BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
_______________________
Nguyễn Thị Thoa
CHIẾN TRANH QUA CÁI NHÌN CỦA
BẢO NINH VÀ ERICH MARIA REMARQUE
TRONG NỖI BUỒN CHIẾN TRANH
VÀ PHÍA TÂY KHÔNG CÓ GÌ LẠ
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
_______________________
Nguyễn Thị Thoa
CHIẾN TRANH QUA CÁI NHÌN CỦA
BẢO NINH VÀ ERICH MARIA REMARQUE
TRONG NỖI BUỒN CHIẾN TRANH
VÀ PHÍA TÂY KHÔNG CÓ GÌ LẠ
Chuyên ngành : Lí luận văn học
Mã số
: 60 22 32
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHẠM THỊ PHƯƠNG
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2012
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn trên là công trình nghiên cứu của riêng
tôi và chưa được công bố ở đâu.
Tác giả
HV: NGUYỄN THỊ THOA
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo cùng các cơ quan
đoàn thể gồm: Khoa Ngữ văn trường ĐH Sư phạm Tp. HCM; Phòng
Sau đại học; Trường Dân lập Quốc tế Việt Úc đã giúp đỡ, ủng hộ tôi
trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Đặc biệt, tôi rất biết ơn PGS.TS.Phạm Thị Phương, người đã
không ngại khó khăn, tận tình hướng dẫn và động viên tôi mọi mặt về
tinh thần cũng như những kiến thức quý báu, giúp tôi hoàn thành luận
văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn!
TP. Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 03 năm 2012
Người thực hiện
Học viên: Nguyễn Thị Thoa
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài......................................................................................... 2
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................. 8
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 8
5. Đóng góp của luận văn .............................................................................. 9
6. Cấu trúc luận văn ....................................................................................... 9
Chương 1: NỖI BUỒN CHIẾN TRANH VÀ PHÍA TÂY KHÔNG CÓ
GÌ LẠ QUA SỰ TIẾP NHẬN CỦA ĐỘC GIẢ ...................... 12
1.1. Quá trình tiếp nhận................................................................................ 12
1.2. Khuynh hướng tiếp nhận....................................................................... 17
1.2.1. Khuynh hướng “hiện thực sử thi” ................................................... 18
1.2.2. Khuynh hướng “hiện thực tâm lí” .................................................. 21
Chương 2: NỖI BUỒN CHIẾN TRANH VÀ PHÍA TÂY KHÔNG CÓ
GÌ LẠ QUA SỰ THỂ HIỆN MỘT KĨ THUẬT MỚI VỚI
CÁI NHÌN CHIẾN TRANH .................................................... 29
2.1. Điểm nhìn trần thuật ............................................................................. 31
2.1.1. Ngôi kể ............................................................................................ 32
2.1.2. Thời điểm truyện được kể............................................................... 38
2.2. Kết cấu trần thuật .................................................................................. 42
2.2.1. Kết cấu dòng ý thức ........................................................................ 43
2.2.2. Kết cấu tiểu thuyết tự thuật ............................................................. 49
2.3. Cấu trúc hình tượng nghệ thuật............................................................. 56
2.3.1. Hình tượng nhân vật ....................................................................... 56
2.3.2. Hình tượng không – thời gian ......................................................... 64
2.3.3. Biểu tượng....................................................................................... 75
Chương 3: NỖI BUỒN CHIẾN TRANH VÀ PHÍA TÂY KHÔNG CÓ
GÌ LẠ QUA SỰ THỂ NGHIỆM MỚI VỀ CÁI NHÌN
CHIẾN TRANH ........................................................................ 86
3.1. Chiến tranh qua cái nhìn của người lính thời hậu chiến ....................... 86
3.1.1. Thân phận người lính chiến ............................................................ 89
3.1.2. Số phận con người thời hậu chiến .................................................. 93
3.2. Giá trị vĩnh hằng cất lên từ hủy diệt ..................................................... 97
3.2.1. Khát vọng sống, khát vọng tình yêu ............................................... 98
3.2.2. Lý tưởng nhân văn ........................................................................ 103
3.2.3. Sự trăn trở, tìm tòi sáng tạo của người nghệ sĩ ............................. 106
KẾT LUẬN .................................................................................................. 110
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 113
MỞ ĐẦU
Từ xưa tới nay, chiến tranh vẫn là một đề tài lớn của nhân loại. Những
sáng tác nổi tiếng như: Chiến Tranh và Hòa Bình, Phía Tây không có gì lạ…
đã phác họa lại một thời nhưng lại sống lâu cả đời và thành những tác phẩm
kinh điển. Và mỗi khi nhắc đến văn học của thế kỉ XX, chúng ta không thể
nào quên một bộ phận văn học chống chiến tranh rất nổi tiếng trên thế giới
với những đại diện tiêu biểu như H. Barbuse, E. Hemingway và E. M.
Remarque… Nếu như Barbuse được coi là người đi tiên phong trong phong
trào chống chiến tranh đế quốc thì Hemingway, Remarque là những tác giả đã
góp phần làm cho dòng văn học này phát triển và đạt được những đỉnh cao
nhất định trên diễn đàn văn nghệ thế giới. Có thể xem những sáng tác của họ
về Thế chiến thứ nhất là những áng văn chương giàu giá trị nghệ thuật và
thấm đẫm tính chất nhân văn, tiêu biểu cho bộ phận văn học chống chiến
tranh thời bấy giờ. Vì vậy khi nói đến văn học viết về Chiến tranh Thế giới
thứ nhất, người ta thường nghĩ ngay đến những sáng tác của Hemingway và
Remarque, đặc biệt là tác phẩm Phía Tây không có gì lạ của Erich Maria
Remarque.
Riêng ở Việt Nam, hai cuộc chiến tranh thần thánh đã đi qua, chúng ta
được gì và mất gì? Như người “thư kí trung thành” của thời đại, nền văn học
Việt Nam đã ghi lại từng bước hành quân của dân tộc qua chiều dài năm
tháng từ 1945 đến 1975. Những tác phẩm văn học chiến tranh trong suốt thời
kì bom đạn ấy phần nhiều nói đến những chiến công. Nhưng đằng sau mỗi
trận bom chẳng lẽ không có nước mắt và nỗi đau buồn, không có cái giật
mình hoảng hốt ghê sợ thần chết? Với tư cách là kí giả của tâm hồn, văn nghệ
đã sử dụng “tiếng nói” của mình để ghi lại những cảm xúc chân thực nhất về
những năm tháng đạn bom, trong đó có cả ánh hào quang của chiến thắng lẫn
sự đau thương mất mát của một dân tộc. Niềm đau ấy được lột tả qua từng số
phận của con người cá nhân. Đó cũng chính là những thành tựu nghệ thuật
không thể phủ nhận của văn học viết về chiến tranh ở Việt Nam từ sau năm
1975 đến nay.
1. Lí do chọn đề tài
Chúng tôi chọn đề tài này vì những lí do sau:
(1). Thế kỉ XX được biết đến như một kỉ nguyên tàn khốc nhất chưa từng có
trong lịch sử nhân loại, với những cuộc đại chiến quy mô và có sức huỷ diệt
khủng khiếp, để lại vết tích thương tàn trên thân thể và tinh thần của thế hệ bị
quăng vào máu lửa – “thế hệ mất mát”. Vì vậy đề tài chiến tranh sẽ còn tiếp
tục nóng trên diễn đàn văn học, được nhìn thấy trong những lối khai thác
mới, khơi sâu hơn nữa mối quan hệ phức tạp giữa số phận con người với
số phận dân tộc, số phận nhân loại. Qua đó, chúng tôi nhận thấy chiến tranh
là vấn đề lớn và có nhiều ý nghĩa đối với mọi thời đại rất đáng để mọi người
quan tâm.
(2). Sở dĩ người viết chọn so sánh Nỗi buồn chiến tranh (từ đây xin viết tắt
là NBCT) và Phía Tây không có gì lạ (từ đây xin viết tắt là PTKCGL) vì đây
là những tác phẩm kinh điển, có cách tiếp cận đầy hiệu quả về đề tài chiến
tranh. Hơn nữa giữa hai nhà văn còn có sự tương đồng trong cảm hứng,
nội dung và trong việc đi tìm những phương thức nghệ thuật mới cho
một cách nhìn mới trong cùng một đề tài,… Thiết nghĩ việc tiếp cận so
sánh cách nhìn chiến tranh của Bảo Ninh và Remarque thông qua hai tiểu
thuyết đầu tay của họ là việc làm mới mẻ và có ý nghĩa thiết thực đối với
quá trình nghiên cứu hai nhà văn này.
(3). Chấm dứt chiến tranh, hòa bình vĩnh viễn là ước mơ của nhân loại.
Nhưng ngày nay nhiều nước trên thế giới vẫn đang quằn quại thương đau
trong biển lửa của bom đạn chiến tranh. Vì vậy những tác phẩm có tinh thần
phản chiến như PTKCGL (Remarque), Chuông nguyện hồn ai; Giã từ vũ khí
(Hemingway), NBCT (Bảo Ninh)… lại càng có ý nghĩa thiết thực đối với mọi
dân tộc trên thế giới. Nó nhắc nhở cho chúng ta nhớ lại quá khứ để không bao
giờ được quên quá khứ, bởi lẽ “quá khứ sẽ quay trở lại với những kẻ quên quá
khứ” (Tạ Duy Anh).
2. Lịch sử vấn đề
Tính đến thời điểm hiện tại chưa có một công trình nghiên cứu nào
tập trung đi sâu vào việc so sánh Bảo Ninh và Remarque trong cách
“chiêm nghiệm chiến tranh”. Rải rác đâu đó trong các công trình nghiên
cứu cũng như trong một số bài viết riêng lẻ từng tác phẩm của từng nhà văn,
một số nhà phê bình đã gặp gỡ nhau trong cách đánh giá sơ bộ về nội dung tư
tưởng được thể hiện trong NBCT và PTKCGL. Nhiều độc giả ở Mĩ thường
nhắc đến cuốn tiểu thuyết của Remarque để khen ngợi và lấy làm điểm quy
chiếu khi đọc NBCT của Bảo Ninh. Leif A. Torkelsen (Columbus, OH United
States) một độc giả Mỹ đã đánh giá về NBCT như sau:
Liệt kê đầy đủ các phẩm chất của sách này ở đây là không thể. Liên
quan đến văn học Việt Nam, đây là một tác phẩm ngoại hạng so với tất cả
các tác phẩm khác cùng lĩnh vực. Liên quan đến văn học chiến tranh thì
chỉ có Phía Tây không có gì lạ là may ra có thể so sánh được. Bảo Ninh
đã viết nên bản tụng ca đẹp đẽ đầy ám ảnh về sự trong trắng bị mất đi
trong dòng xoáy chiến tranh.
Tờ Independent, một trong những nhật báo có uy tín của nước Anh đã
nhận xét về cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh: “Vượt ra ngoài sức tuởng tượng
của người Mỹ, Nỗi buồn chiến tranh đi ra từ chiến tranh Việt Nam đã đứng
ngang hàng với cuốn tiểu thuyết chiến tranh vĩ đại của thế kỷ, Mặt trận phía
Tây vẫn yên tĩnh của Erich Maria Remarque […]. Một cuốn sách viết về sự
mất mát của tuổi trẻ, cái đẹp, một câu chuyện tình đau đớn… một thành quả
lao động tuyệt đẹp”.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu đi sâu khai thác mặt nội dung
tư tưởng và kĩ thuật kể chuyện của từng nhà văn trong từng tác phẩm.
Maxwell Geismar trong Writers in Crisis đã đề cập đến vấn đề nhân tính
trong sáng tác của Remarque. Theo tác giả, Remarque rất chú ý đến phẩm
chất của con người trong chiến tranh để lột tả những cú sốc về mặt tinh thần
của bản thân. Còn James Dews ở The language of war lại cho rằng chiến
tranh đối với Remarque là sự khủng hoảng thuộc về ngữ nghĩa. Sự khủng
hoảng này dựa trên sự mất niềm tin về khả năng hiệu quả của ngôn ngữ để
liên hệ và can thiệp vào thế giới thực tại hữu hình hay vô hình. Ngôn ngữ trở
nên vô nghĩa và thất bại trong việc diễn đạt trước sự hung bạo của chiến
tranh.
Riêng ở Việt Nam, khoảng đầu những năm 60 của thế kỉ XX,
PTKCGL đã được tác giả Lê Huy dịch và giới thiệu với bạn đọc trong nước.
Đâu đó trong các công trình nghiên cứu văn học Phương Tây nói chung và
văn học Đức nói riêng, các tác giả không thể không nhắc tới Remarque khi đề
cập đến văn học chống chiến tranh. Tác giả Lê Đình Cúc trong luận án tiến sĩ
Tiểu thuyết viết về chiến tranh của Hemingway đã có những so sánh thú vị
giữa Hemingway và Remarque. Theo ông, tác phẩm của họ phản ánh sự chua
chát, cay đắng của một thế hệ thanh niên bị Chiến tranh Thế giới nghiền nát.
Họ là nạn nhân và đã bị làm vật hi sinh trong cuộc chiến tranh bẩn thỉu.
Tương tự, bài “Sự tham dự của nhà văn trong chiến tranh” Vương Trí Nhàn
cho rằng, Remarque ở PTKCGL đã tự nhận mình muốn “viết về một thế hệ bị
chiến tranh giết, tức viết về những người trở thành vật hi sinh, ngay cả khi họ
tránh được những loạt đại bác […] hình ảnh con người đối mặt với chiến
tranh hiện ra chủ yếu ở dạng những nạn nhân, những kẻ bị chiến tranh làm
cho biến dạng mọi vui buồn yêu thích bình thường. Chẳng qua họ chỉ như một
hạt cát trong sa mạc, còn hay mất chả có nghĩa lý gì hết” [54].
Lương Ngọc Bính trong cuốn Văn học Đức chống phát xít – những
vấn đề mĩ học và thi pháp đã nhắc đến Remarque như chủ soái của một
khuynh hướng nghệ thuật: khuynh hướng hiện thực tâm lí. Tác giả đã đánh
giá cao “tư tưởng phản chiến” và “giá trị nhân văn” cao đẹp được thể hiện
trong sáng tác của nhà văn.
Như vậy, PTKCGL (Remarque) không hề xa lạ với độc giả Việt Nam.
Nhiều nhà phê bình nghiên cứu trong nước đã có những công trình so sánh tác
phẩm viết về Đại chiến Thế giới thứ nhất giữa E. Hemingway và E.
Remarque. Từ sau Đổi mới năm 1986, người ta lại bắt gặp đâu đó tư tưởng
của Remarque trong nhiều tiểu thuyết hậu chiến nói chung và sáng tác của
Bảo Ninh nói riêng.
Trong Thi pháp học hiện đại, Đỗ Đức Hiểu dành một bài viết riêng về
NBCT. Tác giả đã đối chiếu mô hình tiểu thuyết của Bảo Ninh với một số tiểu
thuyết Châu Âu thế kỉ XX như Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Prout.
Trong Tự sự học – một số vấn đề lí luận và lịch sử có đăng bài viết của
TS. Nguyễn Đăng Điệp với tựa đề "Kĩ thuật dòng ý thức qua NBCT của Bảo
Ninh" đã đi sâu khám phá kĩ thuật dòng ý thức qua việc nghiên cứu những
giấc mơ đứt gãy, trạng thái ngủ “mở mắt” của nhân vật Kiên. Từ đó tác giả rút
ra kết luận về sức hấp dẫn của thiên tiểu thuyết: “Văn Bảo Ninh hấp dẫn
người đọc ở chính khoảng lặng của ngôn từ, ở màu sắc các biểu tượng được
dệt lên từ những giấc mơ, những độc thoại của con người về mình và về chính
cõi người” [23, tr.408].
Đào Duy Hiệp trong Phê bình văn học từ lí thuyết hiện đại đã nghiên
cứu thời gian trong tiểu thuyết NBCT. Một trong những kết luận quan trọng
mà tác giả đã rút ra là: “Chính những thủ pháp “sai trật, ngoái lại, đón
trước” ở đây đã dệt nên trong tác phẩm của Bảo Ninh một mạng lưới tâm lí
truyện kể được xem như một ý thức về thời gian hoàn toàn rõ rệt và những
mối liên hệ không mập mờ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai” [34].
Nhìn chung, qua những tài liệu nghiên cứu mà chúng tôi tập hợp được
thì vấn đề về nội dung, nghệ thuật của cuốn tiểu thuyết đã được các nhà
nghiên cứu từng đưa ra bàn luận trong nhiều năm trở lại đây. Tuy vậy việc
khẳng định giá trị của cuốn tiểu thuyết vẫn là công việc lâu dài của giới phê
bình và công chúng văn học.
Riêng ở nước ngoài, đã có rất nhiều độc giả cùng các tờ báo nổi tiếng
dành nhiều lời đẹp đẽ để ngợi ca sáng tác của Bảo Ninh. Như tờ báo Anh The
Guardian đã viết: "Một cuốn tiểu thuyết không thể đặt xuống. Bất kỳ nhà
chính trị hoặc nhà hoạch định chính sách nào của Mỹ cũng cần nên đọc cuốn
sách này. Nó lẽ ra phải được giải Pulitzer, nhưng đã không được. Nó quá hấp
dẫn để xứng được thế". Một nhà phê bình khác táo bạo hơn cho rằng NBCT
vượt lên trên tất cả các tác phẩm văn xuôi của Mỹ đã viết về cuộc chiến Việt
Nam. Dennis Mansker, thành viên của Hội cựu binh vì hòa bình và hội cựu
binh Việt Nam chống chiến tranh, tác giả cuốn sách A Bad Attitude: A Novel
from the Vietnam War, đã bất ngờ khi đọc NBCT. Ngày 3/10/2008, ông viết
trong niềm xúc động choáng váng:
Đây là một bức tranh trung thực và tàn nhẫn đến kinh ngạc về bi
kịch của một người lính Bắc Việt bị tê liệt hết nhân tính của mình sau
mười năm tham chiến. Đã đến lúc thế giới phải thức tỉnh trước nỗi đau
mang tính phổ quát của những người lính ở mọi bên xung đột, và cuốn
sách này là nên đọc đối với những ai chọn nghề "binh nghiệp". Tôi đặc
biệt giới thiệu nó cho các bạn bè cựu binh của mình; Bảo Ninh thực sự là
"bạn chiến đấu" của chúng tôi, bất kể việc anh ta đứng ở phía bên kia.
Hết sức giới thiệu [52].
Như vậy, NBCT cũng không hề xa lạ với giới phê bình nghiên cứu lẫn
độc giả trong nước cũng như ở nước ngoài. Đâu đó trong các bài viết về văn
học Việt Nam từ sau những năm Đổi mới người ta đã ít nhiều đề cập đến tiểu
thuyết của Bảo Ninh. Trong giới hạn của công trình này, chúng tôi không đi
sâu tìm hiểu và liệt kê hết những “chặng lịch sử vấn đề” về tình hình nghiên
cứu tác phẩm mà chỉ tìm hiểu ở cấp độ khái quát nhằm phục vụ trực tiếp cho
đề tài so sánh “cách nhìn” chiến tranh của Bảo Ninh và Remarque thông qua
hai tác phẩm NBCT và PTKCGL.
Trong giáo trình Văn học Phương Tây, khi bàn về Hemingway và
Remarque, Đặng Anh Đào đã khẳng định có một mạch nối giữa họ và các
nhà văn thời hậu chiến. Đối lập với cái tàn khốc, ác liệt của chiến tranh là
những tình bạn, tình yêu như những “sợi chỉ xanh óng ánh” đang bị hủy hoại
giữa làn mưa bom bão đạn. Môtip này nổi lên trong hầu hết các tác phẩm của
ông với một kết cục vô hậu, đau thương và sự tan vỡ của tình yêu cùng những
giá trị thiêng liêng khác. Đây cũng chính là điều mà ta bắt gặp trong dòng
chảy của tiểu thuyết NBCT. Tình yêu và chiêm nghiệm chiến tranh là hai
mạch chủ đề song song, cùng hòa quyện vào nhau làm nên tác phẩm này.
Chung quy lại, đã nhiều bạn đọc nhận ra sự gặp gỡ của hai tác
phẩm nhưng hầu như không có bằng cớ nào cho thấy Bảo Ninh có “ảnh
hưởng” sáng tác của Remarque. Tuy các sách báo, công trình nghiên cứu đã
có đề cập đến vấn đề so sánh hai tiểu thuyết trên nhưng chỉ dừng ở những
nhận định rất chung và thoáng qua chứ chưa có một công trình nào đi sâu
nghiên cứu cụ thể cách nhìn về chiến tranh của hai nhà văn xem có gì tương
đồng và khác biệt. Chính vì vậy, trên cơ sở tìm hiểu và tổng hợp những ý
kiến, nhận định của các độc giả, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước,
chúng tôi đã nhận ra sự tương đồng thú vị trong cách nhìn chiến tranh của hai
tác giả để từ đó đi vào nghiên cứu đề tài: Chiến tranh qua cách nhìn của Bảo
Ninh và Remarque trong NBCT và PTKCGL.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đề tài sẽ được tiến hành nghiên cứu trong phạm vi cụ thể là hai tiểu
thuyết NBCT của Bảo Ninh và PTKCGL của Remarque. Ngoài ra, để đảm bảo
tính khách quan, ở cả chiều sâu lẫn chiều rộng, chúng tôi có đọc tìm hiểu
thêm về đề tài văn học chiến tranh được viết trước đó cũng như bây giờ qua
một vài tác phẩm của Việt Nam lẫn của nước ngoài.
4. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi đã thực hiện đề tài với sự kết hợp nhiều phương pháp khác
nhau, trong đó có một số phương pháp chủ yếu sau:
Phương pháp hệ thống: phương pháp này giúp cho luận văn trở nên
chặt chẽ, logic, hiệu quả cao. Đồng thời nó còn giúp cho người nghiên cứu
nhìn nhận các vấn đề khái quát, có định hướng, từ đó đưa ra các nhận xét,
đánh giá có sức thuyết phục. Nhìn chung chúng tôi sử dụng phương pháp này
trong toàn luận văn, nhưng chủ lực vẫn tập trung ở chương 2.
Phương pháp đối chiếu so sánh: là phương pháp chủ đạo xuyên suốt
bài nghiên cứu. Phép so sánh dùng để làm nổi bật những điểm tương đồng và
khác biệt trong cách độc giả nhìn nhận, đánh giá tác phẩm của Bảo Ninh và
Remarque. Đồng thời so sánh nhằm khắc hoạ những điểm giống và khác nhau
trong quan điểm cũng như lối trần thuật của hai nhà văn.
Phương pháp kí hiệu học: Phương pháp này được dùng để so sánh kí
hiệu ngữ nghĩa của những hình ảnh tượng trưng, biểu tượng được sử dụng
trong NBCT và PTKCGL, từ đó thống kê tần suất xuất hiện của các hình ảnh
để đi đến kết luận chung. Bên cạnh đó, phân tích những hình thức có giá trị
biểu đạt nội dung để làm cơ sở tìm ra những nét đặc thù trong cách nhìn của
hai nhà văn. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu trong chương 2, mục
2.3.3.
Phương pháp tâm lí học: Áp dụng lĩnh vực tâm lí học sáng tác vào việc
nghiên cứu nhằm góp phần lí giải cách nhìn chiến tranh của hai nhà văn so
với hiện thực lịch sử trước đó. Phương pháp này được rải đều trong cả ba
chương, nhưng vẫn tập trung chủ yếu ở chương 1, mục lí giải cách tiếp cận
tác phẩm của Bảo Ninh và Remarque từ phía người đọc.
Phương pháp tiếp nhận văn học: Đây là phương pháp chủ yếu được
dùng trong chương 1, nhằm tập hợp những ý kiến có xu hướng đối lập từ các
nhà phê bình để lí giải và đánh giá tác phẩm một cách khách quan hơn.
Phương pháp loại hình: phương pháp này được áp dụng như một
phương pháp nòng cốt của luận văn. Bằng việc xác định loại hình tiểu thuyết
và tìm ra những sự gặp gỡ thú vị giữa hai tác phẩm thuộc loại "hiện tượng văn
học" viết về đề tài chiến tranh, người viết tiến hành so sánh hai cách nhìn
chiến tranh được biểu hiện trong hai tác phẩm này.
5. Đóng góp của luận văn
Thông qua đề tài, người viết hi vọng sẽ góp một phần nhỏ trong cách
nhìn nhận, tiếp cận đối với hai tác phẩm rất nổi tiếng viết về đề tài chiến tranh
của Bảo Ninh và Remarque. Bên cạnh đó, luận văn cũng phần nào khái quát
lại những ý kiến tản mạn xung quanh hai tác phẩm văn học thuộc loại “hiện
tượng văn học”, để thấy được nét độc đáo trong sáng tác của Bảo Ninh cũng
như Remarque.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và danh mục Tài liệu tham khảo ra,
phần Nội dung của luận văn gồm ba chương, chiếm khoảng 2/3 số trang viết,
trong đó chương 2 và chương 3 được xác định là những chương trọng tâm;
chương 1 làm tiền đề cơ sở cho hai chương trên.
Chương 1 – được trình bày từ trang 12 đến trang 29, chương này đi vào
tìm hiểu một vài ý kiến tiếp nhận tác phẩm của Bảo Ninh và Remarque từ
trước tới nay vì NBCT và PTKCGL là hai tác phẩm từng gây tranh cãi xôn
xao từ phía các nhà phê bình lẫn công chúng văn học. Từ đó, chúng tôi cũng
thử lí giải một vài nguyên nhân dẫn đến những cái nhìn trái chiều ấy. Chương
này được coi là tiền đề cơ sở cho các chương sau trong luận văn vì từ đây
chúng ta sẽ phần nào nhìn thấy sự khác biệt trong tư tưởng cũng như phong
cách nghệ thuật của hai nhà văn thông qua bản tập hợp những đánh giá về tác
phẩm của các nhà phê bình. Đồng thời chương 1 còn góp phần làm rõ tên đề
tài là “cách nhìn chiến tranh” của hai nhà văn vì đây là vấn đề chính mà người
ta thường đem ra bàn luận khi đề cập đến văn bản cũng như so sánh hai nhà
văn với nhau.
Chương 2 – được trình bày từ trang 30 đến trang 87 chiếm một vị trí
trọng yếu trong bài luận. Nội dung chính của chương này là so sánh, đối chiếu
với một số tiểu thuyết trước và trong chiến tranh, để làm rõ sự khác biệt căn
bản về nghệ thuật xây dựng truyện của Bảo Ninh và Remarque so với các tác
giả đi trước, nhằm tô đậm nét mới lạ, độc đáo trong lối viết của hai nhà văn.
Đồng thời chúng tôi cũng tập trung so sánh hai tác phẩm để thấy được những
điểm tương đồng và khác biệt về mặt nghệ thuật của mỗi tác phẩm. Thông
thường, người ta sẽ tập trung làm sáng tỏ nội dung trước khi đi vào nghệ thuật
nhưng ở công trình này, chúng tôi đưa chương nghệ thuật lên trước vì người
viết muốn nhấn trọng tâm của đề tài là sự cách tân về mặt nghệ thuật của hai
tác phẩm, đặc biệt là trường hợp NBCT – một "thành tựu cao nhất của văn
học Đổi mới" (Nguyên Ngọc). Sở dĩ đề tài chiến tranh trong tác phẩm của hai
ông khác với đề tài văn học chiến tranh trước đó là do sự khác biệt về quan
điểm. Và để làm rõ điểm nhìn của mình, nhà nghệ sĩ đã phải sáng tạo một lối
viết khác – lối viết thiên về chiều sâu – đòi hỏi sự đồng tình, đồng điệu và sự
đồng sáng tạo từ phía bạn đọc.
Chương 3 – từ trang 88 đến trang 112 nhằm tái hiện lại những nội
dung thể hiện cách nhìn chiến tranh của Bảo Ninh và Remarque. Qua đó,
người viết cũng đặt các tác phẩm trong thế đối sánh để nhận biết điểm giống
và khác nhau trong cách nhìn của từng nhà nghệ sĩ cũng như sự khác biệt so
với tiểu thuyết chiến tranh trước đó. Điều này không những góp phần lí giải
toàn bộ sự đổi mới trong nội dung của hai tác phẩm thời hậu chiến mà còn
làm sáng rõ tư tưởng phản chiến được thể hiện trong tiểu thuyết của Bảo Ninh
và Remarque.
Trên thực tế, đề tài này có những khả năng cấu trúc khác, tùy theo
dụng ý của người trình bày. Người viết chọn lối “diễn dịch” và khai thác từng
phần theo bố cục của tiêu đề. Theo chúng tôi, hướng này khả thủ nhất cho
việc làm rõ mục đích chủ yếu của luận văn là nêu bật được cách chiêm
nghiệm chiến tranh trong hai tiểu thuyết của hai nhà văn thời hậu chiến dù họ
có những khoảng cách nhất định về thời gian và không gian. Để đảm bảo tính
hệ thống rõ ràng và tính chính xác khách quan thì khai thác theo bố cục của
tiêu đề là hợp lí hơn cả. Bên cạnh đó, cấu trúc như trên sẽ mở ra chiều hướng
thuận lợi trong khi tìm hiểu cho cả người nghiên cứu lẫn người đọc vì giữa
các chương đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau: nếu như nội dung chương
sau bổ sung và làm rõ ý tưởng cho chương trước, thì nội dung chương trước
làm tiền đề cơ sở cho chương sau.
Chương 1
NỖI BUỒN CHIẾN TRANH VÀ PHÍA TÂY KHÔNG CÓ GÌ LẠ
QUA SỰ TIẾP NHẬN CỦA ĐỘC GIẢ
1.1. Quá trình tiếp nhận
Như một luồng gió mới thổi vào đề tài văn học chiến tranh, tác phẩm
của Remarque và Bảo Ninh đã nhanh chóng chinh phục độc giả, gợi ra
sự quan tâm đặc biệt đối với người hâm mộ lẫn những người phản đối
tác phẩm. Ngay từ năm 1991, Hoàng Ngọc Hiến đã viết: “Cách tiếp cận đề
tài của Bảo Ninh giống như một sự liều lĩnh. Có thể tác giả sẽ bị trả giá
nhưng trong khi không ít người còn viết thiên về cách nghĩ bằng những
“thuận lí”, “một nghĩa”, “bảo đảm an toàn”, thì cuốn tiểu thuyết khác
thường của Bảo Ninh là “cái được” của văn chương”. Thế chiến thứ nhất
cũng như cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã qua đi nhưng cho đến nay đứa con
tinh thần của hai ông vẫn còn nhiều vấn đề tranh cãi, gây xôn xao dư luận
trong nước suốt mấy mươi năm qua. Có nhiều lời ngợi ca dành cho tác phẩm,
nhưng cũng không ít bạn đọc công kích, phản đối nội dung của câu chuyện.
Nhờ những phân tích mổ xẻ trái chiều này, tiểu thuyết của Bảo Ninh và
Remarque ngày càng được quảng bá rộng rãi hơn. Việc tạo ra “sự thay đổi
tầm đón đợi [34, 3]" từ phía công chúng trong bản thân nội dung câu chuyện
đã góp phần kiến tạo giá trị cho tác phẩm. Sáng tác chỉ mới là quá trình vận
động tư tưởng. Phải kinh qua người đọc, giá trị, ý nghĩa tiềm năng của văn
bản mới trở thành hiện thực.
Hơn 10 năm sau khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất kết thúc, tác phẩm
của Remarque mới chính thức ra mắt bạn đọc. Với 20 triệu bản, in bằng 50
thứ tiếng và được coi là “cuốn tiểu thuyết hay nhất về Thế chiến thứ
nhất” (Mencken), đó là PTKCGL của Erich Maria Remarque. Tác phẩm
chính thức ra mắt bạn đọc vào ngày 31/1/1929. Ngay trong lần xuất bản đầu
tiên, tiểu thuyết PTKCGL đã phát hành được hơn triệu bản ở Đức. Tại Anh,
Mỹ, sách còn bán chạy hơn. Tới năm 1932, PTKCGL đã được dịch ra 30 thứ
tiếng, bán tới hơn 8 triệu bản. Cùng với những thế hệ nhà văn cùng thời như
Hemingway, Remarque trở thành một nhà văn được ngưỡng mộ không chỉ ở
Đức mà còn trên khắp các nước Châu Âu. Cuốn tiểu thuyết nhanh chóng được
Emest Johannsen và Lewis Milestone chuyển thành phim. "Đây được xem là
bộ phim nói đầu tiên trong lịch sử điện ảnh, chấm dứt thời kì phim câm. Bộ
phim giành giải Oscar cho đạo diễn xuất sắc nhất và Cảnh quay xuất sắc
nhất cùng năm đó. Ngoài ra phim còn có hai đề cử không thành công là Quay
phim xuất sắc nhất và Kịch bản chuyển thể hay nhất. Năm 1979, tác phẩm
được chuyển thể thành phim truyền hình bởi đạo diễn Delbert Mann chỉ đạo
và nam diễn viên Richard Thomas đóng vai Paul Baumer. Hiện một dự án
làm phim mới, Daniel Radcliffe dự kiến sẽ đóng vai chính trong phim, dự
định khởi quay năm 2012 (theo Từ điển vi.wikipedia). Cuối tháng 2 năm
2009, giới văn học Đức đã kỉ niệm tròn 80 năm ngày ra đời của tác phẩm văn
học bất hủ này.
Tuy mang lại danh tiếng và tiền bạc nhưng PTKCGL cũng đã mang
đến cho nhà văn không ít những rắc rối. Ban đầu, tác phẩm từng bị một
nhà xuất bản danh tiếng từ chối (sau đó Samuel Fisher – Giám đốc Nxb đã thú
nhận mình sai lầm khi bỏ qua một cơ hội về doanh thu khổng lồ). Remarque
phải kí một bản cam kết nếu sách không bán chạy, ông sẽ phải hoàn trả chi
phí cho việc xuất bản. Bản thân nhà văn mới đầu cũng không dám kí tên thật
của mình, mà ghi “Kramer” (đọc ngược của từ Remarque).
Vừa ra đời không được bao lâu, tác phẩm đầu tay của Remarque –
PTKCGL đã gây nên những cuộc tranh cãi gay gắt. Nếu như một số nhà
phê bình đánh giá cao cuốn sách và cho đây là một tác phẩm kinh điển nói
cuộc Đại chiến Thế giới thứ nhất thì cánh hữu ở Đức lúc đó coi đây như một
âm mưu nhằm bôi nhọ lực lượng quân nhân Đức. Ngày 12/12/1930, nước
Đức cấm chiếu bộ phim được chuyển thể từ tác phẩm của Remarque. Tháng 5
năm 1933, sau khi Hitler lên nắm quyền, sách của Remarque cùng những tác
phẩm có tinh thần phản chiến của những nhà văn đương thời đã bị đem ra
thiêu rụi. Năm 1956, nước Ý cũng ra lệnh cấm chiếu phim này. Năm 1939,
nhà văn bị tước quốc tịch Đức, bắt đầu sống lưu vong và trở thành công dân
Mĩ năm 1947. Sau này, nhà cầm quyền ở Đức đã đặt tên Remarque cho một
con đường lớn ở quê nhà và mời gọi ông về lại quê hương. Dù rất cảm động
nhưng Remarque đã không bao giờ trở về thành phố quê hương vì cảm thấy
thành phố mới xây lại này không còn là những gì thân quen mà nhà văn đã
mô tả trong PTKCGL hay trong Đường về bia mộ đen nữa.
Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh cũng có cuộc đời với nhiều biến
động không kém gì PTKCGL của Remarque. Cuốn sách được in lần đầu
tiên vào năm 1987 với nhan đề Thân phận của tình yêu do các biên tập viên
nhà xuất bản Hội nhà văn lựa chọn. Chỉ một năm sau đó, tác phẩm được tái
bản với tiêu đề do chính tác giả đặt tên từ trước Nỗi buồn chiến tranh. Đến
năm 1991, NBCT trở thành một trong ba tác phẩm được giải văn xuôi của Hội
Nhà văn Việt Nam – một giải thưởng danh giá nhất của làng văn nghệ nước ta
trong nhiều năm qua. Nhà văn Nguyên Ngọc – người lãnh đạo Hội nhà văn
hồi đó đã từng đánh giá cao thành quả sáng tạo của Bảo Ninh trong NBCT.
Ông viết:
Đây là cuốn tiểu thuyết về một cuộc chiến đấu của một con người tìm
lẽ sống hôm nay. Bằng cách chiến đấu lại cuộc chiến đấu của đời mình.
Cuốn sách này không mô tả chiến tranh. Nó "mô tả" một cuộc kiếm tìm
nặng nhọc chính hôm nay. Hiện thực ở đây là hiện thực bên trong của
một tâm hồn quằn quại và đầy trách nhiệm, quằn quại vì đầy trách nhiệm.
Trách nhiệm lương tâm. Cuốn sách nặng nề này không bi quan. Vẫn thấm
sâu ở đâu đó trong từng kẽ chữ của nó một âm hưởng hy vọng tiềm tàng,
chính là vì thế. Anh đi tìm, nghĩa là anh còn hy vọng [52].
Và chỉ sau một thời gian ngắn, tác phẩm đã được đông đảo bạn đọc
trong và ngoài nước yêu thích. Tác phẩm được thảo luận trên báo Văn
Nghệ với những lời khen ngợi nức lòng. Không đầy một năm sau khi xuất
hiện, cuốn sách đã được nhiều người tỏ ý muốn dịch ra tiếng nước ngoài. Bản
dịch Anh ngữ The Sorrow of War (bản dịch tiếng Anh của Phan Thanh Hảo,
Frank Palmos hiệu đính) được xuất bản tại Úc năm 1993 có lẽ là bản dịch đầu
tiên của Nỗi buồn chiến tranh và từ đó, cuốn sách bắt đầu cuộc chu du trên
khắp thế giới, được dịch hơn 10 ngôn ngữ.
Nhưng bên cạnh những lời ngợi khen lại là phong ba bão táp. Từ lẻ
tẻ vài lời chê bai đến bùng nổ một phong trào phê phán. Tiểu thuyết đầu tay
của Bảo Ninh bị coi là tiêu cực, thể hiện cái nhìn sai lệch về cuộc kháng chiến
chính nghĩa của dân tộc. Nhiều tác giả cũng như nhà phê bình đã lên tiếng
phản đối và công kích tác phẩm. Tiêu biểu có thể lấy ý kiến của ông Đỗ Văn
Khang, Tiến sĩ mỹ học và Phó tiến sĩ ngữ văn. "Ông Khang phẫn nộ vì Bảo
Ninh đã gọi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là "cuộc chiến tranh Việt Mỹ", đã thể hiện người lính quân đội nhân dân như một lũ thất trận chứ
không phải những người mang tinh thần "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
[52]". Thậm chí có một số nhà văn trong ban giám khảo của Hội nhà văn đã
lên tiếng phủ nhận giải thưởng cũng như những phát ngôn của mình trước đó.
Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn từng cho rằng: “Nếu thời trước thì cứ thế
cuốn sách sẽ chìm dần trong bóng tối và chỉ cần bị ném ra khỏi các thư viện
nữa thôi là có thể coi như bị xóa sổ hoàn toàn [52]" nhưng may mắn, nó được
ra mắt vào đúng thời kỳ Đổi mới.
Đến năm 2003, tác phẩm này được tiếp tục in lại ở Việt Nam với nhan
đề Thân phận của tình yêu, sau mới chính thức đổi thành NBCT. Mới đây,
tiểu thuyết NBCT cũng lọt vào top 50 tác phẩm văn học nước ngoài dịch sang
tiếng Anh hay nhất trong nửa thế kỷ qua. Ở vị trí thứ 37, cuốn sách được đứng
chung với những kiệt tác lớn của thế giới như Cái trống thiếc (Gunter Grass),
Nghệ nhân và Margarita (Mikhail Bulgakov), Chiến tranh và Hòa bình (Lev
Tolstoy), Trăm năm cô đơn (Gabriel Garcia Marquez)... Gần đây nhất, tiểu
thuyết NBCT đã được dịch và giới thiệu ở Iran và là cuốn tiểu thuyết Việt
Nam đầu tiên được dịch ra tiếng Ba Tư.
Tính đến nay, NBCT đã đoạt nhiều giải thưởng lớn, được dịch và giới
thiệu ở nhiều quốc gia trên thế giới. Những giải thưởng được trao gần đây
nhất là giải thưởng Châu Á (Nikkei Asia Prizes) lần thứ 16 của báo kinh tế
Nhật Bản và giải sách hay (với 100% số phiếu đồng thuận của hội đồng bình
chọn) trong nước năm 2011. Dịp này, vì lý do riêng, nhà văn Bảo Ninh không
vào TP HCM để nhận giải thưởng được. Ông gửi đến Ban tổ chức Diễn từ,
trong đó có đoạn:
Tôi hàm ơn các thầy của tôi ở trường Viết văn Nguyễn Du là giáo
sư Hoàng Ngọc Hiến, nhà văn Nguyên Ngọc, nhà văn Nguyễn Minh
Châu, giáo sư Phạm Vĩnh Cư. Đối với riêng bản thân tôi, các thầy chính
là hiện thân của sự khai sáng và thức tỉnh trong đổi mới, nhờ các thầy mà
tôi có được cho riêng mình tinh thần nhân văn tự do trong sáng tạo văn
học, một cách cụ thể là nhờ các thầy mà tôi đã có thể viết cuốn Nỗi buồn
chiến tranh [30].
Và kể từ tháng 5 năm 2011, Nxb Trẻ đã chính thức mua và độc quyền
tái bản tiểu thuyết NBCT của Bảo Ninh.
Cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh cũng đã lọt vào tầm ngắm của các nhà
làm phim trong nước như Hải Ninh, Khánh Dư. Nhưng vì vấp phải nhiều trở
ngại khác nhau, họ đành bỏ dở dự án chuyển thể cuốn sách thành phim. Đến
năm 2008, sau hơn 10 năm qua lại giữa Việt Nam và Mĩ, đạo diễn Nicolas
Simon cũng nhận được sự đồng ý của nhà văn Bảo Ninh và giấy phép của Bộ
Văn hóa Thể thao và Du lịch Việt Nam cho kịch bản phim NBCT. Nhưng đến
nay bộ phim được chuyển tải từ NBCT vẫn chưa ra đời. Nhiều ý kiến cho rằng
có sự trở ngại từ phía tác giả vì ông không đồng ý kịch bản cũng như việc lựa
chọn nhân vật để xây dựng linh hồn của bộ phim.
Mặt khác hiện trạng nghiên cứu sáng tác của Bảo Ninh (có đề cập tới
tiểu thuyết NBCT) trong nhà trường cũng diễn ra khá sôi động trong nhiều
năm trở lại đây đặc biệt là ở các trường đại học phía Bắc qua một số luận án,
luận văn cao học như: Lưu Thị Thanh Trà (luận văn thạc sĩ đại học Vinh) với
luận văn: Đề tài chiến tranh chống Mĩ trong truyện ngắn của Bảo Ninh; Một
số công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ về Văn học Việt Nam sau 1975
cũng đề cập đến trường hợp NBCT như công trình nghiên cứu cấp bộ của
PGS. TS. Nguyễn Thị Bình (Một số khuynh hướng tiểu thuyết ở nước ta từ
thời điểm đổi mới đến nay), Phạm Xuân Thạch (Nỗi buồn chiến tranh – viết
về chiến tranh thời hậu chiến – từ chủ nghĩa anh hùng đến nhu cầu đổi mới
bút pháp),…
Nhìn chung, NBCT và PTKCGL là hai tác phẩm thuộc loại “hiện
tượng văn học”, trở thành những cuốn sách khá nổi tiếng về đề tài chiến
tranh. Bởi chúng không chỉ viết về “bom đạn và mưu mô quân sự” mà còn
“viết về trái tim con người" (Tim O'Brien). Sáng tác của Bảo Ninh và
Remarque không những có giá trị về nội dung tư tưởng mà còn có tác dụng
vô cùng quan trọng trong việc giáo dục thẩm mĩ, mở rộng chân trời đón
nhận từ phía độc giả của ngày hôm qua, hôm nay và cả mai sau.
1.2. Khuynh hướng tiếp nhận
Văn học thế kỉ XX – thế kỉ giáp ranh của nhiều khuynh hướng nghệ
thuật – sản sinh ra nhiều cách tiếp nhận khác nhau, và mỗi cách tiếp nhận ấy
đều hữu lí với những nền tảng cơ sở lí luận và thực tiễn của mình. Vì vậy
đã có những phản ứng trái chiều ra đời như một lẽ tất yếu trong cách nhìn
nhận NBCT và PTKCGL. Trên cơ sở tổng hợp những bài phê bình, đánh giá
hai tác phẩm của độc giả từ trước tới nay, luận văn sẽ phân ra hai khuynh
hướng chủ đạo thể hiện cách tiếp nhận trái chiều ấy: khuynh hướng hiện thực
sử thi và khuynh hướng hiện thực tâm lí.
1.2.1. Khuynh hướng “hiện thực sử thi”
Như M. Bakhtin đã nói, thể loại sử thi vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ
trong văn học hiện đại. "Nó thấm xuống tận nền móng các thể loại sâu xa đến
nỗi vẫn tiếp tục sống ở đó cả trong các thời đại sau này – cho đến tận thế kỉ
XIX và thậm chí lâu hơn nữa [7,43]". Quả thật, cho đến nay thể tài sử thi
không còn là tên gọi một thể loại văn học mà nó trở thành cảm hứng chủ đạo
chi phối nguyên tắc sáng tác của văn học viết về đề tài chiến tranh ở Việt
Nam cũng như trên thế giới. Nguyên tắc phản ánh hiện thực sử thi có đặc
điểm: hướng về những đề tài và xung đột mang tầm vóc lịch sử – dân tộc; đặt
ra những vấn đề liên quan đến vận mệnh cộng đồng; tái hiện hiện thực bằng
kinh nghiệm cộng đồng (nếu phản ánh đời sống cá nhân từ góc độ cộng đồng
thì vẫn có tính sử thi); khắc hoạ hình tượng người anh hùng hay con người lý
tưởng của dân tộc trong một bức tranh hiện thực hoặc có quy mô sử thi hoành
tráng hoặc có tính sử thi ở cảm hứng tư tưởng, ở chủ đề. Vì thế, thể tài sử thi
có thể xuất hiện ở bất cứ thời đại nào có những biến cố lịch sử trọng đại liên
quan đến vận mệnh sống còn của dân tộc, hoặc quyết định những bước ngoặt
lịch sử của mỗi cộng đồng. Với những tiêu chí này, không chỉ tiểu thuyết mà
toàn bộ nền văn học Việt Nam 1945 –1975 là một nền văn học mang tính sử
thi – một nền văn học mang nội dung lịch sử dân tộc và có hình thức nghệ
thuật thấm đẫm chất sử thi.
Tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 – 1975 viết về đề tài chiến tranh cách
mạng nằm trong cấu trúc của thể tài dân tộc – lịch sử đã lấy cảm hứng sử thi
làm cảm hứng chủ đạo của nó. Trong phức hợp của cảm hứng tư tưởng này,
cảm hứng anh hùng là nguồn ánh sáng phi thường rọi chiếu vào tất cả. Các
loại cảm hứng khác đều xuất hiện trong sự chi phối của nó. Đó vừa là chủ
trương, đường lối của các nhà lãnh đạo vừa là kim chỉ nam hành động “trên
mặt trận văn hóa nghệ thuật” của các văn nghệ sĩ. Người đọc đương thời với
“tầm đón đợi” sẵn có cũng dần hình thành cho mình một hướng tiếp nhận
theo “khuynh hướng hiện thực sử thi” là điều không ngoại lệ. Khuynh hướng
tiếp nhận này được thể hiện rõ nét trong cách cảm nhận tác phẩm của Bảo
Ninh và Remarque qua ý kiến của bạn đọc cùng thời.
Khi hai tác phẩm PTKCGL (Remarque) cũng như NBCT (Bảo Ninh)
vừa ra đời, một số nhà phê bình cùng các chính trị gia đã cho rằng tác phẩm
của Remarque và Bảo Ninh là "lệch lạc, cực đoan, nhổ nước bọt vào lịch sử".
Bên cạnh sức lôi cuốn diệu kì của PTKCGL, tiểu thuyết này đã bị
nhiều độc giả phản đối. Đảng Công nhân Đức Quốc gia xã hội chủ nghĩa cho
rằng tác phẩm “có hại” với niềm tự hào dân tộc Đức. Không chỉ đốt sách,
Đảng phát xít Đức còn tuyên bố: "Như một cuộc phản kích nhằm vào sự phản
bội dưới hình thức văn chương đối với những người lính của cuộc Đại chiến,
và trên tinh thần giáo dưỡng cho nhân dân về sức mạnh của sự thật, tôi quyết
định bỏ các tác phẩm của Erich von Remarque vào đống lửa" (theo Từ điển
wikipedia). Sau vụ đốt sách đáng hổ thẹn diễn ra vào năm đó, chính quyền
Phát xít còn tung ra những tin đồn thất thiệt, nói Remarque là người Pháp lai
Do Thái, sinh ra trong gia đình khá giả chưa từng biết chiến trận là gì. Sau
này khi được nhiều người hỏi đến, ông không bình luận gì mà chỉ đáp: "Tôi
chỉ bị hiểu lầm khi người ta cố tình hiểu lầm".
Số phận của bộ phim được chuyển thể kịch bản từ tiểu thuyết cùng tên
của tác giả cũng không kém phần long đong lận đận. Lần đầu tiên được công
chiếu ở Berlin, Goebbels, người phụ trách công tác tuyên truyền của Đức