Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Phép im lặng từ góc độ dụng học trong tác phẩm nam cao và nguyễn minh châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (580.11 KB, 72 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
------------------

PHẠM THỊ ANH

PHÉP IM LẶNG TỪ GÓC ĐỘ DỤNG
HỌC TRONG TÁC PHẨM NAM CAO
VÀ NGUYỄN MINH CHÂU
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: NGÔN NGỮ

HÀ NỘI – 2013


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
------------------

PHẠM THỊ ANH

PHÉP IM LẶNG TỪ GÓC ĐỘ DỤNG
HỌC TRONG TÁC PHẨM NAM CAO
VÀ NGUYỄN MINH CHÂU

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: NGÔN NGỮ

Người hướng dẫn khoa học
ThS, GV Lê Thị Thùy Vinh


HÀ NỘI – 2013


LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, em xin chân thành cảm ơn Th.S Lê Thị Thùy Vinh, khoa
Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã trực tiếp hướng dẫn và chỉ
bảo tận tình cho em hoàn thành khóa luận này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn,
đặc biệt là các cô trong tổ Ngôn ngữ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2,
những người đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu.
Cuối cùng, em xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình và bạn bè đã giúp
đỡ, động viên em rất nhiều trong suốt quá trình học tập để em có thể thực hiện
tốt khóa luận này.
Em chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy cô và các bạn!
Hà Nội, ngày 03 tháng 05 năm 2013

Sinh viên


Phạm Thị Anh


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan những số liệu và kết quả đạt được trong khóa luận
này là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác, là sản
phẩm nghiên cứu, tìm hiểu của cá nhân tôi. Tôi cũng xin cam đoan mọi sự
giúp đỡ thực hiện khóa luận này đã được cảm ơn và toàn bộ nội dung của

khóa luận đã được trình bày hoặc là của cá nhân tôi, hoặc là được tổng hợp từ
nhiều nguồn tài liệu. Tất cả các tài liệu tham khảo đều có xuất xứ rõ ràng và
được trích dẫn hợp pháp.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình!
Hà Nội, ngày 03 tháng 05 năm 2013

Người cam đoan

Phạm Thị Anh


MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu. ............................................................................. 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu. ............................................................................ 3
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. ............................................................. 4
6. Phương pháp nghiên cứu. ....................................................................... 4
7. Đóng góp của khóa luận. ........................................................................ 5
8. Cấu trúc của khóa luận. .......................................................................... 5
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................ 7
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN.......................................................................... 7
1.1. Im lặng và im lặng từ góc độ dụng học ................................................ 7
1.2. Nhân tố giao tiếp ............................................................................... 10
1.2.1. Ngữ cảnh .................................................................................... 11
1.2.2. Ngôn ngữ. ................................................................................... 15

1.2.3. Diễn ngôn ................................................................................... 18
1.3. Lí thuyết hội thoại ............................................................................. 20
1.3.1. Vận động hội thoại...................................................................... 20
1.3.2. Các quy tắc hội thoại .................................................................. 23
1.3.3. Cấu trúc của hội thoại ................................................................. 29
1.4. Ý nghĩa tường minh và ý nghĩa hàm ẩn ............................................. 34


Chương 2: PHÉP IM LẶNG TỪ GÓC ĐỘ NGỮ DỤNG TRONG TÁC
PHẨM NAM CAO VÀ NGUYỄN MINH CHÂU ....................................... 37
2.1. Giá trị ngữ dụng của phép im lặng trong tác phẩm Nam Cao và Nguyễn
Minh Châu ................................................................................................... 37
2.1.1. Im lặng thể hiện sự đồng tình ...................................................... 37
2.1.2. Im lặng thể hiện sự không đồng tình ........................................... 39
2.1.4. Im lặng thể hiện sự sợ hãi, cam chịu ........................................... 43
2.1.6. Im lặng thể hiện sự bối rối .......................................................... 46
2.1.7. Im lặng thể hiện sự ngạc nhiên.................................................... 48
2.1.8. Im lặng thể hiện sự đau đớn, buồn bã.......................................... 49
2.1.9. Im lặng thể hiện sự vui vẻ ........................................................... 51
2.1.10. Im lặng thể hiện sự khinh thường .............................................. 53
2.1.11. Im lặng thể hiện sự không tập trung vào cuộc thoại .................. 54
2.2. Sự khác biệt của phép im lặng từ góc độ dụng học trong tác phẩm
Nam Cao và Nguyễn Minh Châu .......................................................... 55
PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................... 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong giao tiếp, nhiều khi chúng ta bắt gặp những tình huống “bỏ trống

phát ngôn”, tức là người nói tự nhiên im lặng. Đối với một cuộc hội thoại
bình thường có sự cân đối nhịp nhàng giữa lời người nói và lời người đáp thì
hiện tượng này là một trong những hiện tượng góp phần “phá bỏ” quy tắc hội
thoại. Theo quan điểm giao tiếp, sự im lặng của người phát ngôn ở chỗ này
cũng trở thành một hành vi, một ý đồ có chủ ý, nói khác đi nó ẩn chứa một
thái độ của nhân vật giao tiếp. Với ý nghĩa đó, sự im lặng cũng có một giá trị
thích đáng.
Nam Cao là một nhà văn xuất sắc của trào lưu văn học hiện thực phê
phán giai đoạn 1930 - 1945. Hơn nửa thế kỉ trôi qua, tác phẩm của ông vẫn để
lại cho người đọc những bài học nhân sinh sâu sắc, mỗi lứa tuổi đọc tác phẩm
của Nam Cao lại có được một bài học cho lứa tuổi mình. Nhà nghiên cứu Hà
Minh Đức từng có nhận xét “Càng ngày người đọc càng phải nghĩ tiếp về
Nam Cao”; “Nam Cao không hề bị cũ đi mà luôn mới mẻ. Tính hiện đại là
phẩm chất của tác phẩm Nam Cao” (Hà Minh Đức). Sau cách mạng tháng
Tám, Nguyễn Minh Châu đến với chúng ta với tư cách là một trong những
“người mở đường tinh anh và tài năng nhất” (Nguyên Ngọc) của công cuộc
đổi mới văn học. Ông đổi mới từ ý thức nghệ thuật, cách nhìn và sự khám phá
về con người, cho đến sự đổi mới trong nghệ thuật tự sự. Nguyễn Minh Châu
được Nguyễn Khải đánh giá là “người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền
văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ
sau này”. Có thể nói, Nam Cao và Nguyễn Minh Châu là những nhà văn có vị
trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc.


Xem xét giá trị của phép im lặng trong tác phẩm nghệ thuật văn chương
là một trong những hướng đi có ý nghĩa thiết thực. Bởi trên cơ sở những tác
động của nhân tố giao tiếp trong cuộc thoại, chúng ta thấy được “bề sâu” và
“góc khuất” của những khoảng lặng này, từ đó những nét riêng của nhà văn
hiện hình. Ở đây, từ việc khảo sát những cuộc thoại trong tác phẩm của hai
nhà văn điển hình cho hai thời kì văn học là trước cách mạng tháng Tám Nam Cao và sau cách mạng tháng Tám - Nguyễn Minh Châu, chúng tôi mong

muốn chỉ ra những giá trị của phép im lặng với tư cách là một yếu tố của ngữ
dụng. Những độc đáo và khác biệt trong phong cách nghệ thuật của hai tác giả
ở chỗ này cũng có thể thấy được phần nào.
Từ những lí do có tính thiết thực trên, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên
cứu “Phép im lặng từ góc độ dụng học trong tác phẩm Nam Cao và Nguyễn
Minh Châu”.
2. Lịch sử vấn đề
Im lặng là vấn đề đã được các nhà nghiên cứu xem xét trên nhiều lĩnh
vực khác nhau. Đây là hiện tượng thuộc về tâm lí - ngôn ngữ học. Đặc biệt im
lặng cũng được xem xét như một dấu hiệu của ngữ dụng, tức là im lặng “có tư
cách là một hành vi khi đối chiếu với những tình huống” (R.Mihalla). Trong
một chừng mực nào đó, chúng tôi nghĩ việc xem xét trên dạng “động” này mới
có thể thấy hết được những nội dung ngữ nghĩa của tình huống im lặng và sự
tác động của các nhân tố giao tiếp trong những tình huống im lặng này.
Từ lâu, việc nghiên cứu về sự im lặng trong hội thoại chưa thực sự có
một công trình quy mô. Nguyễn Đức Dân cho rằng “Sự im lặng là một cách
trả lời. Đó là một hành động ngôn ngữ với những chiến thuật giao tiếp xác
định”. Nguyễn Dương trong luận văn tốt nghiệp đại học, khoa Ngữ văn Đại
học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh lại khẳng định “Im lặng - một hành vi


ngôn ngữ”. Lê Anh Xuân trong tạp chí Ngôn ngữ số 5, 2006 có đăng bài:
“Một cách trả lời gián tiếp cho câu hỏi chính danh - trả lời bằng sự im lặng” .
Còn Phạm Văn Tình cho rằng “Im lặng - một nguyên lí hồi chỉ tỉnh lược ngữ
dụng”…Như thế có thể nói rằng phần lớn các nhà ngôn ngữ học đều đề cao ý
nghĩa dụng học của phép im lặng trong giao tiếp.
Tiếp tục hướng nghiên cứu dưới ánh sáng dụng học, trong đề tài này,
chúng tôi xem xét giá trị của phép im lặng trong tác phẩm của hai nhà văn là
Nam Cao và Nguyễn Minh Châu. Thiết nghĩ, hướng nghiên cứu gắn liền với
tác phẩm nghệ thuật văn chương sẽ cho chúng ta thấy rõ hơn những giá trị cụ

thể của phép im lặng, từ đó làm nổi bật “thế đứng” trên văn đàn của những
bậc thầy về nhân sinh này.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài góp phần khẳng định và làm rõ hơn những vấn đề lí luận về phép
im lặng trong hội thoại từ góc độ dụng học. Đề tài cũng hướng tới làm rõ giá
trị của phép im lặng được thể hiện trong tác phẩm của Nam Cao và Nguyễn
Minh Châu, từ đó góp phần khẳng định tài năng và phong cách nghệ thuật của
hai nhà văn này.
Đề tài cũng là hành trang tri thức phục vụ cho nhiệm vụ học tập hiện
nay cũng như công việc giảng dạy sau này của bản thân người viết.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nắm vững những vấn đề lí luận về phép im lặng nói chung cũng như
im lặng xét từ góc độ dụng học. Hệ thống hóa kiến thức này để tạo thành cơ
sở lí luận, làm chỗ dựa vững chắc cho đề tài.
- Khảo sát, phân loại và miêu tả ngữ liệu đã thống kê về phép im lặng
trong những cuộc thoại ở tác phẩm Nam Cao và Nguyễn Minh Châu.


5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
5.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phép im lặng từ góc độ dụng học,
giá trị, hiệu quả nghệ thuật của nó trong tác phẩm của Nam Cao và Nguyễn
Minh Châu.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ lựa chọn và xem xét trên ngữ liệu thống kê trong các tác
phẩm của Nam Cao (truyện ngắn, tiểu thuyết, kí) và của Nguyễn Minh Châu
(truyện ngắn).
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu sau:

- Phương pháp thống kê, phân loại để tập hợp các trường hợp im lặng
của nhân vật trong các cuộc thoại và đưa chúng vào những nhóm có hiệu quả
nghệ thuật giống nhau.
- Phương pháp phân tích để phân tích cuộc thoại có sự im lặng của
nhân vật, từ đó chỉ ra giá trị nghệ thuật của sự im lặng.
- Phương pháp so sánh để thấy sự khác nhau về giá trị của im lặng trong
tác phẩm của hai nhà văn, từ đó khẳng định phong cách nghệ thuật của họ.
- Phương pháp hệ thống, khái quát hóa để khái quát các vấn đề lí luận
của im lặng trong thoại từ góc độ dụng học.
Quá trình nghiên cứu được tiến hành như sau:
Bước 1: Nghiên cứu lí luận về im lặng từ góc độ dụng học.


Bước 2: Tiến hành thống kê, phân loại, miêu tả ngữ liệu về phép im
lặng trong những cuộc thoại ở tác phẩm của Nam Cao và Nguyễn Minh Châu.
Bước 3: Viết khóa luận.
7. Đóng góp của khóa luận
Về mặt lí luận, khóa luận làm rõ hơn những vấn đề lí luận về phép im
lặng từ góc độ dụng học.
Về mặt thực tiễn, khóa luận cụ thể hóa các tác dụng của phép im lặng.
Từ đó đóng góp một phần nhỏ về sự nghiên cứu trên phương diện nghệ thuật
trong các sáng tác của Nam Cao và Nguyễn Minh Châu.
8. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
được cấu trúc thành hai chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận.
Chương 2: Phép im lặng từ góc độ ngữ dụng trong tác phẩm Nam Cao
và Nguyễn Minh Châu.




PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Im lặng và im lặng từ góc độ dụng học
Trong Phong cách học, phép lặng (còn gọi là ẩn ngữ hay tỉnh lược) là
phương thức biểu đạt bằng cách bỏ trống để người nghe (người đọc) suy ra
mà tự hiểu, không cần diễn đạt bằng lời. Bởi có những lúc người nói “không
tiện nói”, không phải vì muốn giấu những suy nghĩ của mình mà muốn để cho
người nghe tự đoán lấy, hiểu lấy. Đó là một dụng ý tu từ trong diễn đạt.
Nguyễn Du đã tinh tế làm sao khi diễn tả tâm trạng của nàng Kiều lúc gặp
Kim Trọng “Tình trong như đã… mặt ngoài còn e…” (Truyện Kiều). Chỗ
ngừng này quả thực ai cũng có thể nhận cảm, vì thế nếu “tường minh” bằng
ngôn ngữ thì vụng về và đơn giản biết bao. Nhà thơ Tố Hữu cũng đã lặng ngắt
khi nghe tin Lượm mất:
Chợt nghe tin nhà…
Ra thế…
Lượm ơi!
(Lượm)
Quãng lặng đã ẩn chứa sự đột ngột và xúc cảm đau đớn của tác giả.
Nếu như không có quãng lặng này thì hiệu quả nghệ thuật của những câu thơ
này sẽ “giảm thiểu” biết mấy. Tất nhiên, xem xét những trường hợp im lặng
không vì thế mà chúng ta nhầm lẫn với kiểu im lặng “ngẫu nhiên”, tức là im
lặng là do lúng túng, cảm động mà không nói lên lời, kiểu như: “Anh… anh
chỉ là một thằng khốn nạn” (Nam Cao).
Im lặng từ góc độ dụng học lại có rất nhiều quan điểm khác nhau. Ở đề
tài này, chúng tôi lấy quan điểm của Đỗ Hữu Châu làm cơ sở lí luận của đề tài.


Một cuộc thoại bao giờ cũng diễn ra dưới dạng thức có sự cân bằng về
lượt lời. Điều đó có nghĩa là “tôi nói” rồi “anh nói” và “tôi nói” rồi “anh

nói”… Vị trí chuyển giao lượt lời của các nhân vật giao tiếp, tức chỗ mà
người nói ngừng, nhường lời cho người sau mình nói được gọi là vị trí chuyển
tiếp quan yếu. Có những chỗ ngắt hơi trong nội bộ lượt lời gọi là chỗ nghỉ,
những chỗ ngắt hơi giữa hai lượt lời gọi là chỗ ngừng. Như thế chỗ ngừng là
tín hiệu của các vị trí chuyển tiếp quan yếu. Đề tài của chúng tôi hướng sự
quan tâm đến vị trí chuyển tiếp quan yếu (chỗ ngừng). Chỗ ngừng được thể
hiện bằng trường độ im lặng. Trường độ của chỗ ngừng trong một cuộc thoại
bình thường cực ngắn. Độ dài của chỗ ngừng trong một cuộc thoại sẽ tùy
thuộc vào, thứ nhất kiểu hội thoại, thứ hai kiểu lượt lời và thứ ba tùy thuộc
vào từng nền văn hóa. C.K. Orecchioni đã nhận xét rằng chỗ ngừng của người
Mĩ thường là 5/10 giây, chỗ ngừng của người Pháp là 3/10 giây. Cuộc thoại
bình thường thì chỗ ngừng có thời lượng bình thường. Cuộc thoại không bình
thường là những cuộc thoại bị trục trặc về chỗ nghỉ, trước hết là về chỗ
ngừng. Những trục trặc về ngắt hơi thường ở ba dạng: dẫm đạp lên lượt lời
của nhau, kéo dài quá mức trường độ chỗ ngắt và cắt lời. Sự dẫm đạp lượt lời
có thể ở dạng gối lời, tức là phần mở đầu của lượt lời người nói sau chập với
phần cuối của lượt lời người đang nói, và ở dạng trùng lời khi đáng kể lượt lời
của hai người chồng lên nhau. Sự kéo dài quá mức có thể xuất hiện ở chỗ
nghỉ mà cũng có thể xuất hiện ở chỗ ngừng. Sự cắt lời có thể do người đang
nói tự ngắt giữa chừng, cũng có thể người nghe cắt lời người đang nói “cướp
lời” mà nói. Ở đây, chúng tôi chỉ quan tâm đến sự kéo dài quá mức xuất hiện
ở chỗ ngừng, tức là đến lượt lời của mình nhưng người nghe không nói mà
hoàn toàn im lặng. Im lặng trong hội thoại không được xem xét trong trường
hợp người nói bị ngắt lời, cắt lời bởi người khác hoặc người nói đang nói tự
nhiên im lặng không nói nữa. Sự im lặng ở đây cũng không được tính đến


trong cuộc thoại của những người có khiếm khuyết về vấn đề nói năng (người
bị câm).
Trên những định hướng như thế, trong tác phẩm văn học, sự im lặng

của nhân vật sẽ được nhận diện qua các dấu hiệu sau:
- Nếu sự im lặng diễn ra giữa cuộc thoại thì sự im lặng được nhận diện
bằng dấu ba chấm “…”
Thí dụ:
- Anh có điều gì làm cho em không bằng lòng nào, hả em, con chim của
anh?
- …!
- Hay là anh đã không “ngoan”? Em nói đi, anh sẽ “ngoan” ngay mà!
- …!
(“Sắm vai”, Nguyễn Minh Châu)
- Nếu sự im lặng xảy ra ở cuối cuộc thoại tức là kết thúc cuộc thoại thì
nó được thể hiện bằng từ ngữ chỉ dẫn của tác giả.
Thí dụ:
Rồi chị bảo thằng cu Bé:
- Bé lại đây, bu cho ăn.
Thằng cu ngồi xổm bên mẹ, hấc mặt lên, há hốc mồm ra như con chim
non đợi mẹ mớm mồi. Một miếng vào mồm, nó đã vội nuốt thỏm đi, khen
“ngọt quá”.Nhưng chưa kịp ăn miếng nữa, nó đã ọe một cái, mũi đỏ lên,
nước mắt ứa ra giàn giụa.


- Sao thế?
Nó chỉ hụ hị nhìn mẹ mà không nói, cũng không chịu há mồm ăn nữa.
(“Nghèo”, Nam Cao)
Hoặc người đọc sẽ nhận thấy cuộc thoại đang dở dang mà đoạn văn bản
sau đó chuyển hẳn sang nội dung khác.
Thí dụ:
Sáng hôm nay đang ngồi viết với nhau, chẳng biết cái ý nghĩ lan man
nào đã xui anh Sen đột ngột bảo tôi:
- Này! Anh Tri ạ, cái mặt anh trông thế nào ấy. Quả thực tôi không chơi

được!
Tôi ngẩng đầu lên. Anh đang cười mủm mỉm nhìn tôi. Tôi cười gượng.
Và tự nhiên tôi buồn. Tôi nhớ đến cái lần đầu tiên tôi được gặp anh Đa…
(“Cái mặt không chơi được”, Nam Cao)
Trên đây là những căn cứ để chúng tôi xác định những trường hợp có
sự im lặng trong hội thoại.
1.2. Nhân tố giao tiếp
Nhân tố giao tiếp là các nhân tố có mặt trong một cuộc giao tiếp và chi
phối cuộc giao tiếp đó, chi phối diễn ngôn về hình thức cũng như nội dung.
Nhân tố giao tiếp có vai trò quan trọng trong việc thuyết giải nghĩa của diễn
ngôn. Vì thế xem xét vấn đề im lặng trong hội thoại cũng cần lưu tâm đến
những nhân tố này.


Nhân tố giao tiếp bao gồm: ngữ cảnh, ngôn ngữ và diễn ngôn. Trong
đó, ngữ cảnh là môi trường bao quanh diễn ngôn, ngôn ngữ là phương tiện để
“tạo dựng” diễn ngôn, còn diễn ngôn là sản phẩm được tạo ra từ ngôn ngữ
trong một hoàn cảnh nhất định.
1.2.1. Ngữ cảnh
Ngữ cảnh là những nhân tố có mặt trong cuộc giao tiếp nhưng nằm
ngoài diễn ngôn. Ngữ cảnh là một tổng thể những hợp phần sau đây:
1.2.1.1. Nhân vật giao tiếp
Nhân vật giao tiếp là những người tham gia vào một cuộc giao tiếp
bằng ngôn ngữ, dùng ngôn ngữ để tạo ra lời nói, các diễn ngôn qua đó mà tác
động vào nhau. Đó là những người tương tác bằng ngôn ngữ. Giữa các nhân
vật giao tiếp có quan hệ vai giao tiếp và quan hệ liên cá nhân.
- Quan hệ vai giao tiếp.
Một cuộc giao tiếp bao giờ cũng có sự phân vai: vai nói (viết) và vai
nghe (đọc). Vai nói là vai phát ra diễn ngôn (Sp1). Vai nghe là vai tiếp nhận
diễn ngôn (Sp2). Hai vai này luôn có sự luân chuyển trong giao tiếp. Cụ thể là

Sp1 sau khi nói xong chuyển thành Sp2 và ngược lại.
Thí dụ:
Lan (Sp1): Cậu có bút không, cho tớ mượn?
Trong diễn ngôn này, vai nói là “tớ” (Sp1), vai nghe là “cậu” (Sp2).
Tất nhiên, trong thực tế, không phải lúc nào cũng chỉ có hai vai đơn giản như
vậy. Có những cuộc giao tiếp xuất hiện đến bốn vai: chủ ngôn, thuyết ngôn,
tiếp ngôn và đích ngôn.


Thí dụ:
Lan (Sp1): Mai về nói với Hùng rằng thầy bảo ngày mai là hạn cuối
nộp tiền học phí.
Diễn ngôn này có quan hệ với bốn người: Lan, Mai, Hùng, thầy giáo.
Trong những người đó, Lan là người nói trực tiếp, Mai là người nghe trực
tiếp, người nói thực sự là thầy giáo, người tiếp nhận lời là Hùng. Trong những
trường hợp này, lời “ngày mai là hạn cuối Hùng phải nộp tiền học phí” không
phải do Lan tạo ra, và Mai cũng không phải là người chịu trách nhiệm thực
hiện nó, Mai chỉ có trách nhiệm nói lại với Hùng nội dung đó mà thôi. Ta nói
trong trường hợp này thầy giáo là chủ ngôn, Hùng là đích ngôn, Lan là thuyết
ngôn, Mai là tiếp ngôn.
Trong một cuộc giao tiếp Sp1 và Sp2 đều phải có đích giao tiếp, niềm
tin trong giao tiếp. Đặc biệt, Sp1, Sp2 đều phải xây dựng hình ảnh tinh thần
(đặc điểm, trạng thái, năng lực…) về nhau, từ đó định ra chiến lược giao tiếp
được thể hiện qua kế hoạch, hành động, thao tác cụ thể để đạt được đích mà
người nói đề ra. Khi giao tiếp, người nói luôn ở thế chủ động, bởi nội dung và
hình thức của cuộc giao tiếp là do người nói lựa chọn. Song, không vì vậy mà
người nghe hoàn toàn ở vào thế bị động mà cũng có sự chủ động nhất định.
Bởi, giao tiếp luôn có sự đổi vai và khi nói người nghe cũng luôn chi phối
người nói cũng như người nghe luôn có sự hồi đáp lời của người nói.
- Quan hệ liên cá nhân.

Quan hệ liên cá nhân là quan hệ xét trong tương quan xã hội, hiểu biết,
tình cảm giữa các nhân vật giao tiếp với nhau. Quan hệ này được thể hiện trên
hai trục là trục quyền uy và trục thân cận. Tương ứng với hai trục là hai quan
hệ: quan hệ quyền uy (quan hệ do tuổi tác, địa vị, chức vụ… xây dựng nên) và


quan hệ thân cận (quan hệ xét trong mối quan hệ khoảng cách thân tình hoặc
xa lạ). Quan hệ liên cá nhân có vai trò chi phối tiến trình giao tiếp và nội
dung, hình thức của diễn ngôn.
1.2.1.2. Hiện thực ngoài diễn ngôn.
Trừ nhân vật giao tiếp, tất cả những yếu tố vật chất, xã hội, văn
hóa…có tính cảm tính và những nội dung tinh thần tương ứng không được
nói đến trong diễn ngôn của một cuộc giao tiếp được gọi là hiện thực ngoài
diễn ngôn. Tuy gồm cả những yếu tố vật chất và tinh thần nhưng hiện thực
ngoài diễn ngôn phải được nhân vật giao tiếp ý thức. Khi đã trở thành hiểu
biết của những người giao tiếp thì hiện thực ngoài diễn ngôn trở thành tiền giả
định bách khoa hay tiền giả định giao tiếp của diễn ngôn. Tiền giả định bách
khoa tuy không tham gia vào cuộc giao tiếp nhưng nó là cơ sở để một cuộc
giao tiếp diễn ra một cách bình thường.
Hiện thực ngoài diễn ngôn bao gồm 4 bộ phận:
- Hiện thực - đề tài của diễn ngôn. Thế giới khả hữu và hệ quy chiếu.
Khi giao tiếp, các nhân vật giao tiếp thường dùng diễn ngôn của mình
để “nói” về một cái gì đó. Cái được nói tới chính là hiện thực - đề tài của diễn
ngôn. Hiện thực - đề tài của diễn ngôn có thể là những cái đang tồn tại trong
hiện thực ngoài ngôn ngữ và ngoài diễn ngôn, cũng có thể là thế giới nội tâm
của con người (cảm xúc, tư tưởng, ý định, nguyện vọng…) hoặc cũng có thể
là bản thân ngôn ngữ.
Ngoài việc nhận biết hiện thực - đề tài của diễn ngôn thì việc xác định
rõ ràng thế giới khả hữu và hệ quy chiếu cũng không kém phần quan trọng.
Bởi nó chính là cơ sở để thuyết giải ý nghĩa của diễn ngôn cũng như “đo độ

đúng sai” trong giá trị của diễn ngôn. Thế giới khả hữu, hiểu theo cách hiểu


của Green thì “không phải là một nơi chốn mà là một cách thức có thể tồn tại
hay đã từng tồn tại của thế giới. Có vô số thế giới khả hữu”. Như thế có thể
thấy điều quan trọng ở đây là không nên chỉ dùng thế giới thực tại để quy
chiếu diễn ngôn mà cần biết rằng có vô số thế giới khả hữu và chính thế giới
khả hữu ứng với đề tài của diễn ngôn mới quyết định nghĩa của diễn ngôn nói
về đề tài đó.
Các khái niệm hiện thực - đề tài của diễn ngôn, thế giới khả hữu, thế
giới thực tại, hiện thực ngoài ngôn ngữ và quan hệ giữa chúng như sau: thế
giới khả hữu là những dạng thức tồn tại của hiện thực, cùng với thế giới thực
tại chúng ta đang sống hợp thành hiện thực ngoài diễn ngôn. Đề tài của diễn
ngôn là một mảng trong thế giới khả hữu được lựa chọn làm hệ quy chiếu cho
các diễn ngôn về đề tài đó.
- Hoàn cảnh giao tiếp
Loại trừ thế giới khả hữu - hệ quy chiếu, loại trừ hiện thực - đề tài, tất
cả những cái còn lại trong hiện thực ngoài ngôn ngữ làm nên hoàn cảnh giao
tiếp rộng của cuộc giao tiếp. Hoàn cảnh giao tiếp rộng bao gồm những hiểu
biết thế giới vật lí, sinh lí, tâm lí, văn hóa, xã hội, tôn giáo, lịch sử các ngành
khoa học, nghệ thuật ở thời điểm và không gian cuộc giao tiếp diễn ra.
- Thoại trường
Thoại trường là cái không - thời gian cụ thể ở đó cuộc giao tiếp diễn ra.
Không gian thoại trường là không gian có những đặc trưng chung, đòi hỏi
người ta phải xử sự, nói năng theo những cách thức ít nhiều cũng chung cho
nhiều lần xuất hiện. Thời gian thoại trường là thời gian ở một không gian
thoại trường mà ở lúc đó con người phải nói năng, xử sự khác với cách nói
năng, xử sự ở thời gian khác trong cùng không gian thoại trường.



Cần có sự phân biệt thoại trường hằng thể và thoại trường biến thể. Một
thoại trường hằng thể được xem là dạng thức trừu tượng, chung cho vô số
những thoại trường biến thể. Ví dụ có thể xem thoại trường Nhà chùa - ngày
rằm là một hằng thể, còn Chùa Keo - ngày rằm, Chùa Long Đại - ngày rằm
tháng hai,…là những thoại trường biến thể. Nếu như ở mỗi thoại trường biến
thể người ta nói năng mỗi khác thì tập hợp những nét chung trong cách nói
năng ở các thoại trường biến thể sẽ cho ta cách thức nói năng chung đặc trưng
cho một thoại trường hằng thể bao trùm lên các thoại trường biến thể đó.
- Ngữ huống giao tiếp.
Quan hệ liên cá nhân, các tiền giả định bách khoa, thoại trường của một
cuộc giao tiếp không phải nhất thành bất biến đối với một cuộc giao tiếp.
Những yếu tố của các nhân tố đó thay đổi liên tục trong suốt quá trình của
cuộc giao tiếp. Cho t1, t2, t3, tn,…là những thời điểm kế tiếp nhau của một
cuộc giao tiếp thì các yếu tố trên ở những thời điểm t1 khác, t2, t3, tn,… khác.
Chúng ta nói tác động tổng hợp của các yếu tố tạo nên ngữ cảnh ở từng thời
điểm của cuộc giao tiếp là các ngữ huống của cuộc giao tiếp. Thông qua ngữ
huống mà ngữ cảnh chi phối đến diễn ngôn.
1.2.2. Ngôn ngữ.
1.2.2.1. Kênh giao tiếp.
Ngôn ngữ tự nhiên là ngôn ngữ có đường kênh cơ bản là kênh thính
giác. Về sau, cùng với sự phát triển của xã hội, ngôn ngữ có đường kênh thị
giác. Từ đó diễn ngôn có hai dạng thức: diễn ngôn nói và diễn ngôn viết.


Ngôn ngữ thị giác với chữ viết là thứ phát so với ngôn ngữ nguyên phát
là ngôn ngữ nói. Vì là thứ phát nên ngôn ngữ viết phải đồng nhất về cơ bản với
ngôn ngữ nói. Tuy nhiên, vì đã ra đời và sử dụng hai thể chất cảm tính khác
nhau cho nên mỗi thứ ngôn ngữ nói và viết vẫn có tính độc lập tương đối.



1.2.2.2. Biến thể của ngôn ngữ.
Việc giao tiếp trong đời sống hàng ngày thực chất là giao tiếp theo
những biến thể (hằng thể chỉ là trừu tượng). Biến thể ngôn ngữ gồm:
Biến thể chuẩn mực hóa bao gồm những đơn vị từ vựng, kể cả các ngữ
cố định, các kết cấu cú pháp, các cách phát âm được toàn thể một cộng đồng
ngôn ngữ chấp nhận, cho là đúng, được xem là cơ sở để đánh giá ngôn ngữ
của từng cá nhân, của các cộng đồng.
Phương ngữ địa lí bao gồm cách phát âm, các đơn vị từ vựng và một số
những kết cấu cú pháp được sử dụng ở những địa phương nhất định trong một
quốc gia.
Phương ngữ xã hội là những biến thể chủ yếu bao gồm các đơn vị từ
vựng và một số quán ngữ, một số kiểu kết cấu được sử dụng trong một cộng
đồng theo nghề nghiệp, theo hoạt động khoa học, nghệ thuật, tôn giáo, tín
ngưỡng,…,thậm chí trong cộng đồng của những người sinh sống ngoài vòng
pháp luật.
“Ngữ vực là một biến thể ngôn ngữ theo các hoàn cảnh xã hội” (Từ
điển 3). Theo ba căn cứ của M.Halliday, ít nhất có thể có ba ngữ vực. Ngữ
vực quy thức, đó là ngữ vực mà chúng ta dùng khi nói với những người quen
biết rất ít hoặc chưa hề quen biết. Đó cũng là ngữ vực của lễ nghi hoặc những
cuộc hội ngộ tuân theo những nghi thức nhất định. Ngữ vực thân tình là ngữ
vực của những cuộc giao tiếp giữa những người có quan hệ thân thiết với
nhau. Giữa hai ngữ vực đó là vương quốc của ngữ vực phi quy thức. Đó là
ngữ vực của những người tuy có biết nhau nhưng không thân thiết.
1.2.2.3. Loại thể.


Loại thể là biến thể sử dụng của các diễn ngôn. Các loại thể tạo nên các
câu thúc - constraint đối với việc tạo ra và thuyết giải diễn ngôn. Chính loại
thể đã khởi động tâm lí tiếp nhận và quy tắc thuyết giải diễn ngôn theo loại
thể khi gặp những diễn ngôn được viết theo một loại thể nào đó.

1.2.3. Diễn ngôn
1.2.3.1. Câu, phát ngôn, diễn ngôn
Phân biệt ba khái niệm câu, phát ngôn, diễn ngôn trước khi nói về diễn
ngôn là cần thiết.
Câu là đơn vị cú pháp quen thuộc, được xem là lớn nhất của ngữ pháp
tiền dụng học. Có thể nói ngữ pháp tiền dụng học là ngữ pháp học về câu.
Theo chúng tôi câu có hai mặt: trừu tượng và cụ thể. Câu trừu tượng là những
mô thức kết học do các đơn vị trừu tượng kết hợp với nhau theo những quy
tắc chủ yếu là tuyến tính. Về mặt cụ thể, các câu cụ thể sẽ được làm đầy bởi
những đơn vị từ vựng cụ thể. Ngữ pháp tiền dụng học thường chỉ nghĩ đến
chức năng biểu hiện sự tình của câu. Điều này đúng. Nhưng không nên và
không được quên rằng có nhiều khi câu là những phương tiện để thực hiện
những hành động bằng lời.
Một câu được làm đầy bằng những đơn vị từ vựng cụ thể có thể được
dùng ở những ngữ cảnh khác nhau, nhằm nhiều mục đích khác nhau. Lúc này
câu là phát ngôn. Một câu “tôi ăn cơm” không phải duy nhất có chức năng
biểu hiện sự tình mà có thể là lời từ chối, biểu thị thái độ giận giữ,…
Diễn ngôn là một dải ngôn từ liên tục gồm một hay nhiều phát ngôn
hợp lại và có tính mạch lạc, đồng quy về một hành vi ngôn ngữ chủ đạo nào
đó được tạo ra trong hoạt động giao tiếp. Diễn ngôn có những đặc điểm sau:


×