Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

KIẾN THỨC – THÁI ĐỘ - THỰC HÀNH VỀ BỆNH MỤN TRỨNG CÁ Ở HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CHÂU VĂN LIÊM THÀNH PHỐ CẦN THƠ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (607.44 KB, 11 trang )

KIẾN THỨC – THÁI ĐỘ - THỰC HÀNH VỀ BỆNH MỤN TRỨNG CÁ Ở HỌC
SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CHÂU VĂN LIÊM THÀNH PHỐ CẦN THƠ
Bs CKII Trần Thị Hạnh Trường Đại Học Y Dược Cần Thơ
Người hướng dẫn khoa học: Ts Nguyễn Tất Thắng

TÓM TẮT
Mở đầu: Bệnh mụn trứng cá là bệnh rất phổ biến, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm góp phần
giúp các thầy thuốc Da Liễu có thêm số liệu về bệnh này để can thiệp, nâng cao sự hiểu biết, và có những
hướng dẫn thích hợp cho người bệnh, hy vọng nhờ đó sẽ làm giảm tỉ lệ bệnh, giảm di chứng do bệnh, cải
thiện chất lượng cuộc sống.
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ học sinh có Kiến thức - Thái độ - Thực hành về bệnh mụn trứng cá, tỉ lệ bệnh, và tác
động tâm lý liên quan đến người bệnh.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang trên 405 học sinh lớp 10,11,12 bằng cách khám bệnh, phát bộ
câu hỏi điều tra, phỏng vấn dựa vào bảng câu hỏi.
Kết quả: Tỉ lệ hiện mắc ở học sinh trung học phổ thông Châu Văn Liêm là 82,5% (nam 83,9%, nữ 81,7%).
69,4 % học sinh cho lối sống là nguyên nhân chính, kế đến là nhiễm trùng da (68,6 %), hormone (62,5 %),
thực phẩm (52,3 %), stress (37,3 %), di truyền (18 %). Về yếu tố bộc phát 86,4 % cho là do kém vệ sinh da,
50,9 % do chế độ ăn, 47,2 % do mỹ phẩm, 44,2 % do thời tiết, 40,5 % do stress. Xác định được một số yếu tố
nguy cơ như lượng nước uống (OR=0,02), thói quen dùng mỹ phẩm (OR=2,12), Các yếu tố khác như chế độ
ăn, lối sống, vệ sinh da chưa cho thấy có ảnh hưởng đến bệnh Xác định sự khác biệt trong thực hành và thái
độ giữa nam và nữ như sự quan tâm đến bệnh (p=0,003), massage mặt (p=0,02),dùng sữa rửa mặt
(p=0,001), dùng mỹ phẩm (p=0,001), lượng nước uống mỗi ngày (p=0,001), thức khuya (p=0,05), uống cà
phê (p=0,001), uống rượu bia (p=0,001). Mụn trứng cá gây ảnh hưởng thiếu tự tin (p=0,01), buồn chán
(p=0,048), xấu hổ (p=0,03). Ảnh hưởng ít nói nam nhiều hơn nữ (p=0,027)
Kết luận: Tỉ lệ hiện mắc bệnh mụn trứng cá ở học sinh trung học phổ thông Châu Văn Liêm là 82,5 %. Kiến
thức sai về nguyên nhân, yếu tố bộc phát, cách điều trị bệnh còn phổ biến. Tồn tại những thói quen chưa tốt
như tự điều trị, nặn mụn, dùng mỹ phẩm, sử dụng bừa bãi kem trộn hoặc thuốc bôi có corticoid dẫn đến tác
hại cho làn da. Mụn trứng cá cũng ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần, việc học tập, mối quan hệ bạn bè và
gia đình.

ABSTRACT


KNOWLEDGE - ATTITUDE - PRACTICE ABOUT ACNES IN THE PUPILS OF CHAU VAN LIEM
SENIOR HIGH SCHOOL OF CAN THO CITY
Tran Thi Hanh
Background: Acne is a common disease in teenagers and young adults. This study was conducted to provide
physicians with a better understanding of the disease and to improve their advice to patients. This is expected
to reduce its incidence, decrease its sequelae and improve the quality of life for those who suffer from acne.
Objective: To evaluate the knowledge, attitude, and the practices of pupils of Chau Van Liem senior high
school in relation to acne. To define the prevalence of acne, its related factors and its psychological impact.
Method: A cross sectional descriptive study in 405 pupils in 10 th, 11th, 12th grades was carried out by means
of medical examination, and interviews based on questionnaires.
Results: The prevalence of acne in Chau Van Liem senior high school pupils is 82,5% (83,9% boys, 81,7%
girls); 69,4% pupils think the way of living is the main cause, then skin infection (68,6%), hormone (62,5%),
food (52,3%), stress (37,3%), genetic (18 %). About the trigger factos: 86,4 % pupils think acne is due to
lack of hygiene, food (50,9%), cosmetics (47,2%), weather (44,2%), stress (40,5%). Some risk factors
identified were the quantity of water drinking (OR=0,02), and the habit of using cosmetics (OR=2,12). We
also identified the differences in practice and attitude between boys and girls: the concern about acne
(p=0,003), facial massage (p=0,02), using facial milk (p=0,001, using cosmetics (p=0,001), water drinking
(p=0,001), staying late at night (p=0,05), coffee (p=0,001), alcohol, beer drinking (p=0,001). Acne leads to
lack of self-confidence (p=0,02), boredom (p=0,04), shame (p=0,03), and boys were less talkative than girls
(p=0,02).


Conclusion: The prevalence of acne in Chau Van Liem senior high school pupils is 82,5%. Lack of
knowledge of the causes, trigger factors, and the method of treatment is still common. Pupils still display bad
habbits like acne squeezing, applying cosmetics, using mixed cream carelessly or applying corticoidcontained medicine which lead to harm for their skin. Acne also affects the mental health, studying, family
relationships, and friendships.

MỞ ĐẦU
Bệnh mụn trứng cá là một bệnh lý tuyến bã
của da do rối loạn chức năng của bộ lông tuyến

bã (thường là di truyền). Sự tiết bã nhờn đọng
lại ở lỗ chân lông tạo ra mụn. Bệnh rất phổ
biến, chiếm 17,97% trong tổng số bệnh da đến
khám tại bệnh viện Da Liễu TP Hồ Chí Minh
năm 2006, chỉ đứng thứ hai sau bệnh chàm.
Theo các tác giả nước ngoài, bệnh chiếm tỷ lệ
80% dân số thế giới (6,7,14). Bệnh thường gặp ở
lứa tuổi thanh thiếu niên, người lớn trẻ, nữ từ
10-17 tuổi, nam từ 14-19 tuổi, nhưng cũng gặp
ở người lớn(15). Những trường hợp mãn tính
thường để lại những sẹo xấu mất thẩm mỹ, ảnh
hưởng đến chất lượng cuộc sống, người bệnh
mặc cảm tự ti khi giao tiếp trong xã hội, ảnh
hưởng đến chất lượng hiệu quả nghề nghiệp,
ảnh hưởng đến sức khoẻ tâm thần, đôi khi trầm
cảm(1,9,11,14), Theo Saurat(14), khoảng 1,5% bệnh
nhân nam và 0,4% nữ diễn tiến bệnh kéo dài và
nặng nề với sự xuất hiện những sang thương
dạng cục, nang, mưng mủ, mãn tính, tái phát,
dai dẳng có thể tới trên 20 tuổi.

cấp III trường trung học phổ thông Châu Văn
Liêm, Thành phố Cần Thơ.

Hiện nay ở nước ta, vẫn chưa có nghiên cứu
nào khảo sát kiến thức thái độ thực hành của
học sinh cấp III về bệnh mụn trứng cá, ước tính
tần suất và tác động tâm lý ảnh hưởng đến
người bệnh. Một số bệnh nhân thường có thói
quen tự trị mụn bằng cách dùng kem hoặc mỹ

phẩm, tự mua thuốc, hoặc nặn mụn, đi massage
do đó làm bệnh nặng thêm và để sẹo mất thẩm
mỹ, ngoài ra có thể gây viêm da dị ứng, xạm da,
khô da, mụn trứng cá do thuốc và mỹ phẩm. Vì
thế, việc nghiên cứu có hệ thống kiến thức, thái
độ, thực hành của bệnh nhân là điều cần thiết
giúp thầy thuốc chuyên khoa Da Liễu can thiệp,
nâng cao sự hiểu biết và có những hướng dẫn
thích hợp để bệnh nhân tự chăm sóc, bảo vệ da,
phòng tránh những biến chứng không tốt từ đó
làm giảm tỉ lệ bệnh, cải thiện chất lượng cuộc
sống, tăng cường hiệu quả học tập và làm việc.

Ở Việt Nam, tỉ lệ bệnh mụn trứng cá chiếm
17,97 % tổng số bệnh đến khám tại Bệnh viện
Da Liễu TP Hồ chí Minh năm 2006 chỉ đứng
hàng thứ hai sau bệnh chàm

Mục tiêu
Tổng quát
Khảo sát tình trạng kiến thức, thực hành và
thái độ về bệnh mụn trứng cá, xác định tỉ lệ và
mức độ tác động tâm lý của bệnh ở học sinh

Chuyên biệt
- Xác định tỉ lệ lưu hành bệnh mụn trứng cá
ở lứa tuổi học sinh trung học phổ thông.
- Khảo sát mức độ kiến thức, tình trạng thực
hành, và thái độ của học sinh về bệnh mụn
trứng cá.

- Xác định các mối liên quan giữa kiến thức,
thực hành, thái độ và nguy cơ mắc bệnh.
- Xác định mức độ ảnh hưởng của các yếu
tố tâm lý đến người bệnh.

Tổng quan tài liệu
Bệnh mụn trứng cá là một bệnh phổ biến, và
gây buồn phiền(5,7) thường gặp ở nam và nữ ở
lứa tuổi dậy thì, cũng có thể gặp ở người lớn và
rất ít ở trẻ em, bệnh gặp ở khắp mọi lục địa, mọi
chủng tộc. Tùy tác giả, tùy địa phương tỉ lệ
bệnh có khác nhau:

- Theo các tác giả nước ngoài tỉ lệ lưu hành
trọn đời bệnh mụn trứng cá được ước tính trên
85%(3,4); nhưng ở độ tuổi thanh thiếu niên chủ
yếu dao động khoảng 85%.
- Theo Klaus Degitz (Đức) có 80% dân số bị
mụn trứng cá(2,6); nam và nữ tỉ lệ ngang nhau,
bệnh khởi phát từ 10-14 tuổi và giảm lúc 20-25
tuổi. Một số bệnh nhân, mụn trứng cá tồn tại tới
40-50 tuổi gọi là mụn trứng cá dai dẳng.
Dạng lâm sàng sắp xếp từ dạng nhẹ với vài
nhân trứng cá và rất ít sẩn mụn mủ viêm đôi khi
được đặt tên là mụn trứng cá “sinh lý”, ngược
lại với dạng nặng được gọi là mụn trứng cá
“lâm sàng”, cho tới sự hình thành tổn thương
viêm nặng và áp xe trên mặt hay ngực, để lại di
chứng sẹo xấu là gánh nặng tâm lý đối với
người bệnh.



Các nghiên cứu liên quan:
- Theo Green.J.Sinclair R D: Những quan
niệm sai lầm tồn tại trong cộng đồng về những
yếu tố làm bộc phát mụn trứng cá thông thường
đặc biệt là stress, chế độ ăn, lối sống, vệ sinh cá
nhân thường được hiểu sai lầm như là những
yếu tố quan trọng.
Ở nước ta, những bệnh nhân bị mụn trứng
cá, cũng có những nhận thức sai lầm về nguyên
nhân, diễn tiến, điều trị. Họ cũng thường tự trị
trước khi đi đến bác sĩ chuyên khoa bằng nhiều
cách, trong đó quan trọng nhất là dùng mỹ
phẩm gồm kem dưỡng da như Cô gái tóc xù,
Thanh Thảo, Thanh Hiền, Cecily; kem trắng da
như Acnes, Pond’s, Hazeline…; kem trộn
(Cortibion pha trộn với kem hoặc một số thuốc
khác như kháng sinh, Aspirine, Vitamin...).

ĐỐI TƢỢNG-PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả

Đối tƣợng nghiên cứu
Dân số mục tiêu
Tất cả học sinh lớp 10, 11, 12 đang học tại
trường trung học phổ thông Châu Văn Liêm,
Quận Ninh Kiều, Thành phố Cần Thơ.

Dân số nghiên cứu
Tất cả các học sinh nói trên thỏa mãn các
tiêu chuẩn chọn mẫu trong thời gian từ tháng
10/2006 đến tháng 4/2007.

Tỉ lệ P chưa biết. tuy nhiên mụn trứng cá là
phổ biến, nên để có dự trù cỡ mẫu cao nhất lấy
P= 50%.
Z2
P(1  P) 1, 962  0, 5  (1  0, 5)
n  1 / 2

 384
d2
0, 052

Phƣơng pháp chọn mẫu
Bước 1: Chọn trường Trung học phổ thông
Châu Văn Liêm, Quận Ninh Kiều, Thành phố
Cần Thơ.
Bước 2: Liên hệ với Ban Giám Hiệu nhà trường
xin bố trí thời gian thích hợp để tiến hành thu
thập số liệu trên các đối tượng nghiên cứu.
Bước 3: Lập danh sách dựa vào phương pháp
phân tầng, lấy mẫu ngẫu nhiên cụm.
Bốc thăm ngẫu nhiên các lớp trong 3 khối
10, 11, 12. Lập danh sách đối tượng nghiên cứu.

Phƣơng pháp tiến hành
Phát bộ câu hỏi điều tra, giải thích, hướng

dẫn học sinh hoàn thành các phần hành chánh
(họ tên, tuổi, giới tính, địa chỉ).
Phỏng vấn trực tiếp học sinh dựa vào bảng
câu hỏi có liên quan đến các biến số. Riêng học
sinh có bệnh mụn trứng cá được khám, chẩn
đoán và làm bệnh án.
Chụp hình những trường hợp điển hình.
Tiêu chuẩn chẩn đoán: Chẩn đoán bệnh
trứng cá chủ yếu dựa vào lâm sàng là chính:
+ Tổn thương cơ bản.

Là các học sinh nói trên đủ các điều kiện:

+ Vị trí chọn lọc: tổn thương đối xứng,
thường tập trung ở mặt (trán, má, mũi, cằm),
ngực, lưng, đôi khi ở vai cánh tay.

- Được sự đồng ý của Ban Giám Hiệu

Phân tích số liệu

- Đối tượng đồng ý tham gia nghiên cứu.

Số liệu được mã hóa và phân tích bằng phần
mềm SPSS 15.0 và Excell.

Tiêu chuẩn chọn mẫu

- Đối tượng lớp 10 (15 tuổi), lớp 11(16
tuổi), lớp 12 (17 tuổi).

- Có mặt tại trường để được phỏng vấn,
khám bệnh và lập hồ sơ nghiên cứu cho học
sinh trong các lớp đã được chọn.

Tiêu chuẩn loại trừ:
- Đối tượng không hợp tác nghiên cứu.
- Đối tượng học không đúng tuổi.
Cỡ mẫu

KẾT QỦA NGHIÊN CỨU
Số trƣờng hợp nghiên cứu
Có tất cả 405 học sinh tham gia nghiên cứu.
Tuổi của đối tượng được chọn ứng với lớp, lớp
10 (15 tuổi), lớp 11 (16 tuổi), lớp 12 (17 tuổi).


123
(30.4%)

161
(39.8%)

Lớp 10
Lớp 11
Lớp 12

121
(29.9%)

Biểu đồ 1: Tỉ lệ phân bố học sinh theo lớp (tuổi)


Tỷ lệ mắc bệnh và giới tính
Bảng 1: Tỉ lệ học sinh mắc bệnh mụn trứng cá
theo giới tính
Giới
Nam
Nữ
Tổng số (n=405)

Chẩn đoán
Có bệnh
Không bệnh
Tần số (%)
Tần số (%)
120 (83,9)
23 (16,1)
214 (81,7)
48 (18,1)
334 (82,5)
71 (17,5)

χ2 = 0,32; p = 0,57 > 0,05
Nhận xét:
Không có sự khác biệt giữa tỉ lệ
học sinh mắc bệnh mụn trứng cá và giới tính
Bảng 2: Tuổi trung bình bị mụn trứng cá theo
giới tính
Số trƣờng
hợp
120

214
334

Giới
Nam
Nữ
Trung bình

Tuổi trung
bình
13,60
13,26
13,38

SD
1,49
1,64

t = 1,79; p = 0,08 > 0,05. CI 95% (-0,08 – 0,63)
Nhận xét: Không có sự khác biệt về độ tuổi
trung bình giữa 2 giới

Hormone
Thực phẩm
Stress
Nhiễm trùng
Lối sống

253 (62,5)
212 (52,3)

151 (37,3)
278 (68,6)
281 (69,4)

152 (37,5)
193 (47,7)
254 (62,7)
127 (31,4)
124 (30,6)

405 (100)
405 (100)
405 (100)
405 (100)
405 (100)

Nhận xét: Đa số học sinh nghĩ nguyên nhân
sinh bệnh mụn trứng cá là do lối sống (69,4%),
tình trạng nhiễm trùng da (68,6%), kế đến là
hormone (62,5%), thực phẩm (52,3%), stress
(37,3%) di truyền (18%).
Bảng 4: Kiến thức về các yếu tố ảnh hưởng
Yếu tố ảnh
hƣởng
Chế độ ăn
Bụi
Kém vệ sinh da
Mỹ phẩm
Sữa rửa mặt
Thời tiết

Mùa trong năm
Tập thể dục đổ
mồ hôi
Stress
Thuốc lá
Cà phê
Rượu, bia
Dược phẩm
Ánh nắng

Tổng
số



Không

Tần số (%)

Tần số (%)

206 (50,9)
346 (85,4)
350 (86,4)
191 (47,2)
87 (21,5)
179 (44,2)
44 (10,9)

199 (49,1)

59 (14,6)
55 (13,6)
214 (52,8)
318 (78,5)
226 (55,8)
361 (89,1)

Tần
số
405
405
405
405
405
405
405

56 (13,8)

349 (86,2)

405

164 (40,5)
163 (40,2)
249 (61,5)
169 (41,7)
85 (21)
167 (41,2)


241 (59,5)
242 (59,8)
156 (38,5)
236 (58,3)
320 (79)
238 (58,8)

405
405
405
405
405
405

Nhận xét: Thứ tự các yếu tố ảnh hưởng theo
quan điểm của nhóm được nghiên cứu như sau:
Đa số nghĩ là kém vệ sinh da mặt có mối liên
quan nhiều nhất, kế đến là bụi, cà phê, chế độ
ăn, mỹ phẩm.
Bảng 5: Kiến thức về cách điều trị

88%

86.4%

Cách điều trị
mụn trứng cá

86%
84.2%

83.1%

84%

83.9%
82%

81.7%

82%

Nữ

79.7%

80%

Nam

78%
76%

Lớp 10

Lớp 11

Lớp 12

Trung bình


Biểu đồ 2: Tỉ lệ bệnh mụn trứng cá theo giới và
lớp (tuổi)
Kiến thức
Bảng 3: Kiến thức về nguyên nhân sinh bệnh
Nguyên
nhân
Di truyền


Tần số
(%)
73 (18)

Không
Tần số (%)
332 (82)

Tổng số
Tần số
(%)
405 (100)

Thuốc bôi
Kháng sinh uống
Hormone
Ánh sáng
Quang động học
Phẫu thuật
Bào da
Tâm lý liệu pháp

Mỹ phẩm


Tần số
(%)
211 (52,1)
76 (18,8)
31 (7,7)
127 (31,4)
25 (6,2)
96 (23,7)
71 (17,5)
100 (24,7)
324 (80)

Không
Tần số
(%)
194 (47,9)
329 (81,2)
374 (92,3)
278 (68,6)
380 (93,8)
309 (76,3)
334 (82,5)
305 (75,3)
81 (20)

Tổng số
Tần số

405
405
405
405
405
405
405
405
405

Nhận xét: Đa số học sinh có kiến thức về cách
điều trị là dùng mỹ phẩm (80%), kế đến là
thuốc bôi (52,1%)


Nguồn thông tin về bệnh mụn trứng cá

Ti vi, Radio
3.3%

4.7%

22.4%

17.6%

Báo chí, Internet
Trường học
Cha mẹ người thân
Bạn bè, Hàng xóm


13.2%
32.9%

5.9%

Nv thẩm mỹ, Dược sỹ
Bác sỹ

2 = 0,68; p=0,41
Nhận xét: Kiểm định 2 không có ý nghĩa
thống kê chỉ ghi nhận tỉ lệ học sinh có thói quen
không tốt là nặn mụn (57,3%) nhiều hơn học
sinh không nặn mụn là (42,7%). Học sinh nam
nặn mụn ít hơn học sinh nữ

Thói quen masage da mặt
Bảng 8: Mối liên hệ giữa thói quen massage da
mặt và giới tính

Biểu đồ 3: Nguồn thông tin bệnh mụn trứng cá
Giới

Thái độ
Bảng 6: Sự quan tâm về bệnh mụn trứng cá
theo giới
Giới
Nam (n=120)
Nữ (n=214)
Tổng số (n=334)


Quan tâm mụn trứng cá

Không
Tần số (%)
Tần số (%)
92 (76,7)
28 (23,3)
190 (88,8)
24 (11,2)
282 (84,4)
52 (15,6)

Nam (n=143)
Nữ (n=262)
Tổng số (n=405)

Thói quen massage da mặt

Không
Tần số (%) Tần số (%)
9 (6,3)
134 (93,7)
36 (13,7)
226 (86,3)
45 (11,1)
360 (88,9)

χ2 = 5,19; p=0,02
Nhận xét: Có mối liên hệ giữa thói quen

massage mặt và giới tính hoặc tỉ lệ massage
mặt ở nam là thấp hơn ở nữ

2= 8,6; p = 0,003

Thói quen rửa mặt bằng sữa rửa mặt

Nhận xét: Có mối liên hệ giữa mức độ quan
tâm về mụn trứng cá với giới tính hoặc tỉ lệ
quan tâm về mụn trứng cá ở nữ cao hơn ở nam

Bảng 9: Mối liên hệ giữa thói quen rửa mặt
bằng sữa rửa mặt và giới tính

Thực hành

Giới

Thói quen điều trị
20
9
(6%) (2.7%)
177
(53%)

125
(37.4%)
3
(0.7%)


Không điều trị
Thẩm mỹ viện
Tự trị
Bác sĩ tư
Bệnh viện Da Liễu

Biểu đồ 4: Thói quen điều trị
Nhận xét: Có tới 53% học sinh bị mụn không
điều trị, 37,4% tự trị, chỉ có 6% tới Bác sĩ, 2,7%
tới Bệnh viện Da Liễu

Thói quen nặn mụn
Bảng 7: Liên hệ giữa thói quen nặn mụn và giới
Giới
Nam (n=143)
Nữ (n=262)
Tổng số (n=405)

Thói quen nặn mụn

Không
Tần số (%)
Tần số (%)
78 (54,5)
65 (45,5)
154 (58,8)
108 (41,2)
232 (57,3)
173 (42,7)


Nam (n=143)
Nữ (n=262)
Tổng số (n=405)

Thói quen dùng sữa rửa
mặt

Không
Tần số (%)
Tần số (%)
55 (38,5)
88 (61,5)
163 (62,2)
99 (37,8)
218 (53,8)
187 (46,2)

χ2 = 21; p = 0,001
Nhận xét: Có mối liên hệ giữa thói quen dùng
sữa rửa mặt và giới tính hoặc tỉ lệ với dùng sữa
rửa mặt ở nam là thấp hơn ở nữ

Thói quen dùng mỹ phẩm
Một số mỹ phẩm được học sinh sử dụng:
Kem dưỡng da, trị mụn như Kem trộn (gồm
cortibion trộn với thuốc tây hoặc với một số
loại kem khác), Cô gái tóc xù, Thanh Thảo,
Thanh Hiền, kem nghệ, Cecily, Acnes…
Kem trắng da, chống nắng như Acnes, Pond’s,
Hazeline…



Bảng 10: Thói quen dùng mỹ phẫm và giới tính
Giới
Nam (n=143)
Nữ (n=262)
Tổng số (n=405)

Thói quen dùng mỹ phẩm

Không
Tần số (%)
Tần số (%)
50 (35)
93 (65)
148 (56,5)
114 (43,5)
198 (48,9)
207 (51,1)

χ2 = 17,15; p = 0,001

Bảng 11: Thói quen dùng mỹ phẩm và bệnh

Có dùng (n=198)
Không dùng (n=207)
Tổng số (n=405)

Chẩn đoán
Không

Có bệnh
bệnh
Tần số
Tần số (%)
(%)
174 (87,9)
24 (12,1)
160 (77,3)
47 (22,7)
334 (82,5)
71 (17,5)

2

χ = 7,84; p = 0,01; OR=2,12; CI 95% (1,25 3,64)
Nhận xét: Có mối liên hệ giữa bệnh với dùng
mỹ phẩm hay nói cách khác học sinh có thói
quen dùng mỹ phẩm có nguy cơ bị bệnh cao
gấp 2,12 lần học sinh không dùng

Tỉ lệ học sinh sử dụng kem trộn và thuốc
bôi có chứa Corticoid
Bảng 12: Tỉ lệ học sinh sử dụng kem trộn và
thuốc bôi có chứa corticoid
Có dùng
Không dùng
Tổng số

Tần số
76

329
405

Tỉ lệ (%)
18,8
81,2
100

Lối sống
Bảng 13: Mối liên quan giữa lối sống và giới
Nam (n=143) Nữ (n=262)
P
Tần số (%) Tần số (%)
Thức khuya
99 (69,2)
204 (77,9)
0,05
Cà phê
51 (35,7)
53 (20,2)
0,001
Rượu bia
18 (12,6)
6 (2,3)
0,001
Thuốc lá
2 (1,4)
0 (0)
0,12
Lối sống


Nhận xét: Ngoại trừ thuốc lá ra thì có mối liên
hệ giữa lối sống thức khuya, cà phê, rượu bia và
giới tính

Mối liên hệ giữa chế độ ăn thƣờng xuyên và
bệnh

Có bệnh

Không

140
(79,1)
185
(81,9)
268
(82,7)

Không bệnh

Không
Tsố
Tsố
(%)
(%)
34
37
(14,9)
(20,9)

30
41
(16,8)
(18,1)
15
56
(18,5)
(17,3)

0,12

148
(83,1)

186
(81,9)

30
(16,9)

41
(18,1)

0,75

240
(83,6)

94 (79,7)


47
(16,4)

72 (80)

262
(83,2)

18 (20)

24
(20,3)
53
(16,8)
11
(11,1)

Chế độ ăn

Tsố (%) Tsố (%)
Chất béo
Chất ngọt

Nhận xét: Có mối liên hệ giữa dùng mỹ phẩm
với giới tính hoặc tỉ lệ dùng mỹ phẩm ở nữ cao
hơn ở nam (56,5% so với 35%)

Thói quen dùng mỹ
phẩm


Bảng 14: Mối liên hệ giữa chế độ ăn thường
xuyên và bệnh

Chất cay
Trái cây
nhiều
đường
Trái cây ít
đường
Chocolate,
ca cao
Thịt nạc
Rau, củ,
quả

194
(85,1)
149
(83,2)
66 (81,5)

246
(80,4)
297
(82,7)

88 (88,9)
37 (80,4)

60

(19,6)
62
(17,3)

P

0,72
0,79

0,34
0,49
0,053

9 (19,6)

0,7

Nhận xét: Sự khác biệt không có ý nghĩa thống
kê về chế độ ăn giữa hai nhóm.

Lƣợng nƣớc uống mỗi ngày
Bảng 15: Lượng nước uống trung bình theo
giới tính
Giới
Nam
Nữ
Tổng số

Tần số (%)
143 (35,3)

262 (64,7)
405 (100)

Lƣợng nƣớc
uống trung
bình/ngày
1,95
1,56
1,70

SD
0,68
0,63

t = 5,8; p = 0,001; CI 95% (0,26 đến 0,52)
Nhận xét: Lượng nước uống trung bình/ngày
của nam là 1,95 và nữ là 1,56. Sự khác biệt là
0,39 lít, cho thấy có sự khác biệt đáng kể về
lượng nước uống trung bình/ngày giữa nam và
nữ, nam có khuynh hướng uống nước nhiều hơn
nữ, p=0,001<0,05
Bảng 16: Lượng nước uống trung bình theo
bệnh
Chẩn đoán

Tần số
(%)

Có bệnh
Không bệnh

Tổng số

334 (82,5)
71 (17,5)
405 (100)

Lƣợng nƣớc
uống trung
bình/ngày
1,67
1,87
1,70

SD
0,64
0,79

t = 2,34; p = 0,02; CI 95% (-0,38 đến -0,03)
Nhận xét: Có sự khác biệt về lượng nước uống
trung bình/ngày giữa người bệnh và không bệnh


hay nói cách khác nhóm không bệnh uống nhiều
nước hơn nhóm có bệnh 0,2 lít/ngày.

Ảnh hưởng xấu hổ: nữ (31,3%) nhiều hơn
nam (16,7%) với p=0,003.

Các chất kích thích (Trà, cà phê)


Ảnh hƣởng của mụn trứng cá trên mối liên
hệ giữa học sinh với bạn bè

Bảng 17: Mối liên hệ giữa thói quen dùng chất
kích thích (trà, cà phê) và giới tính
Dùng chất kích thích

Không
Tần số (%)
Tần số (%)
39 (27,3)
104 (72,7)
49 (18,7)
213 (81,3)
88 (21,7)
317 (78,3)

Giới
Nam (n=143)
Nữ (n=262)
Tổng số (n=405)

35%

32.2%

30% 28.3%

25.7%
22.5%


25%

24.8%

18.3%

20%

Nam
Nữ

15%
10%
4.2%

5%

5.6%

0%

2 = 4; p = 0,05
Nhận xét: Có mối liên hệ giữa mức độ dùng
chất kích thích với giới tính hoặc tỉ lệ dùng chất
kích thích ở nam cao hơn ở nữ.
Bảng 18: Mối liên hệ giữa dùng chất kích thích
(trà, cà phê) và bệnh
Chẩn đoán
Không

Có bệnh
bệnh
Tần số
Tần số
(%)
(%)
69 (78,4)
19 (21,6)
265 (83,6)
52 (16,4)
334 (82,7)
71 (17,5)

Dùng chất kích thích
Có dùng (n=88)
Không dùng (n=317)
Tổng số (n=405)

Ngại tiếp Tránh chỗ Thiếu cởi
xúc
đông người
mở

Khó kết
bạn

Biểu đồ 6: Ảnh hưởng của mụn trứng cá trên
mối liên hệ giữa học sinh với bạn bè
Nhận xét:
Ảnh hưởng ngại tiếp xúc: nữ (32,2%) nhiều

hơn nam (28,3%) với p=0,46.
Ảnh hưởng tránh chỗ đông người: nữ
(25,7%) nhiều hơn nam (22,5%) với p=0,51.
Ảnh hưởng thiếu cởi mở: nữ (24,8%) nhiều
hơn nam (18,3%) với p=0,18.

 = 1,28; p = 0,26

Ảnh hưởng khó kết bạn: nữ (5,6%) nhiều
hơn nam (4,2%) với p=0,57.

Nhận xét: Không có mối liên hệ giữa dùng chất
kích thích với bệnh.

Ảnh hƣởng của mụn trứng cá trên mối liên
hệ giữa học sinh với gia đình

2

Ảnh hƣởng của mụn trứng cá
Ảnh hƣởng của mụn trứng cá đối với bản
thân học sinh

14%

12.5%

12%
10%
8%


80%
70%
60%

5.6%

6%

70.6%

4.2%

5.1%

Nam
Nữ

4%

56.7%

2%

50%
40%

33.6%

30%


0%
31.3%

16.7%

10%

0%0.5%

0%
Thiếu tự tin Buồn chán

Xấu hổ

Sống khép kín

Nữ

23.3%

20%

Ít nói

Nam

Có ý định
tự tử


Biểu đồ 5: Ảnh hưởng của mụn trứng cá đối với
bản thân học sinh
Nhận xét:
Ảnh hưởng thiếu tự tin: nữ (70,6%) nhiều
hơn nam (56,7%) với p=0,01.
Ảnh hưởng buồn chán: nữ (33,6%) nhiều
hơn nam (23,3%) với p=0,05.

Biểu đồ 7: Ảnh hưởng của mụn trứng cá trên
mối liên hệ giữa học sinh với gia đình.
Nhận xét:
Ảnh hưởng ít nói: nam (12,5%) nhiều hơn
nữ (5,6%) với p = 0,03.
Ảnh hưởng sống khép kín: nữ (5,1%) và nam
(4,2%) gần như ngang nhau với p= 0,69.


Ảnh hƣởng của mụn trứng cá trong việc
học tập của học sinh

không khác so với phái nam là 13,6. Sự khác
biệt này không có ý nghĩa thống kê với p=0,08.

Về kiến thức
18.2%

20%

Kiến thức về nguyên nhân:


15%
12.5%

15%

9.8%
Nam

10%

Nữ

5%
0%

Thiếu tập trung

Sao lãng

Biểu đồ 8: Ảnh hưởng của mụn trứng cá trong
việc học tập của học sinh
Nhận xét:
Ảnh hưởng thiếu tập trung: nữ (18,2%)
nhiều hơn nam (15%) với p=0,45.
Ảnh hưởng sao lãng: nam (12,5%) nhiều
hơn nữ (9,8%) với p=0,45.

BÀN LUẬN
Trong 405 trường hợp nghiên cứu, thì học
sinh nữ chiếm (64,6%) nhiều hơn nam (35,4%),

do trường này số lượng học sinh nữ đông hơn
học sinh nam. Trong đó lớp 10 (30,4%), lớp 11
(29,9%), lớp 12 (39,8%).

Tỉ lệ mắc bệnh
Nghiên cứu này khẳng định mụn trứng cá là
một vấn đề phổ biến ở thanh thiếu niên, lứa tuổi
từ 15-17, ảnh hưởng đến 83,9% nam và 81,7 %
nữ, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với
p = 0,57. Tần suất bệnh chung cho cả hai giới là
82,5%. Tỉ lệ lưu hành này cũng phù hợp với các
tác giả khác như Saurat (14) và Klaus Degit(6) là
80%, Julie C Harper(4) là 85-100%. Một nghiên
cứu ở thiếu niên Úc cho thấy từ 13-15 tuổi
(77% nam; 79% nữ mắc bệnh), sự khác biệt về
tỉ lệ mụn trứng cá giữa hai giới là không đáng
kể; tuy nhiên theo nghiên cứu của M Kilkenny
trên thiếu niên Úc ở lứa tuổi 16-18 thì tỉ lệ nam
bị mụn cao hơn và thường nặng hơn.
Tuổi
Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là
16,09; thấp nhất là 15 tuổi, cao nhất là 17 tuổi
Trong nhóm học sinh bị mụn trứng cá, lứa
tuổi 16 (lớp 11) chiếm tỉ lệ cao nhất là (83,5%),
kế đến là lứa tuổi 15 (lớp 10) chiếm (82,1%),
thấp nhất là lứa tuổi 17 (lớp 12) chiếm (82%).
Tuổi trung bình bị bệnh của phái nữ là 13,26

Đa số học sinh nghĩ nguyên nhân sinh bệnh
mụn trứng cá là do lối sống (69,4%), kế đến là

tình trạng nhiễm trùng da (68,6%), hormone
(62,5%), thực phẩm (52,3%), stress (37,3%), di
truyền (18%). Chỉ có 62,5% học sinh nhận biết
đúng về nguyên nhân sinh bệnh mụn trứng cá là
do hormone và 18% là do di truyền. Tương tự
như nghiên cứu của Rigopoulos (12) trên học sinh
cấp hai Hy Lạp, 55,1% học sinh nghĩ nguyên
nhân là do hormone, 5,7% là do di truyền,
31,9% là do stress, 14,9% là do nhiễm trùng.
Nhìn chung kiến thức về nguyên nhân còn thấp,
và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
giữa hai nhóm có bệnh và không bệnh.

Kiến thức về các yếu tố ảnh hƣởng:
Kiến thức về các yếu tố ảnh hưởng đến mụn
trứng cá còn thấp, không có sự khác biệt giữa
hai nhóm có và không có bệnh về hiểu biết vấn
đề này. Đa số học sinh nghĩ kém vệ sinh da mặt
là yếu tố quan trọng nhất làm bộc phát mụn
trứng cá (86,4%), kế đến là bụi (85,4%), cà phê
(61,5%), chế độ ăn (50,9%), mỹ phẩm (47,2%),
thời tiết (44,2%), rượu bia (41,7%), stress
(40,5%), sữa rửa mặt (21,5%). Theo nghiên cứu
của Rigopoulos(12) 62,3% học sinh cho yếu tố
bộc phát là chế độ ăn; 42,4% cho là vệ sinh
kém; 31,9% cho do stress.

Về thái độ
Sự quan tâm về mụn trứng cá:
Tỉ lệ học sinh có quan tâm về mụn trứng cá

là 84,4%. Có mối liên hệ giữa sự quan tâm về
mụn trứng cá và giới tính. Tỉ lệ có quan tâm về
mụn trứng cá giữa hai phái chênh lệch tương
đối rõ, nữ quan tâm về mụn trứng cá nhiều hơn
nam. Điều này cũng hợp lý, vì giới nữ thường
chú trọng đến biểu hiện bên ngoài, và yêu cầu
về vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội hiện
nay được đặt ra cao hơn so với nam.

Về thực hành
Thói quen điều trị
Tuy tỉ lệ học sinh có quan tâm về bệnh là
cao 84,4% nhưng ti lệ không điều trị cao tới
53%, tự trị là 37,4%, tới Bác sĩ tư là 6%, chỉ có
2,7% tới Bệnh viện Da Liễu.


Thói quen nặn mụn:
Học sinh có thói quen không tốt là nặn mụn
(57,3%), nhiều hơn học sinh không nặn mụn là
(42,7%), tỉ lệ học sinh nữ nặn mụn (58,8%),
nhiều hơn học sinh nam (54,5%) và sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê. Đây là thói quen
thường gặp ở rất nhiều bệnh nhân mụn trứng cá
Khi tự ý nặn mụn nhất là trong giai đoạn các
tổn thương đang viêm nhiễm sẽ có nguy cơ làm
gia tăng và lan rộng tình trạng viêm nhiễm, có
thể gây nên những sẹo mụn tồn tại vĩnh viễn, và
những dát tăng sắc tố theo sau hiện tượng viêm.
Điều này cho thấy những bệnh nhân mụn trứng

cá cần được tư vấn rằng nặn mụn không giải
quyết được vấn đề mà còn có nguy cơ để lại
những di chứng mất thẩm mỹ cho da.

Thói quen massage mặt:
Tỉ lệ học sinh có thói quen massage mặt
trung bình (11,1%), trong đó nữ (13,7%) nhiều
hơn nam (6,3%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê với p=0,02 < 0,05. Tuy tỉ lệ này không cao
nhưng khi bị mụn nếu massage có thể làm tổn
thương lan tràn, da bị dị ứng và mụn nặng hơn
do sử dụng những sản phẩm không phù hợp.

Thói quen rửa mặt bằng sữa rửa mặt:
Tỉ lệ học sinh có thói quen rửa mặt bằng sữa
rửa mặt trung bình là 53,8%; có mối liên hệ
giữa thói quen dùng sữa rửa mặt và giới tính, nữ
62,2% nhiều hơn so với nam (38,5%). Sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê với p=0,001<0,05. Ở
đây sự khác biệt giữa hai nhóm có và không
bệnh về vấn đề sử dụng sữa rửa mặt không có ý
nghĩa thống kê, tuy nhiên cần có những nghiên
cứu sâu hơn để tìm hiểu về mối liên hệ này.
Trước mắt nên chú ý giáo dục học sinh khi sử
dụng những sản phẩm này cần chú trọng đến
thành phần và tính sinh nhân trứng cá.

Thói quen sử dụng mỹ phẩm (kem dƣỡng
da, kem trị mụn , kem làm trắng da)
Tỉ lệ học sinh không dùng mỹ phẩm là

(51,1%), có dùng mỹ phẩm là (48,9%), trong đó
có (56,5%) là nữ (35%) là nam. Sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê với p=0,001<0,05. Sử dụng
mỹ phẩm không phù hợp cũng là một tác nhân
rất quan trọng gây ra phát ban mụn trứng cá.
Có mối liên hệ giữa thói quen sử dụng mỹ
phẩm và giới tính, học sinh nữ dùng mỹ phẩm
nhiều hơn học sinh nam. Thêm vào đó nghiên
cứu này cũng cho thấy có mối liên hệ giữa dùng
mỹ phẩm và bệnh hoặc người có thói quen sử

dụng mỹ phẩm có nguy cơ mắc bệnh mụn trứng
cá cao gấp 2,12 lần người không dùng. 18,8%
có tiền sử sử dụng kem trộn và những sản phẩm
bôi ngoài da có chứa corticoide để điều trị mụn
trứng cá hoặc dưỡng da, theo Fitzpatrik (15),
uống corticoide hoặc sử dụng kem có chứa
corticoide bôi ngoài da, có thể gây phát ban
mụn trứng cá do corticoide. Việc tự điều trị
mụn bằng nhiều loại thuốc bôi tự pha chế (kem
trộn) thành phần chính là corticoide gây rất
nhiều tác dụng phụ cho da như teo da, dãn
mạch, rạn da, thay đổi sắc tố da, sinh mụn trứng
cá, lúc đầu sử dụng mụn giảm nhanh, sau đó
mụn tái phát trở lại với tình trạng nặng nề hơn
và ngày càng lan rộng ra khỏi vị trí chọn lọc
của tổn thương, bệnh nhân ở trong tình trạng lệ
thuộc corticoide gây khó khăn trong điều trị.

Lối sống:

Có mối liên hệ giữa lối sống (thức khuya, cà
phê, rượu/bia) và giới tính, chưa thấy mối liên
hệ giữa thuốc lá và giới tính vì cỡ mẫu chưa đủ
lớn. Chưa thấy lối sống là yếu tố nguy cơ phát
sinh phát sinh mụn trứng cá; 74,8 % học sinh
thức khuya, 25,7% học sinh dùng chất kích
thích (trà, cà phê) ở lứa tuổi này tỉ lệ học sinh
ưa thích và dùng chất kích thích thấp hơn so với
không thích; 5,9% học sinh sử dụng rượu, bia;
0,5% học sinh sử dụng thuốc lá.

Lƣợng nƣớc uống(10)
Theo nhiều tác giả uống nhiều nước khoảng
2,5l-3l/ngày giúp cơ thể đào thải các chất nhờn,
chất thải và các độc tố, nước cũng giúp làm ẩm
da, bảo vệ các lỗ chân lông không bị các nút
sừng. Nước cũng giúp làm giảm stress,và mệt
mỏi. Khi cơ thể bị stress, có thể là nguyên nhân
làm tăng sản xuất hormone từ tuyến thượng
thận làm tăng androgens đưa đến tăng hoạt
dộng của tuyến bã, nên uống ít nước mỗi ngày
dễ có nguy cơ bị mụn hơn. Ở đây, lượng nước
uống của đa số học sinh từ 1 đến 2 l/ngày chiếm
(85,4%). Lượng nước uống trung bình là
1,7015; thấp hơn so với nhu cầu bình thường.
Sự khác biệt về lượng nước uống trung bình
giữa hai nhóm có (1,6656) và không có bệnh
(1,8704) có ý nghĩa thống kê p=0,02 < 0,05.

Về ảnh hƣởng của mụn trứng cá đối với

học sinh:
Nghiên cứu của nhiều tác giả cho thấy có
mối liên quan mạnh giữa mụn trứng cá và sức
khoẻ tâm thần(1,7,13). Những số liệu trong nghiên
cứu này cho thấy bệnh mụn trứng cá gây tác


động tâm lý rất lớn ảnh hưởng đến bản thân
người bệnh, đến các mối quan hệ với bạn bè,
gia đình và học tập. Mối quan hệ này phụ thuộc
vào giới tính, nữ dễ bị tác động của bệnh nhiều
hơn so với nam (phù hợp với nghiên cứu của
Aktan et al). Tác động nhiều nhất đến học sinh
là thiếu tự tin (nam: 56,7%; nữ: 70,6%), buồn
chán (nam: 22,3%; nữ: 33,6%), xấu hổ (nam :
16,7%; nữ: 31,3%), ngại tiếp xúc (nam: 28,3%;
nữ: 32,2%), tránh chỗ đông người (nam: 22,5%;
nữ: 25,7%), thiếu tập trung trong việc học tập
(nam: 15%; nữ: 18,2%; p=0,52). Theo
Rigopoulos và cộng sự(12), 48% học sinh cấp II
Hy Lạp cho rằng mụn trứng cá làm tổn hại đến
mối liên hệ cá nhân, 64,4% cho rằng mụn trứng
cá ảnh hưởng đến hình ảnh của họ. Theo nghiên
cứu của Jancin B(5) trên những thiếu niên Anh,
39% tránh đi đến trường vì xấu hổ, 55% cho
rằng mụn trứng cá làm cho họ không có bạn trai
hay gái, 35% khó kết bạn.

KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu cắt ngang phân tích trên

405 học sinh trường Trung học phổ thông Châu
Văn Liêm, Phường An Cư, Quận Ninh Kiều,
Thành phố Cần Thơ từ tháng 10/2006 đến
4/2007, chúng tôi rút ra kết luận như sau:
1. Tỉ lệ hiện mắc mụn trứng cá rất cao ở học
sinh trung học phổ thông Châu Văn Liêm là
82,5%; giới nam (83,9%), giới nữ (81,7%), sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
2. Kiến thức sai về nguyên nhân và các yếu tố
bộc phát bệnh mụn trứng cá còn rất phổ biến
trong học sinh, 69,4% học sinh nghĩ lối sống là
nguyên nhân chính, kế đến là nhiễm trùng da,
hormone, thực phẩm, stress và di truyền. Về
những yếu tố làm bộc phát, 86,4% cho là do
kém vệ sinh da mặt, 50,9% do chế độ ăn, 47,2%
do mỹ phẩm, 44,2% cho là do thời tiết, 41,7%
cho là do rượu bia, 40,5% cho là stress.
3. Không có sự khác biệt giữa giới nam và nữ
về kiến thức, nhóm không bệnh cũng không có
kiến thức tốt hơn nhóm có bệnh về nguyên
nhân, các yếu tố ảnh hưởng, cách điều trị mụn
trứng cá.
4. Trong học sinh còn tồn tại những thói quen
chưa tốt như nặn mụn, thói quen tự điều trị, thói
quen dùng mỹ phẩm (kem dưỡng da…), sữa rữa
mặt như là phương pháp điều trị mụn.
5. Đặc biệt là vấn đề sử dụng bừa bãi kem trộn
hoặc những thuốc bôi có chứa corticoide dẫn

đến những tác hại không mong muốn cho làn

da, làm mất thẩm mỹ, ảnh hưởng lâu dài đến
tâm lý người bệnh và chất lượng cuộc sống.
6. Xác định được một số yếu tố nguy cơ như
lượng nước uống (OR=0,02), thói quen dùng
mỹ phẩm (OR=2,12). Các yếu tố khác như chế
độ ăn, lối sống chưa cho thấy có ảnh hưởng đến
mụn trứng cá.
7. Xác định sự khác biệt trong thực hành và thái
độ giữa nam và nữ như massage mặt (p=0,02),
dùng sữa rửa mặt (p=0,001), dùng mỹ phẩm
(p=0,001), lượng nước uống mỗi ngày
(p=0,001), thức khuya (p=0,05), uống cà phê
(p=0,001), uống rượu bia (p=0,001), sự quan
tâm đến bệnh (p=0,003), dùng chất kích thích
(trà, cà phê) (p=0,05).
8. Thêm vào đó nghiên cứu này cũng mô tả
được ảnh hưởng của mụn trứng cá đối với bản
thân học sinh (nữ thiếu tự tin, chán nản, xấu hỗ
nhiều hơn nam), đối với mối liên hệ với bạn bè
(không khác biệt giữa nam và nữ), mối liên hệ
với gia đình (nam ít nói hơn, sống khép kín nam
nữ như nhau), đối với việc học tập (cả nam lẫn
nữ đều thiếu tập trung, sao lãng như nhau).
Những kết luận này thực sự cần thiết cho
các chương trình sức khỏe học đường phòng
chống bệnh mụn trứng cá.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aktans., et al. (2000), “Anxiety, depression and nature of
acne vulgaris in adolescents”, Int J Dermatol; 39:354-7

2. Gollnick HP, Cunliffe WJ. (2003), “Management of acne”,
J Am Acad Dermatol, 49: S1-S38
3. Harper J. C. (2004), “An update on the pathogenesis of
acne vulgaris”, Journal of the American Academy of Dermatology Online, V 51, Numero 1, pp. 1-4
4. Harper J. C., et al. (2007), “Acne vulgaris”, emedicine, S111
5. Jancin, B. (2004), “Teens with acne cite shame, embarassment about skin”, Skin and allergy News, January, p28
6. Klaus Degit., et al. ( 2007), “Pathophysiology of acne”,
Journal of the German society of Dermatology, April, vol 5,
issue 4, pp. 316-323
7. Lello.J., et al. (1995), “Prevalence of acne vulgaris in
Auckland Senior high school students”, NZ Med J; 108:287289
Lookingbill DP., et al. (1985), “Tissue production of androgens
in woman with acne”, J Am Acad Dermatol; 12:148
8. Magin P., et al. (2005), “A systemic review of the evidence
for myths and misconceptions in a acne management: diet,
face-washing and sunlight”, Fam Pract, 22:62-70
9. Mallon E., et al (1999), “the quality of life in acne: a
comparison with general medical conditions using generic
questionaire”, Br J Dermatol,140(4): 672-6


10. Nguyễn Thanh Minh (2006), “Tỉ lệ hiện mắc và các yếu
tố liên quan đến mụn trứng cá trên học sinh phổ thông trung
học cơ sở”, Luận án cao học
11. Purvis D. (2006), “Acne Anxiety, depression, and suicide
in teenagers: a cross sectional survey of New-Zealand
secondary school students”, 42(12):793-6
12. Rigopoulos D., et al. (2007), “Coping with acne: beliefs
and perceptions in a sample of secondary school Greek pupils”,
J Eur Dermatol Venereol, Jul; 21(6):806-810

13. Smithard A., et al. (2001), “Acne prevalence, knowledge
about acne and psychological morbidity in midadolescence: a
community-based study”, Br J Dermatol; Aug, 145(2):274-9
14. Saurat. H., Grosshans E. (1999), “Les maladie des
glandes sebacées-L’acné”, Dermatologie et maladies
sexuellement transmissibles, 3e édition, Masson, pp.732-742
15. Strauss J. S ., Thiboutot D. M. (1999), “Diseases of the
sebace ous glands”, Fitzpatrick Dermatology in General
Medicine, fifth edition, Vi, pp. & 69-784



×