trước, gọi điện thường xuyên yêu cầu hợp tác, kết hợp phỏng vấn
trực tiếp và yêu cầu doanh nghiệp bổ sung thêm câu trả lời bằng văn bản sau đó… Lý do thứ
hai có thể là do doanh nghiệp phần nào nhận thức được tính cần thiết của các nghiên cứu, điều
tra về doanh nghiệp; sự tham gia của họ vừa giúp ích cho các tổ chức nghiên cứu, cho chính
phủ, vừa giúp ích cho bản thân họ khi những đề đạt của họ được báo cáo lên cấp có thẩm
quyền.
Hạn chế:
Hạn chế đầu tiên của các cuộc điều tra đã tiến hành về doanh nghiệp là vì lý do khách
quan. Danh sách doanh nghiệp chuẩn bị cho quá trình chọn mẫu không đầy đủ và cập nhật (lý
do đã nêu ở trên). Điều này gây ra nhiều trở ngại cho quá trình chọn mẫu, tiếp cận đối tượng,
làm tăng chi phí và quan trọng hơn các nhà nghiên cứu về doanh nghiệp khó khăn trong việc
nắm bắt tình hình thực trạng của tổng thể cộng đồng doanh nghiệp - cơ sở cho các nghiên cứu
chọn mẫu, quy mô nhỏ về doanh nghiệp.
Báo cáo của các cuộc khảo sát về doanh nghiệp thường ít đề cập đến khía cạnh lý
thuyết. Do đó, người đọc không được cung cấp đầy đủ thông tin về cơ sở lý luận cho những
giả thuyết đặt ra trước khi tiến hành nghiên cứu. Hạn chế này khiến cho công tác xây dựng lý
thuyết và kiểm nghiệm lý thuyết về doanh nghiệp không được tiến hành thường xuyên, đây là
một đặc điểm cần lưu ý và bổ sung khi tiến hành nghiên cứu về doanh nghiệp trong thời gian
tới. Chỉ có như vậy, việc phát triển công tác khoa học theo cả khía cạnh lý thuyết và thực tiễn
mới được đảm bảo.
Do giới hạn về địa bàn, kỹ thuật chọn mẫu, kết quả của các cuộc điều tra thường không
đảm bảo tính đại diện. Những phân tích sau điều tra thường chỉ phản ánh được thực trạng của
các doanh nghiệp được chọn vào mẫu nghiên cứu. Xét về ý nghĩa khoa học, đây là một sự
lãng phí bởi nếu mẫu được chọn chuẩn, đảm bảo tính đại diện theo một độ tin cậy cho phép
thì các kết quả có được hoàn toàn có thể phản ánh được thực trạng của các doanh nghiệp
trong phạm vi rộng hơn.
Sai số còn cao trong nhiều giai đoạn của quá trình nghiên cứu, đặc biệt trong khâu thu
thập thông tin. Nếu sử dụng kỹ thuật phỏng vấn trực tiếp có thể hạn chế được sai số này
nhưng điều này cũng phụ thuộc rất lớn vào khả năng của điều tra viên. Nếu phía doanh nghiệp
hợp tác thì với một số câu hỏi có phần ‘nhạy cảm’ như về tài chính, lao động, trình độ…
doanh nghiệp cũng thường đưa ra câu trả lời không hoàn toàn chính xác với thực tế.
Cuối cùng, các báo cáo phân tích kết quả vẫn ít sử dụng các kỹ thuật thống kê (đặc biệt
là phân tích mối liên hệ giữa các yếu tố): tương quan, hồi quy… Do vậy, số liệu thu thập được
từ các cuộc khảo sát chưa được khai thác tối đa, các nhận định đưa ra chưa thực sự được kiểm
chứng nhiều chiều.
Tóm lại, bằng các phương pháp, kỹ thuật nghiên cứu khác nhau, các cuộc điều tra về
doanh nghiệp được tiến hành thời gian qua đã phần nào phản ánh được tình trạng doanh
7
nghiệp trên một số lĩnh vực cơ bản nhất và thời sự nhất như đổi mới doanh nghiệp, năng lực
cạnh tranh, đổi mới công nghệ… Đó là những vấn đề mang tính sống còn đối với cộng đồng
doanh nghiệp khi Việt Nam đang dần hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Hạn chế và những nội dung chưa làm được của các cuộc điều tra trước đây cũng mở ra những
vấn đề nghiên cứu mới dành cho các cơ quan nghiên cứu về doanh nghiệp. Nền kinh tế thế
giới đang vận động mạnh mẽ, bản thân các doanh nghiệp cũng đang làm mới mình không
ngừng trước sức cạnh tranh ngày càng lớn, các cuộc điều tra, khảo sát về doanh nghiệp trên
nhiều khía cạnh sẽ tiếp tục là công cụ đắc lực trong hoạt động nghiên cứu về doanh nghiệp tại
Việt Nam. Chắc chắn rằng, những cuộc điều tra được tiến hành sau này sẽ hoàn thiện hơn,
khoa học hơn, mang lại những kết quả phân tích sâu sát với thực tiễn của doanh nghiệp hơn.
CHƯƠNG II - THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH SẢN XUẤT,
KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
Trong những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm tới vấn đề phát triển
doanh nghiệp. Tuy nhiên, vấn đề này vẫn mang nặng tính hình thức, chạy theo số lượng, phát
triển bề rộng, chưa quan tâm đến chất lượng và bề sâu cũng như hoạt động có hiệu quả của
doanh nghiệp. Có không ít nơi sử dụng biện pháp hành chính để đưa hàng loạt các hộ kinh
doanh cá thể trong các ngành nghề như đánh cá, buôn bán vàng, kinh doanh nhà nghỉ... lên
doanh nghiệp tư nhân, vì vậy mà hàng loạt doanh nghiệp rất nhỏ (thực chất chỉ là hộ gia đình)
ra đời ở các địa phương, không ít tỉnh có tới ngàn doanh nghiệp nhưng có tới trên 60% chỉ là
doanh nghiệp nhỏ dưới 10 lao động như: Cà Mau 83%, Sóc Trăng 70%, Bến Tre 73%, Đồng
Tháp 70%, Lâm Đồng 60%, Vĩnh Long 65%, Tiền Giang 63%, ngay cả thành phố Hồ Chí
Minh doanh nghiệp dưới 10 lao động chiếm tới 53%, Hà Nội 46,4% (theo Tổng cục Thống
kê). Kết quả là số lượng doanh nghiệp thành lập thì lớn và tăng nhanh, nhưng thực tế hoạt
động chỉ chiếm 67%, doanh nghiệp hoạt động cũng thiếu tính ổn định bền vững và hiệu quả
thấp. Trong khi lẽ ra cần phải tạo ra một môi trường tốt nhằm kích thích các nhà đầu tư có
hứng thú kinh doanh hoặc đưa ra những chính sách khuyến khích để tăng số lượng doanh
nghiệp một cách đúng đắn và có hiệu quá.
Sau đây là thực trạng tình hình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp được phản ánh
thông qua một số cuộc điều tra:
1. Một số chỉ tiêu tổng hợp phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp
Các chỉ tiêu tổng hợp đánh giá hoạt động của doanh nghiệp cần phải kể đến gồm các chỉ
tiêu như doanh thu, sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, lao động, nộp ngân sách, lợi nhuận…
Chỉ tiêu tổng hợp đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
Doanh thu
Tỷ lệ doanh nghiệp (DN) tăng doanh thu
Trong đó tăng đáng kể (trên 15%)
8
1998
63
39
1999 2000 2001 2002 2003
64
86
81
78
68
37
61
46
53
43
Tỷ lệ doanh nghiệp (DN) giảm doanh
thu
Trong đó giảm đáng kể (trên 15%)
Sản xuất
Tỷ lệ DN có tăng trưởng
Trong đó tăng đáng kể
Tỷ lệ DN giảm sản xuất
Trong đó giảm đáng kể
Dịch vụ
Tỷ lệ DN có tăng trưởng
Trong đó tăng đáng kể
Tỷ lệ DN giảm giá trị dịch vụ
Trong đó giảm đáng kể
Xuất khẩu
Tỷ lệ DN tăng xuất khẩu
Trong đó tăng đáng kể
Tỷ lệ DN giảm xuất khẩu
Trong đó giảm đáng kể
Nhập khẩu
Tỷ lệ DN tăng nhập khẩu
Trong đó tăng đáng kể
Tỷ lệ DN giảm nhập khẩu
Trong đó giảm đáng kể
Tồn kho
Tỷ lệ DN tăng tồn kho
Trong đó tăng đáng kể
Tỷ lệ DN giảm tồn kho
Trong đó giảm đáng kể
Số lao động
Tỷ lệ DN tăng nhân công
Trong đó tăng đáng kể
Tỷ lệ DN giảm nhân công
Trong đó giảm đáng kể
Thu nhập b/q Tỷ lệ DN tăng thu nhập bình quân
Trong đó tăng đáng kể
Tỷ lệ DN giảm thu nhập
Trong đó giảm đáng kể
Nộp
ngân Tỷ lệ DN tăng nộp ngân sách
sách
Trong đó tăng đáng kể
Tỷ lệ DN giảm nộp NS
Trong đó giảm đáng kể
Lợi nhuận
Tỷ lệ DN tăng lợi nhuận
Trong đó tăng đáng kể
Tỷ lệ DN giảm lợi nhuận
Trong đó giảm đáng kể
Thuế TNDN
Tỷ lệ DN tăng nộp thuế
Trong đó tăng đáng kể
Tỷ lệ DN giảm nộp thuế
Trong đó giảm đáng kể
Tổng vốn ĐT Tỷ lệ DN tăng vốn đầu tư XDCB
XDCB
Trong đó tăng đáng kể
Tỷ lệ DN giảm vốn đầu tư XDCB
Trong đó giảm đáng kể
24
31
13
16
16
20
12
48
32
36
15
17
72
46
22
11
5
85
51
9
3
7
81
46
14
6
7
82
55
8
2
31
19
20
10
65
35
27
14
72
48
18
9
65
40
28
15
67
37
24
13
20
10
30
12
47
36
16
41
17
47
45
27
38
18
68
46
20
37
17
59
50
22
28
13
64
17
17
11
13
12
5
47
24
29
13
57
37
22
4
54
39
14
8
68
44
12
11
61
26
18
10
44
33
32
11
52
34
27
14
57
47
28
25
14
57
25
30
16
55
62
30
18
11
67
67
28
24
12
69
74
35
16
8
68
29
14
20
12
Nguồn: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI)
9
23
19
13
50
26
29
6
45
28
39
18
37
22
30
12
Qua số liệu trên có thể thấy tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong
năm 2003 có dấu hiệu ổn định hơn so với năm 2002 và các năm trước. Chỉ tiêu doanh thu đã
phản ánh điều này, số lượng doanh nghiệp tăng doanh thu tuy giảm đi nhưng số lượng doanh
nghiệp giảm doanh thu cũng giảm do đó có thể nhận định rằng số lượng doanh nghiệp ổn định
với doanh thu không đổi tăng lên.
Ngoài ra, số liệu trên còn phản ánh sự chuyển dịch theo hướng đa dạng hoá từ sản xuất
sang dịch vụ và xuất khẩu. Nhập khẩu vẫn ở mức cao cho thấy nhu cầu nhập khẩu để tăng
xuất khẩu là điều cần thiết. Nhưng cần chú ý tránh hiện tượng nhập khẩu tăng cao hơn xuất
khẩu sẽ là gánh nặng cho nền kinh tế.
Bảng số liệu trên cũng cho thấy các doanh nghiệp đang có xu hướng đặt mục tiêu hiệu
quả lên hàng đầu thông qua việc sắp xếp về lao động theo hướng giảm số lượng tăng hiệu
quả, làm cho thu nhập bình quân, nộp ngân sách và lợi nhuận đều đạt ở mức cao.
Có thể thấy hàng hoá của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu
người tiêu dùng thông qua chỉ tiêu về lượng hàng tồn kho của các doanh nghiệp biến động
theo hướng tăng lên so với năm trước. Đây quả là vấn đề đáng lo ngại cần phải chú ý bởi nó
ảnh hưởng đến các chỉ tiêu kinh tế của doanh nghiệp.
Vấn đề bất bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp hoạt động
theo Luật Khuyến khích Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được nhà nước nhìn nhận và điều
chỉnh phần nào thông qua chỉ tiêu thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) giảm.
2. Vấn đề đầu tư của doanh nghiệp
Trong năm 2003 tỷ lệ doanh nghiệp tiếp tục tăng đầu tư hoặc giữ mức đầu tư tương đương năm trước chiếm 70% cho thấy xu hướng tiếp tục phát triển doanh nghiệp vẫn chiếm ưu
thế, tạo động lực phát triển nền kinh tế trong tương lai.
Một số chỉ tiêu về đầu tư của doanh nghiệp
Đơn vị: %
2003 2002 2001 2000 1999 1998
66
83
73
83
78
42
58
55
61
55
24
25
18
22
23
Các DN đầu tư dự án
Đầu tư dự án mới
Tiếp tục dự án cũ
Các DN đầu tư dự án
Thêm tài sản cố định
Thêm thiết bị mới
Đầu tư thiết bị đã sử dụng
Cải tiến thiết bị hiện có
76
69
19
12
79
74
20
23
75
77
21
18
89
67
16
17
82
64
15
20
Vốn vay ngân hàng
Vốn vay nước ngoài
Vay từ các nguồn khác
57
4
28
57
4
36
57
2
40
74
8
63
74
5
45
63
6
34
Vay tín chấp ngân hàng
17
38
18
41
29
24
60
Vốn đầu tư
Hình thức vay
10
Vay thế chấp ngân hàng
25
34
Vay khó trả
Nợ khó đòi
11
39
9
45
Tồn đọng trong thanh
toán
10
40
8
46
10
49
5
44
Nguồn: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI)
Qua số liệu trên có thể thấy, Nhà nước vẫn chú trọng tới các chính sách khuyến khích
đầu tư. Tuy nhiên, việc tiếp cận các ưu đãi của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước vẫn gặp
khó khăn đặc biệt là việc xác định, xây dựng và triển khai các dự án. Đó cũng là lý do khiến
các doanh nghiệp đầu tư vào dự án mới giảm đáng kể trong khi số doanh nghiệp tiếp tục thực
hiện các dự án từ những năm trước vẫn ở mức tương đương.
Trong số các doanh nghiệp đầu tư của năm 2003 thì các doanh nghiệp đầu tư thêm tài
sản cố định và thêm thiết bị mới đang giảm đi so với năm 2001 và 2002. Có khoảng 19% số
doanh nghiệp đầu tư của nưm 2003 lựa chọn đầu tư thiết bị đã qua sử dụng. Như vậy, đầu tư
thiết bị mới thì giảm đi một cách đáng kể trong khi đầu tư vào các thiết bị đã qua sử dụng gần
như không giảm. Điều này phản ánh doanh nghiệp chưa thực sự coi trọng vấn để đổi mới
trang thiết bị và công nghệ hoặc cũng có thể hiểu các doanh nghiệp này không đủ vốn để đầu
tư đổi mới trang thiết bị và công nghệ. Ngoài ra, trong năm 2003 có 12% số doanh nghiệp lựa
chọn hình thức nghiên cứu đầu tư chiều sâu và thực hiện cải tiến thiết bị hiện có.
Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp trong năm 2003 chủ yếu vẫn là vay vốn ngân
hàng (57%) ngang bằng so với năm 2001 và 2002. Mặc dù, Chính phủ vẫn chủ trương khuyến
khích đầu tư và giảm lãi suất ngân hàng, cải tiến từng bước thủ tục vay vốn. Nguyên nhân chủ
yếu vẫn là khó khăn trong định hướng đầu tư, xác định dự án có hiệu quả. Từ đó, dẫn đến tình
trạng Ngân hàng thừa vốn nhưng lại khó cho vay. Việc huy động vốn từ phía nước ngoài vẫn
giữ nguyên ở mức 4% so với năm 2002 nhưng huy động vốn từ các nguồn khác lại giảm đáng
kể so với các năm trước chỉ còn 28%. Doanh nghiệp tư nhân muốn vay vốn từ phía ngân hàng
buộc phải vay theo hình thức thế chấp, phía ngân hàng vẫn chặt chẽ trong xem xét dự án đầu
tư và trong các điều kiện thanh toán nợ, làm cho các doanh nghiệp tư nhân khó tiếp cận vay
vốn từ phía ngân hàng và buộc phải tìm cách huy động vốn từ các nguồn vốn vay khác. Ngoài
ra, với chính sách tạo bình đẳng trong các thành phần kinh tế, giảm ưu đãi tràn lan đối với các
doanh nghiệp nhà nước, tỷ lệ doanh nghiệp nhà nước tiếp cận ngân hàng và vay vốn đã giảm
đáng kể. Từ đó dẫn tới số lượng vốn vay giảm làm cho việc đầu tư của các doanh nghiệp thực
sự khó khăn và việc ảnh hưởng đến các chỉ tiêu phát triển kinh tế là khó tránh.
Việc tồn đọng trong thanh toán tài chính của một số doanh nghiệp vẫn chưa được cải
thiện một cách đáng kể. Các khoản vay khó trả tăng lên cao nhất kể từ năm 1998 đến 2003 là
11%, nợ khó đòi của năm 2003 tuy có giảm nhưng vẫn còn cao 39%. Trong thực tế thì hai
khoản này gần tương đương nhau. Ngoài ra, phía doanh nghiệp quốc doanh còn có thêm các
khoản nợ kế thừa từ những năm trước mà Nhà nước cần có biện pháp giải quyết như: thu hồi
công nợ, chuyển nợ, xóa nợ, cơ cấu lại nguồn vốn của doanh nghiệp v.v…, góp phần cải thiện
11
tình hình tài chính của doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện cho quá trình cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước.
3. Những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp nhưng những yếu tố ảnh
hưởng trực tiếp tới hoạt động của doanh nghiệp gồm: thông tin, vốn, năng lực quản lý, xúc
tiến đầu tư, cơ chế - chính sách và trình độ công nghệ.
+ Vấn đề thông tin đối với doanh nghiệp:
Một số kết quả điều tra cho thấy doanh nghiệp đang rất có nhu cầu về thông tin nhưng
chưa được cung cấp một cách đầy đủ. Với một số kết quả từ vài cuộc điều tra thu thập được
thì các doanh nghiệp thiếu thông tin trong một số lĩnh vực sau:
a. Thông tin về thị trường: gồm thông tin về thị trường sản phẩm và thông tin về đánh
giá chất lượng sản phẩm.
Thông tin về thị trường sản phẩm là vấn đề cốt yếu mà doanh nghiệp cần phải quan tâm
nhiều nhất, bởi nó trực tiếp ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên,
các cuộc điều tra của Phòng thương mại và Công nghiệp việt Nam năm 2003 đã đưa ra kết
luận rằng “doanh nghiệp Việt Nam thiếu nhiều thông tin về thị trường hiện có và cả thị
trường tiềm năng đối với sản phẩm của mình”, một kết luận tương tự trong cuộc điều tra của
Viện Kinh tế thế giới năm 2001 là “phần lớn các doanh nghiệp còn hiểu biết thị trường quá ít
và chưa đánh giá đầy đủ vai trò và thị phần của mình trên thị trường”. Do đó, cần phải có
các biện pháp tuyên truyền, hướng dẫn, triển khai cụ thể từ phía Chính phủ, mà đặc biệt là hệ
thống cung cấp thông tin cần tích cực hơn nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong việc nắm bắt
thông tin một cách đầy đủ và kịp thời giúp cho doanh nghiệp đưa ra đưa ra được những chiến
lược tối ưu.
Đối với vấn đề thông tin đánh giá chất lượng sản phẩm, kết quả điều tra của Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam năm 2003 cho rằng doanh nghiệp Việt Nam vẫn tự
đánh giá cao chất lượng hàng hóa và dịch vụ của mình. Điều đó cho thấy khả năng cạnh tranh
của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ là rất thấp khi tham gia hội nhập, nhất là khi Việt Nam đã
gia nhập WTO. Vậy vấn đề các doanh nghiệp đánh giá cao chất lượng hàng hóa và dịch vụ
của mình là do đâu? Ở đây có khá nhiều yếu tố nhưng yếu tố thiếu thông tin nói chung và
thông tin về chất lượng sản phẩm nói riêng là yếu tố không thể phủ nhận. Những thông tin về
chất lượng sản phẩm dịch vụ tương tự trên thị trường thế giới, những thông tin đánh giá chất
lượng sản phẩm… đã không đến được với các doanh nghiệp hoặc nếu có thì đó là những
thông tin không đầy đủ, chi tiết.
b. Thông tin về cơ chế chính sách, khung khổ pháp lý
Một trong các loại thông tin mà doanh nghiệp tỏ ra hết sức quan tâm đó là thông tin về
chính sách, khung khổ pháp lý như: thông tin về cơ chế chính sách, thông tin về thủ tục hành
chính và thông tin về đất đai cũng như Luật Đất đai.
12
Vấn đề thông tin về cơ chế chính sách là vấn đề mà hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam
rất quan tâm. Theo số liệu của Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (ASMED) Bộ Kế
hoạch và Đầu tư điều tra doanh nghiệp trên địa bàn 30 tỉnh, thành phố phía Bắc thì các doanh
nghiệp Việt Nam quan tâm đến các thông tin về cơ chế, chính sách liên quan đến doanh
nghiệp. Do đó, cần phải đẩy mạnh việc nâng cao nhận thức cũng như cung cấp tốt loại thông
tin về cơ chế, chính sách liên quan đến doanh nghiệp (những thông tin lẽ ra phải được cung
cấp đầy đủ và kịp thời cho các doanh nghiệp) cho các chủ doanh nghiệp Việt Nam.
Nhìn chung, thủ tục hành chính của Việt Nam còn nhiều bất cập, đặc biệt đối với doanh
nghiệp là thủ tục hải quan. Trong cuộc khảo sát của Viện Kinh tế thế giới (thuộc Ủy ban Khoa
học xã hội và nhân văn) năm 2001 về “Hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh” có nêu “thủ tục hải quan của Việt Nam gây nhiều khó khăn cho
hoạt động của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài tại Việt Nam. Chính vì vậy, các doanh
nghiệp (chủ yếu là doanh nghiệp liên doanh) phàn nàn về sự phiền hà trong thủ tục hành
chính giấy tờ tại Việt Nam”. Chính những sự phiền hà này đã làm tăng thêm chi phí hoạt động
của doanh nghiệp, gây mất thời gian, đôi khi cản trở tiến độ sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Đối với một doanh nghiệp mà nói, khi bắt đầu thành lập thì vấn đề quan tâm hàng đầu
của doanh nghiệp đó là địa điểm kinh doanh. Do đó, thông tin về đất đai và Luật Đất đai là
vấn đề mà doanh nghiệp cần tới đầu tiên nếu muốn kinh doanh. Nhưng để tiếp cận loại hình
thông tin này cũng không thật sự dễ dàng.
Trong kết quả cuộc điều tra của Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (ASMED) có
nêu khó khăn chủ yếu đối với doanh nghiệp là mặt bằng sản xuất. Vấn đề này sẽ được giải
quyết tốt hơn nếu các doanh nghiệp có nhiều cơ hội khi tiếp xúc với các kênh thông tin về vấn
đề trên. Thông qua các kênh thông tin, các doanh nghiệp sẽ có thêm nhiều cơ hội cũng như có
thêm nhiều sự lựa chọn cho vấn đề mặt bằng sản xuất.
Còn trong cuộc điều tra của Viện Kinh tế thế giới năm 2001 thì nêu ra rằng “trong các
doanh nghiệp liên doanh thì phía Việt Nam thường góp vốn bằng quyền sử dụng đất và giá
đất trong liên doanh được định giá rất khác nhau. Mức chênh lệch về giá đất là rất lớn”. Kết
quả này cho thấy việc định giá đất khác nhau với mức chênh lệch về giá đất lớn như vậy chủ
yếu là do thiếu thông tin về giá cả đất đai đã gây ra thiệt hại cho cả phía Việt Nam và nhà
đầu tư nước ngoài. Bởi nếu giá đất được định giá quá thấp thì người chịu thiệt dĩ nhiên là phía
Việt Nam xong trường hợp này là không nhiều. Còn nếu định giá quá cao thì nhà đầu tư nước
ngoài phải chịu thiệt thòi. Nhưng vấn đề chính là ở chỗ khi cả hai bên không thể thống nhất
trong định giá đất thì rất dễ dẫn tới những tranh chấp không đáng có gây thiệt hại cho cả đôi
bên.
c. Thông tin về quy định của hội nhập
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã có cuộc điều tra khá chi tiết về vấn đề
này trong năm 2003 mà cụ thể như sau:
13
Đánh giá hiểu biết về khả năng và yêu cầu hội nhập quốc tế đối với ngành hàng của
doanh nghiệp thì 57% các doanh nghiệp cho biết họ nắm bắt được thông tin cần thiết đối với
quá trình hội nhập, còn 14% trả lời chưa biết về những thách thức đối với doanh nghiệp mình
trong tương lai. Cụ thể là: số doanh nghiệp biết các thông tin về lịch trình giảm thuế trong
khuôn khổ AFTA-APEC là 33%, còn không biết là 14%; thông tin về WTO và quá trình hội
nhập WTO lần lượt là 32% và 14%; thông tin về các bước chuẩn bị thực hiện Hiệp định
Thương mại Việt - Mỹ lần lượt là 19% và 23%. Số doanh nghiệp có thông tin về thị trường có
quan hệ và thị trường tiềm năng đối với sản phẩm tương tự của mình trong năm 2003 lần lượt
là 49% và 31%.
Nhìn chung, các doanh nghiệp Việt Nam chưa có hiểu biết chung về quá trình hội nhập
do ít được tiếp cận đến các thông tin về những vấn đề này. Doanh nghiệp còn gặp nhiều khó
khăn hơn nữa khi tiếp cận và khai thác những thông tin cụ thể liên quan đến các quy định hội
nhập trong từng lĩnh vực, ngành hàng.
d. Kênh thông tin
Trong cuộc điều tra của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam năm 2003 có đưa
ra nhận định: kênh thu thập thông tin của doanh nghiệp về các luật lệ chính sách quy định
mới của Nhà nước, đặc biệt là đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, là một vấn đề lớn. Số lượng
các doanh nghiệp tiếp cận thông tin vẫn tiếp tục giảm so với năm 2003, đây là một dấu hiệu
đáng lo ngại về các hệ thống cung cấp thông tin còn hoạt động chưa hiệu quả. Các phương
tiện thông tin đại chúng vẫn là nguồn cung cấp thông tin chủ yếu về luật lệ, chính sách, các
quy định mới của Nhà nước cho các doanh nghiệp, tuy nhiên hiệu quả của kênh thông tin
giảm đi chỉ còn 50% trong năm 2003.
Theo kết quả điều tra của Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (ASMED), số doanh
nghiệp có sử dụng máy vi tính, số doanh nghiệp có sử dụng mạng LAN (11,55%) và Website
(2,16%) là rất thấp. Từ những con số này, có thể thấy rõ rằng khả năng tiếp cận thông tin
nhằm mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp là rất thấp. Hiện nay, vấn đề nắm bắt thông tin và
đảm bảo tính thời sự của thông tin đối với doanh nghiệp chính là sự sống còn.
Nhìn chung, các cuộc điều tra trên đã phản ánh một cách tương đối về tình trạng thiếu
thông tin của các doanh nghiệp Việt Nam về nhiều mặt cũng như thể hiện rõ hệ thống cung
cấp thông tin của ta hiện nay còn chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu thông tin của doanh
nghiệp. Do đó, việc hình thành một mạng lưới cung cấp thông tin cho doanh nghiệp đang trở
thành một nhu cầu cấp thiết.
+ Vấn đề vốn ảnh hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp
Một doanh nghiệp muốn hoạt động được thì điều đầu tiên phải cần tới vốn. Nhưng theo
số liệu điều tra năm 2003 của VCCI thì việc tiếp cận vay vốn là khá khó khăn đối với doanh
nghiệp đặc biệt là vốn ngắn hạn (như đã phân tích ở phần 1). Và một kết luận khác là trong
cuộc điều tra của Viện Kinh tế thế giới năm 2001 cũng đưa ra rằng “Việc lựa chọn nhiều ngân
hàng một lúc trong giao dịch là xu hướng chung đối với hầu hết các doanh nghiệp và các
14
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn coi ngân hàng nước ngoài là đối tác chủ yếu”
(như đã phân tích ở phần 2). Cuộc Điều tra khảo sát về thực trạng và nhu cầu cần trợ giúp của
doanh nghiệp do Cục Doanh nghiệp nhỏ và vừa – Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiến hành cũng đưa
ra một số kết quả sau:
Khả năng tiếp cận vốn nhà nước thì chỉ có 32,38% số doanh nghiệp tiếp cận được trên
tổng số 25.854 doanh nghiệp, còn lại là 67,62% số doanh nghiệp còn lại khẳng định khó tiếp
cận và không tiếp cận được nguồn vốn này. Về khả năng tiếp cận các nguồn vốn khác thì chỉ
có 48,65% trên tổng số 25.053 doanh nghiệp khẳng định đã tiếp cận được, 51,35% số doanh
nghiệp còn lại khẳng định là khó tiếp cận và không tiếp cận được.
Như vậy, vấn đề vay vốn của doanh nghiệp là rất khó khăn đặc biệt là đối với doanh
nghiệp tư nhân. Mặc dù, Đảng và Nhà nước ta luôn tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp tiếp cận vốn vay nhưng trên thực tế việc cho vay vốn của ngân hàng lại rất khó khăn,
đặc biệt là vấn đề cho vay theo hình thức tín chấp do rủi ro cao.
Cuộc điều tra doanh nghiệp năm 2003 của Tổng cục Thống kê đã đưa ra nhận định vốn
của doanh nghiệp rất thấp chỉ có 260 doanh nghiệp có mức vốn trên 500 tỷ đồng (chiếm 0,4%
doanh nghiệp cả nước tại thời điểm 1/1/2003), có 86,2% số doanh nghiệp có vốn dưới 10 tỷ
đồng. Nguyên nhân chủ yếu của thực trạng này là tiềm lực của các nhà đầu tư chưa mạnh,
thêm vào đó là thị trường vốn chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp. Vốn đầu
tư tăng thêm trong năm 2002 cho thấy vốn vay tín dụng chỉ chiếm 38% trong tổng vốn đầu tư
tăng thêm trong năm trong đó doanh nghiệp nhà nước chiếm 56,4%. Trong 56,4% đó thì có
63,4% là vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước, như vậy vốn tín dụng đã thấp lại dành chủ yếu
cho doanh nghiệp nhà nước còn lại thuộc về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh
nghiệp ngoài quốc doanh chịu khó khăn nhiều hơn khi tiếp cận nguồn vốn tín dụng và luôn
phải kinh doanh trong tình trạng thiếu vốn.
+ Vấn đề về năng lực quản lý
Hiện nay, doanh nghiệp Việt Nam gặp khá nhiều khó khăn trong vấn đề các chủ doanh
nghiệp hay các quản lý có năng lực quản lý không tương ứng với chức vụ. Điều này có thể
thấy rõ qua cuộc Điều tra khảo sát về thực trạng và nhu cầu cần trợ giúp của doanh nghiệp do
Cục Doanh nghiệp nhỏ và vừa – Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiến hành cụ thể như sau: Trong tổng
số 41.102 chủ doanh nghiệp thì có 270 người là tiến sĩ (chiếm 0,66%), 958 người là thạc sỹ
(chiếm 2,33%), 15.546 người đã tốt nghiệp Đại học (chiếm 37,82%), 1.462 người tốt nghiệp
cao đẳng (chiếm 3,56%), 5.068 người tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp và 17.798 người
(chiếm 43,3%) có trình độ thấp hơn. Điều này cho thấy các chủ doanh nghiệp có trình độ Đại
học và trên Đại học không cao cũng tức là trình độ quản lý của các chủ doanh nghiệp nói
chung là thấp, chủ yếu là dựa vào kinh nghiệm tích lũy được và học hỏi trong thực tế.
Trong cuộc Điều tra thực trạng doanh nghiệp năm 2003 của VCCI cũng đã đưa ra kết
quả tương tự khi mà các doanh nghiệp tự nhận năng lực đội ngũ quản lý chỉ ở mức trung bình.
15
Có thể nói, với trình độ quản lý như vậy thì hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sẽ bị
ảnh hưởng rất nhiều. Nếu như chủ doanh nghiệp là người trẻ tuối có trình độ quản lý không
cao sẽ khó tránh khỏi việc ra những quyết định sai lầm trong kinh doanh.
+ Vấn đề xúc tiến đầu tư
Mặc dù, hệ thống các tổ chức xúc tiến thương mại tiếp tục được phát triển nhưng vẫn
chưa hoạt động một cách có hiệu quả, bằng chứng là cuộc Điều tra khảo sát của Cục Doanh
nghiệp Nhỏ và Vừa – Bộ Kế hoạch và Đầu tư nêu trên cũng đã đưa ra những con số về khả
năng tham gia các chương trình xúc tiến thương mại của Nhà nước thì chỉ có 5,2% trên tổng
số 19.318 doanh nghiệp là đã tham gia, còn lại 94,8% là khó tham gia và không được tham
gia.
Cuộc điều tra về thực trạng doanh nghiệp của VCCI năm 2003 đã đồng tình với quan
điểm doanh nghiệp khó tiếp cận với các chương trình xúc tiến đầu tư của Chính phủ với số
điểm tự đánh giá của doanh nghiệp là 2,7 trên 5 điểm.
Từ số liệu này cho thấy vấn đế xúc tiến đầu tư vẫn chỉ tập trung chủ yếu vào các doanh
nghiệp lớn, còn đối với phần lớn các doanh nghiệp nhỏ và vừa thì khó mà tiếp cận được với
các chương trình xúc tiến đầu tư của Chính phủ. Do đó, Chính phủ cần sớm có Chương trình
xúc tiến đầu tư xuất khẩu dành riêng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
+ Vấn đề cơ chế, chính sách
Cuộc điều tra về thực trạng doanh nghiệp năm 2003 của VCCI đã nêu ra rằng các doanh
nghiệp đánh giá cao những cố gắng của Chính phủ trong việc thay đổi cơ chế, chính sách
mang lại thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp như các Luật Thuế thu nhập doanh
nghiệp, Luật Đất đai, Luật Hải quan, Luật Doanh nghiệp Nhà nước, các Nghị định về thanh
tra, kiểm tra, Nghị định về thuế giá trị gia tăng, nghị định về tài chính doanh nghiệp quốc
doanh… đều được phía doanh nghiệp hoan nghênh và đánh giá rất cao là có thuận lợi hơn cho
phía doanh nghiệp.
Thuận lợi hơn
Không thay đổi Khó khăn hơn
a) Về các Luật
Luật thuế TNDN
64 % (2,4)
20 %
16 % (2,9)
Luật Đất đai
60 % (2,8)
24 %
16 % (2,6)
Luật Hải quan
60 % (2,5)
24 %
17 % (2,7)
Luật Doanh nghiệp NN
52 % (3,1)
29 %
20 % (2,6)
b) Về các Nghị định
N/Đ về thanh tra, kiểm tra
61% (2,6)
21%
18% (2,7)
N/Đ về thuế GTGT
60% (2,4)
20%
19% (2,3)
N/Đ về tài chính DNQD
56% (2,6)
25%
19% (2,9)
N/Đ về thuế TNDN
55% (2,8)
31%
14% (2,6)
N/Đ về DN nhỏ và vừa
53% (2,9)
31%
15% (2,9)
16
Q/C cho vay và trả nợ NN
52% (2,7)
34%
15% (2,7)
N/Đ về kk đầu tư trong nước 51% (2,7)
30%
19% (2,9)
N/Đ về đấu thầu
Q/C về nhãn hàng hoá
51% (2,7)
50% (2,9)
Pháp lệnh giá
N/Đ về quản lý ngoại hối
27%
22% (2,7)
34%
49% (2,8)
46% (2,9)
16% (2,6)
30%
22% (2,7)
33%
21% (2,7)
c) Về các thông tư hướng dẫn
Về cho vay và trả nợ NN
Về quản lý ngoại hối
59% (2,5)
56% (3,0)
Về kk đầu tư trong nước
28%
13% (2,5)
25%
53% (2,6)
20% (3,2)
24%
23% (2,6)
Về thuế GTGT
18% (2,6)
52% (2,1)
30%
Về XNK
19% (2,6)
51% (3,0)
30%
Về báo cáo TC DNNQD
50% (3,0)
30%
19% (2,5)
Về hải quan
47% (2,8)
34%
19% (2,9)
Về đất đai
47% (2,9)
37%
16% (2,5)
Nguồn: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI)
Mặc dù cơ chế chính sách của Chính phủ được phía doanh nghiệp đánh giá là đang tạo
thuận lợi cho phía doanh nghiệp, xong cũng phải thấy rằng số doanh nghiệp có khả năng tiếp
cận được các nguồn thông tin này là rất khó khăn, chủ yếu là qua các phương tiện thông tin
đại chúng. Mà như vậy thì thông tin đã trở nên quá cũ, trừ các doanh nghiệp phải thường
xuyên tiếp xúc với các vấn đề mà trong cơ chế chính sách của Chính phủ ban hành. Cuộc điều
tra này đã chỉ ra rằng số lượng các doanh nghiệp tiếp cận được với các văn bản luật đang
giảm đi. Đây quả là điều đáng lo ngại cho phía doanh nghiệp nhất là khi nước ta đang chuẩn
bị hội nhập vào WTO, những động thái về cơ chế chính sách của Chính phủ sẽ trực tiếp ảnh
hưởng tới doanh nghiệp trong thời gian tới. Do đó, cần có những biện pháp tăng cường khả
năng cung cấp thông tin cho phía doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện cho cộng đồng doanh
nghiệp Việt Nam kịp thích ứng với bối cảnh tiền hội nhập như hiện nay.
+ Vấn đề về trình độ công nghệ
Vấn đề về trình độ công nghệ là một trong những vấn đề mà các doanh nghiệp hiện nay
rất quan tâm. Trong cuộc điều tra về thực trạng doanh nghiệp của VCCI năm 2003 cũng đã
nhận định yếu tố công nghệ thiết bị lạc hậu được đánh giá là mức độ dưới trung bình (doanh
nghiệp tự đánh giá đạt 2,4). Điều này cho thấy các doanh nghiệp vẫn phần nào hài lòng với
những thiết bị và công nghệ của mình để sản xuất ra những sản phẩm dù chưa đạt trình độ tiên
tiến nhất nhưng vẫn được thị trường, nhất là thị trường trong nước, chấp nhận.
17
Cuộc điều tra doanh nghiệp của Cục Doanh nghiệp nhỏ và vừa – Bộ Kế hoạch và Đầu
tư nói trên có kết luận kém khả quan hơn với những số liệu như sau: Trong tổng số 10.994
doanh nghiệp sản xuất công nghiệp chỉ có 879 doanh nghiệp là công nghệ tiên tiến (chiếm
8%) mà phần lớn là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, 5.501 doanh nghiệp là công
nghệ trung bình (chiếm 50,04%) và 41,96% còn lại là doanh nghiệp có công nghệ lạc hậu.
Điều đó cho thấy khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong cuộc điều tra này là rất
thấp. Trong khi đó nhu cầu đào tạo về kỹ thuật và công nghệ của các doanh nghiệp lại có tỷ lệ
rất thấp (cao nhất chỉ 5,65%), cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam trong cuộc điều tra này
chưa coi trọng đúng mức đến các vấn đề kỹ thuật và công nghệ, là yếu tố quyết định sự thành
bại của doanh nghiệp trên thương trường mà đặc biệt là trong giai đoạn chuẩn bị hội nhập như
hiện nay.
Trong cuộc điều tra về doanh nghiệp năm 2002 - 2003 của Tổng cục Thống kê cũng
khẳng định khả năng trang bị kỹ thuật công nghệ tiên tiến là rất hạn chế. Việc tìm kiếm các
dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật công nghệ là rất khó khăn nhất là với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Theo như cuộc điều tra này thì có 72% doanh nghiệp tự đánh giá là có khó khăn về kỹ thuật
công nghệ thấp kém.
Thông qua số liệu của các cuộc điều tra nêu, ta có thể thấy doanh nghiệp Việt Nam hiện
nay đang gặp rất nhiều khó khăn. Đặc biệt là vấn đề thiếu thông tin, một số doanh nghiệp
khẳng định sẵn sàng bỏ tiền mua thông tin nhưng lại không biết mua thông tin ở đâu. Trong
khi đó, vấn đề vốn cũng là một vấn đề bức xúc đối với doanh nghiệp, đặc biệt là đối với
doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Việc tiếp cận các nguồn vốn nhà nước gặp nhiều khó khăn
mặc dù Chính phủ khuyến khích loại hình doanh nghiệp này vay vốn mở rộng sản xuất kinh
doanh. Các vấn đề năng lực quản lý, xúc tiến đầu tư, cơ chế - chính sách, trình độ công
nghệ… là những vấn đề mà doanh nghiệp ít đánh giá cao, hay biết mà không thể hoặc không
muốn thay đổi do chưa đánh giá đúng về vai trò của các vấn đề này.
4. Một vài yếu tố khác ảnh hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp
Cuộc điều tra của Tổng cục Thống kê về doanh nghiệp năm 2003 đã đưa ra một số nhận
định về những hạn chế và bất cập của doanh nghiệp Việt Nam như sau:
Vấn đề phát triển doanh nghiệp chưa được quy hoạch định hướng rõ ràng. Phần lớn
doanh nghiệp Việt Nam đang hoạt động hiện nay là doanh nghiệp có vốn đầu tư ít, kinh doanh
nhanh và chuyển đổi cũng nhanh có lãi suất cao và độ rủi ro thấp còn một số ngành có hàm
lượng công nghệ cao rất cần tăng thêm năng lực sản xuất nhưng lại ít được chú ý đầu tư.
Thêm vào đó với quy mô nhỏ, phân tán đi kèm với thủ công lạc hậu. Trong khi một số ngành
cần có trang bị kỹ thuật tiên tiến thì lại có trang bị thấp hơn bình quân chung. Từ đó dẫn đến
yếu kém về sức cạnh tranh, hiệu quả kinh doanh không cao, lao động thiếu tính ổn định và
bền vững lâu dài.
Lao động của nước ta tuy dồi dào, luôn sẵn sàng làm việc với mức lương chưa phải là
cao. Tuy nhiên, lao động có tay nghề cao hay nói đúng hơn là chất lượng lao động của ta đang
18
l vn m hu ht doanh nghip mong mun tỡm kim. Theo s liu iu tra doanh nghip
hng nm thỡ lao ng l cỏn b khoa hc k thut nm 2000 chim 8,1%; nm 2002 cũn
6,8% v nhng lao ng cú tay ngh cao, cụng nhõn k thut cng cú xu hng gim tng
i. Nh vy lao ng c thu hỳt vo khu vc doanh nghip ngy cng tng nhanh, nhng
c cu lao ng cú trỡnh k thut, lao ng c o to li gim. iu ny cng khng
nh nhu cu v lao ng cú cht lng ca doanh nghip l rt ln.
Nhỡn chung, cú rt nhiu yu t nh hng ti hot ng ca doanh nghip m chớnh
nhng yu t ú ang l im yu ca doanh nghip trong hi nhp. Ch mt s ớt doanh
nghip t tin vo kh nng cnh tranh ca mỡnh trong iu kin hi nhp quc t sp ti. Do
ú, cn cú nhng bin phỏp nõng cao nng lc cnh tranh doanh nghip cp tc nhm trang b
cho doanh nghip mt s phng thc cú th hũa mỡnh vo dũng chy hi nhp sp ti.
CHNG III NH GI V THC TRNG NNG LC CNH
TRANH CA DOANH NGHIP VIT NAM
I. Mt s ch tiờu ch yu ỏnh giỏ nng lc cnh tranh ca doanh nghip
Theo tiờu chớ ca Din n Kinh t Th gii (World Economic Forum - WEF), chỉ số
năng lực cạnh tranh doanh nghiệp (Business Competitiveness Index - BCI), đợc quyết định bởi
những yếu tố: sự ổn định về chính trị, an toàn về xã hội, tình trạng tham nhũng, tính hiệu quả
của bộ máy hành chính, kết cấu hạ tầng, lực lợng lao động các qui định về thuế và khả năng
tiếp cận các nguồn tài chính... Trong số đó chỉ có chỉ tiêu về ổn định chính trị và an toàn xã
hội đợc đánh giá và cho điểm cao.
Nm 2005, Din n Kinh t Th gii ó xp hng năng lực cạnh tranh doanh nghiệp
của Vit Nam v trớ 80 trên 116 nớc (năm 2004 đứng thứ 79 trên 104 nớc). Tuy rằng bảng
xếp hạng của WEF chỉ mang tính tham khảo, nhng chỉ số này cũng cảnh báo thực trạng môi
trờng kinh doanh và năng lực cạnh tranh của Việt Nam so với các nớc khác.
Xếp hạng năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong 3 năm qua (2003-2005)
Chỉ số trên tổng số nớcđánh giá
2003
2004
2005
Chỉ số cạnh tranh tăng trởng (GCI)
61/101
79/104
81/117
Chỉ số cạnh tranh doanh nghiệp (BCI)
50/102
79/104
80/116
Nguồn: Din n Kinh t Th gii 2003, 2004, 2005
II. ỏnh giỏ thc trng v doanh nghip Vit Nam
1. V quy mụ v s lng
Theo s liu thng kờ, hin nay c nc cú trờn 150.000 doanh nghip (DN) thuc khu
vc kinh t t nhõn; 4.800 DN nh nc, hn 3.000 DN u t nc ngoi; 2,2 triu h kinh
19
doanh phi nông nghiệp và hơn 9 triệu hộ nông dân có sản xuất hàng hoá. Tính bình quân cứ
khoảng 200 người dân/1DN, tỷ lệ này đạt thấp so với các nước ở châu Á (với tỷ lệ là 50 người
dân/1DN).
Tuy nhiên, theo kết quả điều tra thực trạng doanh nghiệp Việt Nam trong 3 năm 20022004 của Tổng cục Thống kê (GSO), doanh nghiệp thực tế đang hoạt động theo Luật Doanh
nghiệp tính đến 1/1/2004 là 72.012 DN, đã và đang giải quyết việc làm cho 5,175 triệu lao
động. Điểm đáng lo ngại nhất là số lượng doanh nghiệp nhiều nhưng quy mô nhỏ, phân tán,
công nghệ kỹ thuật thủ công lạc hậu. Năm 2004, bình quân 1 doanh nghiệp chỉ có 72 lao động
và 24 tỷ đồng tiền vốn, trong khi đó từ năm 2000 thì số lao động đã là 84 và vốn là 26 tỷ
đồng. Như vậy, xu hướng quy mô nhỏ ngày càng tăng, do 3 năm qua doanh nghiệp mới đăng
ký kinh doanh chủ yếu là tư nhân với quy mô nhỏ và siêu nhỏ. Doanh nghiệp dưới 10 lao
động chiếm hơn 46%, từ 10 đến dưới 50 lao động chiếm 35%. Về quy mô vốn, số doanh
nghiệp dưới 10 tỷ đồng chiếm 86%, trong đó hơn một nửa là dưới 1 tỷ đồng. Những ngành
tập trung nhiều doanh nghiệp có quy mô vừa và lớn là công nghiệp, bình quân 154 lao động
và 32 tỷ đồng vốn, tiếp đó là vận tải, thông tin liên lạc rồi đến xây dựng. Quy mô nhỏ và phân
tán là ngành thương nghiệp, bình quân 18 lao động và 6 tỷ đồng vốn. Doanh nghiệp ngành
khách sạn nhà hàng bình quân 27 lao động và 9 tỷ đồng vốn.
Do phần lớn doanh nghiệp có mức vốn thấp (dưới 10 tỷ đồng) nên khả năng trang bị
máy móc thiết bị, kỹ thuật công nghệ tiên tiến là rất hạn chế. Mức trang bị tài sản cố định cho
1 lao động ngoài quốc doanh là 50 triệu đồng, chỉ bằng 20% so với doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài.
Tổng cục Thống kê cũng chỉ ra rằng, doanh nghiệp phát triển còn mang tính tự phát
chưa có định hướng rõ ràng. Số doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm
77,5% số doanh nghiệp được thành lập từ năm 2000 trở lại đây, nhưng biến động tới gần 20%
hằng năm. Nhiều tỉnh có hàng nghìn doanh nghiệp nhưng 70-80% trong số đó chỉ có 1-5 lao
động và số vốn không quá 5 tỷ đồng như Long An, Đồng Tháp, Nam Định... Doanh nghiệp
nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển ổn định và có định hướng rõ
ràng hơn, nhưng rất ít doanh nghiệp có quy mô lớn, đặc biệt Việt Nam chưa có một tập đoàn
kinh tế mạnh nào.
Trong bối cảnh Việt Nam sắp gia nhập WTO, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
được nhận xét là đáng lo ngại. Số doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ tăng từ 19% năm 2000 lên
hơn 23% năm 2003 (tổng số lỗ tính đến năm 2003 là 10.825 tỷ đồng), gần bằng 1/4 số vốn
hoạt động của các doanh nghiệp này. Số doanh nghiệp kinh doanh có lãi, năm cao nhất mới
chiếm 73% với mức lãi thấp (tổng lãi năm 2003 là 89.054 tỷ đồng). Khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp mới khẳng định được ở một số mặt hàng sản phẩm và dịch vụ thông thường.
Trong khi đó, quyền lợi của người lao động trong rất nhiều doanh nghiệp đang bị xem nhẹ. Số
liệu thống kê cũng cho thấy, doanh nghiệp chưa đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho
người lao động chiếm hơn 70% tổng số doanh nghiệp Việt Nam hiện có.
20
Mặt khác, khá nhiều doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp chỉ đăng ký với
số vốn điều lệ mang tính hình thức chứ chưa phải quy mô vốn thực của họ. Các doanh nghiệp
nhà nước cũng trong tình trạng tương tự như vậy, vì Nhà nước bảo lãnh cho các doanh nghiệp
này cho nên quy mô và vốn kinh doanh không phản ánh đúng thực chất doanh nghiệp. Trong
mọi ngành nghề, lĩnh vực hoạt động chưa hề có một doanh nghiệp nào của Việt Nam được
xếp hạng theo danh mục quốc tế (ví dụ danh mục 500 doanh nghiệp có vốn đầu tư lớn nhất,
20 doanh nghiệp sản xuất ô tô hàng đầu v.v…).
Một số tác động của kinh tế thế giới đối với Việt Nam đã được các chuyên gia khẳng
định đó là điều bắt buộc phải đối phó khi chúng ta bước vào hội nhập. Khó nhưng chúng ta
vẫn có thể hạn chế bớt được những tác động xấu, hạn chế bằng chính năng lực của mình, bao
gồm cả sức mạnh kinh tế và sức mạnh về tổ chức thị trường trong nước, chống đầu cơ.
Ví dụ như nếu không có khoảng 1 tỷ USD Chính phủ bỏ ra để giảm nhẹ gánh nặng xăng
dầu, công nghiệp chắc chắn sẽ khó hơn nhiều vì theo khái niệm về “độ nở”, giá đầu vào tăng
một thì giá đầu ra sẽ tăng gấp rưỡi. Công nghiệp của chúng ta trong thời gian qua có thể tạm
gọi là tăng trưởng tốt, nhưng vấn đề chúng ta đang gặp phải vẫn nằm ở khả năng cạnh tranh,
giá trị gia tăng tạo được. Giá trị sản xuất công nghiệp của chúng ta tăng cao (15-16%), nhưng
tốc độ tăng của giá trị tăng thêm chỉ trên 10% một chút, còn chênh lệch nhiều. Và ngay cả kết
quả xuất khẩu 26 tỷ USD, tăng trưởng trên 20% trong năm 2004 đã là rất tốt. Nhưng vấn đề
cần được phân tích kỹ khi bàn tới việc phát triển sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu là thực tế
trong 26 tỷ đó có bao nhiêu tỷ USD giá trị tăng thêm mà chúng ta thu được từ sản xuất.
Vấn đề mấu chốt để nâng cao khả năng cạnh tranh vẫn là cải cách, sắp xếp lại doanh
nghiệp nhà nước (DNNN). Có thể thấy rõ ràng rằng qua hơn mười hai năm đổi mới, sắp xếp
doanh nghiệp nhà nước, chúng ta đã sắp xếp, cổ phần hóa được hơn 2.300 doanh nghiệp,
nhưng tỷ lệ vốn sở hữu nhà nước của các doanh nghiệp này chỉ chiếm khoảng 9% tổng vốn sở
hữu nhà nước tại các doanh nghiệp. Bình quân một doanh nghiệp chỉ có 45 tỷ đồng, trong đó
vốn lưu động chưa đến 10 tỷ đồng, có tới 47% DNNN có vốn chưa đầy 5 tỷ đồng. Xem xét kỹ
thì không ít doanh nghiệp chỉ có vốn trên sổ sách, hoặc trong tài sản không dùng đến, nên vốn
thực tế dùng cho sản xuất kinh doanh chỉ còn 50%.
Năm 2003, trong số 77% DNNN làm ăn có lãi, chỉ chưa đầy 40% có mức lãi bằng hoặc
cao hơn lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại. Nếu đưa thêm giá trị quyền sử dụng đất
vào chi phí và cắt bỏ các khoản ưu tiên, ưu đãi của Nhà nước, thì số DN có lãi còn ít hơn. Số
thuế thu nhập DNNN chỉ chiếm 8.000 tỷ đồng trên tổng số 87.000 tỷ đồng nộp ngân sách nhà
nước.
Phần còn lại trong số 210.000 tỷ đồng vốn nhà nước nằm ở đâu? Một nửa trong số này
nằm ở dầu khí, điện lực và bưu chính viễn thông, và phần lớn còn lại nằm ở các tổng công ty
91 khác như hàng hải, hàng không... . Đây chính là vấn đề mấu chốt để chúng ta tính toán kỹ
cho bài toán phát triển trong năm 2006 và trong suốt lộ trình hội nhập của kinh tế Việt Nam.
21
Tại Hội nghị toàn quốc đổi mới doanh nghiệp năm 2004 cũng đã chỉ ra một loạt yếu
kém của khối doanh nghiệp nhà nước, trong đó hiệu quả làm ăn thấp đang là một thách thức
lớn khi Việt Nam tham gia vào hội nhập quốc tế. Thuế thu nhập doanh nghiệp chỉ đạt 8.000 tỷ
đồng trong tổng số 87.000 tỷ nộp ngân sách nhà nước; nợ xấu 8,5% trong khi bình quân cả
nền kinh tế chỉ 6,1%; tổng số nợ của khối này phải thu, phải trả lên tới khoảng 300.000 tỷ
đồng.
Nhiều DNNN có trình độ công nghệ dưới mức trung bình của thế giới và khu vực. Thiết
bị, dây chuyền lạc hậu so với thế giới từ 10-20 năm, trong đó có 38% đang chờ thanh lý. Chi
phí sản xuất công nghiệp còn rất cao, hạn chế mức tăng giá trị gia tăng. Cụ thể là giá trị sản
xuất mấy năm gần đây tăng 15%/năm, nhưng giá trị gia tăng chỉ tăng 10%. Tốc độ đổi mới
công nghệ chậm, chỉ khoảng 10% trong thời gian qua. Các ngành công nghiệp có trình độ
công nghệ cao, hiện đại như: điện tử, tin học... mới chỉ chiếm vài phần trăm giá trị sản xuất
công nghiệp; dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao không nhiều.
Chưa hình thành được các ngành công nghiệp phụ trợ, cung cấp những linh kiện, sửa
chữa, thiết kế, tiếp thị mà chúng ta có lợi thế cạnh tranh, để giảm giá thành sản phẩm công
nghiệp chế tạo, tăng khả năng cạnh tranh, thu hút lao động.
Trong vòng 11 năm qua từ 1992-2003, cả nền kinh tế tạo được thêm 9 triệu chỗ làm
việc mới, thì khu vực DNNN chỉ tăng thêm có gần 200.000 chỗ, các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài (FDI) được nửa triệu, còn lại hơn 8 triệu là của khu vực kinh tế dân doanh.
Hiện nay, chỉ có khoảng 2 triệu lao động làm việc tại các DNNN.
Năng suất lao động của DNNN còn thấp. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năng
suất lao động thời kỳ 1996-2001 của DNNN tăng bình quân mỗi năm 4,8%, thấp hơn mức
tăng GDP là 7% cùng thời kỳ.
Giá bán các sản phẩm của DNNN trong nước còn cao hơn giá nhập khẩu, chẳng hạn với
xi măng là 115%, giấy 127%, thép 125%, phân bón 136%...
Một thực tế đáng lo ngại khác là sức cạnh tranh của DNNN rất yếu. Trong khối
ASEAN, Việt Nam thuộc nhóm kém phát triển (chỉ khá hơn Lào, Campuchia, Mianma). Khi
Việt Nam gia nhập WTO, nếu các DNNN không được hưởng ưu tiên thì khu vực này khó có
thể cạnh tranh thắng lợi với doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nước ngoài bởi đội ngũ
quản lý doanh nghiệp kém, trình độ công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp... Biện pháp
để tháo gỡ những bức bách hiện nay là cần phải phát triển nhanh lực lượng sản xuất. Một đất
nước nhỏ bé như Xingapo, dân số chỉ có 3 triệu người mà mỗi năm làm ra đến 165 tỷ USD.
Còn Việt Nam, với 80 triệu dân nhưng GDP chỉ đạt 40 tỷ USD/năm. Nếu cứ tiếp tục tiến độ
đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước chậm chạp như hiện nay, doanh nghiệp nhà nước
sẽ bị thua ngay trên sân nhà.
Như vậy, còn một khoảng cách lớn về hiệu quả và sức cạnh tranh so với yêu cầu gia
nhập WTO khi chúng ta phải tự do hóa thương mại và đầu tư theo các chuẩn mực của tổ chức
này. Vì vậy, theo đánh giá của Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ về tầm quan trọng
22
và tác động của cải cách DNNN với việc gia nhập WTO, thì nếu không có những bước đi
mang tính đột phá để nhanh chóng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh thì nguy cơ đổ vỡ hàng
loạt DNNN là điều khó tránh khỏi.
Xét về tổng thể thì hơn 90% các doanh nghiệp của Việt Nam là vừa và nhỏ ở hai mặt
giá trị tài sản và vốn kinh doanh. Nếu xét về mặt quy mô doanh nghiệp thì khả năng cạnh
tranh về vốn của doanh nghiệp Việt Nam là thấp. Để cạnh tranh tốt và có hiệu quả thì vấn đề
đầu tiên và cũng là vấn đề thiết yếu đối với các doanh nghiệp đó là quy mô vốn. Nhưng
những doanh nghiệp có lượng vốn lớn hiện nay là doanh nghiệp nhà nước thì lại làm ăn
không có hiệu quả hoặc có hiệu quả thấp, trong khi đó lại được sự bảo trợ rất lớn về mọi mặt
của Nhà nước do đó khu vực doanh nghiệp nhà nước không được đánh giá là khu vực có năng
lực cạnh tranh cao. Trong khi khu vực doanh nghiệp tư nhân là khu vực luôn luôn được các
nước trên thế giới quan tâm và tạo điều kiện phát triển, thì ngược lại ở Việt Nam khu vực kinh
tế này lại ít được quan tâm, ít được đánh giá cao. Và lượng vốn đầu tư của khu vực kinh tế
này luôn thấp hơn so với khu vực kinh tế nhà nước. Chính vì thế năng lực cạnh tranh của khu
vực này không được đánh giá thật sự cao.
2.
Khả năng tham gia và chấm dứt kinh doanh
Điều kiện thành lập, và chấm dứt kinh doanh, giải thể và phá sản doanh nghiệp là những
hình thức biểu hiện cụ thể của khả năng tham gia và rút khỏi cạnh tranh của doanh nghiệp.
Về thành lập và đăng ký kinh doanh, do đặc thù và chế độ sở hữu, điều kiện gia nhập thị
trường của các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam không giống nhau. Trên phương diện pháp
lý, việc thành lập đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp, Luật DNNN, Luật Hợp tác
xã.. có sự khác nhau về quy trình thành lập, hồ sơ đăng ký kinh doanh, vấn đề giấy phép, vốn
pháp định vv. Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, theo Luật Doanh nghiệp 2000, là
khâu đột phá về cải cách hành chính, và cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Theo đánh
giá chung, điều kiện thành lập và đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở
Việt Nam hiện nay là đơn giản, thuận lợi và ít tổn phí, dẫn đến số lượng doanh nghiệp thành
lập mới tăng rất nhanh. Ngược lại điều kiện thành lập DNNN là một khâu riêng (phải thực
hiện đầu tư trước khi thành lập DNNN) gồm 3 bước: Đề nghị thành lập - thẩm định - quyết
định thành lập; hồ sơ đăng ký kinh doanh gồm 6 loại tài liệu (đều phải có ý kiến của cơ quan
có thẩm quyền hoặc có giấy phép kinh doanh có điều kiện trước khi đăng ký kinh doanh, phải
đáp ứng quy định về vốn pháp định đối với tất cả ngành nghề đăng ký v.v.. Trong bối cảnh
đổi mới kinh tế nói chung và cải cách DNNN nói riêng, việc thành lập mới DNNN không
được khuyến khích như đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Về lĩnh vực hoạt động, Hiến pháp năm 1992 quy định công dân Việt Nam được quyền
tự do kinh doanh trong tất cả các lĩnh vực và địa bàn mà pháp luật không cấm hoặc không hạn
chế. Tuy nhiên, vẫn còn không ít những lĩnh vực bị “cấm hoặc “ hạn chế” kinh doanh, lĩnh
vực độc quyền kinh doanh, lĩnh vực hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện. Hệ thống
các văn bản pháp lý về thương mại vẫn quy định sự can thiệp “ cần thiết” của Nhà nước vào
23
các hoạt động thương mại, các lĩnh vực độc quyền do DNNN thực hiện. Nhà nước cho phép
một số DNNN kinh doanh những hàng hoá đặc biệt, các mặt hàng, lĩnh vực mà doanh nghiệp
ngoài quốc doanh và các DNNN khác bị cấm. Ngoài các lĩnh vực do pháp luật quy định, ở
không ít tỉnh đã xuất hiện tình trạng độc quyền địa phương, do địa phương giao cho một số
DNNN sản xuất, tiêu thụ một số mặt hàng trên thị trường DNNN cũng chiếm vị trí gần như
tuyệt đối trong lĩnh vực cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích.
Doanh nghiệp có thể chấm dứt kinh doanh dưới các hình thức, thanh lý, giải thể, phá
sản doanh nghiệp. Luật Phá sản doanh nghiệp của Việt Nam được ban hành từ năm 1993 song
số vụ yêu cầu toà án và số doanh nghiệp tiến hành các thủ tục phá sản doanh nghiệp gần như
không đáng kể so với thực trạng tài chính của các doanh nghiệp (mới có khoảng 40 vụ được
giải quyết tại toà).
Nguyên nhân là do các đối tượng có quyền đệ đơn yêu cầu toàn án tuyên bố phá sản
doanh nghiệp còn hạn chế, chưa phù hợp và đều không muốn doanh nghiệp bị phá sản vì sợ bị
ảnh hưởng đến quyền lợi của mình. Ngoài ra, phá sản doanh nghiệp vẫn còn là vấn đề gây tâm
lý xã hội nặng nề không chỉ với chủ nợ, doanh nghiệp và người lao động mà còn cho các đối
tượng liên quan đến doanh nghiệp và toàn xã hội nói chung. Việc giải thể doanh nghiệp ngoài
quốc doanh ở Việt Nam cũng trong tình trạng tuơng tự, dù rằng việc giải thể DNNN nặng nề
hơn do bị ảnh hưởng bởi các lý do xã hội việc làm, chính sách v.v…
Hậu quả là, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp lẽ ra phải bị giải thể, phá sản này
ngày càng sấu hơn, sự tồn tại của các doanh nghiệp yếu koém này vùa làm khả năng cạnh
tranh chung của khối doanh nghiệp giảm đi, vừa là rào cản tham gia kinh doanh của các
doanh nghiệp mới khác.
Trong thực tế, có rất nhiều DNNN ở trong tình trạng phải bị giải thể, phá sản nhưng
không những vãn tiếp tục tồn tại mà còn được Nhà nước hỗ trợ tối đa. Hình thức hỗ trợ
thường là khoanh nợ, giãn nợ, xóa nợ, bổ sung vốn…
Theo số liệu từ Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ từ năm 1991 đến 2000, ngân
sách nhà nước đã đầu tư trực tiếp cho DNNN 41535 tỷ đồng, trong đó 2016 tỷ đồng cấp vốn
bổ sung vốn lưu động, 1464 tỷ đồng là bù lỗ và giảm bớt khó khăn về tài chính. Ngoài ra
trong 3 năm 1997-1999, Nhà nước còn miễn giảm thuế 1351 tỷ đồng, xoá nợ 1088 tỷ đồng,
khoanh nợ 3392 tỷ đồng, giãn nợ 540 tỷ đồng, giảm trích khấu hao 200 tỷ đồng. Vấn đề đặt ra
là Nhà nước cần xem lại về hiệu quả phân phối các nguồn lực quốc gia, cũng như cách thức,
mục tiêu và đối tượng phân bổ các nguồn lực.
3. Về giá cả và yếu tố đầu vào
Giá cả cũng như cơ sở của nó là giá thành của nhiều hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam
cao hơn giá cả của hàng hoá và dịch vụ cùng loại của nhiều nước trong khu vực. Năm 2005,
giá đường trắng trên thế giới là 4.700 đ/kg, trong khi Việt Nam cao hơn từ 1,5 đến 2 lần. Giá
xi măng nhập khẩu (giá CIF) về đến Việt Nam trong khoảng 35 đến 40 USD/tấn, trong khi đó
giá thành xi măng của Việt Nam từ 42 đến 65 USD/tấn. Giá thép xây dựng thế giới đầu năm
24
2005 từ 380 đến 420 USD /tấn, thì tại Việt Nam giá thép có lúc lên đến gần 500 USD/tấn. Giá
xe máy DREAM ở Thái Lan khoảng 1000 USD/chiếc, trong khi đó giá xe máy cùng loại tại
Việt Nam chưa có thuế là 1.280 USD/chiếc. Giá gạo của Việt Nam trong siêu thị là
10.000đ/kg, còn giá gạo cùng loại của Thái Lan nếu bỏ thuế chỉ còn 7.500đ/kg.
Trong tương lai, năng lực cạnh tranh về giá của các hàng hoá và dịch vụ của các doanh
nghiệp phụ thuộc vào sự biến động của giá thành hàng hoá và dịch vụ mà các doanh nghiệp
sản xuất ra cùng với những biến động về chi phí lưu thông của chúng.
Hiện nay, vướng mắc hay trở ngại khiến doanh nghiệp Việt Nam gặp nhiều khó khăn đó
là chi phí các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp Việt Nam quá cao như giá cước điện thoại
quốc tế, giá bốc xếp ở cảng, giá của các sản phẩm độc quyền… cao hơn thế giới rõ rệt. Ví dụ
chi phí vận chuyển một container từ Khu công nghiệp Bình Dương đến cảng Vũng Tàu còn
cao hơn cả từ Vũng Tàu đi Xingapo. Tại Việt Nam, doanh nghiệp phải chịu quá nhiều tiêu
cực phí: qua các trạm kiểm soát dọc đường, khi xe vào cảng hay khi hàng lên tàu...
Hiện tại trong xu thế phát triển hướng về xuất khẩu thì hầu hết các doanh nghiệp có xu
thế này đều phải lấy nguyên liệu bằng cách nhập khẩu từ nước ngoài vào. Ví dụ như ngành da
giày nhập từ 75 đến 80% nguyên vật liệu, ngành nhựa nhập khẩu 100% hạt nhựa… Ngoài ra,
trong khi kỹ thuật thông tin đại chúng tạo điều kiện cho cạnh tranh toàn cầu với chi phí gia
nhập thị trường ngày càng rẻ thì ở Việt Nam lại có xu hướng ngược lại.
Trình độ về công nghệ cũng ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay hầu hết là lạc hậu, chậm phát triển và áp dụng công
nghệ mới vào sản xuất kinh doanh. Điều này dẫn đến vấn đề sản lượng thấp, giá thành cao...
do đó việc cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài là vô cùng khó khăn. Mặt khác, do
thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm quản lý tiên tiến nên giá thành cao, chất lượng kém.
Tính kết nối, phối hợp giữa các ngành, các cơ sở công nghiệp từ khâu cung cấp nguyên
liệu đến khâu sản xuất ra thành phẩm rất hạn chế.
Thêm vào đó là vấn đề về thuế nhập khẩu. Đối với hàng nhập khẩu ngoài thuế nhập
khẩu còn phải chịu thuế giá trị gia tăng VAT (dù chưa có giá trị tăng thêm). Mặc dù sau đó
được hoàn thuế nhưng thời gian hoàn thuế VAT chậm, do đó dẫn tới việc doanh nghiệp gặp
nhiều khó khăn về vốn hoạt động kinh doanh. Để giải quyết tình trạng vốn hoạt động trong
kinh doanh doanh nghiệp buộc phải vay ngân hàng và đương nhiên phải chịu một khoản lãi
suất mà lý ra nếu việc hoàn thuế nhanh và kịp thời hơn thì doanh nghiệp đã không phải chịu
khoản lãi suất này. Đó cũng là một yếu tố đẩy giá thành lên cao khiến khả năng cạnh tranh
của các doanh nghiệp giảm xuống.
Chi phí về lao động: Lao động Việt Nam thừa về số lượng nhưng thiếu và yếu về chất
lượng, năng suất lao động thấp. So với các nước trong khu vực, năng suất lao động ngành dệt
của Việt Nam chỉ bằng 90-95% năng suất lao động ngành dệt của Trung Quốc, bằng 85%
năng suất lao động ngành dệt của Thái Lan. Ưu thế về lao động rẻ của Việt Nam đang mất
dần. Giá nhân công của 2 ngành có năng lực cạnh tranh tốt nhất (dệt may và da giày) hiện
25