LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo
Nguyễn Thị Vân Anh - người trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình giúp tôi
hoàn thành khóa luận này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới tất cả các thầy cô giáo trong khoa Ngữ
văn, đặc biệt là thầy cô trong tổ Lý luận văn học và các bạn sinh viên đã giúp
đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành khóa luận.
Hà Nội, ngày 16 tháng 5 năm 2013
Người thực hiện
Phùng Thị Sứ
LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận này hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của cô giáo
Nguyễn Thị Vân Anh. Tôi xin cam đoan rằng:
- Khóa luận là kết quả nghiên cứu, tìm tòi của riêng tôi.
- Những tư liệu được trích dẫn trong khóa luận là trung thực.
- Kết quả nghiên cứu này không hề trùng khít với bất kì công trình nghiên
cứu nào từng công bố.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 16 tháng 5 năm 2013
Người thực hiện
Phùng Thị Sứ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 5
4. Mục tiêu khóa luận ....................................................................................... 5
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................... 5
6. Phương pháp nghiên cứu.. ............................................................................ 6
7. Đóng góp của khóa luận ............................................................................... 6
8. Bố cục của khóa luận....... ............................................................................. 7
NỘI DUNG ....................................................................................................... 8
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ NHÂN VẬT VĂN HỌC VÀ MỘT SỐ ĐẶC
ĐIỂM NHÂN VẬT NỮ TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM HIỆN ĐẠI . 8
1.1. Tìm hiểu chung về nhân vật ......................................................................... 8
1.1.1. Khái niệm nhân vật văn học...................................................................... 8
1.1.2. Vai trò của nhân vật trong tác phẩm.......................................................... 9
1.2. Nhân vật nữ trong tiểu thuyết Việt Nam hiện đại ....................................... 10
1.2.1. Đặc điểm nhân vật nữ trong tiểu thuyết Việt Nam hiện đại giai đoạn
trước 1945 ........................................................................................................ 10
1.2.2. Đặc điểm nhân vật nữ trong tiểu thuyết Việt Nam hiện đại giai đoạn sau
1945 ................................................................................................................. 12
Chương 2: QUAN NIỆM VỀ NGƯỜI PHỤ NỮ VÀ ĐẶC ĐIỂM NHÂN
VẬT NỮ TRONG TIỂU THUYẾT CỦA NHẤT LINH............................... 14
2.1. Quan niệm của Nhất Linh về người phụ nữ ............................................... 14
2.2. Các kiểu nhân vật nữ trong tiểu thuyết của Nhất Linh................................ 15
2.2.1 .Kiểu nhân vật chuẩn mực, khuôn phép ................................................... 15
2.2.2. Kiểu nhân vật nổi loạn ........................................................................... 18
2.2.3. Kiểu nhân vật bi kịch .............................................................................. 27
2.2.3.1. Bi kịch do hoàn cảnh sống ................................................................... 28
2.2.3.2. Bi kịch do chính bản thân nhân vật ...................................................... 33
Chương 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT NỮ TRONG TIỂU
THUYẾT CỦA NHẤT LINH ........................................................................ 41
3.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật ..................................................... 41
3.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật ............................................................ 44
3.3. Bút pháp tương phản, đối lập ..................................................................... 52
3.4. Ngôn ngữ nhân vật .................................................................................... 55
3.4.1. Ngôn ngữ mực thước, khuôn phép .......................................................... 55
3.4.2. Ngôn ngữ giang hồ ................................................................................. 57
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 61
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Bàn về nhân vật nữ trong văn học là vấn đề được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm, đây là vấn đề vừa có ý nghĩa lí luận, vừa có giá trị thực tiễn trong
nghiên cứu văn học. Thật vậy, người phụ nữ là một nửa của thế giới, là những
con người mang vẻ đẹp thuần khiết, dịu dàng, nhà văn Vichtor Huygo từng ví vẻ
đẹp của người phụ nữ với những vì sao “Bên cạnh ánh sáng lung linh của các vì
sao còn có ánh sáng êm dịu và huyền bí của người phụ nữ”. Hình tượng người
phụ nữ không chỉ hiện hữu trong thực tế đời sống mà đã từ rất lâu, hình ảnh này
đi vào trong sáng tác chương như một sự vận động tất yếu của văn học và thời
đại. Nói đến nhân vật nữ trong văn học, các nhà tiểu thuyết phương Tây đặc biệt
chú trọng đến hình tượng này. Ta có thể kể đến hình tượng người phụ nữ trong
các tác phẩm như Ana Karênina của L.Tônxtôi, Những người khốn khổ và Nhà
thờ đức bà Pari của nhà văn Vichtor Huygo, hay Margaret Mitchell với Cuốn
theo chiều gió... Trong văn học Việt Nam, sự phản ánh hình tượng này thưa thớt
hơn song cũng đạt được nhiều thành tựu. Có thể điểm danh một số nhân vật như:
Thúy Kiều - người con gái tài sắc nhưng lại có cuộc đời bất hạnh trong Truyện
Kiều của Nguyễn Du, người chinh phụ mòn mỏi chờ chồng đi chinh chiến trong
Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn và không thể không nhắc đến người phụ nữ
với những khát khao về một tình yêu tuyệt đích như trong thơ Hồ Xuân Hương.
Tất cả đó đều là hình tượng nhân vật nữ, hình tượng đó hiện lên mang những vẻ
đẹp riêng, số phận riêng, những tính cách riêng và đặc biệt họ đại diện cho lớp
người phụ nữ của một thời đại.
Nghiên cứu về nhân vật nữ trong văn học là điều kiện để chúng ta củng cố
thêm những kiến thức lý luận liên quan đến nhân vật văn học và nghệ thuật xây
dựng nhân vật văn học, đóng góp một phần nào đó vào công tác nghiên cứu và
giảng dạy sau này. Tiếp cận văn học từ góc nhìn này giúp ta khám phá, đi sâu
tìm hiểu thế giới nhân vật nữ trong văn học, thấy được những quan niệm, tư
tưởng tiến bộ cũng như những nỗi lòng sâu kín của nhà văn dành cho người phụ
1
nữ. Và quan trọng hơn, đây là cơ hội để chúng ta góp thêm tiếng nói để khẳng
định vị trí và vai trò của người phụ nữ trong văn học cũng như trong đời sống,
đặc biệt là trong điều kiện hội nhập thế giới như hiện nay.
1.2. Những năm 30 của thế kỉ XX là một giai đoạn sôi động trong lịch sử
văn học Việt Nam. Văn học giai đoạn này đã chứng kiến “một cuộc hòa nhạc tân
kì” (Hoài Thanh) với sự ra đời của nhiều khuynh hướng và trào lưu văn học.
Trong đó văn chương của Tự lực văn đoàn với hàng loạt các tác phẩm văn xuôi
lãng mạn là một khuynh hướng điển hình nhất. Trải qua sự chắt lọc khắt khe của
thời gian và dư luận, văn chương Tự lực văn đoàn đã thực sự khẳng định được
chỗ đứng của mình trong tiến trình phát triển của văn học dân tộc.
Nói đến Tự lực văn đoàn không thể không nhắc đến Nhất Linh - cây bút
chủ lực của tổ chức văn học này. Để khẳng định vai trò của mình, Nhất Linh đã
cho ra đời hàng loạt các tác phẩm văn xuôi lãng mạn có vai trò là phát súng lệnh
mở đầu cho sự ra đời của trào lưu văn học lãng mạn. Những tác phẩm đó thường
viết về đề tài tình yêu, hạnh phúc cá nhân, khẳng định cái tôi cá nhân trước lễ
giáo phong kiến. Ông từng tâm sự khi chọn viết về đề tài này “mình chọn đề tài
nào cần nhất là mình phải thành thực, nghĩa là chính trong thâm tâm mình thấy
thích viết đề tài đó, quả thực mình thấy mình cảm động trước đề tài đó. Hơn nữa
mình đoán thấy đề tài đó có nhiều cái hay” [20, Tr.46]. Và gắn liền với đề tài “có
nhiều cái hay” đó chính là các nhân vật “chàng” và “nàng”, đặc biệt là nhân vật
nữ được Nhất Linh nhắc đến nhiều hơn cả. Trong xã hội phong kiến đang trên đà
“Âu hóa”, cùng với đó cũng sinh ra lớp người phụ nữ mang tư tưởng Tây Âu
tiến bộ, họ có quan niệm sống, lối sống trái ngược hẳn với tư tưởng phong kiến
đương thời. Trong hoàn cảnh sự Âu hóa còn quá mới mẻ mà tư tưởng phong
kiến lại trở thành thâm căn cố đế trong xã hội như vậy, những người phụ nữ
mang trong mình hơi thở của Tây phương trở thành những người “nổi loạn” và
nếu không “nổi loạn” chống lại chế độ thì họ trở thành những con người bi kịch.
Đó là những thực tế đã được Nhất Linh phản ánh trong rất nhiều tiểu thuyết của
mình.
2
Xuất phát từ những lí do kể trên, chúng tôi lựa chọn đề tài Nhân vật nữ
trong tiểu thuyết Nhất Linh để thấy được mối quan hệ giữa hiện thực đời sống và
sáng tác văn học và thấy được thực trạng cuộc sống của một thế hệ những người
phụ nữ đã từng tồn tại trong xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đã có một thời gian văn chương Tự lực văn đoàn nói chung và tiểu thuyết
của Nhất Linh nói riêng không thực sự được hoan nghênh đón nhận. Văn chương
Tự lực văn đoàn được đánh giá là “độc hại và tiêu cực”, bởi đó là những tác
phẩm văn chương lãng mạn, nó dễ làm cho con người sống trong ảo mộng, phi
thực tế . Mặc dù vậy, trải qua sự chắt lọc khắt khe của thời gian và dư luận, các
tác phẩm của Tự lực văn đoàn đã được độc giả đón nhận. Các nhà nghiên cứu đã
đi vào tìm hiểu các tác phẩm của Tự lực văn đoàn cũng như của Nhất Linh, và
cùng với đó là rất nhiều các công trình nghiên cứu ra đời.
Nhận xét về hình tượng người phụ nữ trong tiểu thuyết của Nhất Linh, tác
giả Thụy Khuê trong bài Nhất Linh – Người nghệ sĩ, Người chiến sĩ đã viết: “Ở
Đoạn tuyệt , Lạnh lùng Nhất Linh vẽ nên khung cảnh xung đột trực tiếp giữa lối
sống cũ và mới. Để bênh vực người phụ nữ, Nhất Linh đã không ngần ngại đẩy
hoàn cảnh đến mức độ cực đoan nhất, và lấy phần quyết thắng về phe Loan,
người phụ nữ tân thời tranh đấu cho quyền làm người trong xã hội Khổng
Mạnh”.
Cũng đánh giá về hình tượng người phụ nữ trong Đoạn tuyệt, tác giả Phan
Cự Đệ trong cuốn Văn học Việt Nam 1900 – 1945 lại cho rằng Loan là “phiên
bản” mới về người phụ nữ: “Với Đoạn tuyệt của Nhất Linh đã xuất hiện một
“phiên bản” mới về người phụ nữ. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học người phụ
nữ thoát khỏi phạm vi gia đình để xuất hiện trong không gian xã hội, dân tộc”.
Nếu như nhân vật Loan luôn được các nhà nghiên cứu khen ngợi thì nhân
vật cô gái giang hồ Tuyết lại gây ra nhiều tranh cãi với các ý kiến khen chê trái
chiều. Trong cuốn Tổng tập văn học Việt Nam, tập 24B, Nxb Khoa học xã hội,
năm 1997 có bài Đời mưa gió, trong đó người viết có cái nhìn cực đoan về
3
Tuyết: “Một cô gái giang hồ - là hiện thân đầy đủ của lối sống chỉ muốn hưởng
lạc thú tầm thường, bất chấp đạo đức, luân lí, vô tâm với người khác và thiếu
trách nhiệm với chính mình”. Ngược lại, tác giả Hà Minh Đức với bài Thế giới
nhân vật trong Tự lực văn đoàn lại đề cập đến nhân vật Tuyết với tư cách là một
kiểu nhân vật mới mẻ trong văn chương Tự lực văn đoàn, đại diện cho lớp phụ
nữ sống “phá cách”, vươn lên giải phóng cho chính mình.
Bên cạnh những bài viết đánh giá về về hình tượng các nhân vật nữ, trong
một công trình nghiên cứu khác, nhà văn Trương Chính lại đề cao nghệ thuật xây
dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Nhất Linh. Khẳng định giá trị nghệ thuật của
Đoạn tuyệt, Trương Chính nhận xét: “Đoạn tuyệt là một kiệt tác trong văn học
Việt Nam hiện đại. Vì Đoạn tuyệt không chỉ có giá trị xã hội, nó còn có giá trị
tâm lí không ai chối cãi được. Ông Nhất Linh đã dùng một cách quan sát rất tinh
vi để tả những trạng thái phiền phức trong tâm hồn riêng của nhân vật trong
truyện để đi sâu vào đời riêng tư của họ” [3, Tr.18]. Với Lạnh lùng ông tiếp tục
khẳng định: “không thể lọt qua trí quan sát của ông, những tư tưởng ta giấu kín
tận đáy lòng như những con vật xấu xa. Người trong truyện vì thế mà linh động”
[3, Tr.27].
Như vậy, qua việc khảo sát những công trình nghiên cứu kể trên chúng tôi
nhận thấy vấn đề nhân vật nữ trong tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn nói chung và
tiểu thuyết của Nhất Linh nói riêng đã được các nhà nghiên cứu bàn đến ở những
mức độ khác nhau. Tuy nhiên các bài viết và các công trình nghiên cứu này mới
chỉ đưa ra những nhận xét khái quát về nhân vật nữ và mới chỉ dừng lại ở việc
bàn tản mạn một vài phương diện nào đó về nhân vật nữ trong sáng tác của Nhất
Linh. Xuất phát từ thực tiễn vừa nêu, đề tài nghiên cứu của chúng tôi sẽ tìm hiểu
một cách tập trung và có hệ thống về nhân vật nữ trong tiểu thuyết của Nhất
Linh. Chúng tôi hi vọng kết quả nghiên cứu thu được sẽ mang lại những đóng
góp nhất định đối với công tác giảng dạy và nghiên cứu các tác phẩm của nhà
văn này.
4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Với đề tài đã chọn, chúng tôi tập trung tìm hiểu về nhân vật nữ trong tiểu
thuyết Nhất Linh. Trong quá trình nghiên cứu, người viết có sự liên hệ, so sánh
với một số tác phẩm văn xuôi hiện đại khác nhằm làm sáng tỏ nét độc đáo trong
sáng tạo của nhà văn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận khảo sát các dạng nhân vật nữ và nghệ thuật xây dựng các kiểu
nhân vật này trong ba tiểu thuyết tiêu biểu của Nhất Linh, đó là: Đoạn tuyệt
(Đăng báo Phong hóa từ năm 1934, xuất bản năm 1935), Đời mưa gió (viết
chung cùng Khái Hưng, xuất bản năm 1934) và Lạnh lùng (Đăng báo Ngày nay
năm 1937, xuất bản năm 1937).
Ngoài ra, khóa luận còn cố gắng mở rộng liên hệ với các sáng tác khác
của Nhất Linh và một số nhà văn khác để có cái nhìn mang tính chất đối sánh và
toàn diện hơn nhằm chỉ ra những đóng góp của Nhất Linh trên cả phương diện
nội dung và nghệ thuật.
4. Mục tiêu của khóa luận
- Khóa luận tiếp cận tiểu thuyết của Nhất Linh dưới góc độ nhân vật nhằm
làm nổi bật các dạng nhân vật nữ trong tiểu thuyết của ông.
- Chỉ ra nét mới mẻ, độc đáo và tiến bộ trong quan niệm và ngòi bút của
Nhất Linh khi viết về người phụ nữ Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khóa luận nghiên cứu quan niệm về người phụ nữ của Nhất Linh và việc
thể hiện quan niệm đó trong thực tiễn sáng tác.
- Khóa luận chỉ ra các kiểu nhân vật nữ trong 3 tiểu thuyết chính của Nhất
Linh.
- Chỉ ra những đặc sắc nghệ thuật trong xây dựng nhân vật nữ trong tác
phẩm của Nhất Linh nhằm làm nổi bật phong cách của nhà văn so với các nhà
văn khác.
5
6. Phương pháp nghiên cứu
Căn cứ vào đối tượng nghiên cứu đã xác định, đề tài sử dụng các phương
pháp nghiên cứu cơ bản sau:
6.1. Phương pháp hệ thống
Phương pháp này giúp ta xem xét, nghiên cứu và tách đối tượng ra làm
nhiều yếu tố. Phân chia như thế, phương pháp này giúp người nghiên cứu nhận
ra được sự tác động chi phối là trực tiếp hay gián tiếp giữa các yếu tố trong cùng
một hệ thống.
6.2. Phương pháp so sánh
Phương pháp này giúp ta nhận thức đúng hơn về bản chất vấn đề. Qua so
sánh để thấy được sự giống nhau, khác nhau của các yếu tố trong cùng một hệ
thống. Từ đó phát hiện ra cái riêng, cái độc đáo trong mỗi hệ thống.
6.3. Phương pháp xác định lịch sử phát sinh
Theo cách gọi của M.B. Khrapchenco thì đây là phương pháp nghiên cứu
phát sinh lịch sử. Phương pháp này chủ trương nghiên cứu văn học cũng như các
trường phái, nhà văn, tác phẩm, phương pháp sáng tác từ nguồn gốc trong đời
sống xã hội. Nó cũng chủ trương giải thích sự phát triển của văn học, sự đấu
tranh giữa các trào lưu, sự thay thế hiện tượng văn học này với hiện tượng văn
học khác, sự tương tác, mâu thuẫn hoặc kế thừa có đổi mới của từng hiện tượng,
từng giai đoạn văn học.
Từ quan hệ văn học và đời sống, việc lí giải các hiện tượng văn học trên
cơ sở lịch sử xã hội là quan điểm đúng đắn mang lại nhiều sự lí giải thuyết phục,
khắc phục được những hạn chế của những khuynh hướng nghiên cứu nội quan.
7. Đóng góp của khóa luận
- Thấy được một số kiểu nhân vật nữ tiêu biểu trong tiểu thuyết của Nhất
Linh, đây cũng là đại diện cho một lớp người phụ nữ trong xã hội xưa.
- Đề tài giúp tìm ra sự sáng tạo mới mẻ trong ngòi bút của Nhất Linh khi
thể hiện nhân vật nữ trong tác phẩm, góp phần khẳng định tài năng và tên tuổi
của nhà văn.
6
8. Cấu trúc của khóa luận
Khóa luận được cấu trúc thành ba phần: mở đầu, nội dung, kết luận và
phần tài liệu tham khảo, phần nội dung được chúng tôi triển khai thành các
chương sau:
Chương 1: Khái quát về nhân vật văn học và một số đặc điểm nhân vật nữ
trong tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
Chương 2: Quan niệm về người phụ nữ và đặc điểm của nhân vật nữ trong
tiểu thuyết của Nhất Linh.
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ trong tiểu thuyết của Nhất Linh.
7
NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ NHÂN VẬT VĂN HỌC VÀ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM
NHÂN VẬT NỮ TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
1.1. Tìm hiểu chung về nhân vật
1.1.1. Khái niệm nhân vật văn học
Nhân vật là khái niệm không chỉ dùng trong văn chương mà còn dùng
trong nhiều lĩnh vực khác. Vì vậy, trong lịch sử nghiên cứu đã có rất nhiều quan
niệm khác nhau về nhân vật.
Theo bộ Từ điển Tiếng Việt của viện ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ
biên, Nxb Đà Nẵng, 2002 thì nhân vật là khái niệm mang hai nghĩa. Thứ nhất đó
là đối tượng được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm văn học nghệ thuật. Thứ hai,
đó là “ người có vị trí quan trọng trong xã hội”. Như vậy theo cách hiểu trên,
nhân vật được dùng phổ biến ở nhiều mặt, cả trong văn học nghệ thuật và trong
đời sống chính trị, xã hội.
Cuốn Lí luận văn học, tập 2, nhóm tác giả Trần Đình Sử, Phương Lựu,
Nguyễn Xuân Nam định nghĩa như sau: “Nói đến nhân vật văn học là nói đến
con người miêu tả, thể hiện trong tác phẩm, bằng phương tiện văn học. Đó là
những nhân vật có tên như Tấm, Cám, Thạch Sanh... Đó là những nhân vật
không tên như thằng bán tơ, một mụ nào đó trong Truyện Kiều... Đó là những
nhân vật trong truyện cổ tích, đồng thoại, thần thoại, bao gồm cả quái vật lẫn
thần linh ma quỷ, những con vật mang thần linh và ý nghĩa con người...”
Khái niệm nhân vật văn học có khi được sử dụng như một ẩn dụ, không
chỉ là con người cụ thể nào đó mà còn để chỉ một hình tượng nổi bật trong tác
phẩm. Do vậy, khái niệm nhân vật trong tác phẩm văn học không chỉ dừng lại ở
con người mà còn ở cả những hình tượng liên quan đến con người.
Nhân vật vừa là yếu tố thuộc về nội dung, vừa là yếu tố thuộc hình thức,
bởi vậy nó đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với tác phẩm và đối với bản thân
8
văn học. Nhân vật là phương tiện để khái quát hiện thực, là phương tiện để khái
quát tư tưởng của tác phẩm và quyết định hình thức của tác phẩm. Nhân vật sẽ
xâu chuỗi các sự kiện tình tiết của tác phẩm, là nơi chủ yếu để nhà văn thể hiện
quan niệm nghệ thuật và lí tưởng thẩm mĩ về con người đồng thời góp phần tạo
nên giá trị, sức hấp dẫn và sự thành công của tác phẩm.
1.1.2. Vai trò của nhân vật trong tác phẩm
Nhân vật đóng vai trò là tâm điểm của sự thể hiện đời sống trong tác phẩm
văn học. Nó không chỉ là “tiêu điểm để bộc lộ chủ đề” mà còn là nơi “ tập trung
giá trị tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm”.
Trong cuốn Văn chương dẫn luận G.N. Pospelov nhấn mạnh: “nhân vật là
phương diện có tính thứ nhất trong hình thức tác phẩm. Nó quyết định phần lớn
vừa cốt truyện, vừa lựa chọn chi tiết, vừa ngôn ngữ, vừa kết cấu” [25, Tr.43].
Nhân vật vừa là yếu tố nội dung, vừa thuộc về hình thức tác phẩm. Nhân vật là
điều kiện thiết yếu để khám phá, đánh giá, lí giải và sự miêu tả mang tính nghệ
thuật của tác giả về đời sống đạt đến tính toàn vẹn, có chiều sâu và có sức hấp
dẫn riêng với độc giả.
Ta biết rằng nhân vật là hình tượng con người, khi tính cách nhân vật
được nhà văn xây dựng ở mức độ nào đó, nhân vật sẽ trở thành hình tượng về
con người và cao hơn hết, nếu tính cách được khắc họa ở những điển hình thì
nhân vật sẽ trở thành điển hình về con người. Theo Biêlinxki “Nhà thơ tư duy
bằng trừu tượng, nhà thơ không chứng minh mà trình bày bằng chân lí”. Nói
rộng ra tức văn học phản ánh bằng hình tượng, bằng những nhân vật cụ thể. Do
đó vai trò chức nằng đầu tiên, quan trọng nhất của văn học là nó làm phương tiện
để nhà văn khái quát hiện thực. Văn học không thể thiếu nhân vật bởi chỉ qua
nhân vật, nhà văn mới thể hiện được nhận thức của mình về xã hội, con người
với những đặc điểm về tính cách của nó. “Nhân vật chính là người dẫn dắt người
đọc vào một thế giới riêng của đời sống trong một thời kì lịch sử nhất định”.
Nhân vật do đó đóng vai trò quan trọng đối với cả nội dung và hình thức
của tác phẩm văn học: về nội dung, nhân vật là phương tiện để thể hiện tư tưởng,
9
có nhiệm vụ cụ thể hóa sự thể hiện của chủ đề tư tưởng của tác phẩm, tức thông
qua sự hoạt động và mối liên hệ giữa các tính cách, người đọc sẽ đi đến một sự
khái quát hóa về mặt nhận thức tư tưởng. Về hình thức, nhân vật với tính cách
của nó quyết định phần lớn các yếu tố hình thức như kết cấu, những quy luật loại
thể, ngôn ngữ, các biện pháp nghệ thuật thể hiện... về luận điểm này, Hêghen
cũng đề xuất: “Tính cách là điểm trung tâm của mối liên hệ giữa nội dung và
hình thức”. Cũng cần lưu ý, tính cách nhân vật mang tính lịch sử, nghĩa là với
mỗi thời đại tính cách này được tôn vinh hay coi nhẹ.
Tóm lại nhân vật là yếu tố không thể thiếu trong tác phẩm văn chương.
Hiểu được đúng đắn vai trò chức năng của nhân vật văn học, người viết sẽ có
thêm cơ sở lí luận để nghiên cứu đề tài này.
1.2. Đặc điểm nhân vật nữ trong tiểu thuyết Việt Nam hiện đại
Người phụ nữ là tặng phẩm tuyệt diệu của tạo hóa, nhưng sự phản ánh
trong văn học ở mỗi thời đại, mỗi tác giả lại khác nhau. Hình tượng người phụ
nữ vì vậy cũng mang những nét cá tính riêng, độc đáo; giữa các nhân vật không
có sự hòa lẫn, pha trộn nhờ cái nhìn riêng của mỗi nhà văn.
Nhân vật nữ đã xuất hiện trong văn học Việt Nam từ rất sớm, có thể kể tới
vài tác giả tâm đắc với đề tài này như Nguyễn Du, Đặng Trần Côn, Hồ Xuân
Hương và Nguyễn Dữ... Tuy nhiên, hình tượng nhân vật nữ xuất hiện nhiều nhất,
thể hiện được đầy đủ những đặc điểm tính cách, lối sống, quan niệm sống tiến bộ
có lẽ chỉ đến văn học Việt Nam hiện đại mới làm được điều đó. Và hình tượng
đó được khắc họa rõ nét nhất trong tiểu thuyết – đây vốn là một thể loại văn học
còn khá mới mẻ ở giai đoạn đầu khi bước qua thời kì văn học trung đại. Tuy vậy,
ở mỗi thời điểm khác nhau thì hình tượng nhân vật nữ hiện lên cũng khác nhau.
1.2.1. Đặc điểm nhân vật nữ trong tiểu thuyết Việt Nam hiện đại giai
đoạn trước năm 1945
Ngay từ những năm đầu thế kỉ XX, xã hội Việt Nam đã chịu tác động của
các chương trình khai thác thuộc địa, chính sách văn hóa giáo dục của Pháp...
Điều này làm xã hội thay đổi, vấn đề về vị trí, vai trò của người phụ nữ cũng
10
thay đổi theo. Sự thay đổi này cũng ảnh hưởng trực tiếp tới hình tượng nhân vât
nữ trong tiểu thuyết bấy giờ, các nhà văn đã đặc biệt quan tâm đến người phụ nữ.
Trong tiểu thuyết lãng mạn mà tiêu biểu nhất là tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn,
hình tượng người phụ nữ hiện lên không còn mang sự cổ hủ, lạc hậu vốn có nữa
mà họ đã trở thành những người làm chủ cuộc đời của họ. Đặc biệt những người
phụ nữ đều có khao khát phá tan những ràng buộc của lễ giáo phong kiến để họ
được sống thật là chính mình. Ta có thể kể đến các nhân vật như Mai trong Nửa
chừng xuân, Trâm trong Nắng thu (trong tiểu thuyết của Nhất Linh). Trong Nửa
chừng xuân, nhà văn xây dựng nhân vật Mai đương diện đấu tranh với lễ giáo
phong kiến hà khắc, những lễ giáo đã chà đạp lên hạnh phúc của cô.
Trong trào lưu văn học hiện thực phê phán, đặc biệt là trong tiểu thuyết
của Vũ Trọng Phụng thì hình tượng nhân vật nữ hiện lên mang đầy đủ những đặc
điểm của văn minh Tây Âu. Đó là hình tượng cô Tuyết với những bộ quần áo
ngây thơ: “Cái áo dài voan mỏng, trong có coóc-sê, trông như hở cả nách và nửa
vú, nhưng mà viền đen, và đội một cái mũ mấn xinh”. Hiện lên ở Tuyết rõ ràng
là một lối sống phóng khoáng, có phần lẳng lơ, cô sẵn sàng vào khách sạn cùng
Xuân tóc đỏ mục đích biến mình thành hư hỏng để dễ dàng từ bỏ anh chồng dân
quê của cô. Ngoài ra, hình tượng me Tây phó Đoan cũng gây ấn tượng mạnh mẽ
bởi sự dâm đãng, lăng loàn. Bà phó Đoan đã từng có hai đời chồng nhưng đều
chết cả, bà đã ra tay cứu giúp Xuân tóc đỏ trong một lần bị bắt vì lòng khao khát
dục vọng của người phụ nữ đang tuổi hồi xuân, bà muốn biến Xuân thành người
tình của để thỏa mãn bản thân. Tất cả những hình tượng người phụ nữ đó đều
được bậc thầy về nghệ thuật trào phúng thể hiện rất rõ trong tiểu thuyết Số đỏ.
Cũng viết về hình tượng người phụ nữ nhưng Ngô Tất Tố lại có một cái
nhìn khác. Hình tượng chị Dậu hiện lên mang đầy đủ phẩm chất của người phụ
nữ Việt Nam xưa: xinh đẹp, cần cù, chịu thương, chịu khó và đặc biệt rất thương
yêu chồng con. Chị Dậu - đó là một người với vẻ đẹp mặn mà của phụ nữ 3 con
với “cái nhanh nhảu của đôi mắt sắc ngọt, cái xinh xắn của cặp môi đỏ tươi, cái
mịn màng của nước da đen giòn” vẻ đẹp đó có thể làm rung động bất cứ người
11
đàn ông nào khi đối diện với chị. Đẹp là thế nhưng chị còn đẹp hơn bởi phẩm
chất hi sinh vì chồng vì chồng, vì con. Thương chồng, thương con chị sẵn sàng
nhịn ăn để nhường suất khoai cho con, chị bán cả mấy gánh khoai, bán cả ổ chó
con, thậm chí đường cùng chị bán cả đứa con lớn để nộp sưu cho chồng. Nhưng
mọi khó khăn không làm chị gục ngã, chị không vì đồng tiền mà phản bội lại anh
Dậu mà rất mực chung thủy với chồng, chị chạy ra khỏi nhà quan cụ mà trước
mắt là bầu trời tối đen như mực chính là minh chứng rõ nhất cho sự thủy chung,
son sắt của chị. Ở chị Dậu ánh lên vẻ đẹp mộc mạc, chân chất của người phụ nữ
nông thôn, đây cũng là cái đẹp chung của hình tượng người phụ nữ Việt Nam
những năm trước cách mạng mà Ngô Tất Tố đã xây dựng lại trong tiểu thuyết
của mình.
1.2.2. Đặc điểm nhân vật nữ trong tiểu thuyết Việt Nam hiện đại giai
đoạn sau năm 1945
Trong những năm đất nước ta trải qua hai cuộc kháng chiến chống pháp
và chống Mĩ gian khổ mà oanh liệt thì hình tượng nhân vật người phụ nữ lại hiện
lên với vẻ đẹp anh dũng, hiên ngang. Đó là hình tượng chị Út Tịch (trong Người
mẹ cầm súng của Nguyễn Thi), đó là hình ảnh của chị Sứ trong Hòn đất của Anh
Đức. Trong Người mẹ cầm súng hiện lên hình ảnh người mẹ, người anh hùng
Nguyễn Thị Út với một ngoại hình bắt mắt: dáng người nhỏ gọn, khuôn mặt tròn
và đôi mắt to sáng và một phát biểu hùng hồn “còn cái lai quần cũng đánh”. Và
quả thực chị đã làm đúng như vậy, chị dũng cảm đấu tranh, dũng cảm giết giặc
và chị trở thành người anh hùng của thời đại. Ngay từ khi còn là một con bé con
gầy ốm tong teo, mặc quần cụt chị đã xin đi đánh tây: “đánh Tây sướng bằng
tiên chứ cực gì... nó đánh mình, mình đánh lại nó mới sướng chớ”. Dũng cảm
trong chiến đấu là vậy nhưng khi có gia đình chị vẫn không quên mình là một
người mẹ, một người vợ: chị lo xay bột cho con, lo sửa lại cái mái nhà dột, bện
lại dây võng cho con nằm, khi chồng chạy trốn khỏi bọn giặc thì đi tìm chồng
suốt đêm... Phải nói chị Út Tịch là người phụ nữ tiêu biểu cho hình tượng người
phụ nữ Việt nam những năm khánh chiến chống Mĩ. Trong Hòn đất thì ta cũng
12
gặp hình tượng chị Sứ mang đầy đủ nét đẹp truyền thống của người con gái Nam
Bộ nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung: một mái tóc dài mượt thoang
thoảng mùi hoa bưởi, một đôi tay làm lụng vén khéo... nhưng Sứ đẹp hơn nữa
bởi sự thủy chung son sắt với chồng, bởi sự anh hùng, dũng cảm của mình. Sứ
lấy chồng bảy năm là bảy năm xa cách đằng đẵng cùng nỗi nhớ nhưng chị không
bao giờ đánh mất mình, cả đến khi bị giặc bắt, lúc bị nhốt vào “hang cọp”, lúc bị
giam vào “chuồng sấu” nhưng vượt qua mọi thử thách người con gái miền Nam
ấy vẫn giữu trọn tấm lòng son sắt, chị giữ trọn tấm thân mình để khi đất nước
thống nhất trao lại cho chồng. Đặc biệt chị đẹp bởi sự anh hùng, bất khuất của
mình. Khi sa vào tay giặc, bị trói vào cột suốt một đêm bên bờ suối, bị treo lên
cành cây, thậm chí bị lũ ác ôn chém gần chết nhưng chị vẫn tỏ thái độ bất khuất
không đầu hàng giặc. Thái độ anh hùng của Sứ, lòng trung thành của chị đối với
Đảng và cách mạng đã tiếp thêm sức mạnh đấu tranh, làm cho bọn giặc run sợ.
Những nhân vật người phụ nữ đó không phải là những người liễu yếu đào
tơ, càng không phải là người chỉ biết làm lụng để nuôi chồng nuôi con mà họ đã
mang hơi thở của thời đại, họ quyết chiến đấu và hi sinh vì độc lập dân tộc.
Trong giai đoạn sau năm 1975, hình tượng người phụ nữ càng được các
nhà văn chú ý phản ánh trong văn học. Lúc này, đất nước đã hoàn toàn giải
phóng và đang bước vào thời kì đổi mới toàn diện, nên những người phụ nữ
cũng là con người của thời đại mới, họ bỏ lại cây súng trường để tham gia vào
công cuộc xây dựng đất nước về mọi mặt. Viết về những người phụ nữ này ta có
thể kể tên một số nhà văn như: Bảo Ninh, Ma Văn Kháng, Phạm Thị Hoài... Họ
đều là những người thực hiện xứ mệnh đòi quyền bình đẳng cho người phụ nữ
trong cả văn chương lẫn cuộc sống đời thường.
Phải nói nhân vật nữ trong tiểu thuyết Việt Nam hiện đại rất đa dạng, gắn
với những thời điểm lịch sử khác nhau, những hoàn cảnh khác nhau thì sẽ cho ra
đời những kiểu nhân vật nữ khác nhau. Nhưng họ có đặc điểm chung là đều đẹp,
đều dám sống, dám chiến đấu vì hạnh phúc cá nhân và hạnh phúc của cộng đồng.
13
Chương 2
QUAN NIỆM VỀ NGƯỜI PHỤ NỮ VÀ ĐẶC ĐIỂM NHÂN VẬT NỮ
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA NHẤT LINH
2.1. Quan niệm của Nhất Linh về người phụ nữ
Không giống như các nhà văn khác cùng thời, Nhất Linh có một cái nhìn
rất mới mẻ về người phụ nữ. Với ông, người phụ nữ không còn là những người
phát thanh cho những tư tưởng của Khổng giáo nữa mà họ đã biết sống cho bản
thân và đặc biệt biết đấu tranh để sống thực với mình. Người phụ nữ dưới cái
nhìn của Nhất Linh là những người tiến bộ, chịu ảnh hưởng trực tiếp của tư
tưởng phương Tây, họ có quyền được đi học trong trường Pháp văn và có quyền
tự lựa chọn hạnh phúc cho mình. Đó là do Nhất Linh ý thức sâu sắc về sự thoát li
của con người, về tính ngắn hạn của hạnh phúc, về sức mạnh của tình yêu đôi
lứa... Những yếu tố ấy bao trùm toàn bộ những sáng tác của Nhất Linh, và nhân
vật thể hiện rõ nhất những tư tưởng ấy chính là hình tượng người phụ nữ. Tất cả
những người phụ nữ trong tiểu thuyết của nhà văn đều mang trong mình hơi thở
của cái mới, của sự đổi mới so với quan niệm phong kiến lạc hậu vẫn còn nặng
nề đương thời. Từ nhân vật Loan trong Nắng thu, đến Loan trong Đoạn tuyệt, rồi
Nhung trong Lạnh lùng, Thu trong Bướm trắng, tất cả họ đều là những người
mạnh mẽ, dám yêu, dám đấu tranh để bảo vệ tình yêu, hạnh phúc của mình. Họ
không phải là những người nhu nhược chỉ biết nghe theo sự sắp đặt của gia đình,
họ càng không phải là những con người khụy lụy răm rắp làm theo những quy
tắc lỗi thời do xã hội đặt ra mà họ đã đứng lên thực hiện một cuộc cách mạng để
giải thoát cho bản thân và những người phụ nữ khác. Viết về người phụ nữ, nhà
văn đã thể hiện sự cảm thông sâu sắc với với số phận bất hạnh của họ và thổi vào
họ một sức sống mới tiềm tàng, mạnh mẽ để chống lại với tất cả sự hủ bại trong
xã hội. Đây là một cái nhìn rất mới mẻ và mang đậm tính nhân văn của Nhất
Linh.
14
2.2. Các kiểu nhân vật nữ trong tiểu thuyết của Nhất Linh
Nhân vật là đứa con tinh thần của nhà văn. Vì thế, mỗi nhà văn khi sáng
tác đều xây dựng nhân vật tùy theo ý định và cá tính của người viết. Tiếp cận tác
phẩm của các nhà văn, người nghiên cứu có thể phân chia thế giới nhân vật
thành các kiểu dạng nhân vật. Khi nghiên cứu về hình tượng nhân vật nữ trong
tiểu thuyết của Nhất Linh, ta cũng có thể phân thành nhiều kiểu nhân vật nữ khác
nhau. Với đề tài tình yêu bao trùm khắp các tác phẩm thì nhân vật nữ trong tiểu
thuyết của Tự lực văn đoàn nói chung và của Nhất Linh nói riêng thường là
những nhân vật “nàng”. Họ đa phần là những tri thức Tây học trẻ tuổi, xinh đẹp
thuộc tầng lớp trưởng giả. Bên cạnh đó cũng có một số ít các nhân vật chưa
“nhiễm Tây”, họ sống tuân theo những phép tắc nghiêm ngặt của tư tưởng Nho
giáo. Tuy nhiên, dù là kiểu người nào thì họ luôn có những nỗi khổ riêng, những
băn khoăn riêng, họ nhạy cảm với cuộc sống và luôn cảm thấy buồn phiền trước
cuộc đời. Dựa vào tâm lí, tính cách, đặc biệt là dựa vào ý thức đấu tranh chống
lại lễ giáo phong kiến ta có thể chia nhân vật trong tiểu thuyết của Nhất Linh
thành ba kiểu nhân vật đó là kiểu nhân vật chuẩn mực, khuôn phép, kiểu nhân
vật “nổi loạn” và kiểu nhân vật bi kịch
2.2.1. Kiểu nhân vật chuẩn mực, khuôn phép
Kiểu nhân vật sống theo chuẩn mực, khuôn phép chính là kiểu nhân vật
chịu ảnh hưởng sâu sắc những suy nghĩ, quan niệm, phép tắc của tư tưởng Nho
giáo. Trong tiểu thuyết của Nhất Linh, kiểu nhân vật này xuất hiện không nhiều,
chủ yếu đóng vai trò là nhân vật phụ, mà tiêu biểu là hình tượng các bà mẹ, bao
gồm cả mẹ đẻ, mẹ chồng. Tuy không phải là nhân vật chính nhưng họ gần như
trở thành một thế lực có sức chi phối mạnh mẽ trong gia đình và xã hội bấy giờ.
Đại diện tiêu biểu nhất sống tuân thủ nghiêm ngặt theo khuôn phép của
Nho giáo phải kể đến bà Hai - mẹ của Loan trong Đoạn tuyệt. Bà Hai là người
của thế hệ đi trước, bà chịu sự chi phối rất lớn từ những tư tưởng, suy nghĩ của
nếp sống cũ và bà đã áp đặt “nguyên bản” nếp sống đó đối với con gái mình. Từ
ăn mặc, đi đứng, nói năng đến việc quan trọng nhất của cuộc đời Loan là việc gả
15
chồng cũng đều do bà sắp đặt. Bởi thế, bà Hai một mực bắt Loan phải lấy Thân,
trong suy nghĩ của bà thì cha mẹ đặt đâu con phải ngồi đấy. Khi gia đình nhà bà
Phán - mẹ Thân đem đồ lễ đến để hỏi cưới Loan, bà Hai không cần hỏi ý kiến
Loan, bà cũng không cần biết là Loan có đồng ý hay không mà cứ nhận đồ cưới
như một lẽ tự nhiên bởi bà nghĩ bà đã nhận thì con cũng phải nhận. Khi Loan
biết chuyện, nàng không đồng ý và có lời trách móc mẹ thì bà khóc và cho rằng
con hỗn, những lời nói của bà Hai đầy sự bảo thủ, áp đặt: “Việc ấy thầy me đã
định rồi và sẽ lo liệu thu xếp cho cô, cô không phải bàn. Cái thói ở đâu hễ mẹ nói
một câu gì là cứ mồm một mồm hai cãi lại xa xả. Văn minh vừa vừa chứ người
ta mới chịu nổi!”. Và cuối cùng trước sự ép buộc của bố mẹ, Loan đành ngậm
ngùi lấy Thân mặc dù người nàng yêu là Dũng. Ngay cả khi Loan lấy chồng, bị
nhà chồng hành hạ, bà Hai vẫn coi đó là lẽ tự nhiên vì theo bà con dâu phải có
bổn phận hầu hạ nhà chồng. Đến khi Loan vùng dậy chống đối lại gia đình
chồng và giết chết chồng, bà Hai vẫn không hiểu được nỗi lòng của con gái, bà
trách Loan, bà cho đó là một sự sỉ nhục ghê gớm đối với gia đình bà: “Nó làm
khổ tôi. Nó làm dơ diếu cả nhà tôi. Hai bác tính, tôi hiếm hoi có một đứa con,
cũng tưởng gây dựng cho nó nên người tử tế, có ngờ đâu bây giờ tôi hóa ra mẹ
của một đứa con giết chồng. Nhục nhã chưa?” [18, Tr.130]. Bà Hai không hiểu
được rằng chính sự áp đặt và những suy nghĩ có phần cổ hủ của bà mới là
nguyên nhân đẩy con gái bà vào tấn bi kịch của cuộc đời. Có thể những suy nghĩ,
việc làm của bà là đều có thiện chí, bởi bà cũng muốn con gái được làm dâu gia
đình giàu có, bà cũng muốn được mở mày mở mặt với thiên hạ, tuy nhiên sai
lầm lớn nhất của bà chính là sự bảo thủ, áp đặt, bà luôn bắt con phải làm theo ý
mình, luôn bảo vệ suy nghĩ của mình dù cho suy nghĩ đó là lệch lạc,là thiển cận.
Những suy nghĩ, hành động của bà Hai cũng là tình trạng chung của các bà mẹ
trong xã hội bấy giờ, bởi họ là những người sống theo khuôn phép, chuẩn mực của
lễ giáo phong kiến, họ cho rằng cha mẹ sinh con ra thì có mọi quyền hành đối với
con mình, và họ không chấp nhận những gì đi ngược lại với quan niệm đó.
16
Bên cạnh bà Hai thì bà Án - mẹ chồng Nhung trong Lạnh lùng cũng là
một nhân vật sống theo khuôn phép của lễ giáo. Bà Án luôn luôn lấy đạo đức, lễ
nghĩa của con người lên hàng đầu và với con dâu, bà càng coi trọng điều này. Từ
khi về làm dâu, bà Án đã luôn là một người con hiếu thảo, ăn ở, nói năng đúng
mực, có trước có sau. Chồng bà cũng mất sớm và bà quyết định ở vậy thờ chồng,
nuôi con. Bà Án chính là một tấm gương sáng nhất về công, dung, ngôn, hạnh
của người phụ nữ thời xưa. Khi Nhung về làm dâu nhà bà, bà cũng dạy bảo để
nàng trở thành một nàng dâu đúng mực. Đặc biệt khi chồng Nhung mất sớm, bà
Án càng nhắc nhở Nhung về việc giữ gìn tiết hạnh. Bà treo một bức hoành phi
trên tủ chè đề bốn chữ vàng “tiết hạnh khả phong” để răn dạy Nhung và cả
những người phụ nữ trong gia đình. Chính điều này đã ảnh hưởng sâu sắc đến
suy nghĩ của Nhung, nàng luôn ý thức được phẩm giá và trách nhiệm của mình
đối với gia đình chồng. Ngay cả khi yêu Nghĩa tha thiết thì nàng vẫn không dám
bảo vệ tình yêu của mình bởi trong nàng luôn văng vẳng những lời dạy về tiết
hạnh, về thanh danh mà mẹ chồng nói. Khi biết Nhung có ý định bỏ trốn theo
Nghĩa, bà Án đã nhắc khéo để Nhung biết về thân phận của nàng, lời của bà luôn
nhẹ nhành, từ tốn nhưng lại mang ý nghĩa sâu xa “Mợ phải nghĩ đến thân mình,
một người đàn bà góa không thể đua đòi chị em, đi chơi nay chỗ này mai chỗ
khác như họ được” [19, Tr.90]. Bà cũng luôn nhắc con dâu phải nghĩ đến gia
đình, đến danh giá “còn mợ, không phải mợ chỉ giữ gìn cho nhà chồng, cho nhà
mợ lại còn cho làng nước người ta trông vào nữa”. Phải nói bà Án là người chịu
ảnh hưởng đầy đủ nhất quan niệm sống của Nho giáo, ta có thể coi bà như người
phát ngôn viên cho những tư tưởng đã trở thành nguyên tắc sống trong xã hội
bấy giờ. Chính bởi sự ảnh hưởng của quan niệm sống chuẩn mực, khuôn phép do
bà Án dạy đã làm Nhung sợ hãi, nàng không đủ can đảm để bỏ chạy theo Nghĩa
mà đành nghe theo lời mẹ là thủ tiết thờ chồng.
Hình tượng người phụ nữ sống theo chuẩn mực, khuôn phép của lễ giáo
phong kiến được xây dựng lên không phải là sự ngẫu nhiên mà là vì một mục
đích nghệ thuật nhất định của nhà văn. Hình tượng các bà mẹ sống theo những
17
quy tắc bất di bất dịch của quan niệm phong kiến đã tạo ra sự đối sánh ngầm với
các nhân vật nữ chính - những người chịu ảnh hưởng rất lớn của phong trào Âu
hóa đương thời. Từ đó cho thấy sự trái ngược giữa quan niệm cũ và quan niệm
mới, giữa lớp người cũ và lớp người mới, nó góp phần làm nổi bật hình tượng
những người phụ nữ sống “nổi loạn”, sống trái ngược hẳn với những quan niệm
đương thời. Sự đối lập này cũng giúp ta giải thích nguyên nhân dẫn tới bi kịch
của lớp người phụ nữ mới, lớp người phụ nữ tân thời dám chống lại xã hội
phong kiến.
2.2.2. Kiểu nhân vật “nổi loạn”
Nhân vật nữ trong tiểu thuyết của Nhất Linh chỉ có một số ít là mẫu người
phụ nữ cam chịu, sống tuân theo mọi luật lệ của xã hội, còn phần lớn là những
người phụ nữ chịu ảnh hưởng của tư tưởng tiến bộ Tây Âu, họ mang trong mình
ý thức đấu tranh mạnh mẽ. Những tư tưởng tiến bộ trong tình yêu, trong hôn
nhân, gia đình, trong lối sống, quan niệm sống và ý thức đấu tranh để thực hiện
những tư tưởng ấy đã biến những người phụ nữ thành những người “nổi loạn”.
Nhân vật “nổi loạn” ở đây không giống như quan niệm của các nhà nghiên cứu
cho rằng nhân vật đi lệch với tư tưởng, ý định mà nhà văn vạch sẵn, ở đây “nổi
loạn” là nói đến cách sống không tuân theo bất cứ một khuân mẫu, một chuẩn
mực nào của xã hội, thậm chí là đi ngược lại với tất cả những quy tắc đạo đức đã
trở thành thâm căn cố đế trong đời sống xưa.
Sự “nổi loạn” đó thể hiện rõ nhất ở nhân vật Tuyết trong Đời mưa gió.
Tuyết sống buông thả, ăn chơi trác táng, sống với sở thích riêng, lí tưởng riêng
và không cần biết đến ngày mai. Đặc biệt quan niệm về tình yêu của Tuyết rất
phóng khoáng: tình yêu chỉ là nhục dục tầm thường và vì thế không nhất thiết
phải yêu một người mà có thể yêu nhiều người cùng một lúc.
Tuyết “nổi loạn” trước hết là trong quan niệm sống. Ta có thể hiểu quan
niệm sống chính là những nhận thức, những suy nghĩ, ý nghĩ của con người về
cuộc sống hiện tại. Với những vấn đề khác nhau trong xã hội mỗi người lại có
những quan niệm riêng: quan niệm về tình yêu, hôn nhân, gia đình, hạnh phúc...
18
và Tuyết cũng vậy. Tuyết vốn là con nhà quý phái, giàu có, được học hành tử tế
và được gia đình cưng chiều từ nhỏ. Cô cũng có ước mơ, cũng luôn nghĩ về một
tương lai tốt đẹp. Nhưng mọi thứ tiêu tan khi mười bảy tuổi gia đình buộc cô
phải lấy chồng, một người mà cô không yêu cũng không biết mặt. Như vậy trước
khi trở thành một gái giang hồ thì Tuyết cũng có những quan niệm tốt đẹp về
cuộc sống với những mơ ước, những hoài niệm tốt đẹp. Lúc này xét ở một góc
độ nào đó ta thấy Tuyết là nạn nhân của xã hội cũ, quan niệm cha mẹ đặt đâu con
ngồi đấy đã cướp đi tương lai, hi vọng của cô. Nhưng Tuyết đã không cam chịu
số phận, cô không thể sống cùng “người chồng đã mười bảy, mười tám tuổi đầu
mà còn ngây ngốc như một thằng bé con lên mười”. Có lẽ sự “nổi loạn” của
Tuyết bắt nguồn từ chính điều này. Tuyết ngoại tình với một cậu láng giềng và
cuối cùng bỏ nhà đi theo tình nhân. Khi quan niệm về gia đình của Tuyết vẫn
chưa thực sự ổn định thì cô đã có một quan niệm mới về cuộc sống. Quan niệm
sống của Tuyết dần đưa cô dấn thân vào “đời mưa gió” của một gái giang hồ. Đó
chính là quan niệm về một thứ ái tình hoan lạc, quan niệm về một lối sống dễ dãi
với những đam mê dục vọng tầm thường. Từ đây, Tuyết luôn khắc sâu trong tim
mình một câu châm ngôn ghê gớm về tình yêu “không tình, không cảm, chỉ coi
lạc thú ở đời như một vị thuốc trường sinh” [13, Tr. 61]. Với cô tình ái không
phải là sự đồng điệu giữa hai tâm hồn mà đó là “sự gặp gỡ giữa hai xác thịt”,
“yêu thì cứ yêu bao giờ chán thì thôi, việc gì mà phải chờ đợi mòn mỏi, sầu
não”. Trong xã hội cũ đây là quan niệm bị lên án nhưng đối với một cô gái như
Tuyết thì đó là chuyện bình thường. Cho đến cuối cùng, quan niệm sống của
Tuyết vẫn không thay đổi. Hành động của cô ở cuối tác phẩm đã thể hiện điều
này. Ngày cô trở về với Chương trong thân hình tiều tụy, những tưởng đây sẽ là
lần cô chọn bến đỗ cuối cùng để cô vĩnh biệt cuộc đời mưa gió, nhưng không,
lần này cũng chỉ là lần thức tỉnh tạm thời. Tuyết vẫn chọn sự ra đi như một sự
kết thúc cuối cùng của một cô gái giang hồ. Nhân vật này đã có sự dằn vặt bản
thân, nhưng mọi thứ không đủ mạnh để có thể thay đổi quan niệm sống đã ăn sâu
vào máu thịt của cô. Cuối cùng, Tuyết vẫn là một con chim tự do tung cánh giữa
19
cuộc đời, dù yên lặng hay sóng gió thì nó vẫn tìm kiếm lạc thú và say sưa trong
ái tình mộng mị.
Tuyết thực sự là sự “nổi loạn” trong quan niệm sống, quan niệm sống đó
đã đi ngược lại với những quan niệm hà khắc của xã hội phong kiến về tiết hạnh
và nhân phẩm của người phụ nữ.
Không chỉ ‘nổi loạn” trong quan niệm sống mà Tuyết còn “nổi loạn’ trong
cả lối sống. Lối sống chính là cách sống của mỗi người, thể hiện cách ứng sử,
giao tiếp của con người trong mọi hoạt động của cuộc sống hàng ngày. Lối sống
của mỗi người không giống nhau vì nó phụ thuộc vào quan niệm, suy nghĩ về
cuộc sống của mỗi cá nhân. Sẽ có một lối sống tốt nếu như người ta có những
quan niệm sống đúng đắn.
Ở Tuyết, sự “nổi loạn” trong quan niệm sống là tiền đề tất yếu dẫn đến sự
“nổi loạn” trong lối sống của con người này. Theo lễ giáo phong kiến về ứng xử
của người phụ nữ khi đi lấy chồng thì “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử
tòng tử”. Thế nhưng Tuyết lại đi ngược lại với những chuẩn mực đó. Khi phải
lấy một người chồng mà mình không yêu, Tuyết đã không “an phận thủ thường”
như đa số phụ nữ thời đó vẫn làm mà cô đã “nổi loạn” để thoát khỏi cuộc sống
đó. Tuyết đã bỏ gia đình và đứa con nhỏ để chạy theo nhân tình, sống một cuộc
sống buông thả từ đó. Lối sống mà Tuyết chọn cho mình là lối sống cực đoan,
lấy cái “tôi” làm trung tâm, lấy lạc thú làm chuẩn mực cao nhất, sống hôm nay
không cần biết đến ngày mai.
Lối sống hưởng lạc của Tuyết được Nhất Linh tái hiện rất rõ trong từng
hành động, lời nói của cô. Ngay trong lần đầu tiên gặp Chương khi Chương ra
tay cứu khỏi đòn đánh của gã tình nhân, quen thói lẳng lơ, Tuyết đã xin đến nhà
Chương ngủ nhờ “hay anh cho em về nhà anh ngủ nhờ một tối”. Cách nói này đã
giúp Chương nhận ra bản chất không đứng đắn của cô gái mới quen nên Chương
đã không đồng ý. Nhưng rồi Tuyết lại tìm đến tận nhà Chương để cảm ơn và tìm
cách lô kéo anh vào vòng tình ái mà theo Tuyết nói “em định ghẹo anh, vâng
ghẹo anh một tí thôi... chứ nào em có yêu gì anh” [13, Tr.67]. Có thể nói, cách
20
sống lẳng lơ, buông thả đã dạy cho Tuyết biết cách thu phục đàn ông, đặc biệt
với những người thụ động, nhút nhát như Chương.
Dù đã sống bên Chương, đã trở thành nhân tình của Chương nhưng Tuyết
vẫn không thể từ bỏ được lối sống giang hồ. Những hành động bỏ nhà đi lặp đi
lặp lại của Tuyết đã chứng minh điều đó. Khi đang cùng Chương đi nghỉ mát,
gặp lại Bảo ở trong khách sạn, Tuyết đã không cưỡng lại được nên đã bỏ đi “theo
tiếng gọi ở cõi xa xăm, nàng đi tìm một người tình nhân cũ mà nàng vụt cảm
thấy nàng yêu” [13, Tr.26]. Trong bức thư gửi Chương, cô đã thú nhận: “em đã
như con chim lạc đàn nay đây mai đó, đang quen sống cái đời phiêu bạt giang
hồ, thì anh cũng chẳng nên lưu luyến em làm chi” [13, Tr.69]. Tổ ấm mà
Chương dựng lên quá là mong manh, không đủ sức giữ chân một người như cô.
Tuyết đã tự tạo ra cho mình một lối sống quá phóng túng, tự do buông thả đến
mức trơ trẽn và chính cô cũng thừa nhận điều đó: “Anh chưa biết anh là ai đấy.
Em chỉ là một đứa giả dối, man trá, hơn nữa em là một con ác phụ bỏ chồng, bỏ
con theo trai. Em là một con đĩ khốn nạn, đê hèn” [6, Tr.70]. Và sự thực, nó đã
được minh chứng qua hành động lần thứ hai cô bỏ đi với nhân tình cũ là Văn.
Tuyết lại đắm mình trong những cuộc phiêu lưu tình ái, một thứ tình ái xác thịt.
Đó là niềm vui sống mà Tuyết tạo ra cho mình, cuộc sống sẽ chẳng có ý nghĩa gì
nếu cô không được bước đi trên con đường đầy gió bụi mà cô đã chọn. Tuyết
thấy việc cô bỏ Chương đi theo người khác cũng dễ dàng như cô bỏ người khác
đến với Chương, cô không hề cảm thấy áy náy hay ân hận gì. Lần cuối cùng
Tuyết trở về bên Chương là vào một ngày Tết với một thân hình tàn tạ, nhưng
rồi cô vẫn chọn cách giải thoát cho mình là sự ra đi, bởi “một cô gái giang hồ có
thể nào tránh được cái đời vô định”.
Tuyết tiêu biểu cho một quan niệm sống và một lối sống cực đoan. Đặt
trong hoàn cảnh xã hội đương thời, đây thực sự là một sự “nổi loạn” ghê gớm và
không thể chấp nhận được. Đã từng có ý kiến kết án Nhất Linh khi xây dựng
nhân vật Tuyết chính là việc “thi vị hóa nghề làm đĩ”, ý kiến này xét từ góc độ
nào đó cũng chính là xuất phát từ quan niệm và lối sống buông thả, dễ dãi của
21