Kiểm toán căn bản
GVHD: Ths. Hồ Tuấn Vũ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO BẰNG HAI
---------------------------
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: KIỂM TOÁN CĂN BẢN
Đề tài: “Đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên
ảnh hưởng chất lượng của cuộc kiểm toán”
GVHD :
ThS. Hồ Tuấn Vũ
SVTH :
Lớp:
B17KDN2 - Hệ ĐH Bằng hai
MSSV:
Đà Nẵng, tháng 17 năm 2012
SVTH : ĐOÀN THỊ ĐIỂM
Trang 1
Kiểm toán căn bản
GVHD: Ths. Hồ Tuấn Vũ
MỤC LỤC
SVTH : ĐOÀN THỊ ĐIỂM
Trang 2
Kiểm toán căn bản
GVHD: Ths. Hồ Tuấn Vũ
Mỗi ngành nghề đều có đặc thù riêng, có những mối quan hệ kinh tế-xã hội xã hội
mang sắc thái riêng do vậy đạo đức nghề nghiệp thường gắn với đặc điểm của từng nghề.
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, đáp ứng sự đòi hỏi tất yếu của
công cuộc đổi mới cải cách hành chính nhà nước và xây dựng nhà nước pháp quyền. Trong
điều kiện đó, hoạt động kiểm toán là hoạt động hết sức mới mẻ. Tuy nhiên, với chức năng
xác minh và bày tỏ ý kiến của mình, kiểm toán đã góp phần quan trọng vào việc đảm bảo
tính trung thực và hợp lý của các bảng khai tài chính, từ đó đem lại sự thành công cho một
doanh nghiệp hay một tổ chức kinh doanh. Đồng thời, kết quả kiểm toán đă góp phần đáng
kể vào việc lập lại trật tự kỷ cương trong quản lý các hoạt động kinh tế tài chính.
Thế nhưng môi trường làm việc quá nhiều áp lực, các kiểm toán viên có thể rơi
vào tình huống ủng hộ hành vi quản lý phi đạo đức, nói dối hay cung cấp thông tin không
chính xác cho đơn vị quản lý hoặc lập các báo cáo tài chính không chính xác một cách
trọng yếu. Điều đó gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của nền kinh tế quốc
gia.
Việc kiểm toán tuân thủ đạo đức nghề nghiệp sẽ giúp bảo vệ và nâng cao uy tín
của nghề kiểm toán, bảo đảm về chất lượng của các dịch vụ kiểm toán cung ứng cho xã
hội.
SVTH : ĐOÀN THỊ ĐIỂM
Trang 3
Kiểm toán căn bản
GVHD: Ths. Hồ Tuấn Vũ
NỘI DUNG
1. Khái quát đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên
1.1.
Khái niệm đạo đức nghề nghiệp
Đạo đức nghề nghiệp là những quy tắc để hướng dẫn cho các thành viên ứng xử và
hoạt động một cách trung thực, phục vụ cho lợi ích của nghề nghiệp và xã hội.
Đạo đức của nghề nghiệp của kiểm toán viên yêu cầu mỗi kiểm toán viên phải có đạo
đức và mỗi tổ chức kiểm toán phải là một cộng đồng của những người có đạo đức. Đạo
đức nghề nghiệp kiểm toán là yêu cầu bắt buộc đối với mỗi kiểm toán viên.
1.2.
Chuẩn mức đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp là những quy tắc để hướng dẫn cho kiểm toán viên
ứng xử và hoạt động một cách trung thực phục vụ cho lợi ích chung của nghề nghiệp và
xă hội. Nói cách khác, đạo đức nghề nghiệp là những chỉ dẫn để các thành viên luôn duy
tŕ thái độ nghề nghiệp đúng đắn.
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên có vai trò rất quan trọng. Nó là
một trong những nguyên tắc cơ bản của hoạt động kiểm toán. Một kiểm toán viên cần
phải có đạo đức và một công ty kiểm toán cần phải là một cộng đồng các kiểm toán viên
có đạo đức. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường thì nhu cầu đối với nghề kiểm toán
đáng tin cậy và được công nhận trở nên lớn hơn bao giờ hết. Hơn nữa, những người chịu
trách nhiệm lập báo cáo tài chính nếu không có đạo đức thì dễ có thể làm cho thông tin
báo cáo kiểm toán tài chính không tin tưởng dẫn đến hậu quả là sự mất ḷòng tin trong
công chúng. Trong bối cảnh đó, nếu không có hoạt động kiểm toán để xác định tính tin
cậy của các hệ thống thông tin tài chính thì sẽ gây cản trở lớn. Do vậy, những đòi hỏi về
đạo đức nghề nghiệp đối với kiểm toán viên phải được xác định rõ ràng và được công bố
để cho công chúng nói chung biết, qua đó họ có thể đ đi hỏi các hành vi đạo đức của kiểm
toán viên cũng như đánh giá các cam kết của ngành này.
Thông qua các chuẩn mực đã phát triển một cách thích hợp, có thể đánh giá trình độ
và chất lượng của hoạt động kiểm toán. Đồng thời các chuẩn mực cũng là cơ sở cho việc
giáo dục và đào tạo nhằm đạt được chuyên môn hoàn hảo. Đối với những người không
SVTH : ĐOÀN THỊ ĐIỂM
Trang 4
Kiểm toán căn bản
GVHD: Ths. Hồ Tuấn Vũ
thuộc lĩnh vực kiểm toán như các nhà quản lý, hội đồng quản trị, các cổ đông, nhà đầu tư,
các tổ chức điều khiển và tất cả những ai quan tâm, các chuẩn mực được sử dụng như là
biện pháp hữu ích của dịch vụ kiểm toán mà mọi người mong muốn có được.
Như vậy chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp có vai trò rất quan trọng trong các cuộc
kiểm toán nên nó phải được xây dựng một cách chặt chẽ, hợp lý để làm sao cho kiểm
toán viên áp dụng một cách thuận lợi mà không phạm sai lầm hay bị chồng chéo bởi các
điều lệ khác.
2. 7 nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên
Theo chuẩn mực kiểm toán quốc tế và chuẩn mực kế toán Việt Nam (CM kiểm toán
số 200) quy định kiểm toán viên phải đảm bảo các các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp
sau:
Độc lập
Chính trực;
Khách quan;
Năng lực chuyên môn và tính thận trọng;
Tính bảo mật;
Tư cách nghề nghiệp;
Tuân thủ chuẩn mực chuyên môn.
2.1.
Tính độc lập
Độc lập là nguyên tắc hành nghề cơ bản của kiểm toán viên. Không có tính độc lập thì
kiểm toán không có giá trị trong xă hội.
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam quy định rằng trong quá trình kiểm toán, kiểm toán
viên phải thực sự không bị chi phối hoặc tác động bởi bất kỳ lợi ích vật chất hoặc tinh
thần nào làm ảnh hưởng đến sự trung thực, khách quan và độc lập nghề nghiệp của ḿnh.
Theo nguyên tắc 101 – Tính độc lập: Một hội viên hoặc một công ty mà ở đó anh ta là
người chung vốn hoặc là cổ đông, sẽ không được diễn đạt về kiến về các báo cáo tài
chính của một doanh nghiệp trừ phi anh ta và công ty của anh ta độc lập với doanh
nghiệp đó.
Tính độc lập trong kiểm toán có nghĩa là việc có một quan điểm vô tư khi thực hiện
các cuộc kiểm toán, đánh giá các kết quả và công bố báo cáo kiểm toán. Nếu kiểm toán
SVTH : ĐOÀN THỊ ĐIỂM
Trang 5
Kiểm toán căn bản
GVHD: Ths. Hồ Tuấn Vũ
viên là một luật sư của khách hàng, một chủ ngân hàng cá biệt hoặc bất kỳ ai khác có lợi
ích trực tiếp hay gián tiếp về mặt tài chính, có quan hệ họ hàng thân thuộc với những
người trong bộ máy quản lý của đơn vị được kiểm toán thì anh ta sẽ không thể được xem
là độc lập.
Ví dụ trước đây đã có lần chấp nhận cho kiểm toán viên sở hữu một số lượng cổ phần
giới hạn trong công ty khách hàng. Nhưng ngày nay điều đó được xem như khả năng
tiềm ẩn tác động xấu đến tích độc lập của công ty kiểm toán và chắc chắn có khả năng
ảnh hưởng đến nhận thức của người sử dụng về tính độc lập của kiểm toán viên. Việc
trực tiếp hay gián tiếp sở hữu cổ phần của một công ty thì theo nguyên tắc 101 công ty
kiểm toán đó sẽ bị cấm trình bày quan điểm về các báo cáo tài chính của công ty này.
Hoặc nếu kiểm toán viên là một thành viên của Hội đồng quản trị hay một viên chức của
công ty khách hàng, khả năng để thực hiện những đánh giá độc lập của anh ta về sự trình
bày trung thực ở các báo cáo tài chính sẽ dễ dàng bị ảnh hưởng. Ngay cả khi việc các
chức vụ này không thực tế làm ảnh hưởng đến tính độc lập của kiểm toán viên thh sự dính
líu thường xuyên với ban quản trị và các quyết định mà ban quản trị lập sẽ có khả năng
ảnh hưởng đến cách nhìn nhận tính độc lập của kiểm toán viên từ những người sử dụng
báo cáo. Để loại trừ khả năng này, nguyên tắc 101 nghiêm cấm kiểm toán viên có tư cách
là giám đốc hoặc viên chức của công ty khách hàng.
Khi có một vụ kiện tụng hoặc có khả năng sinh ra một vụ kiện tụng giữa công ty kiểm
toán và khách hàng của họ, khả năng mà công ty kiểm toán và khách hàng còn giữ vững
tính khách quan rất đáng nghi vấn. Những vụ tranh chấp này được xem như vi phạm
nguyên tắc 101 đối với cuộc kiểm toán hiện hành. Ví dụ, nếu Ban quản trị kiện một công
ty kiểm toán, khiếu nại một khuyết điểm trong lần kiểm toán trước, công ty kiểm toán
không được xem là độc lập đối với lần kiểm toán trong năm hiện hành. Tương tự, nếu
công ty kiểm toán kiện Ban quản trị với sự quản lý lừa đảo hoặc dối trá, tính độc lập cũng
bị mất.
Một kiểm toán viên có thể thực hiện cả công tác kế toán và kiểm toán cho cùng một
công ty khách hàng. Tuy nhiên, có 3 quy định quan trọng mà kiểm toán viên phải thỏa
SVTH : ĐOÀN THỊ ĐIỂM
Trang 6
Kiểm toán căn bản
GVHD: Ths. Hồ Tuấn Vũ
măn trước khi anh ta được chấp thuận thực hiện đồng thời việc ghi sổ sách và kiểm toán
cho khách hàng. Thứ nhất, khách hàng phải chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với các báo
cáo tài chính. Thứ hai, kiểm toán viên không được đảm đương vai trò của một nhân viên
hoặc của Ban quản trị điều hành các hoạt động của doanh nghiệp. Thứ ba, kiểm toán
viên, khi thực hiện quá tŕnh kiểm tra các báo cáo tài chính lập từ sổ sách mà kiểm toán
viên nắm giữ hoàn toàn hay một phần, phải dựa vào các chuẩn mực kiểm toán đă được
thừa nhận. Hai quy định đầu thường khó thỏa mãn đối với các công ty khách hàng có quy
mô nhỏ mà chủ nhân thường có rất ít kiến thức hoặc ít quan tâm đến kế toán hoặc xử lý
các nghiệp vụ kinh tế. Đối với khách hàng của ủy ban giao dịch chứng khoán (SEC), SEC
nghiêm cấm việc thực hiện các dịch vụ ghi sổ sách kế toán và kiểm toán bởi cùng một
công ty kiểm toán. Phần lớn khách hàng của SEC có quy mô lớn và có nhiều khả năng có
một đội ngũ nhân viên kế toán. Do đó, sự cấm đoán này không gây ra nhiều khó khăn.
Khi bàn về tính độc lập, điều cơ bản không chỉ là kiểm toán viên phải giữ thái độ độc
lập khi thực thi trách nhiệm của mình (độc lập thực sự) mà còn cả những người sử dụng
các báo cáo tài chính phải có niềm tin vào tính độc lập đó (độc lập bề ngoài). Tính độc
lập có khi kiểm toán viên thực tế có khả năng duy trì thái độ vô tư trong suốt quá tŕnh
kiểm toán, trong khi tính độc lập bề ngoài là kết quả của những lời giải thích của những
người khác về tính độc lập đó. Nếu kiểm toán viên thực sự độc lập, nhưng những người
sử dụng lại tin rằng họ là những người biện hộ cho khách hàng thh phần lớn giá trị của
cuộc kiểm toán sẽ bị mất.
Tính độc lập có thể coi là cơ sở quan trọng để hoạt động kiểm toán có hiệu quả. Tuy
nhiên chúng ta hoàn toàn nhận thức được rằng tính độc lập không bao giờ là đủ và luôn
có những điều kiện hạn chế ít nhiều tính độc lập. Ví dụ Hội đồng quản trị bắt buộc phải
giải trình với chính quyền và xã hội, giám đốc điều hành cũng chịu sự bắt buộc như vậy
cộng thêm sự bắt buộc của Hội đồng quản trị. Kiểm toán viên bên ngoài hoàn toàn không
bao giờ quên rằng khách hàng trả tiền cho họ và tiền công đó là cần thiết để duy trước
một hãng kiểm toán tồn tại và phát triển. Kiểm toán viên nội bộ báo cáo với một cá nhân
trong tổ chức phụ thuộc vào tổ chức đó với cuộc sống của họ. Việc chống lại đồng sự
SVTH : ĐOÀN THỊ ĐIỂM
Trang 7
Kiểm toán căn bản
GVHD: Ths. Hồ Tuấn Vũ
trong tổ chức mà kiểm toán viên nội bộ muốn giữ quan hệ làm việc tốt luôn là vấn đề
đáng quan ngại. Tất cả những điều đó có nghĩa là không người nào tự cho mình là một ốc
đảo cô lập và tính độc lập bao giờ cũng là một thuật ngữ tương đối - độc lập nhiều hay
độc lập ít - chứ không bao giờ tuyệt đối. Điều này không làm giảm giá trị của tính độc lập
hoặc coi thường những cố gắng mở rộng phạm vi và nâng cao chất lượng cuả tính độc lập
mong muốn. Đối với kiểm toán viên, sự cố gắng không ngừng của chúng ta là củng cố
tính độc lập cần thiết mặc dù có và luôn luôn có những giới hạn thực sự đối với tính độc
lập đó. Giá trị của sự cố gắng này là góp phần làm cho tính độc lập cao hơn để hoạt động
kiểm toán có hiệu quả, góp phần vào sự phồn vinh tối đa của tổ chức.
2.2.
Tính chính trực
Một hội viên không đựoc chủ tâm phản ánh sai sự việc, và khi hợp đồng thực hiện
kiểm toán độc lập kể cả cung cấp dịch vụ khai thuế và dịch vụ tư vấn cho Ban quản trị,
kiểm toán viên không được để cho sự phán xét của mình bị phụ thuộc vào người khác.
Khi thực hiện dịch vụ thuế, hội viên có thể giải quyết điều nghi ngờ theo hướng có lợi
cho khách hàng khi có sự chứng minh hợp lý đối với quan điểm của kiểm toán viên.
Kiểm toán viên có nghĩa vụ phải đạt đến một chuẩn mực cao về hành vi như: phải
trung thực và thẳng thắn trong quá tŕnh làm việc và trong quan hệ của họ với các nhân
viên của đơn vị được kiểm toán. Để có sự tin cậy từ phía công chúng, các kiểm toán viên
không được để bị nghi ngờ và không được để bị chỉ trích, phẩm chất liêm chính được
đánh giá theo nghĩa đúng đắn và công bằng. Phẩm chất này đòi hỏi kiểm toán viên phải
tuân thủ cả về hình thức và tinh thần các chuẩn mực về đạo đức và các chuẩn mực về
kiểm toán. Phẩm chất trung thực cũng đòi hỏi kiểm toán viên tuân thủ các nguyên tắc
khách quan và độc lập, duy trì các chuẩn mực cao nhất về nhân cách và các hành vi nghề
nghiệp, đưa ra các quyết định và lợi ích của công chúng và áp dụng các tiêu chuẩn cao về
phẩm chất trung thực trong khi xử lý công việc và các nguồn lực của cơ quan kiểm toán.
2.3 Tính khách quan
SVTH : ĐOÀN THỊ ĐIỂM
Trang 8
Kiểm toán căn bản
GVHD: Ths. Hồ Tuấn Vũ
Kiểm toán viên phải là người có tính khách quan và công bằng trong tất cả các công
việc bao gồm việc lập các báo cáo trung thực và chính xác. Do đó các kết luận trong báo
cáo và ý kiến chỉ nên bị ảnh hưởng bởi các bằng chứng được thu thập theo các chuẩn
mực kiểm toán của cơ quan kiểm toán tối cao. Các kiểm toán viên nên sử dụng các thông
tin cũng như các ý kiến do đối tượng kiểm toán hoặc các đơn vị khác cung cấp. Tuy vậy,
theo nguyên tắc thì các kết luận của kiểm toán không nên bị tác động bởi các ý kiến đó.
Kiểm toán viên phải nhìn nhận các sự kiện, hiện tượng đúng nhưu nó vốn có, theo đúng
bản chất của sự kiện, hiện tượng; tôn trọng sự thật không thiên kiến hay thành kiến.
2.4 Năng lực chuyên môn và tính thận trọng
Người làm kế toán và người làm kiểm toán phải thực hiện công việc kiểm toán, kế
toán với đầy đủ năng lực chuyên môn cần thiết, với sự thận trọng cao nhất và tinh thần
làm việc chuyên cần. Kiểm toán viên có nhiệm vụ duy trì, cập nhật và nâng cao kiến thức
trong hoạt động thực tiễn, trong môi trường pháp lý và các tiến bộ kỹ thuật để đáp ứng
yêu cầu công việc.
2.5 Tính bảo mật
Nguyên tắc 301 – Thông tin bảo mật của khách hàng: Hội viên không được tiết lộ bất
kỳ thông tin bí mật nào thu được trong tiến trình công tác nghiệp vụ ngoại trừ khi có sự
đồng ý của khách hàng.
Kiểm toán viên phải bảo mật các thông tin có được trong quá tŕnh kiểm toán, không
được tiết lộ bất cứ một thông tin nào khi chưa được phép của người có thẩm quyền, trừ
khi có nghĩa vụ phải công khai theo yêu cầu của pháp luật hoặc trong phạm vi quyền hạn
nghề nghiệp của mình.
Trong tiến trình kiểm tra, các kiểm toán viên thu được một số lượng lớn thông tin bảo
mật, gồm cả lương của các viên chức, quá trình định giá sản phẩm, các kế hoạch quảng
cáo, số liệu chi phí sản phẩm. Nếu những thông tin này bị tiết lộ ra ngoài hoặc cho các
nhân viên của công ty khách hàng biết thì mối quan hệ giữa kiểm toán viên với Ban quản
trị sẽ trở nên căng thẳng nghiêm trọng, thậm chí còn có thể là nguyên nhân làm hại đến
công ty khách hàng. Hơn nữa, được tiếp cận với các bản tư liệu sẽ cho các nhân viên của
SVTH : ĐOÀN THỊ ĐIỂM
Trang 9
Kiểm toán căn bản
GVHD: Ths. Hồ Tuấn Vũ
công ty khách hàng một cơ hội để làm thay đổi thông tin trên các tư liệu đó. Vì thế, luôn
luôn phải cẩn trọng để bảo vệ các tư liệu.
Kiểm toán viên chỉ có thể cung cấp tư liệu cho người khác khi được phép của công ty
khách hàng. Tuy nhiên, trong trường hợp các tư liệu đó được toà án triệu đi hoặc được sử
giống như một bộ phận của chương trình xem xét chất lượng tự nguyện với các công ty
kiểm toán khác thì sẽ không cần có sự cho phép. Nếu tư liệu bị triệu đi, công ty khách
hàng phải được thông báo ngay.
2.6 Tính chuyên nghiệp (tư cách nghề nghiệp)
Người làm kế toán và người làm kiểm toán phải trau dồi và bảo vệ uy tín nghề
nghiệp, không được gây ra những hành vi làm giảm uy tín nghề nghiệp
2.7 Tuân thủ chuẩn mực chuyên môn
Kiểm toán viên phải tuân thủ theo các chuẩn mực về nghiệp vụ, phấn đấu không
ngừng để nâng cao năng lực và chất lượng công việc.
Nguyên tắc 201 – Các chuẩn mực chung: Một hội viên phải tuân thủ các tiêu chuẩn
chung đă được ban hành dưới đây bởi các cơ quan do Quốc hội chỉ định và phải biện
minh cho mọi chiều hướng khác với chúng.
- Năng lực nghề nghiệp: Hội viên chỉ được nhận thực hiện những hợp đồng mà anh ta
hoặc công ty của anh ta dự kiến có đủ năng lực nghiệp vụ để hoàn thành.
- Sự thận trọng nghề nghiệp đúng mức: Hội viên phải hành sự với sự thận trọng nghề
nghiệp đúng mức khi thực hiện hợp đồng.
- Lập kế hoạch và giám sát: Hội viên phải lập kế hoạch và giám sát một cách đầy đủ hợp
đồng.
- Đủ số liệu thích hợp: Hội viên phải thu thập số liệu thích hợp để đủ làm căn cứ hợp lư
cho các kết luận hoặc kiến nghị liên quan với hợp đồng.
- Dự đoán: Hội viên không đựoc phép sử dụng tên của mình gắn cho các dự đoán nghiệp
vụ kinh tế tương lai phát sinh theo cách mà có thể dẫn đến sự tin tưởng là người hội viên
đó cam đoan khả năng có thể đạt được của dự đoán.
SVTH : ĐOÀN THỊ ĐIỂM
Trang 10
Kiểm toán căn bản
GVHD: Ths. Hồ Tuấn Vũ
Nguyên tắc 202 – Các chuẩn mực kiểm toán
Một kiểm toán viên không được phép để tên của mình gắn liền với vác báo cáo tài
chính theo cách ngụ ý là anh ta đang hành sự như một kiểm toán viên độc lập trừ phi anh
ta tuân thủ theo các chuẩn mực kiểm toán đă được thừa nhận do Viện ban hành.
Nguyên tắc 203 – Các nguyên tắc kế toán
Một hội viên không được trình bày ý kiến hoặc khẳng định các báo cáo tài chính hoặc
các số liệu tài chính khác của bất kỳ tổ chức nào là được trình bày phù hợp với các
nguyên tắc kế toán đă được thừa nhận hoặc tuyên bố là anh ta không biết đến bất kỳ một
sự sửa đổi quan trọng nào sẽ được thực hiện cho các số liệu đó để cho chúng phù hợp với
các nguyên tắc kế toán đă được thừa nhận.
Nguyên tắc 204 – Các chuẩn mực nghiệp vụ khác
Một hội viên phải tuân thủ câc chuẩn mực nghiệp vụ khác được ban hành bởi các bộ
phận do Quốc hội chỉ định xây dựng những chuẩn mực đó, và những chiều hướng khác
với các chuẩn mực này phải được chính bản thân người không tuân thủ theo chúng biện
minh.
Kiểm toán viên phải thực hiện công việc kiểm toán theo những kỹ thuật và những
chuẩn mực chuyên môn đă quy định trong chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hoặc chuẩn
mực kiểm toán quốc tế được Việt Nam chấp nhận và các quy định pháp luật hiện hành.
Các chuẩn mực kiểm toán này quy định các nguyên tắc, thủ tục cơ bản và hướng dẫn thể
thức áp dụng các nguyên tắc và thủ tục cơ bản liên quan đến kiểm toán báo cáo tài chính.
Kiểm toán viên phải thực hiện công việc kiểm toán với đầy đủ năng lực chuyên môn
cần thiết, với sự thận trọng cao nhất và tinh thần làm việc chuyên cần. Kiểm toán viên có
nghĩa vụ duy trì cập nhật và nâng cao kiến thức trong hoạt động thực tiễn, trong môi
trường pháp lý và các tiến bộ kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu công việc. Kiểm toán viên cần
phải có thái độ hoài nghi mang tính nghề nghiệp trong quá tŕnh lập kế hoạch, thực hiện
kiểm toán và luôn ý thức rằng có thể tồn tại những tình huống dẫn đến những sai sót
trọng yếu của báo cáo tài chính như khi nhận được bản giải trình đó là đúng, mà phải tìm
được những bằng chứng cần thiết để chứng minh cho những giải trình đó. Điều đó nói lên
SVTH : ĐOÀN THỊ ĐIỂM
Trang 11
Kiểm toán căn bản
GVHD: Ths. Hồ Tuấn Vũ
rằng tính thận trọng trong nghề nghiệp đúng mực chính là điều kiện cần có để xác định và
kiến nghị đúng đắn những cơ hội đem lại hiệu quả quản lý và có khả năng thu lợi nhuận
tốt hơn.
Tuy vậy, các kiểm toán viên trải qua nhiều giai đoạn trong quá trình phát triển nghề
nghiệp. Họ có trình độ năng lực khác nhau do mỗi cá nhân có kiến thức, kỹ năng và kỷ
luật cũng như bề dày kinh nghiệm khác nhau. Do đó cần phải lưu ý khi giao trách nhiệm
kiểm toán cho kiểm toán viên.
3. Ví dụ tổng hợp và phân tích
Ví dụ 1 : Enron – Arthur Andersen – Bài học về sự sụp đổ
Vì sao Arthur Andersen – một công ty có bề dày lịch sử 89 năm, với 85.000
chuyên gia, là đối thủ cạnh tranh trực tiếp với Big 4 ngày nay lại sụp đổ ?
Nguyên nhân chủ yếu là vì Andersen đã vi phạm trầm trọng các nguyên tắc đạo
đức nghề nghiệp:
Enron là một công ty năng lượng lớn của Mỹ - khách hàng của Andersen. Năm
2000, Enron trả cho Andersen 25 triệu USD phí kiểm toán và 27 triệu USD phí dịch vụ
khác – một mức phí quá lớn. Bù lại, Enron được Andersen bảo kê về tín nhiệm đối với
các nhà đầu tư khi báo cáo tình hình kinh doanh có lãi của mình, nhưng thực chất là lỗ
500 triệu USD từ năm 1997.
=> Andersen đã vi phạm trầm trọng nguyên tắc độc lập về mặt kinh tế, chạy theo lợi
nhuận “ kếch xù “ thu được từ phí kiểm toán để công bố một báo cáo kiểm toán sai
lệch về Enron.
Kế toán trưởng của Enron là kiến trúc sư trưởng của vụ lừa dối cổ đông lại nguyên
là kiểm toán viên của Andersen => Vi phạm nguyên tắc độc lập về mặt tình cảm.
Andersen đã ký hợp đồng làm tư vấn cho Enron, sau đó chính mình lại đóng vai
trò kiểm toán để xác nhận những báo cáo tài chính của Enron => vi phạm nguyên tắc
độc lập về năng lực, chuyên môn.
SVTH : ĐOÀN THỊ ĐIỂM
Trang 12
Kiểm toán căn bản
GVHD: Ths. Hồ Tuấn Vũ
Tháng 1/2001, 1 nhân viên kiểm toán của Andersen cực lực phản đối phương pháp
kế toán của Enron thì ngay lập tưc bị điều chuyển sang đơn vị khác. Một nhân viên khác
đánh giá cổ phiếu của Enron “không có triển vọng“, cũng lập tức bị chuyển công tác
=> Andersen đã vi phạm nguyên tắc chính trực khách quan
Theo thống kê thì lợi nhuận của các công ty kiểm toán ở Mỹ có được từ các dịch
vụ ngoài kiểm toán chiếm phần lớn trong thu nhập của các công ty này, có khi tỷ lệ này
lên tới 92%.
Vì thế nên Andersen thường để các kiểm toán viên có kinh nghiệm và năng lực
làm dịch vụ tư vấn, còn các KTV trẻ ít kinh nghiệm và năng lực thường được Andersen
giao nhiệm vụ kiểm toán các BCTC của Enron => Chất lượng các cuộc kiểm toán
Enron bị ảnh hưởng lớn bởi năng lực của kiểm toán viên, các sai sót, gian lận của
Enron hoặc là không thể phát hiện được hoặc là bị che đậy một cách tinh vi. Các nhà đầu
tư, cổ đông của Enron tin vào thương hiệu Arthur Andersen nên ồ ạt mua cổ phiếu của
Enron, để rồi Enron lãi giả, lỗ thật, kéo theo là sự sụp đổ của Enron rồi đến Andersen.
Ví dụ 2 :
Công ty TNHH ATC là công ty chuyên cung cấp dịch vụ kiểm toán và tư vấn tài
chính. Ngày 10/1/2012, công ty nhận được lời đề nghị thực hiện kiểm toán của công ty cổ
phần Hưng Thịnh. Trưởng đoàn kiểm toán là ông An hiện đang nắm giữ 12% cổ phần
của công ty Hưng Thịnh. Ngày 12/1/2012, công ty chấp nhận lời đề nghị mà không có bất
cứ một hành động nào liên quan đến số cổ phần mà ông An đang nắm giữ tại công ty
Hưng Thịnh.
Công ty TNHH Thăng Long có ông Bình làm Giám đốc đến kỳ kiểm toán cần thuê
một kiểm toán viên. Thanh là con gái ông Bình biết và giới thiệu người yêu là Thịnh
đang làm KTV tại công ty ATC đến kiểm toán công ty. Thịnh chấp nhận lời đề nghị trên.
Sau đó, Thịnh còn được Thanh và ông Bình nhờ làm luôn cả công việc lập báo cáo tài
chính và tờ kê khai thuế của năm 2012 cho công ty Thăng Long.
Ngày 15/4/2012, NHTM CP Liên Việt cấp cho công ty ATC một khoản tín dụng
thời hạn 3 tháng trị giá 15 triệu đồng. Ngày 27/5/2012, NHTM Liên Việt có nhu cầu kiểm
SVTH : ĐOÀN THỊ ĐIỂM
Trang 13
Kiểm toán căn bản
GVHD: Ths. Hồ Tuấn Vũ
toán BCTC giữa niên độ nên đã thuê công ty ATC. Lãnh đạo ATC cho rằng khoản tín
dụng 15 triệu là số tiền nhỏ nên đã chấp nhận lời đề nghị trên.
Công ty ATC mà trực tiếp là trưởng đoàn kiểm toán – ông An có lợi ích tài chính
tại đơn vị được kiểm toán – công ty Hưng Thịnh. Về nguyên tắc, trước khi thực hiện cuộc
kiểm toán, ông An phải chuyển nhượng số cổ phần trên, nhưng lại không có bất kỳ một
hành động nào => vi phạm nguyên tắc độc lập về mặt kinh tế
KTV Thịnh có mối quan hệ tuy không phải ruột thịt nhưng là người yêu với Thanh
– con gái của giám đốc đơn vị được kiểm toán => Ảnh hưởng đến tính độc lập về mặt
tình cảm của cuộc kiểm toán đối với cty.
Thịnh – KTV của công ty ATC đồng thời cũng vi phạm nguyên tắc độc lập về mặt
năng lực chuyên môn khi đồng thời tiến hành cả dịch vụ kiểm toán song song với dịch vụ
khác là lập BCTC và tờ kê khai thuế.
NHTM CP Liên Việt có quan hệ tín dụng mà cụ thể ở đây là nhà cung cấp khoản
tín dụng ngắn hạn cho cty ATC dù là khoản tiền 15 triệu => công ty ATC đã vi phạm
nguyên tắc độc lập về mặt kinh tế.
Từ những ví dụ trên ta có thể thấy sai sót của kiểm toán viên có thể dẫn đến
những hậu quả nghiêm trọng cho công ty hay doanh nghiệp được kiểm toán.
4.. Kiểm toán tại Việt Nam
4.1. Quy định về đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán tại ViệtNam
Tại Việt Nam, các quy định về đạo đức nghề nghiệp hiện hành được thể hiện
chủ yếu trong Nghị định 105/2004/NĐ- CP ban hành ngày 30/3/2004 của Chính phủ về
Kiểm toán độc lập và Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp ban hành ngày 01/12/2005 theo
Quyết định số 87/2005/QĐ-BTC, áp dụng cho tất cả những người làm kế toán và người
làm kiểm toán. Việc tồn tại song song hai loại quy định nói trên là phù hợp với thông lệ
chung trên thế giới. Tuy nhiên, việc áp dụng chúng vào thực tế hiện nay vẫn còn một số
bất cập. Trước hết, các quy định về đạo đức nghề nghiệp mới chỉ dừng lại ở mức độ
chuẩn mực, chưa có các hướng dẫn cụ thể. Bản thân một số nội dung trong chuẩn mực
SVTH : ĐOÀN THỊ ĐIỂM
Trang 14
Kiểm toán căn bản
GVHD: Ths. Hồ Tuấn Vũ
cũng còn nhiều điểm rất trừu tượng, do vậy, hạn chế về khả năng triển khai chúng trong
thực tế.
Các quốc gia trên thế giới như Hoa Kỳ, để có thể áp dụng chuẩn mực đạo đức
nghề nghiệp vào thực tế, đều có các hướng dẫn chi tiết (các giải thích và hướng dẫn cụ
thể về đạo đức). Chính vì vậy, việc đưa ra các hướng dẫn đối với Việt Nam rất quan trọng
vì sẽ giúp các công ty kiểm toán có thuận lợi hơn trong việc xây dựng chính sách đạo đức
nghề nghiệp cho mình. Trong khi chờ đợi việc nghiên cứu để có thể ban hành đầy đủ các
hướng dẫn, trước mắt để chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp có thể áp dụng sớm, cần ban
hành ngay những hướng dẫn chi tiết về một số nội dung quan trọng. Một là, phí dịch
vụ: Đoạn 106 của chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp đã nêu: “Việc quá phụ thuộc vào phí
dịch vụ của khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo sẽ tạo nguy cơ do tư lợi làm ảnh hưởng
tính độc lập của kiểm toán viên”. Và công ty không nên nhận hợp đồng kiểm toán nếu
mức phí thấp hơn đáng kể so với công ty kiểm toán tiền nhiệm (hay công ty kiểm toán
khác). Tuy nhiên, chuẩn mực không nêu rõ như thế nào là “quá phụ thuộc” hay “ đáng kể
“nên rất khó áp dụng vào thực tế. Theo chúng tôi, để xem xét thể nào là quá phụ thuộc,
có thể dựa vào hướng dẫn của một số Hiệp hội nghề nghiệp của các quốc gia trên thế
giới. Thông thường, phí của hợp đồng kiểm toán cho một khách hàng không nên vượt
quá 15% (đối với khách hàng là công ty không niêm yết) hay vượt quá 10% (đối với
khách hàng là công ty niêm yết) tổng doanh thu của công ty kiểm toán (theo hướng dẫn
của hội nghề nghiệp kiểm toán Anh quốc ACCA). Trường hợp phí hợp đồng thu được từ
một khách hàng cao hơn tỷ lệ nêu trên, công ty kiểm toán nên có các chính sách, thủ tục
thích hợp để bảo vệ và giám sát việc thực hiện hợp đồng kiểm toán, cũng như kiểm soát
chất lượng của hợp đồng kiểm toán. Nếu không, phải từ chối thực hiện hợp đồng kiểm
toán cho khách hàng này. Về mức phí thấp hơn đáng kể, do rất khó xác định bằng số
tuyệt đối hay số tương đối, vì vậy, các hướng dẫn thường yêu cầu công ty kiểm toán phải
cân nhắc các vấn đề: - Thời gian thực hiện hợp đồng phải thích hợp, tức không được
giảm thời gian thực hiện kiểm toán; - Trình độ chuyên môn và năng lực kiểm toán viên
tham gia vào hợp đồng kiểm toán phải phù hợp; - Tuân thủ đầy đủ chuẩn mực kiểm toán
và quy trình kiểm soát chất lượng trong quá trình kiểm toán. Hai là, xem xét khả năng
SVTH : ĐOÀN THỊ ĐIỂM
Trang 15
Kiểm toán căn bản
GVHD: Ths. Hồ Tuấn Vũ
phát sinh xung đột lợi ích, xung đột lợi ích ảnh hưởng đến việc tuân thủ các nguyên tắc
đạo đức nghề nghiệp. Tuy nhiên vấn đề này không được trình bày đầy đủ trong chuẩn
mực hiện hành. Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của quốc tế năm 2006 đã đưa thêm nội
dung này. Trong thực tế, đây là một vấn đề cần quan tâm trong việc chấp nhận hợp đồng
kiểm toán. Vì vậy, cần bổ sung nội dung này vào chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Ngoài
ra, cần đưa ra các hướng dẫn chi tiết hơn về các loại xung đột lợi ích.
4.2. So sánh thực trạng kiểm toán của Việt Nam và thế giới
Ở tất cả các nước phát triển, công tác kiểm toán đã được tổ chức từ rất lâu và được
tổ chức một cách chặt chẽ, chu đáo, có hệ thống và được quy định rõ bằng pháp lệnh.
Công tác kiểm toán được tổ chức rộng rãi ở khắp mọi nơi,có thể nói ở đâu có sản xuất
kinh doanh, dịch vụ, có sự hoạt động của các doanh nghiệp cá thể hoặc công ty thì ở đó
có công tác kiểm toán.
Hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường, đặc biệt những nước phát triển như
Anh, Pháp, Mỹ, Nhật... hoặc ngay như các nước thuộc khối ASEAN công tác kiểm toán
cũng được quan tâm một cách rất đặc biệt, họ coi đó là công cụ quan trọng và cần thiết
trong công tác quản lý nền kinh tế đất nước. Những chuyên viên kiểm toán phải là những
người đã tốt nghiệp ở các trường kế toán cao cấp. Họ phải qua thi tuyển và sau khi đã có
chứng chỉ kiểm toán họ còn phải tuyên thệ trước toà án thương mại, toà án kinh tế rồi
mới được hành nghề.
Những nhà kiểm toán hay nói rõ hơn là nhà giám định kế toán phải đăng ký hành
nghề và mở những văn phòng kiểm toán tương tự như những văn phòng luật sư để thực
hiện chức năng kiểm toán.
Luật pháp ở các nước phát triển quy định các công ty, xí nghiệp, các tổ chức doanh
nghiệp nói chung, mỗi khi tranh chấp hoặc làm việc với cơ quan thuế vụ hay báo cáo lỗ
với các ngân hàng hoặc cơ quan nhà nước thì các bảng tổng kết phải có cơ quan kiểm
toán chứng nhận thì mới có giá trị. Các doanh nghiệp muốn được đảm bảo về mặt kinh tế,
muốn có bảng tổng kết tài sản có giá trị thì cần phải hợp đồng với một văn phòng kiểm
toán để văn phòng kiểm toán này thường xuyên hướng dẫn, theo dõi, giúp đỡ để công
SVTH : ĐOÀN THỊ ĐIỂM
Trang 16
Kiểm toán căn bản
GVHD: Ths. Hồ Tuấn Vũ
việc kế toán của các doanh nghiệp này đi đúng hướng và không sai lệch, chính xác và
hợp lý.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay với sự phát triển nhanh chóng của ngành,
của tổ chức kinh tế, hàng trăm thậm chí hàng ngàn công ty liên doanh, công ty 100% vốn
nước ngoài... công tác quản lý càng trở nên phức tạp. Chúng ta cần coi trọng công tác
kiểm toán, phải xem kiểm toán là một công cụ quan trọng, cần thiết để giúp cho nền kinh
tế đất nước tránh được những thiệt hại lớn lao không đáng có. Để làm được điều đó
chúng ta cần nghiên cứu và học hỏi hệ thống kiểm toán, cách tổ chức kiểm toán và những
kinh nghiệm kiểm toán ở các nước lân cận như Singapore, Hong Cong, Đài Loan... và
các nước phát triển như Đức, Pháp, Mỹ, Anh, Nhật...
5. Giải pháp và kiến nghị để nâng cao chất lượng kiểm toán
Kiểm toán đối với Việt Nam hiện nay vẫn còn là một ngành mới mẻ. Tuy nhiên, nó
có vai trò rất quan trọng góp phần quyết định sự phát triển đất nước. Trong thời đại bùng
nổ thông tin như hiện nay thì việc nhận thức đúng ngành nghề lại càng cần thiết hơn bao
giờ hết. Nhận thức đúng không chỉ đơn giản là thu nhận nhiều thông tin mà còn phải biết
lựa chọn thông tin đáng tin cậy, phù hợp từ vô số những điều đọc được, nghe được trên
cơ sở phân tích thận trọng. Định hướng này phải trở thành nhận thức, ý thức của mỗi
kiểm toán viên khi bước vào nghề. Để nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ và đạo
đức nghề nghiệp cho kiểm toán viên thì cần phải có một sự nỗ lực thực sự thông qua:
- Thường xuyên quan tâm đến công tác đào tạo, tổ chức bồi dưỡng cập nhật kiến
thức của kiểm toán viên, tổ chức các hội thảo chuyên đề báo cáo thực tế nâng cao trình
độ cho kiểm toán viên.
- Nghiên cứu xây dựng một bộ luật đạo đức áp dụng thực tiễn Việt Nam nêu ra các
tiêu chuẩn về đạo đức và nguyên tắc hoạt động công việc hàng ngày của kiểm toán viên.
Trước mắt có thể ban hành các văn bản có tính quy phạm hoặc làm căn cứ hoạt động để
từng bước hoàn thiện chuẩn mực kiểm toán nhà nước.
- Có chế độ đãi ngộ với kiểm toán viên để tránh những tiêu cực không đáng có,
nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho anh em.
SVTH : ĐOÀN THỊ ĐIỂM
Trang 17
Kiểm toán căn bản
GVHD: Ths. Hồ Tuấn Vũ
- Nâng cao sự hiểu biết của công chúng về vai trò, trách nhiệm pháp lý của các
kiểm toán viên bằng các phương tiện truyền thông. Ngoài ra cần phải xắp xếp đúng
người, đúng việc (theo trình độ, năng lực kiểm toán viên). Mua bảo hiểm cho kiểm toán
viên trong đơn vị.
- Cần xây dựng một trung tâm khoa học và bồi dưỡng cán bộ kiểm toán để có một
diễn đàn thực sự là nơi để kiểm toán viên trao đổi về chuyên môn nghề nghiệp, tư cách
đạo đức và trách nhiệm pháp lý.
- Nghiên cứu và kiến nghị các giải pháp nhằm kiểm tra chất lượng hành nghề của
kiểm toán viên và hoạt động kiểm toán. Ngoài ra còn phải đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo
quy hoạch, theo chương trình dài hạn, chương trình nâng cao ở trong và ngoài nước tiến
đến có thể đào tạo sau đại học.
- Vấn đề phát triển nhân lực đồng thời với việc nâng cao trình độ nghề nghiệp
kiểm toán là vấn đề có tính chiến lược, góp phần quyết định đối với sự phát triển kinh tế
ở nước ta.
Nói về đạo đức nghề kiểm toán, vấn đề quan trọng đặt ra là phải luôn luôn nắm
vững nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối
của đảng về công tác cán bộ. Do đó phải đào tạo nguồn cán bộ, kiểm toán viên cơ bản,
chuyên sâu nghề nghiệp, có đầy đủ phẩm chất và năng lực, đức và tài, bảo đảm tính liên
tục, kế thừa và phát triển. Càng đi sâu vào cơ chế thị trường hội nhập khu vực và thế giới,
trong thời đại bùng nổ thông tin thì việc rèn luyện, phát triển đức – tài của đội ngũ cán
bộ, kiểm toán viên đặt ra rất quan trọng và cấp bách.
Nhưng đạo đức nghề nghiệp là gì? Không phải là khái niệm chung chung mà phải
được biểu hiện cụ thể trong qua trình hoạt động kiểm toán, đeo mang suốt đời của người
kiểm toán viên. Đạo đức nghề nghiệp còn phải được rèn luyện trong việc học tập nâng
cao tay nghề, tham gia nghiên cứu khoa học và giải quyết các mối quan hệ trong đời sống
xã hội, giữa cái chung và cái riêng, giữa cá nhân và tập thể. Muốn có chất lượng và hiệu
quả một cuộc kiểm toán phải dựa trên cơ sở vững chắc của đạo đức nghề nghiệp. Nhiều
trường hợp những lỗi vi phạm dù nhỏ hay lớn, nhưng để có bằng chứng kiểm toán thì
SVTH : ĐOÀN THỊ ĐIỂM
Trang 18
Kiểm toán căn bản
GVHD: Ths. Hồ Tuấn Vũ
phải kiểm chứng xác thực và có sức thuyết phục cao, khi cần thiết người kiểm toán viên
có tâm đức không bao giờ dấu dốt, có thể mở sách giáo khoa trước đồng nghiệp của mình
cùng nghiên cứu, cùng tranh luận hoặc để làm sáng tỏ vấn đề đưa ra được đánh giá, kết
luận đảm bảo tính khách quan chính xác, trung thực... và cũng là để học hỏi thêm các
đồng nghiệp.
Tham gia nghiên cứu khoa học với tinh thần tìm tòi, sáng tạo, phát hiện những
điều mới mẻ là những biện pháp không thể thiếu được để không ngừng nâng cao chất
lượng và hiệu quả của công tác kiểm toán. Người kiểm toán viên không thể đơn thuần
phát hiện những sai sót, yếu kém của các đơn vị trong quản lý kinh tế, mà đồng thời từ
những sai sót, yếu kém của các đơn vị tổng hợp, phân tích chỉ ra những sơ hở và bất cập
về cơ chế chính sách trong việc quản lý tài chính, yếu kém của đơn vị về chuyên môn
nghiệp vụ hay do đơn vị cố tình làm sai có lợi cho đơn vị, đồng thời cũng thấy được khó
khăn vướng mắc của đơn vị trong quá trình quản lý cũng như trong sản xuất kinh doanh
cần được tháo gỡ, từ đó có nhận xét và kiến nghị phù hợp.
Trong hoạt động kiểm toán, đạo đức người kiểm toán viên càng được biểu hiện cụ
thể, người kiểm toán viên có đạo đức không bao giờ có thái độ hách dịch, lời nói doạ nạt
đơn vị. Một hành động, cử chỉ, một lời nói ân tình của kiểm toán viên có thể làm cho đối
tượng kiểm toán xích lại gần, bày tỏ với kiểm toán viên những vấn đề về chuyên môn
nghiệp vụ, về cơ chế chính sách vướng mắc, một lời nói sống sượng, thiếu văn hoá cũng
có thể làm đơn vị xa lánh, không sẵn sàng phối hợp, không tiếp thu những gì mà kiểm
toán viên đặt ra. Do đó, kiểm toán viên phải rất thận trọng trong từng lời nói, việc làm,
kết quả kiểm toán phải có bằng chứng cụ thể, trung thực và có sức thuyết phục cao.
Khó khăn day dứt nhất hiện nay của người cán bộ, kiểm toán viên là xác định yên
tâm công tác, yêu ngành yêu nghề, thấy rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của kiểm toán mà
ra sức học tập, trau dồi bản lĩnh chính trị vững vàng và tinh thông chuyên môn nghiệp vụ.
Không thể có đạo đức nghề nghiệp nếu không gắn bó tha thiết với nghề nghiệp, không
thấy rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của mình.
SVTH : ĐOÀN THỊ ĐIỂM
Trang 19
Kiểm toán căn bản
GVHD: Ths. Hồ Tuấn Vũ
Rõ ràng đạo đức nghề nghiệp là những biểu hiện cụ thể của người công chức kiểm
toán viên trong qua trình tiếp xúc và làm việc với đối tượng kiểm toán, cũng như quan hệ
với đồng nghiệp, với xã hội. Đạo đức dựa trên nhân sinh quan đầy nhân ái là động lực
mạnh mẽ giúp cho công chức kiểm toán và kiểm toán viên thực hiện có kết quả công tác
kiểm toán, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của doanh nghiệp, làm lành
mạnh nền tài chính quốc gia.
KẾT LUẬN
Tóm lại, việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp đối với mỗi kiểm toán viên là rất quan trọng.
Mỗi cá nhân cần phải rèn luyện tinh thần, tu dưỡng đạo đức và nâng cao tinh thần trách nhiệm
SVTH : ĐOÀN THỊ ĐIỂM
Trang 20
Kiểm toán căn bản
GVHD: Ths. Hồ Tuấn Vũ
bên cạnh việc trau dồi kiến thức chuyên môn của mình. Không những thế, các kiểm toán viên
cần được sự hỗ trợ từ môi trường làm việc và sự kiểm soát của pháp luật để việc tuân thủ chuẩn
mực đạo đức nghề nghiệp được thực hiện dễ dàng và đúng đắn hơn.
Để thích ứng với yêu cẩu của nền kinh tế chuyển đổi theo cơ chế thị trường và hội
nhập với Quốc tế, hoạt động kiểm toán Việt Nam đã hình thành và phát triển. Tuy vẫn
còn là một ngành, nghề mới nhưng nó đã phần nào khẳng định được vị trí trên toàn đất
nước. Để khẳng định được vị trí đó đặc trưng ngành nghề tuy nhiên phải kể đến cả sự
đóng góp không nhỏ của con người trong lĩnh vực kiểm toán. Những người này được
trang bị chuẩn mực kiểm toán đạo đức nghề nghiệp làm kim chỉ nam cho mọi hành động.
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp là những đường lối chung để giúp kiểm toán viên hoàn
thành trách nhiệm nghề nghiệp của mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam – Quyển
I – Bộ tài chính.
SVTH : ĐOÀN THỊ ĐIỂM
Trang 21
Kiểm toán căn bản
GVHD: Ths. Hồ Tuấn Vũ
2. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam – Quyển II – Bộ tài chính.
3.Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam – Quyển III– Bộ tài chính.
4. Kiểm toán của tác giả Alvin A.aren – Nhà xuất bản thống kê.
5. Các tạp chí kiểm toán.
6. />7. />
SVTH : ĐOÀN THỊ ĐIỂM
Trang 22