Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Đổi Mới Giáo Dục Bằng Công Nghệ Thông Tin và Truyền Thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.15 KB, 22 trang )

Đổi Mới Giáo Dục Bằng Công Nghệ Thông Tin và Truyền
Thông - GS Quách Tuấn Ngọc

1. HOÀN CẢNH MỚI
Toàn cầu hoá, công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, nền kinh tế điện tử …
đang làm thay đổi mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Chúng ta đang chứng
kiến một sự thay đổi trong xã hội loài người tới mức chóng mặt trong đó kĩ năng
toàn cầu, hiểu biết quốc tế, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, tri thức mới
và sự uyên thâm mới làm nên sự khác biệt giữa các chủ thể (quốc gia, con người).
Không như trước đây, sự khác biệt được quyết định bởi tiền vốn và vật tư, bởi đất
đai và năng lượng.
Sự xuất hiện nền kinh tế toàn cầu hoá và nền kinh tế tri thức đang đưa xã hội loài
người tới kỉ nguyên mới và nó cũng đòi hỏi một hệ thống giáo dục mới với nội
dung giáo dục mới và phương pháp giáo dục mới để sao cho thích nghi được với
môi trường xã hội thay đổi và chuyển dịch mô hình theo trục đo lường là chất
lượng con người chứ không phải là bằng cấp. (Chẳng thế Bill Gate giầu nhất thế
giới học đại học dở dang song vẫn được Bill Clinton tôn làm Vua của các tổng
thống !?).
Cái gọi là kĩ năng toàn cầu là gì ? Đó là kĩ năng máy tính, là kĩ năng sử dụng ngoại
ngữ, là sự hiểu biết quốc tế như các kiến thức cơ bản về địa lí, văn hoá và truyền
thống của mỗi nước… Kĩ năng toàn cầu này đã làm cho người Philipine kiếm được
khá nhiều tiền. Thí dụ ở sân bay Dubai đa phần những người làm dịch vụ ở đây là
người Philipine vì họ có một lợi thế nổi trội: tiếng Anh rất tốt. Philipine là nước
hàng năm thu ngoại tệ nhờ xuất khẩu lao động khoảng 6 – 8 tỉ USD. Trong khi ta tự
hào là nước đang nổi tiếng về xuất khẩu gạo thu về 1,5 tỉ USD song suy ngẫm lại
thì phải nói là ta đang nai lưng ra xuất khẩu gạo vì tỉ lệ lãi ròng rất thấp (chia cho
40 triệu nông dân). Sự dẫn giải nói trên làm chúng ta phải suy ngẫm về một chiến
lược đào tạo con người chất lượng cao để làm giầu bằng chất xám với tỉ trọng lãi
lớn trong một kỉ nguyên mới.
Ấn độ cũng là một nước nghèo và đang phát triển. Tuy nhiên Ấn độ lại là nước
xuất khẩu phần mềm lớn nhất sang các nước phương Tây. Mỗi năm cũng được tới


7-8 tỉ USD. Ấn độ có tới 5 Viện đại học công nghệ và quản lí, được người Ấn độ
gọi là bản sao của MIT để đúc ra mỗi năm hàng nghìn kĩ sư chất lượng cao. Một
lần nữa cũng cần phải nhắc lại là người Ấn độ cũng có kĩ năng tiếng Anh cực tốt và


đây là một ưu điểm làm nên sự khác biệt của Ấn độ trong việc xuất khẩu phần mềm
trong bối cảnh toàn cầu hoá.
Vì sao phải đổi mới tư duy ? Đơn giản là vì xem xét lại mình so với người ta, so
với thiên hạ (như Đài loan, Thái lan, Singapore…), thấy người ta đi được 10 bước
hoặc làm được 10 việc mà mình thì chỉ đi được hoặc làm được có 1-2. Hoặc đơn
giản là vì thấy việc mình làm không đạt được như mình muốn. Suy nghĩ sâu sắc
hơn, tổng thể hơn về đổi mới tư duy, xin quí vị tham khảo bài viết của GS. TS Phan
Đình Diệu (7/2001).
Chúng tôi còn nhớ tháng 12/1997, Ban Công Nghệ Thông Tin của Bộ ta đi thăm
Trung quốc. Phía bạn có kể lại chuyện đổi mới tư duy (rethingking): Trước đây
khẩu hiệu của bạn là Giáo dục con người toàn diện. Sau một thời gian, Tổng bí thư
ĐCS TQ nói: Làm gì có con người toàn diện (tuyệt đối), vì vậy chúng ta phải đổi
mới tư duy, chuyển thành Giáo dục toàn diện con người. Tư duy thay đổi kéo theo
thay đổi vị trí hai từ trong khẩu hiệu và tiếp theo kéo theo sự đổi mới của cả nền
giáo dục TQ về nhiều mặt chủ trương và biện pháp để được hiệu quả hơn và không
duy ý chí. Đổi mới tư duy rồi mới đổi mới đến hành động và cách làm.
Song đổi mới cái gì và bằng cách nào ?
Trong báo cáo này, chúng tôi đề cập chủ yếu ở khía cạnh đổi mới giáo dục bằng
việc phát triển và ứng dụng Công Nghệ Thông Tin và Truyền Thông, là con đường,
là biện pháp tất yếu và là quan trọng nhất hiện nay mà tất cả các nước đều quan tâm
thực hiện. Cụ thể là đổi mới về quản lí giáo dục, về chương trình đào tạo mọi
ngành, về phương pháp dạy và học, về đào tạo và sử dụng Công Nghệ Thông Tin
và Truyền Thông, nhận thức và tư duy về Công Nghệ Thông Tin và Truyền
Thông…
Bảng 1: Xu thế giáo dục trong tương lai

ĐIỂM YẾU CỦA HỆ
THỐNG GIÁO DỤC
HIỆN TẠI

HỆ THỐNG GIÁO DỤC
TRONG TƯƠNG LAI

ĐẶC ĐIỂM

Mở, mềm dẻo. E-learning:
Đóng kín, cứng nhắc học ở mọi nơi, mọi lúc, học Thay đổi tâm lí
mọi thứ, ai học cũng được.
Nối mạng giáo dục/móc
Cấu trúc hoá lại cả về hệ
xích các trường với nhau thống giáo dục lẫn nội dung
Phân mảnh rời rạc các Sự hội tụ, giao thoa của các
- Giáo viên trở thành người
trường và các ngành
ngành với nhau và với Công
hướng dẫn hơn là người
Nghệ Thông Tin và Truyền
dạy dỗ
Thông
Học trong một khoảng đời Học suốt đời
Tiêu chuẩn chất lượng mới
Tập trung vào chuyện thi Tập trung vào chất lượng Quốc tế hoá và hợp tác


cử


con người, nâng cao dân trí quốc tế.

2. THUẬT NGỮ MỚI: CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG
Xin điểm qua sự thay đổi thuật ngữ qua các thời kì khác nhau:
Điện tử + Toán tính (Điện toán) - Máy tính - Tin học - Công Nghệ Thông Tin Công Nghệ Thông Tin và Truyền Thông .
Thời kì đầu, điện tử và toán tính là hai ngành nghiên cứu độc lập. Cũng nên kể đến
công lao của ngành vật lí chất rắn đã phát minh ra chất bán dẫn. Hiện nay ngành
công nghiệp vi điện tử với các hãng nổi tiếng Intel, Motorola… đóng vai trò then
chốt trong sự phát triển Công nghệ Thông Tin và Truyền Thông của cả thế giới với
các bộ vi xử lí (CPU) ngày càng tinh vi, siêu nhanh và cũng … rẻ.
Cuối những năm 70, nước Pháp phát minh ra từ Informatique – Tin học, còn nước
Mĩ vẫn quen dùng thuật ngữ truyền thống là Computer Science.
Công Nghệ Thông Tin - CNTT ( tiếng Anh: IT - Information Technology ) là thuật
ngữ đã trở thành quen thuộc ở Việt nam sau khi có Nghị quyết 49 CP (4/8/1993) về
phát triển Công Nghệ Thông Tin ở nước ta trong những năm 90. Có thể kể lại rằng
thuật ngữ Công Nghệ Thông Tin lúc đó do Hội đồng Chính phủ quyết định trong
khi các chuyên gia thì lại bảo thủ hơn: họ vẫn muốn tiếp tục dùng thuật ngữ Tin
học.
Song bắt đầu từ năm 2000, thế giới lại bắt đầu dùng phổ biến thuật ngữ ICT:
Information and Communication Technology, Công Nghệ Thông Tin và Truyền
Thông (xin viết tắt là CN4T), hoặc trong chừng mực nào đấy có thể coi là sự giao
nhau của Điện tử – Tin học – Viễn thông. Sự thay đổi thuật ngữ cho thấy sự thay
đổi về bản chất quá trình tư duy và nhận thức: vai trò hiển nhiên của viễn thông
(tele-communication), của thông tin liên lạc (communication) trong đó Internet là
điển hình.
Năm 1932, thuật ngữ Tele - Communication ra đời với các công nghệ tele-phone,
tele-gram, tele-graph, rồi tele-vision … Còn bây giờ thế giới dùng e thay cho tele
làm tiếp đầu ngữ. Đầu tiên là e-mail, sau đến e-government, e-commerce, e-service
… và e-education, e-learning. Tất cả các e nói trên tạo nên một e chung: e-culture
(văn hoá số hay văn hoá điện tử). e là electronic, song nghĩa sâu xa của nó là

communication, là Internet, là digital, nghĩa là mọi công việc được thực hiện trên
mạng Internet để trao đổi thông tin với nhau bằng công nghệ số. Một khi đã lên
Internet, việc đó đồng nghĩa với việc công khai hoá 24/24, mở ra cho tất cả mọi
người. Người ta nhấn mạnh vào khía cạnh communication hơn là tele vì khoảng
cách không còn là vấn đề mấu chốt nữa. Communication có nghĩa là truyền thông
(tin), là trao đổi thông tin, là giao lưu, liên lạc với nhau, nói chuyện với nhau ….
Thế còn công nghệ truyền thông ? Xin lấy thí dụ minh hoạ là việc chuẩn bị 1000
cái trống cho lễ hội Thăng long. Công nghệ làm trống rất cao siêu: gỗ mít cao tuổi,


da trâu mộng … để mong có được tiếng trống âm vang, ròn rã, oai hùng. Tuy nhiên
khi xem và nghe truyền hình (quá trình truyền thông) thì tiếng trống chỉ là bập bùng
vì người ta quên mất việc tín hiệu tiếng trống có tần số rất thấp nên phải dùng
microphone tần số thấp và được bố trí thích hợp.
3. MÔ HÌNH THÔNG TIN CHUNG
Mô hình chung để chuyển dữ liệu đi đến quyết định là
Dữ liệu, số liệu thống kê - Thông tin - Tri thức - Ra quyết định
Nói ngược lại sẽ là: lãnh đạo hay bất cứ ai muốn ra quyết định thì phải có tri thức,
muốn có tri thức thì phải có thông tin, muốn có thông tin thì phải có dữ liệu, và dữ
liệu có chính xác hay không thì phải tốn công sức tiền của và còn phải biết cách
làm. Xưa nay công tác thống kê và lập báo cáo số liệu là một công tác tẻ nhạt,
không mấy ai thích làm. Vì vậy chúng ta phải nghĩ đến giải pháp dùng công nghệ
thông tin để giải quyết các vấn đề nói trên. Cũng phải nói luôn rằng công tác thông
tin phục vụ quản lí giáo dục ở Việt nam là một công tác còn có nhiều hạn chế và
yếu kém.
Thời gian qua chúng ta đã có lúc bàn đến kinh tế tri thức song với mô hình trên và
trên thực tế, chúng ta phải giải quyết thông tin và dữ liệu trước khi nói đến tri thức,
nghĩa là phải xây dựng xã hội thông tin như Nghị quyết 49 CP đã nêu ra trước khi
vươn tới xã hội có nền kinh tế dựa trên tri thức.
Nước ta hiện nay cơ bản vẫn là một nước lạc hậu về thông tin: chưa thiết lập được

hệ thống thông tin tin cậy và chưa đáp ứng kịp thời cho quản lý và điều hành của
bộ máy Nhà nước từ trung ương tới địa phương; thiếu thông tin từ trong nước cũng
như từ nước ngoài cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, nghiên cứu
khoa học và các hoạt động khác của xã hội. (Trích Nghị quyết 49 CP)
Sự lạc hậu về Công Nghệ Thông Tin và Truyền Thông được thế giới dùng đến với
một thuật ngữ rất nổi tiếng digital divide.
Giá trị của thông tin rất lớn. Thông tin và tri thức có đặc điểm giống ánh sáng:
không mùi, không vị, không khối lượng, không sờ thấy được song ta cảm giác
được. Chúng cũng đem ánh sáng và văn minh tới mọi người. Lớn lao tới mức
không có thì sẽ không tồn tại được vì sự lạc hậu.
4. SỰ LẠC HẬU VỀ VĂN HOÁ SỐ – DIGITAL DIVIDE
Digital divide theo nghĩa đen là sự ngăn cách, tụt hậu về công nghệ số. Đây là một
khái niệm được dùng để chỉ sự lạc hậu về CN4T của các nước đang phát triển, của
các vùng miền, của một số lớp người ở ngay trong một nước. Chúng tôi đề xuất
dịch là sự lạc hậu về văn hoá số. Khắc phục sự lạc hậu về văn hoá số (Bridging the
digital divide) là một chủ đề được thế giới thường xuyên bàn đến hiện nay và
thường hay cho tiền tài trợ. Digital divide là việc mua máy tính về làm cảnh, là việc


mua máy tính thì nhanh (nặng về tư duy vật chất) song không hiệu quả vì không
biết triển khai ứng dụng (kém về tư duy trí tuệ), là không biết dùng e-mail, là
không biết dùng word…
Thực tế này được thế giới công nhận và họ đã đưa đến công thức từ 15 tuổi:
e Skills x Age = Const
Tạm dịch:
Kĩ năng văn hoá số x Tuổi = Hằng số
Nói đến kĩ năng sử dụng, ta thấy trong khi Internet đã trở thành phổ cập đến mức
các quán Cafe Internet mọc ra như nấm và trẻ em học Internet, học sử dụng máy
tính trong nháy mắt, ham mê chatting với cả mớ địa chỉ e-mail trong đầu để dùng
mỗi nơi mỗi lúc một cái thì nhiều nhà quản lí, nhiều nhà khoa học cao cấp đến giờ

vẫn chưa biết dùng Internet, vẫn chưa có địa chỉ e-mail cho riêng mình. Liên lạc
giữa Bộ và các trường, các sở chủ yếu vẫn là … điện thoại đường dài và nói chuyện
dài dài.
Sự lạc hậu về văn hoá số này sẽ dẫn đến tầm nhìn và tầm hiểu biết hạn chế nên kéo
theo quyết định không được chuẩn về nhiều vấn đề, không riêng gì lĩnh vực tin học.
Thí dụ như xây dựng chương trình, giáo trình, trung học chuyên ban, soạn giáo
án ... đều phải cần đến Internet hỗ trợ để tham khảo.
5. CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC
Công nghệ Thông Tin và Truyền Thông (CN4T) đã trở thành một yếu tố then chốt
làm thay đổi thế giới nói chung và đặc biệt cho giáo dục. Công Nghệ Thông Tin và
Truyền Thông đã trở thành hạ tầng và động lực cho sự phát triển kinh tế, xã hội,
văn hoá và giáo dục. Công nghệ Thông Tin và Truyền Thông đang làm nên một
cuộc đổi mới mạnh mẽ trong giáo dục, tạo ra Công nghệ giáo dục (Educational
Technology) với nhiều thành tựu rực rỡ bao gồm:
Công nghệ dạy và học (Teaching and Learning Technology): Làm thay đổi nội
dung, phương pháp dạy và phương pháp học với nhiều hình thức phong phú. Mối
giao lưu giữa máy và người đã trở thành tương tác hai chiều với nhiều phương tiện
truyền thông (multimedia) là âm thanh, tiếng nói, hình ảnh, phim… mà đỉnh cao là
học trên mạng Internet (e-learning). Nội dung phần này đã được trình bày trong
một báo cáo riêng. Nhờ có công nghệ mới mà giáo dục đã có thể thực hiện những
tiêu chí mới: học mọi nơi (anywhere), học mọi lúc (anytime), học mọi thứ (on
anythings), học một cách mở và mềm dẻo suốt đời (open and flexible lifelong
learning)… nhờ tổ chức việc học trên mạng Internet (e-learning).
Như vậy về bản chất, quá trình Dạy và Học là quá trình Thông Tin và Truyền
Thông : 4T. Thông tin là nội dung bài giảng và tri thức cần truyền đạt. Quá trình


trao đổi thông tin (truyền thông) là quá trình trao đổi giữa thầy và trò, giữa người
học với các nguồn tư liệu học tập.
Công nghệ quản lí giáo dục (Education Management Technology): Làm thay đổi

cung cách điều hành và quản lí giáo dục, hỗ trợ công cuộc cải cách hành chính để
làm việc hiệu quả hơn (kinh tế, thời gian, thông tin, tri thức) và quản lí quá trình
học tập (Learning management). Đây cũng là nội dung chính sẽ được đề cập đến
trong bản báo cáo này.
Như vậy về bản chất, quá trình quản lí giáo dục cũng là 4T: Thông Tin và Truyền
Thông. Khi này các thông tin phản ánh hình ảnh thực trạng của giáo dục. Quá trình
tìm hiểu nắm bắt hình ảnh gốc qua các báo cáo là quá trình trao đổi thông tin để ra
các quyết định.
Công nghệ dạy và học sẽ hỗ trợ trực tiếp quá trình học tập của người học trong khi
đó công nghệ quản lí giáo dục là phần hỗ trợ gián tiếp cho quá trình học tập. Song
cả hai đều ảnh hưởng đến kết quả của người học. Đơn cử là nếu tổ chức và quản lí
thi, đánh giá không tốt thì mọi nỗ lực học tập của người học cũng như nỗ lực dạy
học của thầy sẽ có thể trở thành vô nghĩa khi điểm của người nọ ráp vào người kia
(chuyện đã từng xẩy ra).
Đa số các trường đại học trên thế giới đều có Trung tâm Công nghệ giáo dục. Còn
ta … thuật ngữ Công nghệ giáo dục đôi lúc còn bị hiểu theo một nghĩa khác trong
giáo dục phổ thông thông qua Trung tâm Công nghệ giáo dục.
Chúng ta cũng phải đổi mới nhận thức về vai trò của Công nghệ Thông Tin và
Truyền Thông đối với giáo dục. Từ chỗ chỉ quan tâm hẹp đến:
- Công nghệ Thông Tin và Truyền Thông là một ngành học. (Hiển nhiên).
Song vấn đề không còn đơn giản như vậy mà cần phải thấy rộng ra:
- Công nghệ Thông Tin và Truyền Thông là công cụ cho mọi cuộc đổi mới giáo
dục, cho mọi ngành, mọi bậc học. (Kể cả ngành xã hội nhân văn, kể cả bậc học mẫu
giáo).
- Công nghệ Thông Tin và Truyền Thông đã đem đến một tài nguyên giáo dục cho
tất cả mọi người, làm cho vai trò của giáo viên thay đổi (thiên về phía người hướng
dẫn), người học có thể phát huy tính tích cực tự truy cập vào nguồn tài nguyên học
tập vô cùng phong phú ở trên mạng Internet (e-learning) mọi lúc, mọi nơi, mọi thứ,
cho mọi loại hình giáo dục chính qui hay không chính qui, ngoại khoá … Đó là các
tiêu chí mới của giáo dục mà từ trước tới nay chưa bao giờ có thể đạt được.

Vì vậy từ chỗ nghe thấy Công nghệ Thông Tin và Truyền Thông là chúng ta nghĩ
đến việc mở khoa Công Nghệ Thông Tin, mở khoa Điện tử – Viễn thông, là mở
Trung tâm đào tạo, là đào tạo nguồn nhân lực Công nghệ Thông Tin thì nay chúng
ta sẽ phải nhìn Công nghệ Thông Tin và Truyền Thông bằng con mắt khác: quyền


được hưởng thành quả cách mạng Công nghệ Thông Tin và Truyền Thông của tất
cả mọi người, mọi ngành và do đó tất cả đều phải sử dụng đến Công nghệ Thông
Tin và Truyền Thông. Nên thay đổi cách nghĩ là bị ép buộc phải dùng mà nên nghĩ
là quyền được hưởng, quyền được dùng.
6. ĐỔI MỚI QUẢN LÍ GIÁO DỤC - CÔNG NGHỆ QUẢN LÍ
Một thời tụt hậu của tư duy quản lí
Một hiện thực là các nhà quản lí các cấp nói chung (không riêng gì giáo dục) cho
đến nay thường không bắt kịp sự tiến bộ của công nghệ, đặc biệt là Công nghệ
Thông Tin và Truyền Thông. Sự lạc hậu thể hiện trên cả hai phương diện: tư duy
quản lí và kĩ năng sử dụng.
Thí dụ việc mở Internet: chúng ta đã áp dụng khẩu hiệu “Quản lí tới đâu thì cho mở
(Internet) tới đấy” (Nghị định 22, kí 1997). Đây là cách suy nghĩ ấu trĩ của những
ngày ban đầu vì các nhà quản lí đều nhìn Internet như con ngáo ộp với những dư
luận xấu, chưa phải bằng cách mắt thấy, tai nghe, tay dùng thử. Ngày 23/8/2001
vừa rồi, Chính phủ khẳng định qua Nghị định 55 với một khẩu hiệu rất đổi mới, rất
cách mạng: “Năng lực quản lí phải theo kịp sự phát triển công nghệ” vì mọi việc đã
rõ ràng: Internet là hạ tầng của sự phát triển. Tuy nhiên mong muốn Internet ngày
càng trở phổ biến vẫn đang gặp rào cản khác: giá cước ở Việt nam quá cao trong
khi thu nhập cực thấp, hạ tầng kĩ thuật (băng thông đường truyền) cũng còn thấp.
Thế độc quyền bưu điện cũng đang được tháo bỏ dần qua Nghị định 55. Bên cạnh
đó còn phải kể đến sự lạc hậu về văn hoá số của các nhà quản lí. Khẩu hiệu nói trên
của Chính phủ không chỉ đúng cho việc phát triển Internet mà còn đúng cho nhiều
ngành ở Việt nam.
Một số thực tế khác ở Việt nam do nhận thức sai lệch của các nhà quản lí:

- Phòng máy tính được quản lí chặt chẽ tới mức chỉ được mở ra ở những giờ có
môn tin học. Các giờ khác ngay cả giáo viên tin học cũng không được phép vào.
- Cho giáo viên tin học (phổ thông) đi dạy giáo dục công dân vì thấy thừa ?!
Quản lí giáo dục và sự đổi mới
Quản lí giáo dục hiện nay có thể nói còn khá vất cả: thu thập thông tin còn thủ
công, tìm kiếm thông tin cũng thủ công, mang tính mệnh lệnh giấy tờ hành chính.
Thí dụ sinh viên tốt nghiệp khi ra trường phải chạy đi xin chữ kí các phòng ban để
chứng nhận không nợ gì, thông báo điểm tuyển sinh đại học cũng chỉ dừng ở mức
dán lên tường, chưa chính thức đưa lên mạng Internet.
Kì tuyển sinh đại học vừa qua, Bộ GD và ĐT (Vụ đại học, TRUNG TÂM TIN
HỌC) đã hợp tác cùng Công ty VDC bắt đầu chính thức đưa thông báo kết quả
điểm tuyển sinh đại học lên mạng Internet, lên bảng web của Bộ và của VDC. Điều
này đã được xã hội hoan nghênh, giải toả được những bất cập của cách làm cũ: tốn


kém thời gian, công sức, tiền của, giải đáp được sự khắc khoải chờ tin của thí sinh
và gia đình. (Tuy việc này làm có chậm chạp một chút). Trong năm tới, chúng tôi
mong rằng đích thân Hiệu trưởng các trường quan tâm tới việc đưa kết quả lên
mạng Internet, coi đó là điều bắt buộc.
Một thí dụ khác về in đề thi phổ thông và đại học: trước đây học sinh phải chép tay
mất 30 phút, còn Bộ thì phải in đề mỏi tay vì quay roneo và ngồi lo sợ lộ đề trong
quá trình di chuyển phân phát. Nhờ một chút công nghệ hỗ trợ, học sinh đi thi mỗi
người một đề cầm trong tay, còn Bộ thì chỉ gửi đĩa mềm mã hoá cho các sở.
Việc quản lí trên mạng đã đem lại lợi ích to lớn: tiện lợi, nhanh chóng, hiệu quả và
chính xác, tránh phình to bộ máy hành chính. Chúng ta không thể tiếp tục cử nhiều
đoàn thanh tra tới các trường, các đơn vị… tra cứu từng núi hồ sơ để tìm văn bằng
giả. Chúng ta không thể buông lỏng quản lí du học tự túc nhưng cũng không thể tạo
ra những thủ tục phiền hà cho người đi học … Áp dụng Công nghệ Thông Tin và
Truyền Thông cho quản lí là một con đường đúng và cần đẩy mạnh triển khai.
Các công việc cần làm để đổi mới quản lí giáo dục gồm

- Xây dựng hạ tầng cơ sở:
* Mạng máy tính nội bộ (LAN),
* Mạng truyền thông kết nối giữa các đơn vị ở xa, kết nối Internet.
* Đăng kí tên miền riêng và thiết lập hệ thống e-mail riêng.
- Tin học hoá công tác điều hành hàng ngày: quản lí công văn, theo dõi công việc,
lập lịch công tác, lập báo cáo, tổng hợp, trao đổi bằng thư điện tử …
-Xây dựng các Hệ thống thông tin quản lí giáo dục (EMIS: Education Management
Information System) bao gồm nhiều EMIS chứ không chỉ cần có một. Mỗi Vụ bậc
học, mỗi đơn vị trong Bộ quan tâm tới một EMIS của mình. EMIS tiểu học, EMIS
trung học, EMIS đại học, EMIS nghiên cứu khoa học, EMIS cơ sở vật chất, EMIS
giáo viên … song tốt nhất phải là e-EMIS.
- Nâng cao nhận thức, hiểu biết của đội ngũ quản lí và chuyên viên thông qua huấn
luyện, bồi dưỡng và đào tạo cán bộ.
- Tiếp thu chuyển giao công nghệ, triển khai thực tế hệ thống nói trên đi đôi với
việc nhập dữ liệu, bảo dưỡng hệ thống … thường xuyên hàng năm
Trên thực tế các dự án tin học hoá quản lí thường hay thất bại vì sự yếu kém của
mục d và mục e. Khi tiếp xúc với các đơn vị, chúng tôi sợ nhất là mục mua máy thì
nhanh, xây dựng phần mềm và triển khai nhập tin hàng ngày thì lờ đi. Hệ thống
máy tính đắt tiền trở thành đống máy chữ.
Và công nghệ để đổi mới quản lí giáo dục ở Việt nam


Mấu chốt chính là các hệ thống phần mềm quản lí mọi hoạt động như đào tạo,
Nghiên Cứu Khoa Học, hành chính, tài chính … do Trung tâm Tin học của Bộ thiết
kế và triển khai. Đặc điểm cơ bản và nổi bật là cực kì dễ dùng, chạy cả trên mạng
nội bộ cũng như trên mạng Internet, có thể hiểu như là e-EMIS. Chúng tôi đề xuất
một hệ thống quản lí mới trong đó danh sách mọi lớp học (cả phổ thông lẫn đại
học) khi bắt đầu hình thành lớp học phải được đưa vào quản lí trên máy tính của
trường và Bộ. Làm được điều này thì thật sự là cả một cuộc cải cách về quản lí giáo
dục.

- Hệ thống quản lí đào tạo đại học, quản lí sinh viên. Mô hình quản lí sẽ là danh
sách mọi lớp học được lập ra ngay khi mở khoá đào tạo và được chuyển lên hệ
thống mạng quản lí giáo dục. Sinh viên ra trường ? Vô cùng đơn giản: một cửa và
máy tính sẵn sàng in ra luôn cả hồ sơ, học bạ, kể cả ảnh. Quản lí mọi loại hình đào
tạo: Chính qui, tại chức …
- Hệ thống quản lí hoạt động khoa học, quản lí các đề tài Nghiên Cứu Khoa Học,
- Hệ thống quản lí đào tạo sau đại học,
- Hệ thống quản lí nghiên cứu sinh, kể cả công bố và lưu trữ luận án,
- Hệ thống quản lí công chức và giáo viên,
- Hệ thống tuyển sinh đại học, cao đẳng (bản mới)…
- Hệ thống quản lí tài chính, kế toán.,
- Quản lí hợp tác quốc tế,
- Quản lí du học bằng ngân sách nhà nước,
- Quản lí văn bằng chứng chỉ,
- Quản lí việc du học bằng ngân sách nhà nước (niêm yết chỉ tiêu, nội dung thi
tuyển, danh sách trúng tuyển, các nơi nhận đào tạo…),
- Sổ tay quản lí sinh viên của một giáo viên trên mạng.
- Xây dựng hệ thống e-mail riêng, hệ thống thông tin tựa web (web based) riêng.
Các phần mềm trên đã triển khai cho một số Vụ như KHCN, SĐH …và phát huy
được tác dụng.
Ngoài ra chúng tôi cũng đã xây dựng thành công hệ thống thông tin cho giáo dục
phổ thông:
- Hệ thống mạng của Sở GD và ĐT: e-mail và website với tên miền riêng, hệ thống
thông tin cho toàn sở…


- Phần mềm quản lí các trường phổ thông,
- Phần mềm hỗ trợ và giúp tự xếp thời khoá biểu phổ thông,
- Niên giám điện tử về thống kê tổng hợp số liệu giáo dục ở mọi cấp trường, phòng,
sở, bộ.

Chúng tôi đang tiến tới làm các phần sau:
- Quản lí các trung tâm làm dịch vụ du học tự túc (niêm yết giấy phép, các hoạt
động tuyển sinh, nơi học, chương trình học, kinh phí đào tạo…),
- Quản lí các hoạt động liên doanh, liên kết đào tạo …
Mấy dòng trên giới thiệu không chỉ là các sản phẩm công nghệ mà còn là sự thể
hiện những việc làm cụ thể, đi trước một bước của công nghệ: làm trước, nói sau.
Trăm hay, trăm thấy không bằng một lần dùng thử ! Quí vị có thể thăm quan chi
tiết hoặc dùng thử các phần mềm quản lí giáo dục đại học nói trên.
Cải cách giáo dục với Công nghệ Thông Tin và Truyền Thông
Đề xuất về một cuộc cải cách giáo dục ở Việt nam trong giai đoạn này mà không có
Công nghệ Thông Tin và Truyền Thông góp phần (theo nghĩa những người thiết
kế, thực hiện chương trình cải cách cần biết khai thác Công nghệ Thông Tin và
Truyền Thông để tham khảo thế giới, để mở rộng tầm nhìn, để coi đó là phương
tiện đổi mới nội dung và phương pháp…) thì có thể coi là cầm chắc lấy sự lạc hậu
vì thiếu thông tin.
Chương trình hoạt động của APEID (Asia and the Parcific Progamme of
Educationnal Innovation for Development) của UNESCO được chuẩn bị cho giai
đoạn 2002-2007 đã có chủ đề Sử dụng Công nghệ Thông Tin và Truyền Thông để
đổi mới giáo dục (Use of Information and Communication Technologies for
Educational Innovations). Việt nam chúng ta cũng đang bàn đến cải cách giáo dục
song liệu có tính đến Công Nghệ Thông Tin và Truyền Thông ?
7. ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY VÀ HỌC – CÔNG NGHỆ DẠY - HỌC
Đổi mới phương pháp dạy và học là một trong những mục tiêu lớn được ngành giáo
dục và đào tạo đặt ra trong giai đoạn hiện nay và là một mục tiêu chính đã được
Nghị quyết TW2, khoá VIII chỉ ra rất rõ ràng và cụ thể:
"Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một
chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các
phương pháp tiến tiến và phương tiện vào quá trình dạy và học, bảo đảm điều kiện
và thời gian tự học, tự nghiên cứu của học sinh, nhất là sinh viên đại học. Phát triển
mạnh phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân, nhất

là thanh niên".


Một ý kiến khác: "Phương pháp giảng dạy ở các Trường đại học hiện nay rất lạc
hậu, cách truyền thụ kiến thức bằng độc thoại vẫn là phổ biến. Phương pháp của
sinh viên rất thụ động".
Công Nghệ Thông Tin và Truyền Thông với công nghệ multimedia, với Internet,
với đĩa CD, và đặc biệt là e Learning (học qua mạng) đang làm thay đổi cách thức
dạy và học. Từ chỗ thầy dạy suông, trò học thụ động theo kiểu công nghệ chép lấy
chép để bài giảng trên lớp phổ biến như hiện nay, công việc dạy và học đã thay đổi
với phương châm mới:
- Học tập mềm dẻo suốt đời thay cho học để thi cử trong một đoạn cuộc đời.
- Học để nâng cao chất lượng cuộc sống, để nâng cao trí tuệ hơn là vì học để thi cử
lấy bằng cấp.
- Tích cực hoá quá trình dạy và học qua các việc làm cụ thể của giáo viên thay vì lí
luận nhiều.
Tính tích cực hoá trong quá trình học tập sẽ làm cho quá trình học hứng thú, hưng
phấn hơn, hiệu quả hơn, hiểu bài nhanh hơn, nhớ bài lâu hơn. Công nghệ Thông
Tin và Truyền Thông làm được điều đó vì: sử dụng các loại phương tiện nghe và
nhìn trong multimedia, tạo ra các tình huống học tập khác nhau, tạo ra các nguồn
tài nguyên phong phú trên mạng.
- Vận dụng linh hoạt việc áp dụng Công nghệ Thông Tin và Truyền Thông vào
từng hoàn cảnh, không áp dụng một cách máy móc, cứng nhắc.
* Giáo viên tâm đắc với phần mềm nào thì quá trình giảng dạy mới đạt hiệu quả.
Mọi sự áp đặt từ cấp trên đưa xuống sẽ trở nên vô nghĩa. Phương pháp giảng dạy
tốt là do giáo viên trực tiếp đứng lớp quyết định, không phải ai đó ở các viện
nghiên cứu sáng tác ra để áp đặt cho họ.
* Không cứng nhắc trong việc xây dựng chương trình đào tạo về Công nghệ Thông
Tin và Truyền Thông, trong việc xây dựng nội dung bài giảng.
- Giáo viên tự xây dựng công cụ giảng dạy nhờ hợp tác của chuyên gia Công nghệ

Thông Tin và Truyền Thông
Chúng ta cần phải chuyển giao công nghệ làm phần mềm dạy học tới mọi giáo viên
đại học cũng như phổ thông để họ … tự làm. Bên cạnh đó, mỗi giáo viên sẽ tự làm
trang web của mình, tự sản xuất phim chiếu overhead để dạy học. Đây là một chủ
trương cần phải nhân rộng để tạo ra một bình diện mới, một phong trào mới. Các
chuyên gia Công nghệ Thông Tin và Truyền Thông không thể làm hết các phần
mềm dạy học, một phần do thời gian có hạn, một phần chủ yếu là họ không hiểu
bài giảng như các giáo viên chuyên môn. Vì vậy cần có sự kết hợp giữa chuyên gia
Công nghệ Thông Tin và Truyền Thông và các nhà chuyên môn khác.


Vì vậy tại Hội nghị giám đốc Sở GD và ĐT tại Đà nẵng, 7/2001, nguyên Bộ trưởng
Bộ Giáo dục Nguyễn Thị Bình đã có lời nhận xét phê bình về đổi mới phương pháp
giảng dạy lâu nay ta đã nói nhiều, nhưng làm thì ít.
Chúng tôi cũng đã thử nghiệm công nghệ dạy môn tin học đại cương tại trường Đại
Học Bách Khoa Hà Nội và dạy toán lớp 2 trên CD và mạng Internet với công nghệ
Multimedia.
- E-learning: đỉnh cao của công nghệ dạy và học
Các cua học được tổ chức trên mạng Internet đã đáp ứng được mọi tiêu chí: học
mọi nơi, học mọi lúc, học mọi thứ và học mềm dẻo, học một cách mở và học suốt
đời. Đó là quyền được hưởng của nền giáo dục cho mọi người. Với mạng giáo dục
EduNet, chúng ta có thể tổ chức e-Learning.
E Learning cấu thành bởi 3 phần:
Công cụ gồm :
- Các phần mềm tạo bài giảng (Authoring tools).
- Các phần mềm quản lí dạy và học (Learning Management Systems, LMS).
- Phần máy móc: webcam, camera, server…
Nội dung: giáo viên tạo ra các bài giảng, cua học… Cần tổ chức đào tạo tập huấn
để họ tự làm lấy bài giảng.
Dịch vụ: đưa bài giảng đến với sinh viên, học sinh qua đĩa CD, hoặc trực tuyến. Có

thể thu lệ phí. Có thể tổ chức khoá học ảo
Trung tâm Tin học sẽ tư vấn, triển khai, chuyển giao, đào tạo để có công nghệ e
Learning thích hợp, dễ dùng, thiết thực, hiệu quả. Không nên “chạy đua” sắm các
hệ thống phức tạp tốn cả triệu USD, mua về không dùng được do đội ngũ cán bộ
chưa cân xứng với công nghệ.
8. ĐỔI MỚI ĐÀO TẠO VÀ ỨNG DỤNG VỀ Công nghệ Thông Tin và Truyền
Thông
Hiện nay nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực về Công Nghệ Thông Tin được Chính
phủ giao cho Bộ GD và ĐT. Trong báo cáo này chúng tôi chủ yếu đề cập đến một
số vấn đề đổi mới tư duy và giải pháp cần quan tâm.
Đổi mới hoạt động của giáo viên với Công nghệ Thông Tin và Truyền Thông:
- Huy động, động viên tất cả giáo viên ở tất cả các bộ môn và khoa để dạy một số
môn tin học hoặc ứng dụng Công nghệ Thông Tin và Truyền Thông. Thí dụ giáo
viên các khoa kĩ thuật nên trực tiếp dạy tin học đại cương, tin học ứng dụng chuyên


ngành, ngôn ngữ lập trình PASCAL, C/C++… Như vậy vừa đỡ tải cho khoa Công
Nghệ Thông Tin, vừa phát huy được năng lực về Công Nghệ Thông Tin của các
khoa. Ngay cả các khoa xã hội nhân văn, giáo viên có thể trực tiếp dạy các môn
như Soạn thảo văn bản với phần mềm word, khai thác word xử lí tiếng Việt (thí dụ
thống kê tần suất từ tiếng Việt…).
- Hiệu ứng sao đổi ngôi: Trên thế giới, nhiều lúc sinh viên, học sinh phổ thông sẽ
làm thầy về Công Nghệ Thông Tin cho thầy của mình ở các môn học khác.
- Tất cả giáo viên phải được khai thác Internet vào công tác chuyên môn của mình.
- Tất cả các khoa nên có phòng máy tính riêng, không bị lệ thuộc vào khoa Công
Nghệ Thông Tin hay Trung tâm máy tính của trường vì hiện nay việc sử dụng máy
tính là việc thường xuyên hàng ngày của mọi người.
Đổi mới xây dựng chương trình giáo trình
Thay đổi quan điểm và cách làm theo nguyên tắc: mềm dẻo hoá. Cần để mỗi khoa,
mỗi bộ môn Công Nghệ Thông Tin tự bỏ công sức ra xây dựng chương trình của

mình, tự biên soạn sách giáo trình. Bỏ đi cách làm cũ lâu nay vẫn thực hiện là Bộ
đứng ra làm chương trình chung để dùng cho các trường. Mỗi đơn vị đào tạo đại
học cần phải là một chủ thể trưởng thành, độc lập và tự chịu trách nhiệm. Sự phân
công triệt để trong quản lí cũng cần được thể hiện trong công việc này. Cơ chế
mềm dẻo này có thể ví như kẹp tài liệu đục 2 lỗ để có thể thay đổi dễ dàng tài liệu
kẹp bên trong trong khi đó cuốn sách giáo khoa thể hiện sự cứng hoá, không thay
đổi. Cơ chế mềm dẻo cho nhiều cấp Bộ, trường, khoa, bộ môn và giáo viên có thể
ví như cách tay có bắp tay, khuỷu tay, bàn tay và từng ngón tay, đốt ngón tay. Nhờ
có độ tự do riêng của mỗi bộ phận và các khớp nối mà cánh tay có thể làm được
mọi việc.
Thời lượng học: Tiến tới cần xây dựng các môn tin học và ứng dụng Công nghệ
Thông Tin có thời lượng như Vật lí đại cương, toán cao cấp với nhiều modun khác
nhau tuỳ thuộc vào chuyên ngành, tuỳ thuộc vào mỗi trường để vận dụng. Đã đến
lúc phải làm như vậy.
Chấp nhận việc áp dụng một số chương trình đào tạo về Công nghệ Thông Tin và
Truyền Thông của nước ngoài để tham khảo, thậm chí dùng nguyên xi để không bị
tụt hậu.
Dùng trực tiếp tiếng Anh: như đã phân tích, tiếng Anh là rất quan trọng. Vì vậy tiến
tới chấp nhận việc dùng ngay giáo trình bằng tiếng Anh để giảng dạy và mời thầy
dạy trực tiếp bằng tiếng Anh cho một số môn chuyên ngành để sinh viên tập nghe.
Thêm thời gian (2 tháng ?) để sinh viên viết và bảo vệ luận án bằng tiếng Anh bên
cạnh việc đã bảo vệ bằng bản tiếng Việt. Đây cũng là một biện pháp nâng cao chất
lượng, chủ yếu là luyện nói vì phần văn viết khá phong phú do tư liệu tham khảo


qua Internet rất nhiều. Tất nhiên cần có các biện pháp để khuyến khích sinh viên:
chứng chỉ, suất học bổng...
Một điều quan trọng hơn cả là cần đổi mới tất cả các chương trình, giáo trình ở mọi
bậc học, mọi môn học, mọi ngành học dưới sự soi rọi và góp phần đắc lực của
Công nghệ Thông Tin và Truyền Thông. Y khoa, khoa học xã hội và nhân văn … ?

Rất cần đến Công nghệ Thông Tin và Truyền Thông! Thời lượng về Công nghệ
Thông Tin và Truyền Thông trong các môn học cũng tăng lên.
Xây dựng chương trình Nghiên Cứu Khoa Học về Công nghệ Thông Tin và Truyền
Thông để đổi mới giáo dục
Chúng ta cần có một chương trình nghiên cứu về Công nghệ Thông Tin và Truyền
Thông để đổi mới giáo dục phổ thông và đại học với nhiều chủ đề và trên nhiều
phương diện: quản lí, dạy, học, tâm lí, mạng giáo dục, e-learning, tài nguyên học
tập, tích hợp trong các môn học, giao diện tựa web, mô hình cấp sở, cấp trường phổ
thông, cấp đại học, multimedia, hypertext, authoring, mô phỏng quá trình học, môi
trường phân tán, học từ xa qua mạng ... Đây là một việc cần làm trong công tác
nghiên cứu khoa học ở nước ta.
9. XÂY DỰNG MẠNG GIÁO DỤC EduNet
Mạng giáo dục đều được các nước tiên tiến xây dựng. Tuyên bố chung của Bộ
trưởng các nước thành viên APEC cũng đề ra việc xây dựng EduNet ở mỗi nước.
Chỉ thị 58 chỉ rõ: “Đặc biệt tập trung phát triển mạng máy tính phục vụ cho giáo
dục và đào tạo, kết nối Internet tới tất cả các cơ sở giáo dục và đào tạo”. Mạng giáo
dục đóng vai trò là cột xương sống (backbone) của sự đổi mới và cải cách giáo dục.
Trung tâm Tin học được Bộ giao cho chủ trì dự án xây dựng Trung tâm điều khiển
mạng giáo dục.
Ngày 4/4/2003, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Minh Hiển và Bộ
trưởng Bộ BC-VT Đỗ Trung Tá đã kí kết bản ghi nhớ về việc hợp tác phát triển
mạng giáo dục EduNet. Theo đó, Bộ BC-VT chỉ đạo các đơn vị doanh nghiệp viễn
thông cung cấp hạ tầng kết nối mạng tới công trường. Các đơn vị của Bộ GD và ĐT
có trách nhiệm đầu tư mạng LAN, thiết bị đầu cuối, phát triển nội dung, đào tạo cán
bộ… Trung tâm Tin học là đơn vị chủ trì mạng giáo dục (Chỉ thị 29 phân công).
8/2003, Bộ GD và ĐT đã kí tiếp bản ghi nhớ với Tổng Công ty Điện lực về việc
hợp tác phát triển và khai thác hạ tầng viễn thông phục vụ mạng giáo dục. Theo đó,
Tcty Điện lực nhận rải cáp quang miễn phí đến các trường. Có cáp quang, băng
thông đường truyền đủ lớn, việc dạy và học qua mạng sẽ thuận lợi hơn.
7/2003: Dịch vụ ADSL (Internet băng thông rộng) đã được triển khai ở Việt nam

với giá khoán 1 triệu/tháng. Sự kiện này đã đánh dấu sự thay đổi về chất và giá cả.


Đến 25/12/2003: đã có 96% các trường cấp 3 trong cả nước được nối mạng
Internet.
Cánh cổng của mạng giáo dục EduNet đã bắt đầu mở. Chúng ta còn nhiều việc phải
làm, nhất là đào tạo cán bộ và phát triển nội dung.
Đề xuất một số ý tưởng:
- Bước đầu xây dựng dự án mạng campus nối Trung tâm Tin học của Bộ với Đại
Học Bách Khoa Hà Nội, Đại Học Xây dựng, Đại Học Kinh tế quốc dân, Đại Học Y
khoa … cùng một số trường phổ thông xung quanh. Hạ tầng kĩ thuật sẽ là một vòng
cáp quang băng thông cực lớn, có thể nối thẳng cổng Internet và cổng vệ tinh ?
- Cho phép các trường ĐH lớn và mạng giáo dục nối thẳng vào vệ tinh như SaiGon
Software Park (SSP) đã làm.
- Tiếp tục giảm giá ADSL để có thể mỗi khoa, mỗi bộ môn, mỗi trường có một
đường kết nối. Các nước khác giá kết nối ADSL khoảng 20 USD - 29 USD.
10. YẾU TỐ CON NGƯỜI
Trong tất cả các hệ thống mạng thông tin máy tính thì yếu tố con người vẫn là
quyết định. Để có thể khai thác một cách có hiệu quả các trang thiết bị, các ứng
dụng phần mềm thì song song với việc triển khai hệ thống mạng và các phân hệ
thông tin, chúng ta cũng cần phải có các yếu tố sau:
- Sự quyết tâm đổi mới phương thức làm việc của lãnh đạo các cấp trong Bộ,
trường đại học, sở qua việc tin học hoá. Chính phủ đã có Quyết định 112 phê duyệt
Chương trình Tin học hoá quản lí hành chính nhà nước. Bên cạnh đó việc bổ nhiệm
chức danh mới là CIO (Chief Information Officier) đang được Ban Tổ chức Chính
phủ gấp rút chuẩn bị. (Xin xem phụ lục C).
- Sự hiểu biết về Công nghệ Thông Tin và Truyền Thông và vai trò Công nghệ
Thông Tin và Truyền Thông trong quản lí của các nhà quản lí giáo dục. Chúng ta
cần hiểu là: Thời gian là vàng, là tài sản. Việc chậm trễ thực hiện tin học hoá là mất
đi cơ hội sinh lợi và làm giầu, mất đi cơ hội thăng tiến, mất đi cơ hội được hưởng

thụ thành quả vĩ đại của Công Nghệ Thông Tin và truyền thông.
- Có đội ngũ cán bộ được đào tạo các kiến thức cần thiết về Công nghệ Thông Tin
và Truyền Thông. Phải tính đến việc tổ chức các lớp, khoá đào tạo cơ bản và nâng
cao cho cán bộ, nhân viên trong ngành để họ có thể đáp ứng được các yêu cầu của
công việc trong một môi trường làm việc mới.
- Có đội ngũ chuyên gia Công nghệ Thông Tin và Truyền Thông tinh nhuệ, nhiệt
tình và tận tâm với công việc để quản trị hệ thống mạng, để thiết kế hoặc triển khai
phần mềm.


- Sự phối hợp chặt chẽ giữa Văn phòng Bộ, các Vụ, Sở GD và ĐT, Trường Đại
Học với Trung tâm Tin học.
Việc tin học hoá nên xuất phát từ nhu cầu thực tế và nên làm sao cho thực sự có
hiệu quả. Kinh nghiệm cho thấy:
- Lãnh đạo các cấp không quan tâm tới tin học hoá quản lí thì mạng sẽ “chết”:
chẳng có thông tin trên mạng, chẳng có ai cập nhật thông tin. Các nhà quản lí cần
hiểu rằng tin học hoá quản lí là để giúp cho các nhà quản lí tăng thêm thông tin và
tri thức, ra các quyết định chính xác nên họ phải là người cần dùng đầu tiên chứ
không phải là nhân viên và càng không phải là các chuyên gia Công Nghệ Thông
Tin . Một lần nữa cho thấy chức danh Chief Information Officer - CIO bị khiếm
khuyết.
- Hệ thống phần mềm đóng vai trò quyết định sự thành công của công tác tin học
hoá.
- Không nên mua sắm thiết bị quá nhiều khi không hình dung ra nhu cầu về phần
mềm kèm theo cùng hiệu quả sử dụng của hệ thống.
- Chuyển giao công nghệ trọn gói là phương án nhanh nhất, hiệu quả nhất và đạt
kết quả chắc chắn nhất.
Tỉnh Hoà bình mặc dù là tỉnh miền núi và nghèo song lại là tỉnh đầu tiên trong cả
nước có hệ thống thông tin giáo dục hoàn chỉnh trên mạng Internet, có ứng dụng
các phần mềm dạy học tiểu học… Nguyên nhân đầu tiên dẫn đến thành công là

nhận thức, nhiệt tình và quyết tâm của trực tiếp lãnh đạo Sở, của cán bộ, giáo viên.
Nguyên nhân thứ hai là được Trung tâm Tin học chuyển giao toàn bộ các loại công
nghệ một cách trọn vẹn, đầy đủ.
11. PHƯƠNG HƯỚNG TRIỂN KHAI VÀ KHẢ NĂNG HỢP TÁC
Với tư cách là một Trung tâm đầu mối nghiên cứu, sản xuất, đào tạo về Công Nghệ
Thông Tin của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trung tâm Tin học đã sản xuất và cung cấp
các loại phần mềm, các hệ thống thông tin, chuyển giao công nghệ về Công Nghệ
Thông Tin. Trung tâm Tin học đã được lãnh đạo Bộ giao nhiệm vụ chủ trì dự án
mạng giáo dục (EduNet), chủ trì triển khai tin học hoá quản lí nhà nước…
Chúng tôi có thể hợp tác và chuyển giao công nghệ trên nhiều phương diện:
- Các phần mềm quản lí giáo dục như đã nêu trên.
- Triển khai hệ thống e Learning hiệu quả, thiết thực, nhanh chóng.
- Các phần mềm dạy học, kể cả việc hợp tác xây dựng phần mềm mới với các ý
tưởng kịch bản của giáo viên ở các trường, các sở.
- Công nghệ đổi mới phương pháp giảng dạy các môn học.


- Xây dựng hệ thống thông tin hoàn chỉnh, trang web cho mỗi trường, mỗi sở.
- Thiết kế và thực hiện mạng máy tính.
- Đào tạo chuyên gia quản trị mạng, chuyên viên Công Nghệ Thông Tin, bồi dưỡng
giáo viên…
- Xây dựng và triển khai các chương trình đào tạo và ứng dụng tin học phù hợp với
hoàn cảnh và điều kiện của mỗi địa phương, mỗi trường với các modun tin học
khác nhau.
Trung tâm Tin học đã sẵn sàng chuyển giao Công nghệ giáo dục tới mọi đơn vị
giáo dục một cách có hiệu quả về kinh tế, thời gian, công sức cũng như hiệu quả sử
dụng.
ĐÁNH GIÁ CỦA CHÍNH PHỦ VỀ SỰ YẾU KÉM VỀ Công Nghệ Thông Tin
TRONG CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC
Chính phủ đã có đánh giá về yếu kém trong nhận thức về thông tin và Công Nghệ

Thông Tin, một căn bệnh phổ biến ở nước ta trong giai đoạn chuyển tiếp hiện nay:
- Cát cứ thông tin xuất hiện. Nhiều Bộ, ngành coi thông tin quản lý của mình là
thông tin riêng của ngành, không coi đó là tài sản quốc gia hoặc cung cấp dữ liệu
tổng hợp không đầy đủ để các cơ quan khác có đủ thông tin phục vụ cho việc hoạch
định chính sách và ra quyết định. Nhiều cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước
ở cấp Trung ương và địa phương có thói quen tích lũy thông tin riêng, nên khi có
thông tin thuộc phạm vi mình phụ trách đã không cập nhật vào mạng tin học để sử
dụng chung.
- Dữ liệu trên mạng tin học: Hệ thống kỹ thuật hạ tầng công nghệ thông tin đã được
xây dựng ở một trình độ nhất định, cho phép thực hiện việc truyền, nhận thông tin
đa chiều. Thông tin phát sinh trong quá trình hoạt động quản lý hành chính có
nhiều, nhưng việc tích luỹ thông tin dưới dạng điện tử chỉ mới dừng ở mức thấp;
đến nay mới tích luỹ trên mạng ở một số loại thông tin cơ bản. Nguyên nhân chủ
yếu ở đây là các cấp, các ngành chưa kiên quyết gắn việc ứng dụng công nghệ tin
học với xử lý công việc hàng ngày, chưa thực hiện tốt kỷ cương hành chính trong
việc cập nhật thông tin điện tử, chưa cải cách hành chính đủ mạnh để đưa hệ thống
ứng dụng tin học vào guồng máy hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước.
- Về tổ chức bộ máy: cho đến nay vẫn chưa có quy định chung về vị trí, chức năng,
nhiệm vụ đối với các đơn vị chủ trì các Đề án tin học hoá quản lý hành chính nhà
nước trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước; thậm chí không có ngạch
công chức, không có chức danh cho cán bộ làm công tác tin học. Vì lý do này, các
cơ quan hành chính nhà nước đã không thu hút được chuyên gia kỹ thuật giỏi, do
đó, việc tiếp thu chuyển giao công nghệ, chỉ đạo triển khai các dự án ứng dụng rất
bị hạn chế; các nguyên tắc của hệ thống mở, các chuẩn chung về công nghệ và
thông tin không được giám sát chặt chẽ.


(Trích đề án Tin học quản lí hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2005 do Thủ tướng Chính
phủ kí phê duyệt ngày 25/7/2001).
"NẾU TÔI LÀM CHIẾN LƯỢC GIÁO DỤC..."

Trần Thị Bích Liễu (Khoa Sư phạm, ĐHQG Hà Nội)
"Khi làm chiến lược giáo dục, xin hãy hình dung thế giới vào năm 2020 và đặt Việt Nam vào
trong bức tranh đó. Có lúc phải đặt mục tiêu cho tương lai rồi sau đó mới tìm cách để đạt
được nó chứ không phải chỉ dựa vào hiện tại".
VietNamNet giới thiệu bài viết của TS giáo dục Trần Thị Bích Liễu góp ý cho dự thảo chiến lược giáo
dục đến năm 2020.
Góp ý dự thảo chiến lược giáo dục 2009 - 2020
Nếu làm chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam, tôi sẽ viết như thế này:
Sứ mạng: Phát triển nền giáo dục Việt Nam có năng lực đào tạo nguồn nhân lực có sức cạnh tranh
phù hợp yêu cầu của nền kinh tế thị trường, toàn cầu hoá và thời đại kĩ thuật số.
Viễn cảnh: Tới năm 2020, nền giáo dục Việt Nam là một nền giáo dục có năng lực công nghệ thông
tin truyền thông (ICT) chất lượng cao và phổ biến, có nhiều cơ hội giáo dục cho đông đảo dân số.
Thế nào là một nền giáo dục có năng lực ICT cao và phổ biến?
1) Xét về cơ sở hạ tầng: ICT được trang bị đến tất cả các trường học, ở tất cả mọi vùng miền, cho
các gia đình và mỗi cá nhân với các tốc độ đường truyền chất lượng cao, giá thành rẻ. Các phương
tiện kĩ thuật số đa dạng được sử dụng trong giáo dục, trong đời sống và sản xuất. Về mặt này, ICT là
phương tiện. Một khi ICT được trang bị rộng khắp với các trường học được các GS, GV giỏi giảng
dạy thì cơ hội giáo dục mở rộng cửa cho tất cả mọi người và bình đẳng như nhau.
Hãy thử làm một phép tính so sánh đầu tư các phương tiện ICT cho hệ thống giáo dục so với đầu tư
các phương tiên giáo dục khác thì sẽ thấy rõ vấn đề này, đặc biệt là khi các phương tiện ICT ngày
càng rẻ.
2) Điều quan trọng hơn cả là năng lực ICT của người dân. Năng lực ICT cao thể hiện ở năng lực khai
phá và sử dụng ICT của các công dân, đặc biệt là các dữ liệu thông tin để làm nên những điều hữu
ích và sáng tạo nên những kì công khoa học mới, đóng góp vào sự phát triển của nhân loại. Năng lực
đó chính là các kĩ năng xã hội khi tham gia văn hoá mạng (giao tiếp, hợp tác, giải quyết vấn đề mang
tính trí tuệ và tập thể). Hiện nay chúng ta đang lãng phí nguồn trí tuệ dồi dào của loài người khi người
dân Việt Nam ít có điều kiện để sử dụng hoặc thiếu các kĩ năng sử dụng các nguồn thông tin này.


HS Trường THCS Mường Khương (Lào Cai) trong giờ học. Ảnh: Lê

Anh Dũng
Có 11 kĩ năng ICT khuyến cáo bắt buộc phải hình thành cho công dân toàn cầu thế kỉ 21 là:
1) Kĩ năng chơi: kĩ năng chơi các trò chơi mang tính tập thể cùng giải quyết vấn đề. (Tất nhiên phải
là những trò chơi trí tuệ, có tính giáo dục cao và trò chơi đang được nghiên cứu để trò chơi hoá các
nội dung giáo dục làm cho người học hấp dẫn và dễ tiếp thu hơn).
2) Kĩ năng thiết kế mô hình: từ các vấn đề của thế giới thực thiết kế các mô hình này trong thế giới
ảo để hiểu sâu hơn vấn đề (Ví dụ: mô hình bão lốc, mô hình chính phủ, quốc hội, mô hình hệ mặt trời
của chúng ta, mô hình thị trường chứng khoán…).
3) Kĩ năng thể hiện: kĩ năng chơi và thực hành trên các mô hình được thiết lập, viết luận hay làm các
bộ phim về các sự kiện hay các hiện tượng xã hội, tự nhiên, liên kết văn học với phim ảnh, chơi trò
chơi đóng vai trong thế giới ảo, thể hiện cảm xúc và quan điểm của mình…
4) Phân tích, bình luận và hoà trộn các hình thức nghệ thuật với nhau: hình ảnh, âm thanh, âm
nhạc…
5) Thao tác đa chức năng: scan môi trường của một ai đó và chuyển sự chú ý vào những vấn đề chi
tiết, trọng tâm, phản hồi với các thông tin đa dạng. Đây là kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin.
6) Kĩ năng phát tán thông tin.
7) Kĩ năng hợp tác, phát triển trí tuệ tập thể, sáng tạo và ủng hộ các ý tưởng sáng tạo.
8) Kĩ năng bình luận, đánh giá các nguồn thông tin.
9) Năng lực định hướng, lựa chọn thông tin.
10) Thiết lập các networking để tổng hợp, trao đổi và truyền bá thông tin.
11) Kĩ năng thương thuyết, làm việc trong một cộng đồng đa văn hoá.
Các nhà giáo dục cho rằng, trong thế kỉ 21, công dân cần 6 năng lực và phẩm chất:

1) Năng lực cạnh tranh: Năng lực tìm kiếm, phân tích, xử lí và sử dụng thông tin.


2) Năng lực sản xuất kiến thức – kết quả của tư duy sáng tạo, biết phê phán và biết sử dụng thông
tin.
3) Năng lực cạnh tranh - hợp tác và giao tiếp thành công trên mạng cũng như trong đời sống thực.
Các giao tiếp trên mạng đôi khi làm cho người ta tự tin và thành công hơn.

4) Kĩ năng sống và năng lực tự phát triển cá nhân. (Học tập suốt đời).
5) Hiểu biết về toàn cầu, kinh doanh và tài chính.
6) Con người cần có các giá trị đạo đức cơ bản: trung thực, thật thà, biết thông cảm, chia sẻ, biết
tha thứ, biết ơn, hòa bình, hữu nghị, tình yêu và lòng kính trọng.
Rõ ràng, năng lực ICT rất quan trọng và có thể xếp vào hàng nhất trong các năng lực mà công dân
thế kỉ 21 cần có. Như vậy, ICT không phải chỉ là phương tiện mà là một trong những nội dung giáo
dục chính của giáo dục thế kỉ 21. ICT làm được nhiều điều mà trong thế giới thực không làm được và
đưa con người đến với những đỉnh cao mới của tri thức. Kĩ năng ICT không chỉ đơn thuần là kĩ năng
kĩ thuật mà là những kĩ năng xã hội và trí tuệ.
Hãy hình dung tương lai
Khi làm chiến lược giáo dục, xin hãy hình dung thế giới vào năm 2020 và đặt Việt Nam vào trong bức
tranh đó (xem sơ đồ 1). Và cũng xin nhớ rằng, có lúc chúng ta phải đặt mục tiêu cho tương lai rồi sau
đó mới tìm cách để đạt được nó chứ không phải chỉ dựa vào hiện tại. Đặc biệt, khi hiện tại của chúng
ta quá khác xa so với hiện tại của nhiều nước khác mà mong ước thì muốn đi kịp cùng thời đại.
Chúng ta đang sống trong thời đại kĩ thuật số và tương lai của cuộc sống số ngày càng rõ ràng. Hiện
tại ICT đang làm thay đổi mọi thứ: (Bảng 1)
Bảng 1: Các xu thế thay đổi của xã hội dưới tác động của ICT
Chuyển từ
Cấu trúc tầng bậc
Quản lí tập trung
Kiến thức do nhóm chuyên gia sản sinh
Đo lường tài sản và nguồn lực
Máy tính cá nhân
Sở hữu kiến thức cá nhân
Phòng máy vi tính
Văn hoá tiêu thụ
Người cung cấp dịch vụ
Nghề nghiệp ổn định
Cơ sở hạ tầng vững chắc, ổn định
Đáp ứng một loại nhu cầu cho tất cả

Thiết kế cho những người tiêu dùng trung bình

Sang
Các mạng kết nối siêu hình, linh hoạt dựa trên các
tương tác và cộng tác của các cá nhân và cộng
đồng (Heterachies)
Quản lí phân quyền rộng rãi
Kiến thức ngầm và các kinh nghiệm dựa trên hoàn
cảnh do các cá nhân sản sinh
Đồ lược các giá trị và lợi nhuận
Văn hoá tham gia truyền thông công chúng
Quản lí, sinh sản và chia sẻ kiến thức tập thể
Các hình thức học tập qua phương tiện truyền
thông rộng khắp
Văn hoá tự sản xuất
Người phát triển các dịch vụ
Các nghề nghiệp linh hoạt, sáng nghiệp
Cơ sở hạ tầng nhẹ nhàng, thông minh, dễ thay thế
Đáp ứng các loại nhu cầu khác nhau
Thiết kế cho những người tiêu dùng chuyên gia

Tuy nhiên, Việt Nam lạc hậu so với các nước khác về sơ sở hạ tầng, năng lực công nghệ thông tin
truyền thông của đại đa số dân số hạn chế, dù tiềm năng rất lớn và nếu có môi trường thì nhân tài ICT
sẽ nở rộ.


Chúng ta giải quyết được nhiều vấn đề của chiến lược giáo dục đặt ra trong thế kỉ 21 khi chúng ta lấy
ICT làm trọng tâm và xoay quanh nó để thực hiện các mục tiêu khác: Mục tiêu về nguồn nhân lực,
mục tiêu thay đổi cơ cấu hệ thống giáo dục và tổ chức nhà trường, thay đổi nội dung và phương pháp
dạy học- giáo dục, thay đổi tư duy làm giáo dục của giáo viên, các nhà quản lí giáo dục, các nhà chính

trị và người làm chính sách giáo dục…
Tôi rất mong muốn những người làm chiến lược giáo dục hãy xem xét vấn đề này và rất hi vọng bức
tranh của GD Việt Nam được hoà mình vào trong bức tranh phát triển giáo dục của nhân loại ở phần
đỉnh cao của nó chứ không phải là một bức tranh ở phần lạc hậu và loang lổ.


Sơ đồ 1: Các thế lực tác động lên giáo dục thế kỉ 21 (bấm vào để xem cho rõ)



×