BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
BÙI THỊ ĐÀO
QUAN HỆ ẤN ĐỘ - ASEAN TRONG THẬP NIÊN
ĐẦU CỦA THẾ KỈ XXI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
TP. Hồ Chí Minh - 2012
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
BÙI THỊ ĐÀO
QUAN HỆ ẤN ĐỘ - ASEAN TRONG THẬP NIÊN
ĐẦU CỦA THẾ KỈ XXI
Chuyên ngành: Lịch sử Thế Giới
Mã số: 60 22 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. NGUYỄN CẢNH HUỆ
TP. Hồ Chí Minh - 2012
2
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học sư phạm Thành
phố Hồ Chí Minh, Phòng Khoa học công nghệ - Sau Đại học, các thầy cô khoa
Sử cùng tất cả các bạn đồng học đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin đặc biệt tỏ lòng kính trọng, biết ơn Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn
Cảnh Huệ, Thầy đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn cho tôi trong quá trình học tập
và nghiên cứu luận văn này.
Tôi cũng xin tỏ lòng biết ơn tới các anh chị, các cô trong Thư viện Khoa
học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thư viện Khoa học Xã hội Thành Phố
Hồ Chí Minh, Thông tấn xã Việt Nam, Thư viện Tỉnh Bình Dương đã tận tình
giúp đỡ tôi về nguồn tư liệu.
Tuy được nghiên cứu trong thời gian ngắn, nhưng với sự giúp đỡ tận tình
của quý thầy cô, sự hỗ trợ của bạn bè, đồng nghiệp, sự cố gằng hết sức mình, tôi
đã có điều kiện tiếp thu được kiến thức và phương pháp nghiên cứu vô cùng quý
báu.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn.
Thành phố Hồ Chí Minh ngày 20 tháng 8 năm 2012.
Bùi Thị Đào
3
MỤC LỤC
Trang
BẢNG CHỮ TIẾNG ANH VIẾT TẮT....................................................................... 6
PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 7
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 7
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 9
2.1. Đối tượng nghiên cứu. .................................................................................. 9
2.2. Phạm vi nghiên cứu. ...................................................................................... 9
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................. 10
4. Phương pháp nghiên cứu. .................................................................................. 14
5. Nguồn tư liệu ..................................................................................................... 14
6. Những đóng góp của luận văn. .......................................................................... 15
7. Cấu trúc của luận văn......................................................................................... 15
CHƯƠNG 1. NHỮNG NHÂN TỐ CHI PHỐI QUAN HỆ ẤN ĐỘ - ASEAN
TRONG THẬP NIÊN ĐẦU CỦA THẾ KỈ XXI ...................................................... 16
1.1. Nhân tố từ tình hình thế giới ........................................................................... 16
1.1.1. Xu hướng toàn cầu hóa, tự do hóa. .......................................................... 16
1.1.2. Sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ. .................. 17
1.1.3. Sự nổi lên của Trung Quốc với chiến lược vươn ra biển Đông ............... 18
1.2. Tình hình khu vực ........................................................................................... 21
1.2.1. Tình hình khu vực Đông Nam Á. ............................................................ 21
1.3. Nhân tố từ Ấn Độ - ASEAN ........................................................................... 24
1.3.1. Tình hình Ấn Độ ...................................................................................... 24
1.3.2. Tình hình ASEAN .................................................................................... 27
1.4. Chính sách hướng Đông của Ấn Độ ............................................................... 30
1.5. Quan hệ Ấn Độ - ASEAN trước thế kỉ XXI. .................................................. 33
1.5.1. Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đối với khu vực Đông Nam Á ............... 33
1.5.2. Quan hệ Ấn Độ - Đông Nam Á sau khi Ấn Độ giành được độc lập (
1947 - 1967). ...................................................................................................... 36
1.5.3. Quan hệ Ấn Độ - ASEAN từ năm 1967 đến năm 1991 ........................... 38
1.5.4. Quan hệ Ấn Độ - ASEAN từ năm 1991 - 2000 ....................................... 42
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ............................................................................................ 48
CHƯƠNG 2. QUAN HỆ ẤN ĐỘ - ASEAN TRONG THẬP NIÊN ĐẦU CỦA
THẾ KỈ XXI .............................................................................................................. 50
4
2.1. Quan hệ chính trị - ngoại giao. ....................................................................... 50
2.2. Quan hệ kinh tế. .............................................................................................. 63
2.3. Quan hệ văn hóa giáo dục và khoa học công nghệ ......................................... 74
2.3.1. Văn hóa giáo dục ...................................................................................... 74
2.3.2. Khoa học công nghệ ................................................................................. 77
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ............................................................................................ 80
CHƯƠNG 3. QUAN HỆ GIỮA ẤN ĐỘ VỚI MỘT SỐ NƯỚC THÀNH VIÊN
ASEAN TRONG THẬP NIÊN ĐẦU CỦA THẾ KỈ XXI ........................................ 82
3.1. Quan hệ Ấn Độ - Singapore ............................................................................ 82
3.1.1. Sơ lược về quan hệ Ấn Độ - Singapore trước thế kỉ XXI ........................ 82
3.1.2. Về quan hệ ngoại giao và an ninh quốc phòng ........................................ 85
3.1.3. Về quan hệ kinh tế.................................................................................... 90
3.2. Quan hệ Ấn Độ - Myanmar ............................................................................ 92
3.2.1. Sơ lược về quan hệ Ấn Độ - Myanmar trước thế kỉ 21............................ 92
3.2.2. Về quan hệ ngoại giao và an ninh quốc phòng. ....................................... 95
3.2.3. Về quan hệ kinh tế.................................................................................... 98
3.3. Quan hệ Ấn Độ - Việt Nam. ........................................................................ 103
3.3.1. Sơ lược về quan hệ Ấn Độ - Việt Nam trước thế kỉ XXI ...................... 103
3.3.2. Về quan hệ ngoại giao và an ninh quốc phòng thế kỉ XXI. ................... 105
3.3.3. Về quan hệ kinh tế.................................................................................. 112
3.4. Quan hệ Ấn Độ -Thái Lan ............................................................................ 116
3.4.1. Sơ lược về quan hệ Ấn Độ - Thái Lan trước thế kỉ XXI ....................... 116
3.4.2. Về quan hệ ngoại giao và an ninh quốc phòng ...................................... 117
3.4.3 Về quan hệ kinh tế................................................................................... 118
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 .......................................................................................... 122
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 124
PHỤ LỤC ................................................................................................................ 130
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 137
5
BẢNG CHỮ TIẾNG ANH VIẾT TẮT
AEC
APEC
ARF
ASEM
ASEAN
BIMSTEC
Coopera
CAFTA
CECA
CEP
CII
CTBT
EAC
EAS
FDI
FTA
GMS
IAJBC
IAJCC
IOR-ARC
JWG
LEP
MGC
MOU
NCAER
NIC
NPT
ODA
OECD
OIC
RTIA
SAARC
SAFTA
SEATO
TAC
UNCTAD
WTO
ZOPFAN
ASEAN Economic Community
Asia Pacific Economic Cooperation
ASEAN Regional Forum
Asia-Europe Meeting
Association Of South East Asian Nations
Bangladesh-India-Myanmar-Srilanka-ThaiLand Economic
Central America Free Trade Agreement
Committee For Education And Cultural Action
Cutural Exchznge Programme
Confederation Of Indian Industry .
Comprehensive Nuclear Test Ban Treaty .
East African Community
East Asian Community
Foreign Direct Investment
Free Trade Agreement
Greater Mekong Subregion
India - ASEAN Joint Bussiness Committee
India - ASEAN Joint Cooperation Committee
Indian Ocean Rim Association for Regional Cooperation
Joint Working Group
Look East Policy
Mekong–Ganga Cooperation
Memmorandum of Understanding.
National Council Of Applied Economic Research
Newly Industrialized Country
Nuclear Non-Proliferation Treaty
Official Development Assistance
Organisation For Economic Co-operation And Development
Organisation Of Islamic Cooperation
Regional Trade India - ASEAN
South Asian Association For Regional Cooperation
South Asian Free Trade Area
South East Asia Treaty Organization
Treaty of Amity and Cooperation
United Nations Conference On Trade and Development
World Trade Organization .
Zone Of Peace Freedom And Neutrality
6
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Là một nước nằm ở trung tâm của khu vực Nam Á, Ấn Độ không phải chỉ
được thế giới biết đến như một trong những quốc gia rộng lớn và đông dân nhất
trên thế giới mà còn được biết đến như một trong những quốc gia có nền văn
minh đồ sộ và cổ kính nhất trong lịch sử nhân loại. Từ khi Chính phủ Ấn Độ tiến
hành cải cách toàn diện nền kinh tế ( tháng 7/1991) đến nay, Ấn Độ đã trở thành
một trong hai nền kinh tế mới nổi lớn nhất thế giới. Không chỉ vươn lên trong
lĩnh vực kinh tế, Ấn Độ còn nỗ lực tìm kiếm và nâng cao vai trò quốc tế của
mình. Sức mạnh kinh tế và phần nào ảnh hưởng chính trị đã đưa Ấn Độ chính
thức gia nhập G-20, diễn đàn của 20 nền kinh tế lớn và mới nổi trên toàn thế
giới. Gần như đồng thời với những cải cách về kinh tế, Ấn Độ đã có những điều
chỉnh về chính sách đối ngoại để thích ứng với tình hình quốc tế, khu vực và
trong nước thời kì hậu Chiến tranh lạnh. Một trong những kết quả quan trọng của
sự điều chỉnh đó là sự ra đời của chính sách hướng Đông vào đầu thập niên 90
của thế kỉ XX.
Ấn Độ là một quốc gia có vị trí vô cùng quan trọng đối với Đông Nam Á.
Ấn Độ chính là cửa ngõ để Đông Nam Á giao lưu với Trung Á, Trung Cận
Đông, một vùng có vị trí chiến lược quốc tế và dầu lửa lớn nhất thế giới.
Ấn Độ và các quốc gia Đông Nam Á đã có mối quan hệ từ lâu đời. Lịch sử
ngành hàng hải đã ghi nhận mối quan hệ giữa người Ấn Độ với các cộng đồng
người nằm ở rìa Ấn Độ Dương ngay từ năm 1000 trước Công nguyên. Các
thương nhân người Ấn đã thống soái Ấn Độ Dương cho đến tận thế kỉ II sau
Công nguyên, trước khi xuất hiện các thương nhân người ẢRập. Tuy nhiên, sự
có mặt của người ẢRập không làm giảm đi sự ảnh hưởng văn hóa lẫn nhau qua
hàng bao thế kỉ giữa Ấn Độ và các nước Đông Nam Á.
Hơn nửa thế kỉ qua, từ năm 1947 tới nay, quan hệ Ấn Độ - Đông Nam Á,
xét cả chiều rộng và chiều sâu là tương đối thuận lợi. Ấn Độ không những tích
cực ủng hộ sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của các quốc gia Đông Nam Á, được thể hiện qua các Hội nghị Liên Á (
3/1947), cùng Trung Quốc nêu ra 5 nguyên tắc chung sống hòa bình ( 1954),
Hội nghị Băng Đung ( 5/1955) mà còn là nước sáng lập ra " Con đường không
7
liên kết" và tham gia tích cực vào phong trào không liên kết ( ra đời năm 1961).
Chính những đóng góp to lớn đó của Ấn Độ đã tạo ra một môi trường khách
quan thuận lợi để các nước Đông Nam Á hình thành tư tưởng ZOPFAN ( Khu
vực hòa bình tự do trung lập) và chính tuyên bố của ASEAN khi thành lập năm
1967 và Hiệp ước Bali năm 1976 đều dựa trên 11 nguyên tắc Băng Đung.
Bước sang thế kỉ XXI, tình hình thế giới có nhiều biến chuyển sâu sắc. Xu
hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa trở thành phổ biến. Trước tình hình đó, mỗi
quốc gia muốn ổn định và phát triển không thể tách khỏi mối quan hệ trong đời
sống quốc tế. Nhận thức sâu sắc được vấn đề đó, các nước ASEAN đã điều chỉnh
chính sách đối ngoại của mình cho phù hợp với tình hình. Trong quá trình điều
chỉnh, các nước ASEAN đã tích cực mở rộng hợp tác nhiều bên vì lợi ích phát
triển của mỗi nước. Hợp tác với những nước trong khu vực châu Á là một trong
những ưu tiên hàng đầu của khối ASEAN. Một trong những nước được ASEAN
chú trọng hợp tác ở khu vực là Ấn Độ. Các nước ASEAN đều chủ động, tích cực
trong việc cải thiện quan hệ với Ấn Độ, không để chiến tranh, xung đột xảy ra,
tôn trọng độc lập chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nước
khác. Đó chính là nguyên tắc đối ngoại chung của các nước thành viên ASEAN.
Ấn Độ chưa bao giờ có ý đồ chia rẽ các quốc gia Đông Nam Á mà trái lại,
luôn ủng hộ tính thống nhất trong đa dạng của ASEAN và luôn cố gắng giữ mối
quan hệ hữu nghị, láng giềng với các nước Đông Nam Á. Nếu có một lúc nào đó
có xảy ra bất đồng thì cũng chỉ vì không hiểu biết đầy đủ quan điểm của nhau về
một số vấn đề quốc tế, khu vực.
Mặc dù ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng có mối quan hệ gần gũi
từ xa xưa với Ấn Độ nhưng việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa các nước
ASEAN với Ấn Độ trên phương diện song phương và đa phương lại chưa phát
triển và chưa được chú ý đúng mức, đặc biệt là mối quan hệ Ấn Độ và ASEAN
trong những năm gần đây. Vì vậy, tôi chọn và nghiên cứu đề tài : “ Quan hệ Ấn
Độ - ASEAN trong thập niên đầu thế kỉ XXI” với mong muốn:
- Tìm hiểu và bổ sung kiến thức cho bản thân về chính sách đối ngoại của
nước cộng hòa Ấn Độ cũng như của ASEAN trong thập niên gần đây để từ đó
thấy được những kinh nghiệm cần thiết cho sự điều chỉnh chính sách đối ngoại
của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, quốc tế hóa hiện nay.
8
- Đóng góp một nguồn tư liệu bổ sung vào việc nghiên cứu , giảng dạy và
học tập lịch sử ở bậc đại học, cao đẳng và cả ở các trường trung học phổ thông.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu.
- Khái quát về quan hệ Ấn Độ - ASEAN trước thế kỉ XXI và những vấn đề
của thế giới, khu vực chi phối quan hệ Ấn Độ - ASEAN trong thập niên đầu của
thế kỉ XXI.
- Tìm hiểu quan hệ Ấn Độ - ASEAN về phương diện quan hệ song phương
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị và đa phương trên các lĩnh vực: kinh tế, chính
trị, văn hóa, khoa học công nghệ trong thập niên đầu của thế kỉ XXI. Qua đó, nên
những nhận định, đánh giá về mối quan hệ này.
2.2. Phạm vi nghiên cứu.
- Về mặt thời gian
Đề tài chủ yếu nghiên cứu quan hệ Ấn Độ - ASEAN trong giới hạn thời
gian thập niên đầu của thế kỉ XXI. Sở dĩ tôi chọn thập niên đầu của thế kỉ XXI
cho sự nghiên cứu đề tài luận văn của mình vì trong giai đoạn này, Ấn Độ thi
hành chính sách hướng Đông giai đoạn 2. Trong giai đoạn hai (từ 2002 đến
2010), phạm vi của chính sách hướng Đông được mở rộng toàn Châu Á – Thái
Bình Dương nhưng ASEAN vẫn được xác định là trọng tâm của chính sách. Ấn
Độ một mặt tăng cường tham gia vào các cơ chế hợp tác an ninh – chính trị trong
khu vực, một mặt dựa vào khu vực, tăng cường hợp tác kinh tế với những chính
sách mở cửa đôi bên cùng có lợi. Bước sang thế kỉ XXI, Ấn Độ bắt tay vào quá
trình hội nhập kinh tế thông qua các PTA (Hiệp định thương mại ưu đãi), FTA
(Hiệp định thương mại tự do), CECA (Hiệp định hợp tác kinh tế toàn diện),
CEPA (Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện).
- Nội dung nghiên cứu:
1. Đề tài tập trung nghiên cứu về mối quan hệ Ấn Độ - ASEAN trên mọi
lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa...ở bình diện đa phương và bình diện song
phương trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị với một số nước tiêu biểu của
ASEAN.
9
2. Từ những nghiên cứu này, rút ra những đánh giá, nhận xét bước đầu về
mối quan hệ Ấn Độ - ASEAN
3. Mối quan hệ Ấn Độ - ASEAN thời kì này chịu sự tác động của quan hệ
hai bên trong thời gian trước đó, cũng như những nhân tố từ tình hình khu vực và
thế giới, nên tôi mở rộng nghiên cứu mối quan hệ giữa hai bên trong thời gian
trước thế kỉ XXI cũng như những vấn đề của khu vực và thế giới có tác động đến
quan hệ Ấn Độ - ASEAN thời kì này.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ trước tới nay, viết về mối quan hệ Ấn Độ - ASEAN đã có nhiều nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Sau đây, tôi xin điểm qua tình hình
nghiên cứu về vấn đề này.
K.S. Sandhu ( 1994), The ASEAN reader, xuất bản tại Singapore : ISEAS.
Công trình này đã nghiên cứu toàn bộ lịch sử của khu vực Đông Nam Á, sự hình
thành và tổ chức của ASEAN, tình hình chính trị, xã hội, văn hóa của ASEAN...
Trong phần 7: ASEAN external economic relations ( ASEAN quan hệ kinh tế với
bên ngoài), tác giả đã dành hẳn một phần để trình bày mối quan hệ kinh tế của
ASEAN với khu vực Nam Á, trong đó có Ấn Độ.
Cao xuân phổ, Trần Thị Lý ( Chủ biên)( 1997), Ấn Độ xưa và nay, Nxb
khoa học xã hội, Hà Nội. Đây là một công trình có tính chất giới thiệu nhưng
không dàn trải, tập trung vào những thành tựu nổi bật nhất trong các lĩnh vực
kinh tế, văn hóa cũng như quan hệ đối ngoại của Ấn Độ trong quá trình lịch sử
cũng như trong giai đoạn hiện đại với những sự kiện và số liệu gần đây nhất.
Cuốn sách cũng đã giới thiệu về đất nước, con người và truyền thống lịch sử lâu
đời của Ấn Độ và đặc biệt là dành hẳn một phần để trình bày về chính sách đối
ngoại hòa bình, độc lập và không liên kết của Ấn Độ, trong đó tác giả đề cập tới
sự kiện Ấn Độ tiếp tục củng cố quan hệ hữu nghị sẵn có với các nước Đông
Dương, các nước ASEAN và các nước NICs. Đi đôi với việc trình bày về chính
sách đối ngoại của Ấn Độ, các tác giả cũng nhấn mạnh tới quan hệ Việt Nam Ấn Độ - một mối quan hệ lâu đời trong lịch sử và ngày càng tốt đẹp sau một nửa
thế kỉ giành độc lập.
10
Trong xu thế toàn cầu hóa và tự do hóa đang diễn ra mạnh mẽ và mang tính
tất yếu như hiện nay, thì nhiều nước, trong đó có các nước đang phát triển ở châu
Á, đã và đang thực hiện những điều chỉnh về chính sách kinh tế đối ngoại nhằm
đáp ứng đòi hỏi của xu thế này:
PGS. PTS. Nguyễn Xuân Sơn và Thạc sĩ Thái Văn Long (1997), Quan hệ
đối ngoại của các nước ASEAN, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong
thời kì chiến tranh lạnh và hiện nay trên cơ sở phân tích đặc điểm chung của từng
quốc gia, cuốn sách nhằm làm rõ chính sách đối ngoại của từng nước với các
nước trong khu vực cũng như với một số nước lớn có ảnh hưởng trong khu vực
như Mĩ, Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ…
Trần Thị Lý (chủ biên), ( 2002), Sự điều chỉnh chính sách của Cộng hòa Ấn
Độ từ năm 1991 đến năm 2000, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Bằng việc phân
tích những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự điều chỉnh chính sách của Cộng hòa
Ấn Độ, tác giả đã giới thiệu những thành tựu mà Ấn Độ đạt được trên hai lĩnh
vực chủ yếu: Kinh tế và đối ngoại trong vòng một thập niên cuối của thế kỉ XX.
Trong phần thứ ba: Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại, tác giả đã trình bày về
chính sách hướng đông và sự tăng cường hợp tác về mọi mặt của Ấn Độ đối với
khu vực Đông Nam Á từ 1991 đến 2000. Tuy nhiên tác giả cũng có một phần
khái quát sơ lược về mối quan hệ Ấn Độ - ASEAN trước năm 1991.
PGS, TS Đỗ Đức Định (chủ biên) ( 2003), Xu hướng điều chỉnh chính sách
ở một số nước châu Á trong bối cảnh toàn cầu hóa và tự do hóa, Nxb Thế giới.
Nội dung của công trình đã tập trung phân tích quá trình hình thành, phát triển,
và những nội dung chủ yếu của ba loại quan điểm và lý thuyết về cấu trúc luận,
thuyết tự do mới và toàn cầu hóa cùng những diễn biến thực tế trên thế giới – là
những nhân tố chi phối nền kinh tế đối ngoại của các nước đang phát triển ở châu
Á. Ngoài ra, tác giả cuốn sách còn nghiên cứu những xu hướng và nội dung chủ
yếu của sự chuyển đổi chính sách kinh tế đối ngoại ở một số nước như Hàn
Quốc, Đài Loan, Malaixia, Philippin, Ấn Độ và Thái Lan. Với nội dung như vậy
cho chúng ta hiểu được một phần về chính sách đối ngoại của Ấn Độ và một số
nước Đông Nam Á.
Lê Nguyễn Hương Trinh ( 2005), Chính sách ngoại thương Ấn Độ thời kì
cải cách, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội. Nội dung của cuốn sách đề cập những
11
cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của ngoại thương trong phát triển kinh tế; sự
chuyển hướng chính sách ngoại thương Ấn Độ thời kì cải cách, những kinh
nghiệm và bài học rút ra từ quá trình cải cách chính sách ngoại thương của Ấn
Độ. Đặc biệt, trong chương 2, tác giả dành một phần viết về chính sách hướng
Đông của Ấn Độ và sự chuyển hướng trong quan hệ thương mại Ấn Độ ASEAN.
Hoàng Thị Điệp ( 2006), Quá trình phát triển quan hệ Việt Nam – Ấn Độ từ
năm 1986 – 2004, luận án tiến sĩ Lịch sử, Viện sử học. Tác giả đã trình bày về
mối quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ năm 1986 – 2004 với ba giai đoạn phát triển,
những thuận lợi, khó khăn, thành tựu và triển vọng của mối quan hệ này.
Atish Sinha, Madhup Mohta ( 2007), Indian foreign policy: challenges and
opportunities, xuất bản tại Ấn Độ (Chính sách đối ngoại Ấn Độ: thách thức và cơ
hội). Công trình này đã nghiên cứu rất sâu về quan hệ đối ngoại và giới hạn hiện
tại trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ. Trong phần Regional foreign policy (
chính sách đối ngoại khu vực), các tác giả đã trình bày một cách có hệ thống về
chính sách đối ngoại của Ấn Độ đối với các nước láng giềng, vịnh Ba Tư, vùng
Tây Á và Bắc Phi... và đặc biệt tác giả đã trình bày chính sách hướng Đông của
Ấn Độ, sự hội nhập kinh tế rộng lớn hơn ở châu Á và mối quan hệ Ấn Độ - Đông
Nam Á. Trong phần Bilateral relations( quan hệ song phương), tác giả đã trình
bày về mối quan hệ của Ấn Độ với rất nhiều nước, trong đó có Myanmar và
Inđônêxia. Đây là những nội dung có ảnh hưởng rất nhiều đối với tôi trong quá
trình làm luận văn.
Trung tâm dữ kiện tư liệu – TTXVN ( 2007), Vai trò của Việt Nam trong
ASEAN, Nxb Thông Tấn Hà Nội. Trong phần viết về "ASEAN - Ấn Độ: hướng
tới quan hệ lâu dài và bền vững", cuốn sách đã giới thiệu về mối quan hệ hợp tác
giữa ASEAN - Ấn Độ trên tất cả các lĩnh vực: Kinh tế, chính trị - an ninh, văn
hóa, khoa học kỹ thuật… và chỉ rõ những cơ hội, thách thức đặt ra cho mối quan
hệ ASEAN - Ấn Độ trong bối cảnh quốc tế mới.
Đinh Văn Hà ( 2012), Quan hệ Ấn Độ – ASEAN sau chiến tranh lạnh
(1991-2010), Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
thuộc Đại học quốc gia Hà Nội. Luận văn đã phân tích những cơ sở lịch sử của
mối quan hệ Ấn Độ – ASEAN trong lịch sử, trong đó tập trung vào những vấn đề
12
sau: Thứ nhất, phân tích những ảnh hưởng về văn hoá, tôn giáo, chính trị của Ấn
Độ tới khu vực ASEAN. Thứ hai, phân tích mối quan hệ giữa Ấn Độ – Đông
Nam Á trước khi ASEAN được thành lập. Thứ ba, phân tích giai đoạn Ấn Độ
thực hiện chính sách hướng Đông từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc.
Ngoài ra, còn có các tạp chí viết về mối quan hệ Ấn Độ - ASEAN trong
những năm gần đây:
Bùi Minh Sơn, Kinh tế Ấn Độ trên con đường hội nhập khu vực, hội nhập
toàn cầu và quan hệ hợp tác kinh tế Ấn Độ - Đông Nam Á, Tạp chí Đông Nam Á,
số 3 ( 1997)
Tôn Sinh Thành, Vài suy nghĩ về tư duy đối ngoại của Ấn Độ, Tạp chí Đông
Nam Á, số 6 ( 2001).
Nguyễn Thu Hương, Về vị trí của Ấn Độ trên trường quốc tế ( thời kì 1947 1997), Tạp chí Đông Nam Á, số 6 ( 1997).
Trần Thị Lý, 10 năm điều chỉnh chính sách đối ngoại của Cộng hòa Ấn Độ
( 1991 - 2000). Những thành tựu, Tạp chí Đông Nam Á, số 6 ( 2001).
Lê Nguyễn Hương Trinh, Quan hệ thương mại giữa Ấn Độ và ASEAN, Tạp
chí Đông Nam Á, số 3 (2002).
Võ Xuân Vinh, Chính sách hướng Đông của Ấn Độ: các nguyên nhân hình
thành, Tạp chí Đông Nam Á, số 3 ( 2005). Một số nội dung cơ bản trong chính
sách hướng Đông của Ấn Độ, Tạp chí Đông Nam Á, số 10 ( 2009).
Hoàng Giáp, Hoài Anh, Vài nét về quan hệ kinh tế Ấn Độ - ASEAN hiện
nay, Tạp chí những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, số 2 ( 2000)
Phan Minh Tuấn, Quan hệ Ấn Độ - ASEAN: Tiến tới mối quan hệ lâu dài và
bền vững, Tạp chí nghiên cứu các vấn đề quốc tế, tháng 3 ( 2006).
Tất cả những tài liệu trên có ảnh hưởng rất lớn đến luận văn trong nghiên
cứu mối quan hệ Ấn Độ - ASEAN. Với đề tài " Quan hệ Ấn Độ - ASEAN trong
thập niên đầu thế kỉ XXI", luận văn mong muốn giải quyết những vấn đề còn tồi
tại sau:
+ Tìm hiểu mối quan hệ Ấn Độ - ASEAN trước thế kỉ XXI. Phân tích
những nguyên nhân làm cho mối quan hệ 2 bên lúc nồng ấm, lúc lạnh nhạt trong
thời gian này.
13
+ Tìm hiểu mối quan hệ Ấn Độ - ASEAN trong thập niên đầu của thế kỉ
XXI về phương diện đa phương và song phương trên 1 số lĩnh vực quan trọng, đi
sâu phân tích nguyên nhân tại sao mối quan hệ 2 bên thời kì này lại phát triển tốt
đẹp.
+ Rút ra nhận định, đánh giá về những thành tựu, khó khăn và triển vọng
của mối quan hệ này.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi sử dụng những phương pháp nghiên
cứu sau:
4.1. Phương pháp tiếp cận hệ thống: Đặt quan hệ Ấn Độ - ASEAN trong
bối cảnh khu vực và thế giới, đặt Ấn Độ trong quan hệ với khu vực Đông Nam Á
kể từ khi ASEAN thành lập ( 1967 tới 2010 ).
4.2. Là một đề tài lịch sử, quan điểm khi nghiên cứu là tuân thủ phương
pháp lịch sử, bám sát các sự kiện lịch sử, nghiên cứu theo không gian và thời
gian lịch sử, chân thực lịch sử, trình bày lịch sử như nó từng có. Sử dụng phương
pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lôgic và phương pháp nghiên cứu quan hệ
quốc tế nhằm vạch ra bản chất quy luật, khuynh hướng phát triển của mối quan
hệ Ấn Độ - ASEAN. Tất cả được đặt trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin.
5. Nguồn tư liệu
Để hoàn thành bài luận văn này, tôi đã dựa vào các nguồn tài liệu chính sau:
- Các công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu Việt Nam và nước
ngoài liên quan đến đề tài được công bố trên sách, báo, tạp chí…Đây là nguồn tư
liệu phong phú, có ý nghĩa quan trọng không chỉ cung cấp tư liệu mà còn giúp tôi
hiểu thêm được nhiều vấn đề để hoàn thành bài luận văn này.
- Những văn kiện có liên quan đến quan hệ giữa hai bên, Tuyên bố chung,
các bài phát biểu và trả lời phỏng vấn của các nhà lãnh đạo hai bên được công bố
trên báo chí, tài liệu tham khảo đặc biệt của Thông tấn xã Việt Nam. Đây là
nguồn tài liệu vô cùng phong phú, có ý nghĩa quan trọng với tôi trong quá trình
làm luận văn.
14
- Các luận án nghiên cứu về quan hệ Việt Nam - Ấn Độ
- Bản tin Thông tấn xã Việt Nam, tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới, Tạp
chí kinh tế và dự báo, Tạp chí những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, Tạp chí
nghiên cứu quốc tế, Tạp chí Cộng sản, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, Đông
Bắc Á, Thời báo kinh tế Sài Gòn, báo đầu tư…
- Tư liệu trên Internet…
6. Những đóng góp của luận văn.
Trên cơ sở tập hợp, lựa chọn, xử lí nhiều nguồn tài liệu khác nhau, luận văn
tập trung mô tả một cách chân thực về mối quan hệ trên nhiều lĩnh vực giữa Ấn
Độ với các quốc gia ASEAN trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2010. Luận
văn có thể cung cấp hệ thống thư mục cũng như những luận điểm cơ bản của các
nhà nghiên cứu để từ đó góp phần nghiên cứu giai đoạn lịch sử này một cách hệ
thống hơn.
Không dừng lại ở việc hệ thống hóa các nguồn tư liệu và luận điểm cơ bản
của các nhà nghiên cứu, luận văn còn đi sâu phân tích, giải thích mối quan hệ
giữa Ấn Độ với ASEAN diễn ra khác nhau trong từng giai đoạn. Trên cơ sở đó,
rút ra những nhận định, đánh giá về đặc điểm, thời cơ và thách thức của mối
quan hệ đó. Đồng thời, thấy được những thuận lợi và khó khăn đối với nền kinh
tế Việt Nam trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới.
Một điều không thể thiếu là luận văn đóng góp một nguồn tư liệu quan
trọng để phục vụ cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu về mối quan hệ Ấn
Độ - ASEAN trong thời gian 2000 - 2010.
7. Cấu trúc của luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1. Những nhân tố chi phối quan hệ Ấn Độ - ASEAN trong thập
niên đầu của thế kỉ XXI.
Chương 2. Quan hệ đa phương Ấn Độ - ASEAN trong thập niên đầu của thế
kỉ XXI.
Chương 3. Quan hệ song phương Ấn Độ - với một số nước ASEAN trong
thập niên đầu của thế kỉ XXI
15
CHƯƠNG 1. NHỮNG NHÂN TỐ CHI PHỐI QUAN HỆ ẤN ĐỘ
- ASEAN TRONG THẬP NIÊN ĐẦU CỦA THẾ KỈ XXI
1.1. Nhân tố từ tình hình thế giới
1.1.1. Xu hướng toàn cầu hóa, tự do hóa.
Trong nhiều thập kỷ qua, sự đối đầu giữa 2 hệ thống kinh tế xã hội đã đưa
nền kinh tế thế giới tới những nguy cơ to lớn chưa thể lường hết được, trái với xu
thế khách quan quốc tế hoá đang phát triển. Ngay trong thời kỳ chiến tranh lạnh
và đối đầu gay gắt, các quan hệ kinh tế Đông –Tây vẫn tồn tại bất chấp ý chí của
các chính phủ. Trong những điều kiện mới hiện nay, kinh tế các nước vừa phát
triển vừa tăng cường liên kết. Mỗi nước không chỉ tăng cường tiềm lực kinh tế
của mình, mà còn mở rộng buôn bán với các nước khác. Ngày nay, trừ Cộng hòa
Dân chủ Nhân Dân Triều Tiên, các nước trên thế giới đều được liên kết với nhau
và trở thành bộ phận của thị trường toàn cầu. Thậm chí, cả Cuba do Đảng Cộng
Sản cầm quyền, cũng coi đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng nhất định trong
nền kinh tế.
Trong tình hình mới hiện nay, các nước có nền kinh tế phát triển muốn mở
rộng thị trường, nguồn vốn đầu tư, địa bàn chuyển nhượng những kỹ thuật truyền
thống và hình thành phân công lao động quốc tế thì phải mở rộng những quan hệ
quốc tế cùng có lợi. Đây chính là một phương hướng mới của các quan hệ kinh tế
quốc tế, tạo ra cơ hội để các quốc gia có điều kiện có thể mở rộng các quan hệ
phụ thuộc vào nhau. Không thể phát triển kinh tế bằng cách xây dựng một nền
kinh tế khép kín, tự cô lập trong một nước, thậm chí một nhóm nước.
Xu hướng liên kết toàn thế giới thành một thị trường thống nhất đang được
đẩy mạnh hơn. Nó phản ánh quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay. Với
việc thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), hầu như tất cả các nền kinh
tế của thế giới có khả năng thiết lập ngày càng nhiều mối quan hệ phụ thuộc lẫn
nhau. Trong những năm 1980, nền kinh tế thế giới đã được đặc trưng bởi thương
mại giữa các khối kinh tế lớn, kể từ khi thương mại quốc tế giữa những năm 90
đã có xu hướng phát triển theo hướng toàn cầu hóa đến giai đoạn một nơi mà nó
là khả thi để thụ thai thương mại mà không có biên giới trong tương lai không xa.
Vào đầu thế kỷ XXI chúng ta chứng kiến sự nổi lên của một nền kinh tế mới: Cả
thế giới như một thị trường toàn cầu!
16
Toàn cầu hoá có nghĩa là dòng chảy của hàng hóa, dịch vụ, vốn, công nghệ
và con người đang lan rộng trên toàn thế giới, như các quốc gia ở khắp mọi nơi
mở rộng liên hệ với nhau. Một yếu tố cốt lõi của toàn cầu hóa là sự mở rộng của
thương mại thế giới thông qua việc loại bỏ hoặc giảm các rào cản thương mại,
chẳng hạn như thuế nhập khẩu.
Toàn cầu hóa vừa mang lại thời cơ vừa mang lại những thách thức cho sự
phát triển của mỗi quốc gia. Những nước càng kém phát triển càng phải đối mặt
với nhiều thách thức gay gắt hơn là thời cơ. Phạm vi quan hệ càng xa, càng khó
điều hòa lợi ích chung với lợi ích riêng của từng quốc gia. Bởi vậy, lẽ tự nhiên,
mỗi quốc gia trước hết phải tìm những đối tác thích hợp, không quá chênh lệch
về trình độ phát triển, gần gũi về địa lý, có quan hệ truyền thống, có những lợi
ích chung không những về kinh tế mà cả về văn hóa, quốc phòng, an ninh... Đó là
phương cách tốt nhất để tìm kiếm hợp lực nhằm gia tăng trọng lượng trong tiếng
nói của mỗi quốc gia trên trường quốc tế, tranh thủ ngoại lực để phát huy nội lực,
từng bước tham gia ngày càng sâu, rộng vào liên kết kinh tế quốc tế.
Đặc trưng cơ bản của toàn cầu hóa nền kinh tế là tự do hóa việc di chuyển
hàng hóa, dịch vụ, lao động và tư bản trên phạm vi toàn cầu. Tự do hóa, một mặt,
mở rộng không gian hoạt động cho mỗi nền kinh tế dân tộc, tận dụng được hiệu
quả kinh tế nhờ quy mô, tìm nơi đầu tư có lợi. Nhưng mặt khác, hàng hóa và tư
bản của nước ngoài thâm nhập thị trường dân tộc làm cho các doanh nghiệp và
các ngành kinh tế trong nước yếu kém sẽ chịu nhiều thua thiệt, thậm chí bị phá
sản. Cho nên, các nước đang phát triển có sức cạnh tranh về nhiều mặt còn yếu,
không thể tự do hóa nhanh, nên phải tùy theo hoàn cảnh cụ thể, tùy theo năng lực
trong nước mà lựa chọn phạm vi, mức độ và lộ trình tự do hóa thích hợp. Tham
gia các tổ chức kinh tế khu vực chính là giải pháp tốt để mở rộng dần tự do hóa
phù hợp với sức chịu đựng của nền kinh tế dân tộc.
1.1.2. Sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ.
Từ đầu thập kỉ 90, Chiến tranh lạnh kết thúc, tình hình thế giới đã thay đổi
căn bản. Trật tự thế giới cũ hai cực đã tan rã, trật tự thế giới mới đang hình thành
theo hướng đa cực, đa trung tâm. Xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển thay thế
cho xu thế đối đầu. Cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh, đặc biệt là
cách mạng thông tin bùng nổ đã có những tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc
17
tế. Cuộc cách mạng này đã làm giảm chi phí viễn thông cũng như vận tải, xóa đi
khoảng cách trong hoạt động kinh tế. "Trong thời kì 1930 - 1996, chi phí gọi điện
thoại một cuộc 3 phút từ New York đi Luân Đôn đã giảm từ 300 USD ( giá năm
1996) xuống còn 1 USD" [15; tr16]. Chi phí điện thoại, điện tín và vận tải giảm
mạnh đã cho phép có sự liên kết chặt chẽ hơn giữa các thị trường, nhà sản xuất,
nhà cung ứng và người tiêu dùng. Các hoạt động kinh doanh, bao gồm hoạt động
mua bán và dịch vụ cũng như các giao dịch tài chính khác, có thể được thực hiện
từ xa thông qua mạng lưới viễn thông. Điều này còn được tiến hành thuận lợi
hơn nữa thông qua Internet và các công nghệ hiện đại khác. Kết quả là việc mua
bán thông qua điện thoại và hệ thống Internet, hội thảo qua điện thoại, giáo dục
từ xa qua băng hình và trên vô tuyến truyền hình, và thậm chí, cả làm việc qua
điện thoại đã trở thành các hoạt động phổ biến, đem lại hiệu quả về chi phí. Điều
này làm cho quá trình hội nhập khu vực và hội nhập toàn cầu phát triển nhanh và
trở thành xu thế không thể đảo ngược. Tình hình đó đặt tất cả các nước dù lớn
hay nhỏ trước những cơ hội mới và thách thức mới.
Hơn nữa, sự diễn ra nhanh chóng và sâu rộng trên phạm vi toàn cầu của
cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã làm thay đổi cục diện chính trị thế giới,
chuyển cuộc đấu tranh về chính trị và quân sự sang cuộc chạy đua để giành ưu
thế về kinh tế, khoa học kỹ thuật và công nghệ giữa các nước và các trung tâm.
Trước tình hình đó, Ấn Độ phải điều chỉnh chính sách, đặc biệt trên lĩnh vực
kinh tế. Tháng 7/1991, Ấn Độ đã bắt đầu tiến hành cải cách kinh tế một cách toàn
diện và triệt để, nhằm điều chỉnh các chính sách kinh tế vĩ mô và điều chỉnh cơ
cấu kinh tế, chuyển từ một nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp và đóng cửa
sang một nền kinh tế thị trường, tự do hóa và mở cửa, phát triển năng động, nâng
cao khả năng cạnh tranh, từng bước hội nhập khu vực và hội nhập quốc tế.
1.1.3. Sự nổi lên của Trung Quốc với chiến lược vươn ra biển Đông
Sự nổi lên của Trung Quốc cũng là một nhân tố được tính đến khiến cho Ấn
Độ và các nước Đông Nam Á xích lại gần nhau hơn. Năm 1978, GDP của Trung
Quốc lục địa mới chỉ chiếm có khoảng 1% của thế giới nhưng đến 2005 tăng lên
4%, vượt I-ta-li-a, đứng vị trí thứ 6 với 1.981 tỷ USD. Về ngoại thương, Trung
Quốc đứng hàng thứ 3 trên thế giới (sau Mỹ và Nhật Bản); dự trữ ngoại tệ lớn
thứ hai, sau Nhật Bản. Điều gây ấn tượng là đầu tư của Trung Quốc ra nước
18
ngoài trên khắp các châu lục trong thời gian gần đây tăng rất nhanh, với nhiều dự
án lớn đạt hàng tỉ USD. Tổng sản phẩm quốc dân tăng trung bình hàng năm là
9%, một trong những chỉ số nhanh nhất thế giới. Theo dự đoán, đến năm 2025,
Trung Quốc sẽ vượt Mỹ trở thành nước có GDP cao nhất thế giới. Còn theo báo
cáo của tổ chức Goldman Sách cho rằng Ấn Độ và Trung Quốc sẽ nằm trong số 6
nền kinh tế lớn nhất thế giới vào năm 2050. [ 87 ].
Về khía cạnh chính trị - ngoại giao, thời gian gần đây, Trung Quốc không
chỉ chấp nhận toàn cầu hóa kinh tế, mà còn chủ động hội nhập quốc tế trên tất cả
các bình diện, nhất là trong hợp tác với các nước ASEAN. Ngoài hai lĩnh vực
chính trên, sự trỗi dậy của Trung Quốc còn được thể hiện ở sự phát triển nhanh
chóng của khoa học và công nghệ. Điển hình là Trung Quốc đã thực hiện thành
công phóng tàu vũ trụ "Thần Châu 6", đưa người vào vũ trụ lần thứ hai, trở thành
cường quốc chinh phục vũ trụ thứ 3 trên thế giới, sau Nga và Mỹ. Sự lớn mạnh
của Trung Quốc làm cộng đồng thế giới có thể hy vọng về một thế giới tốt đẹp
hơn nhưng đồng thời cũng phải đối phó với những thách thức không nhỏ của một
đất nước đang vươn rộng ra ngoài, đòi hỏi có không gian chiến lược cho sự phát
triển của mình.
Không những phát triển rất nhanh về kinh tế, Trung Quốc cũng đang gấp rút
hiện đại hóa lực lượng quốc phòng, từ 1988 đến năm 1995, chi phí quân sự của
Trung Quốc đã tăng gấp ba lần, trong đó ưu tiên cho lực lượng hải quân và không
quân. [ 5; tr 244 ]. Gần đây, Trung Quốc lại có những hành động được xem là "
thiếu thân thiện" với Ấn Độ. Từ biên giới Trung Quốc đang có tranh chấp trong
vùng Himalaya đến Casơmia và sự trợ giúp của Trung Quốc cho Pakixtan. Ngày
7/9/2010, Thủ tướng Ấn Độ, Manmohan Singh, đã phải lên tiếng là " Trung
Quốc muốn đặt chân vào Nam Á. Trung Quốc muốn kiềm chế Ấn Độ ở vị trí một
quốc gia phát triển giới hạn. Ấn Độ phải chuẩn bị mọi tình huống" [ 115 ]
Trước đó một tháng, vào tháng 8/2010, một bài báo của tờ New York Times
tiết lộ Trung Quốc đưa 11000 quân vào Gilgit-Baltistan, một khu vực của
Pakixtan trong dãy Himalaya. Đây là một vương quốc nhỏ của Ấn Độ trước khi
cắt chia cho Pakixtan năm 1947. Ấn Độ xem sự kiện Trung Quốc đưa quân vào
đây như một hành động thách thức trong khi Pakixtan giải thích những quân
nhân Trung Quốc này là cán bộ hoạt động nhân đạo sau trận lũ lụt.
19
Trung Quốc lại là nước có vai trò to lớn ở Đông Nam Á vì một số lý do:
Đông Nam Á là địa bàn chiến lược, là nơi Trung Quốc có thể phát huy và mở
rộng ảnh hưởng. Về kinh tế, Đông Nam Á là thị trường gần gũi và tiềm năng đối
với Trung Quốc. Các nước ASEAN đã có nhiều kinh nghiệm trong việc hợp tác
với Trung Quốc. Các nước này theo đuổi chính sách kiềm chế cộng hợp tác trong
việc xử lí các mối quan hệ với Trung Quốc. Dù Thủ tướng Manmohan Singh nói
rằng có đủ không gian để Ấn Độ và Trung Quốc phát triển song không thể xua
tan mối lo ngại về Trung Quốc. Lực lượng Hoa kiều ở Đông Nam Á mạnh, đóng
vai trò quan trọng trong đời sống chính trị, kinh tế của nhiều quốc gia trong khu
vực. Nhu cầu về an ninh năng lượng đang tăng nhanh và khu vực này trở thành
quan trọng đối với Trung Quốc, không chỉ vì phần lớn lượng dầu thô nhập khẩu
của Trung Quốc phải chuyên chở qua khu vực Biển Đông, mà còn vì triển vọng
khai thác dầu tại vùng biển tranh chấp dầu ở khu vực này. Trung Quốc đã trở
thành bạn hàng lớn thứ 4 của ASEAN, với kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2004
đạt xấp xỉ 106 tỷ USD. Về đầu tư, Trung Quốc đang trên đường trở thành nhà
đầu tư lớn của ASEAN; nhiều hợp đồng lớn đầu tư lên tới hàng tỷ USD được ký
kết với Philíppin, Inđônêxia. Từ năm 2004, Trung Quốc trở thành nhà đầu tư và
cung cấp viện trợ phát triển số 1 ở Cămpuchia và có thể trở thành nhà đầu tư số 1
tại Myanmar và Lào trong một, hai năm tới. Đồng thời, Trung Quốc là nước hết
sức nhiệt tình tham gia phát triển Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng. Tại cuộc
họp Hội nghị thượng đỉnh ASEAN tại Cămpuchia trong tháng 11 năm 2002,
Trung Quốc và các nhà lãnh đạo ASEAN đã ký một thỏa thuận thiết lập một Khu
vực Thương mại (CAFTA) Trung Quốc - ASEAN miễn phí vào năm 2010.
CAFTA không chỉ tượng trưng cho vị thế kinh tế của Trung Quốc ở Đông Á mà
còn thúc đẩy hội nhập kinh tế gần hơn với các quốc gia Đông Nam Á. CAFTA
đã thúc đẩy mối quan hệ hàng hoá, sản phẩm và dịch vụ giữa hai bên và cung cấp
các biện pháp bảo vệ cho các nước thành viên ASEAN kém phát triển.
Hành động của Trung Quốc và sự thành lập CAFTA tạo ra một "phản ứng
dây chuyền": Nhật Bản phản ứng với CAFTA bằng cách ký hiệp ước Hợp tác
kinh tế toàn diện (CEP) với ASEAN vào tháng 10 năm 2003. Mỹ phản ứng tiếp
theo bằng cách đàm phán và thiết lập FTA với một số nước ASEAN. Trong năm
2005, trong chuyến thăm Đông Nam Á, cựu Phó Bộ trưởng Mỹ Robert Zoelick
20
cũng đề nghị hỗ trợ kinh tế và sáng kiến chiến lược đối với các quốc gia Đông
Nam Á, nhắc nhở họ rằng Mỹ có công suất lớn hơn so với Trung Quốc trong việc
đóng góp vào sự phát triển kinh tế và an ninh khu vực.
Trung Quốc trở nên quan tâm hơn đến hợp tác quốc tế ở khu vực Biển
Đông. Điều này được thể hiện bằng việc Trung Quốc tham gia hợp tác với Việt
Nam và Philíppin cùng thăm dò địa chấn và dầu khí ở Biển Đông. Vì vậy mà
cùng với sức mạnh đang lên trên toàn thế giới, ảnh hưởng của Trung Quốc tại
khu vực này đang ngày càng tăng nhanh. Trong khi đó, Nga và Mỹ lại giảm sự
có mặt ở Đông Nam Á. Điều đó đang gây mối lo ngại đối với các nước Đông
Nam Á. Bộ trưởng Bộ Công nghiệp và Thương mại, George Yeo của Singapore,
trong một cuộc họp ở Cộng hòa Bangalore vào tháng 2 năm 2004 cho biết
"Chúng tôi ở Đông Nam Á đã không muốn để trở thành một vật phụ thuộc vào
nền kinh tế của Trung Quốc." [130; tr365]. Từ đó cho thấy quan điểm của Bộ
Ngoại giao Ấn Độ là quan hệ với khu vực Đông Nam Á là phù hợp với chiến
lược của chính sách hướng Đông của Ấn Độ, hạn chế ảnh hưởng ngày càng tăng
của Trung Quốc trong khu vực Đông Nam Á. Trong bối cảnh đó, sự có mặt của
Ấn Độ ở khu vực này sẽ có lợi cho các nước Đông Nam Á và được hoan nghênh.
Cả Ấn Độ và khu vực Đông Nam Á đều có những bước phát triển kinh tế
mạnh mẽ trong hai thập kỉ qua, được thế giới đánh giá cao. Hiện cả hai khu vực
đều có nhu cầu đẩy mạnh quan hệ với nền kinh tế lớn đang trỗi dậy là Trung
Quốc, nhưng cũng chia sẻ mối lo ngại về ảnh hưởng và khả năng thao túng của
Trung Quốc trong thời gian tới. Cả hai bên cũng đã bắt tay với nhau để làm tăng
vị thế của mình đối với quốc tế, đồng thời giảm phụ thuộc vào các nước lớn khác
cả về an ninh, quốc phòng và kinh tế.
1.2. Tình hình khu vực
1.2.1. Tình hình khu vực Đông Nam Á.
Ở khu vực Đông Nam Á, sau khi vấn đề Cămpuchia được giải quyết, môi
trường hòa bình ổn định đã được lặp lại trong khu vực. Tình trạng đối đầu giữa
hai nhóm nước ASEAN cũ và nhóm nước Đông Dương chấm dứt, mở ra xu thế
hợp tác ngày càng tăng. Đông Nam Á trở thành một trong những khu vực phát
triển năng động nhất thế giới. Nền kinh tế đang bùng nổ của khu vực Đông Nam
21
Á gây sự chú ý cho Ấn Độ trong việc tìm kiếm thị trường mới để thúc đẩy sự
tăng trưởng kinh tế. (Xem Phụ lục 1)
Với những con số của bảng phụ lục 1 đã chứng tỏ rằng:
- Dân số của Ấn Độ 1000000000 là gấp hơn hai lần của ASEAN. Nước
đông dân nhất trong ASEAN là Inđônêxia - chiếm khoảng một phần năm dân số
của Ấn Độ.
- Ngược lại, thu nhập bình quân đầu người của ASEAN trong năm 1999 là
1,154.2 tỷ USD bằng khoảng hai lần Ấn Độ và 1,6 lần của Ấn Độ về PPP.
Các nước Đông Nam Á đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong nhiều năm
liền. Năm 1996, mức tăng GDP của Thái Lan là 8,5%, Inđônêxia 8,1%, Malaysia
8%, Philippin 5,9%, Singapore 5,8%. GDP bình quân đầu người theo thứ tự các
nước trên là: 7535 USD; 3705 USD; 9470 USD; 2935 USD; 23.569 USD [36].
Tại châu Á - Thái Bình Dương đã xuất hiện nhiều con rồng nhỏ như Hàn Quốc,
Hồng Kông, Đài Loan, Singapore và một số nước khác như Thái Lan, Malaysia,
Inđônêxia... Điều này thúc đẩy và bắc cầu cho sự hợp tác xuyên đại dương của
Ấn Độ
1.2.2. Tình hình khu vực Nam Á
Bên cạnh những biến động trên thế giới tác động tới quan hệ Ấn Độ ASEAN, tình hình khu vực Nam Á cũng làm tăng thêm sự cần thiết hợp tác giữa
Ấn Độ và ASEAN. Mặc dù Chiến tranh lạnh đã kết thúc nhưng quan hệ của Ấn
Độ với Nam khu vực Nam Á vẫn gặp nhiều khó khăn, chủ yếu là do tình hình bất
ổn ở các quốc gia và hạn chế trong các cơ chế hợp tác của khu vực này. Tháng 12
năm 1985, Hiệp hội hợp tác khu vực Nam Á ( SAARC) được thành lập. Tuy
nhiên, ngay từ sau khi thành lập, cơ chế hợp tác này đã mang trong nó nhiều hạn
chế. Ấn Độ lo sợ các nước sử dụng diễn đàn này để chỉ trích và cô lập Ấn Độ
trong những tranh chấp song phương, trong khi Pakixtan lại sợ qua tổ chức này,
Ấn Độ sẽ nắm vai trò lãnh đạo toàn khu vực. Chính vì vậy, sự hợp tác khu vực ở
Nam Á của Ấn Độ còn nhiều trở ngại. Ấn Độ cũng không thể mở rộng chính
sách ngoại giao và ảnh hưởng trên khu vực Trung Đông và Trung Á. Các tranh
chấp lãnh thổ giữa Pakixtan và Ấn Độ qua Kashmir và khu vực Jammu đã tạo ra
khó khăn giữa hai quốc gia cản trở Ấn Độ trong việc thiết lập quan hệ ngoại giao
22
để có thể phục vụ tốt nhất lợi ích của Ấn Độ ở Trung Á. Hơn nữa, mối đe dọa
của khủng bố và địa chính trị bất ổn ở Trung Đông là nguyên nhân ngăn cản
dòng đầu tư của Ấn Độ trong khu vực. Kể từ sau cuộc chiến tranh biên giới
Trung - Ấn năm 1962, quan hệ của Trung Quốc với các quốc gia Nam Á, đặc
biệt là Pakixtan, đã phát triển nhanh chóng. Trung Quốc đã thực hiện đầu tư đáng
kể vào Việt Nam, Bănglađet, Sri Lanka và Nepal, do đó hàng hóa Trung Quốc
tràn ngập vào thị trường các quốc gia này. Từ 1998-2004, thương mại của Trung
Quốc với SAARC đã tăng từ 3,9 tỷ USD đến 19,4 tỷ USD. Thương mại song
phương của Trung Quốc với Ấn Độ tăng từ 1,9 tỷ USD lên 13,6 tỷ USD trong
cùng một thời gian. Tương tự như vậy, thương mại song phương giữa Trung
Quốc và Pakixtan đã tăng 44% trên cơ sở 5 năm, đạt 3 tỷ USD vào năm 2004.[
139]
Ngược lại, thương mại của Ấn Độ với các nước láng giềng Nam Á chỉ tăng
từ 2 tỷ USD năm 1998 lên 5,1 tỷ USD vào năm 2004. Các mối quan hệ kinh tế
giữa Ấn Độ và Pakixtan rơi vào bế tắc là kết quả của mâu thuẫn về chính trị.
Thương mại của Ấn Độ với Bănglađet dao động khoảng 1,6 tỷ USD một năm.
Việc tăng cường sự hiện diện của Trung Quốc trong khu vực Nam Á đã góp phần
làm cho mối quan hệ của Ấn Độ với các quốc gia trong khu vực này gặp nhiều
khó khăn. Trung Quốc tăng thêm lợi thế của mình bằng cách xây dựng một cảng
hải quân tại bờ biển Arabian tại Gwadar, Pakixtan. Tương tự như vậy, Bănglađet
cũng đã đề nghị hải quân Trung Quốc tiến vào cảng Chittagong. Trong tháng 4
năm 2005, Trung Quốc cũng đã ký một thỏa thuận toàn diện với Sri Lanka, cung
cấp cho Trung Quốc quyền tiến vào cảng Colombo, và từ đó có thể tiến vào Ấn
Độ Dương. Quan hệ kinh tế và chính trị của Trung Quốc với Nam Á ngày càng
gia tăng đã mở đường cho nó tiến vào SAARC như một quan sát viên tại hội nghị
thượng đỉnh SAARC tổ chức tại Dhaka từ ngày 12-13 tháng 11 năm 2005. Ấn
Độ đã cố gắng để hạn chế ảnh hưởng của Trung Quốc đối với SAARC nhưng vô
ích. Pakixtan nhận thấy sự gia tăng ảnh hưởng đối với SAARC của Trung Quốc
là một cơ hội để " thiết lập đối trọng của Ấn Độ ở khu vực và làm chủ SAARC ".
Với những bế tắc trong quan hệ với SAARC đã buộc Ấn Độ xem xét lại mối
quan hệ này và dần dần có sự chuyển hướng thích hợp. Trong bối cảnh đó, khu
vực Đông Nam Á đã nổi lên như là một khu vực đầy tiềm năng phát triển
23
1.3. Nhân tố từ Ấn Độ - ASEAN
1.3.1. Tình hình Ấn Độ
Cộng hòa Ấn Độ ngày nay là một quốc gia lớn ở Nam Á có diện tích là
3.287,590 km2, đứng thứ 7 trên thế giới với dân số đông hàng thứ 2 thế giới hơn
1095,351 triệu người ( 2006), có lịch sử lâu đời và là một trong những trung tâm
văn minh lớn của thế giới thời kì Cổ - Trung đại. Ngày nay, Ấn Độ được xếp vào
một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới với nhiều ngành khoa
học - công nghệ ngang hàng với các nước công nghiệp phát triển, như: nghiên
cứu vũ trụ, năng lượng hạt nhân, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin...
Nhiều dự báo cho rằng, trong những thập niên đầu thế kỉ XXI, nền kinh tế Ấn Độ
sẽ có khả năng trở thành một trong bốn nền kinh tế lớn nhất thế giới. Tuy nhiên,
để đạt được những thành quả như vậy, nền kinh tế Ấn Độ đã phải trải qua đầy
những thăng trầm, khó khăn và thử thách.
Dành được độc lập từ năm 1947, Ấn Độ đứng trước tình hình thế giới đã
phân chia thành hai hệ thống chính trị, kinh tế đối lập nhau. Hệ thống xã hội chủ
nghĩa và hệ thống tư bản chủ nghĩa. Là một nước lớn, Ấn Độ không muốn bị rơi
vào quỹ đạo của hệ thống này hay hệ thống kia. Vì vậy, Ấn Độ đã đi theo đường
lối độc lập, tự chủ và trung lập. Về kinh tế, Ấn Độ chủ trương xây dựng nền kinh
tế hỗn hợp hai thành phần: kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân, trong đó kinh tế
nhà nước nắm vai trò chủ đạo. Thành phần kinh tế nhà nước nắm những ngành
công nghiệp then chốt có tầm quan trọng về kinh tế và an ninh quốc phòng. Kinh
tế tư nhân chỉ tham gia vào một số lĩnh vực nhất định và chịu sự kiểm soát chặt
chẽ của nhà nước thông qua các đạo luật nhằm ngăn chặn xu hướng tập trung hóa
dẫn tới tư bản độc quyền. Tất cả nằm trong một cơ chế quản lí tập trung quan
liêu, kế hoạch hóa ( Mô hình phát triển Mahalanobis)
Mô hình trên đã giúp Ấn Độ đứng vững trong những năm 50 và 60 đầy khó
khăn và thử thách, và xây dựng được một nền kinh tế đồng bộ với một mạng lưới
công nghiệp khá hoàn chỉnh, có khả năng đáp ứng được hầu hết các nhu cầu
trong nước, từ hàng tiêu dùng đến thiết bị máy móc. Tuy vậy, mô hình phát triển
Mahalanobis cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao
cấp đã kìm hãm sức sản xuất, không phát huy được tính năng động và sáng tạo
trong sản xuất kinh doanh. Kinh tế nhà nước đôi khi phải phục vụ các mục tiêu
24
chính trị, xã hội nên hạch toán, kinh doanh kém hiệu quả. Các nhà doanh nghiệp,
đặc biệt là tư nhân phải chịu sự điều chỉnh của những bộ luật rất nghiêm ngặt.
Những hạn chế đó làm cho nền kinh tế Ấn Độ phát triển chậm, kém năng động
và tụt hậu so với nhiều nước khác vốn trước đây thua kém Ấn Độ về tiềm năng
và trình độ khoa học kỹ thuật. Năm 1955, Ấn Độ đứng thứ 10 thế giới về tổng
sản phẩm công nghiệp, đến năm 1973 tụt xuống thứ 20. Xuất khẩu của Ấn Độ
chiếm 1% xuất khẩu của thế giới trong những năm 50 thì đến những năm 70
giảm xuống 0,5%. Tốc độ tăng GDP bình quân hàng năm của Ấn Độ từ năm
1960 đến 1990 là 4%, trong khi Inđônêxia 6%, Thái Lan 7%, Đài Loan 8%, Hàn
Quốc 9%. Cùng thời kì này tốc độ phát triển công nghiệp theo thứ tự các nước
nêu trên là 6%, 9%, 9%, 12% và 10%. [ 36 ]. Tình hình đó buộc Ấn Độ phải có
những điều chỉnh nhất định các chính sách kinh tế của họ. Tháng 2 năm 1973
công bố chính sách nới lỏng việc cấp giấy phép công nghiệp, cho các nhà công
nghiệp cỡ lớn và các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư vào nhóm A ( lâu
nay chỉ dành cho doanh nghiệp nhà nước). Tháng 10 năm 1975, công bố chính
sách nới lỏng thêm một bước việc cấp giấy phép, bỏ việc cấp giấy phép 21 ngành
và cho phép mở rộng công suất nhà máy không hạn chế đối với 30 ngành khác.
Năm 1985, Thủ tướng Rajiv Gandhi đã tiến hành những cải cách kinh tế mạnh
mẽ hơn. Ngoài việc nới lỏng việc cấp giấy phép, chính phủ còn điều chỉnh Luật
hạn chế độc quyền và thương mại ( MRTP), nâng mức giới hạn tài khoản của
công ty từ 200 triệu rupi lên 1000 triệu rupi, điều chỉnh luật kiểm soát ngoại hối (
FERA), điều chỉnh chính sách ngoại thương. Tháng 6/1988, công bố chính sách
tự do hóa cấp phép cho các công trình đầu tư vào các vùng hẻo lánh, lạc hậu,
đồng thời có chính sách ưu đãi thuế cho các công trình này...
Những điều chỉnh chính sách thời kì này tuy còn nhỏ giọt nhưng đã có tác
dụng tích cực đối với sự phát triển của nền kinh tế. Nhờ những điều chỉnh đó,
kinh tế Ấn Độ từ năm 1981 đến 1990 tăng trưởng khá: GDP tăng 5,4% so với 3,5
% những thập kỉ trước, công nghiệp tăng bình quân 7% so với 5%, vốn đầu tư
tăng 4 lần. [ 36 ]
Ngay sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, Ấn Độ phải đối mặt với tình hình
trong nước không ổn định với mối đe dọa khủng bố ở Punjab, Jammu và
Kashmir. Từ 1988 đến 1992 có 14.542 các vụ khủng bố với 9863 kẻ khủng bố bị
25