Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Đặc sắc thơ hữu thỉnh qua tập thơ thư mùa đông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (589.76 KB, 70 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

******

NGUYỄN THỊ HUẤN

ĐẶC SẮC THƠ HỮU THỈNH
QUA TẬP THƠ THƯ MÙA ĐÔNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Hà Nội – 2013


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

******

NGUYỄN THỊ HUẤN

ĐẶC SẮC THƠ HỮU THỈNH
QUA TẬP THƠ THƯ MÙA ĐÔNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
Th.S DƯƠNG THỊ THÚY HẰNG

Hà Nội – 2013




Khoá luận tốt nghiệp

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện khoá luận với đề tài "Đặc sắc thơ Hữu Thỉnh
qua tập thơ Thư mùa đông" tác giả đã nhận được sự giúp đỡ, tạo điều kiện của
các thầy, cô giáo đặc biệt là ThS Dương Thị Thuý Hằng của tổ Văn học Việt
Nam - người trực tiếp hướng dẫn khoá luận của tôi. Tôi xin được bày tỏ lòng
biết ơn sâu sắc tới các thầy, cô giáo đã chỉ bảo tận tình tôi trong suốt quá trình
thực hiện khoá luận tốt nghiệp này.
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2013
Người viết

Nguyễn Thị Huấn

Nguyễn Thị Huấn

Lớp K35C - SP Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan những nội dung mà tôi trình bày trong khoá luận tốt
nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, có tham khảo ý kiến của những
người đi trước, dưới sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của ThS Dương Thị Thuý
Hằng - người hướng dẫn trực tiếp của tôi. Tôi xin chịu trách nhiệm về kết quả
nghiên cứu của tôi trong khoá luận này.

Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2013
Người viết

Nguyễn Thị Huấn

Nguyễn Thị Huấn

Lớp K35C - SP Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

MỤC LỤC

A. PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................... 4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................................... 4
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 4
6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 4
7. Cấu trúc nội dung khóa luận ........................................................................... 5

B. PHẦN NỘI DUNG...................................................................................... 6
CHƯƠNG 1: THẾ HỆ THƠ TRẺ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ VÀ CÁC
CHẶNG ĐƯỜNG THƠ HỮU THỈNH. .......................................................... 6
1.1. Khái quát về thế hệ thơ chống Mĩ ................................................................ 6
1.1.1. Các thế hệ thơ chống Mĩ ................................................................... 6
1.1.2. Thế hệ thơ trẻ thời chống Mĩ ............................................................ 6
1.2. Những chặng đường thơ Hữu Thỉnh .......................................................... 10
1.2.1. Thơ Hữu Thỉnh trong kháng chiến chống Mĩ và thời kì hậu chiến .. 11
1.2.2. Thơ Hữu Thỉnh từ sau đổi mới ....................................................... 12
1.3. Tập thơ Thư mùa đông .............................................................................. 13
CHƯƠNG 2: NHỮNG PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG
TẬP THƠ THƯ MÙA ĐÔNG ........................................................................ 15
2.1. Cảm hứng về quê hương, đất nước ............................................................ 15
2.2. Cảm hứng thế sự - đời tư ........................................................................... 21
2.2.1. Suy tư, trăn trở về cuộc đời ............................................................. 22
2.2.2. Suy tư, trăn trở về văn chương ........................................................ 29
2.2.3. Suy tư, trăn trở về gia đình.............................................................. 32
2.3. Cảm hứng về tình yêu................................................................................ 34
Nguyễn Thị Huấn

Lớp K35C - SP Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

CHƯƠNG 3: NHỮNG PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN
TRONG TẬP THƠ THƯ MÙA ĐÔNG ......................................................... 43
3.1. Không gian nghệ thuật............................................................................... 43

3.1.1. Không gian làng quê trung du Bắc Bộ ........................................... 43
3.1.2. Không gian biển ............................................................................ 46
3.2. Thời gian nghệ thuật .................................................................................. 48
3.2.1. Thời gian hiện tại ........................................................................... 50
3.2.2. Thời gian quá khứ .......................................................................... 51
3.2.3. Thời gian tương lai ........................................................................ 53
3.3. Ngôn từ nghệ thuật .................................................................................... 53
3.3.1. Ngôn ngữ thơ giản dị, gần gũi....................................................... 53
3.3.2. Ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh ......................................................... 56
3.3.3. Ngôn ngữ thơ đậm tính triết lí ....................................................... 58
PHẦN KẾT LUẬN ......................................................................................... 60

Nguyễn Thị Huấn

Lớp K35C - SP Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Thế hệ các nhà thơ trẻ kháng chiến chống Mỹ với những cái tên như
Nguyễn Khoa Điềm, Phạm Tiến Duật, Thanh Thảo, Xuân Quỳnh, Lưu Quang
Vũ, Hữu Thỉnh… đã làm nên cả một dàn hợp xướng đa dạng và phong phú
nhưng thống nhất trên những thanh âm sôi nổi, ở nhiệt hứng ngợi ca bội phần
khỏe khoắn, tin tưởng, yêu đời. Và cũng chính họ, khi hòa bình lập lại, lại tiếp
tục đóng góp cho thơ ca đất nước thời kì đổi mới những vần thơ giàu nhiệt huyết

nhưng đã vơi đi nhiều cái sôi nổi, trẻ trung, xông xáo. Cùng với thời gian, thế hệ
các nhà thơ này trở nên già dặn trong cách nghĩ suy và khi nhận ra những biến
đổi của lối sống xã hội, họ đã đem vào trong sáng tác của mình những suy tư, âu
lo, và nhiều khi cả nỗi cô đơn, thất vọng về cuộc đời, về con người.
Hữu Thỉnh là nhà thơ tiêu biểu, giữ vị trí chủ lực trong thơ ca chống Mỹ
và thơ ca sau 1986. Đó là một giọng thơ "đằm thắm, đôn hậu, nghiêng về phía
rợp mát và chìm lắng yêu thương" (Lưu Khánh Thơ), đồng thời lại chứa đựng
những yếu tố đổi mới theo khá kịp, khá nhanh so với mạch thơ đương đại.
Không chỉ là một tác giả từng nắm nhiều trọng trách trong văn nghệ, là một cây
bút với nhiều tập thơ được đánh giá cao (Âm vang chiến hào, Đường tới thành
phố, Từ chiến hào đến thành phố, Thư mùa đông, Trường ca biển, Thư Hữu
Thỉnh, Sức bền của đất, Thương lượng với thời gian…); Hữu Thỉnh còn là một
nhà thơ vinh dự được nhận nhiều giải thưởng cao quý ghi nhận những đóng góp
đích thực trên hành trình sáng tạo thơ ca: Giải A cuộc thi thơ Báo Văn nghệ
1975-1976, Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1980, Giải thưởng văn học
ASEAN 1999, Giải thưởng Bộ Quốc phòng năm 1994, Giải thưởng Nhà nước
về văn học nghệ thuật đợt I năm 2001…
Trong hành trình sáng tác của Hữu Thỉnh, Thư mùa đông được coi là một
dấu mốc quan trọng. Tập thơ này từng được nhận giải thưởng Hội Nhà văn Việt
Nguyễn Thị Huấn

1

Lớp K35C - SP Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2


Nam (1995), tiếp đó là Giải thưởng Văn học ASEAN (1999). Ở đây, thơ của
Hữu Thỉnh có sự chuyển đổi khá rõ so với thời kì kháng chiến chống Mỹ, trên
cả hai phương diện cảm hứng trữ tình và hình thức nghệ thuật. Đã có rất nhiều
những bài nghiên cứu về các tập thơ của Hữu Thỉnh kể cả trong chống Mĩ và
trong thời bình. Nhưng những bài viết, bài nghiên cứu về tập thơ Thư mùa đông
vẫn còn chưa được nhiều và chưa ai khai phá đặc sắc thơ Hữu Thỉnh qua tập thơ
này. Bởi vậy tác giả khóa luận với tình yêu thơ của mình mong muốn đóng góp
một phần khám phá của mình để bạn đọc có thể hiểu hơn về thơ Hữu Thỉnh nói
chung và tập thơ Thư mùa đông nói riêng.
2. Lịch sử vấn đề
Thơ Hữu Thỉnh ở cả trong kháng chiến và thời bình đều được các bạn
đọc, các nhà nghiên cứu đánh giá cao; trở thành những đề tài tìm hiểu, nghiên
cứu của nhiều tác giả. Đã có rất nhiều những bài viết, những bài nghiên cứu,
những chuyên luận viết về Hữu Thỉnh, về các tập thơ, các bài thơ của ông nói
chung và tập thơ Thư mùa đông nói riêng. Mỗi bài viết, chuyên luận đã thể hiện
những góc nhìn khác nhau về con người và thơ Hữu Thỉnh.
Có thể kể đến một số bài viết tiêu biểu về tác giả Hữu Thỉnh và các tập
thơ của ông nói chung như:
Trong cuốn Văn chương cảm và luận(1998) của Nguyễn Trọng Tạo ông
cũng đã dành một bài viết trang trọng "Hữu Thỉnh - thành phố hồn quê" để viết
về con người và thơ Hữu Thỉnh. Nguyễn Trọng Tạo đã đánh giá rất cao những
yếu tố truyền thống, yếu tố thôn quê, dân dã trong những sáng tác của Hữu
Thỉnh. Và đây cũng chính là nét tạo nên phong cách nghệ thuật của Hữu Thỉnh.
Đến năm 1999, PGS.TS Lý Hoài Thu có bài viết "Hữu Thỉnh – một
hướng tìm tòi và sáng tạo từ dân tộc tới hiện đại" đăng trên Tạp chí Văn học
tháng 12 – 1999. Bài viết đã khẳng định vị trí của Hữu Thỉnh trong cả thời kì
kháng chiến chống Mĩ và trong cả nền văn học đương đại Việt Nam. Tác giả đã
khái quát được một cách đầy đủ và sâu sắc những nét độc đáo, đặc sắc của thơ
Hữu Thỉnh. Tác giả đã chỉ ra phong cách thơ Hữu Thỉnh đó là sự kết hợp nhuần
Nguyễn Thị Huấn


2

Lớp K35C - SP Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

nhuỵ giữa yếu tố truyền thống và hiện đại để "tạc dựng thành công hình tượng
một Việt Nam bất tử"[22, 51]; giữa triết luận và trữ tình; giữa những hình ảnh
gần gũi với những ý tứ sâu xa. Có thể coi đây là bài viết khá sâu sắc bao quát
được những nét lớn về thơ Hữu Thỉnh.
Tiếp đó năm 2001 có bài viết "Thơ Hữu Thỉnh" của tác giả Vũ Nho in
trong Đi giữa miền thơ. Ông cũng đã có những nhận xét đánh giá khá sâu sắc về
thơ Hữu Thỉnh nhưng chưa đề cập đến trường ca Sức bền của đất - một tập thơ
được coi là dấu mốc quan trong đánh dấu sự trưởng thành của hồn thơ Hữu
Thỉnh.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp cũng đã có bài viết "Hữu Thỉnh và
quá trình tự đổi mới thơ" in trên Tạp chí Văn học số 9 năm 2003. Bài viết đã đi
sâu vào những đổi mới của thơ Hữu Thỉnh trên nhiều phương diện. Nhưng ở
phương diện nào thì tác giả cũng nhận ra sự gần gũi, bình dị, chân thực với một
hồn thơ giàu trăn trở và suy tư. Tất cả điều đó đã tạo nên dấu ấn riêng, sức hấp
dẫn đặc biệt của thơ Hữu Thỉnh.
Đến năm 2005, trên Tạp chí Văn học Lưu Khánh Thơ có bài "Hữu Thỉnh
một phong cách thơ sáng tạo". Bài viết đã cho thấy nghệ thuật độc đáo mang
đậm chất truyền thống qua cách ví von, tư duy và qua những liên tưởng độc
đáo. Nó đã tạo nên trong thơ Hữu Thỉnh "sự đằm thắm, đôn hậu mà sâu lắng
yêu thương da diết của hồn thơ Hữu Thỉnh".

Ngoài những bài viết tiêu biểu trên thì thơ Hữu Thỉnh còn là đề tài nghiên
cứu cho rất nhiều chuyên luận, luận văn. Có thể kể đến như:
Thi pháp thơ Hữu Thỉnh của Nguyễn Nguyên Tản, Nhà xuất bản Hội Nhà
văn, Hà Nội, 2005.
Luận văn Thế giới nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh của Phạm Văn Đức.

Ra đời sau đổi mới (1986), tập thơ Thư mùa đông đã nhận được sự quan
tâm đặc biệt của giới nghiên cứu. Trong bài viết "Thư mùa đông của Hữu
Thỉnh" in trên Báo Văn nghệ Quân đội số 4 – 1996, Trần Mạnh Hảo đặc biệt
Nguyễn Thị Huấn

3

Lớp K35C - SP Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

nhấn mạnh tới cái hồn quê dân dã, tính hàm súc, kiệm lời và giàu tính triết lí.
Tuy nhiên, cho tới nay, vẫn chưa có công trình nào tìm hiểu, nghiên cứu một
cách hệ thống, kĩ lưỡng về Thư mùa đông – tập thơ được coi là tiêu biểu cho
hành trình sáng tác thơ Hữu Thỉnh. Trên cơ sở đó, chúng tôi quyết định lựa chọn
đề tài "Đặc sắc thơ Hữu Thỉnh qua tập thơ Thư mùa đông. Chúng tôi hi vọng sẽ
góp phần nhỏ vào việc tìm hiểu một số đặc sắc thơ của Hữu Thỉnh nói riêng, từ
đó có cái nhìn phóng chiếu ra mối liên hệ giữa tập thơ này với các sáng tác trước
và sau đó của Hữu Thỉnh.
3. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận "Đặc sắc thơ Hữu Thỉnh qua tập thơ Thư mùa đông" nhằm đi

sâu tìm hiểu :
Thơ Hữu Thỉnh đặt trong dàn đồng ca thơ trẻ thời chống Mĩ; những chặng
đường thơ Hữu Thỉnh.
Những phương diện nội dung cơ bản trong tập thơ này: cảm hứng về quê
hương, đất nước; cảm hứng thế sự - đời tư và cảm hứng về tình yêu.
Những phương diện của nghệ thuật biểu hiện trong Thư mùa đông về các
khía cạnh như: không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, ngôn từ nghệ thuật...
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Kết luận phải nêu được một số đặc sắc thơ Hữu Thỉnh qua tập thơ Thư
mùa đông. Qua nghiên cứu, phân tích để làm sáng tỏ: Thế hệ thơ trẻ kháng chiến
chống Mĩ và các chặng đường thơ Hữu Thỉnh, những phương diện cơ bản về
nội dung và nghệ thuật biểu hiện của tập thơ Thư mùa đông. Từ đó đánh giá
được vị trí của tập thơ trong con đường thơ Hữu Thỉnh và trong thi đàn cũng
như vị trí của Hữu Thỉnh trong đội ngũ các nhà thơ đương đại Việt Nam.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khóa luận này tìm hiểu đặc sắc thơ Hữu Thỉnh trong phạm vi một tập thơ
- Thư mùa đông (1994). Tâp thơ đánh dấu mốc quan trọng cho thơ Hữu Thỉnh
sau đổi mới.
6. Phương pháp nghiên cứu
Nguyễn Thị Huấn

4

Lớp K35C - SP Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2


Khóa luận này sử dụng đồng thời một số phương pháp nghiên cứu như:
phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh – đối
chiếu…
7. Cấu trúc nội dung khóa luận
Khóa luận này ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo thì
phần nội dung khoá luận được triển khai làm ba chương cụ thể đó là:
Chương 1: Thế hệ thơ trẻ kháng chiến chống Mĩ và những chặng đường
thơ Hữu Thỉnh.
Chương 2: Những phương diện nội dung cơ bản trong tập thơ Thư mùa
đông.
Chương 3: Những phương diện nghệ thuật biểu hiện trong tập thơ Thư
mùa đông.

Nguyễn Thị Huấn

5

Lớp K35C - SP Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

B. PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: THẾ HỆ THƠ TRẺ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ VÀ CÁC
CHẶNG ĐƯỜNG THƠ HỮU THỈNH.
1.1. Khái quát về thế hệ thơ chống Mĩ
1.1.1. Các thế hệ thơ chống Mĩ

Ngày 5-8-1964 đế quốc Mĩ cho máy bay đánh phá một số địa điểm ở miền
Bắc và sau đó cho quân ồ ạt đổ bộ vào miền Nam chính thức mở rộng chiến
tranh xâm lược trên phạm vi cả nước. Nhân dân ta vừa bước ra khỏi cuộc chiến
chống thực dân Pháp lại phải bắt tay ngay vào công cuộc kháng chiến chống đế
quốc Mĩ – "kẻ thù hùng mạnh vào loại bậc nhất trên Trái Đất".
Trên mặt trận tinh thần, cụ thể là văn học, thơ cũng như các thể loại khác
trở thành công cụ chiến đấu hữu hiệu phục vụ kháng chiến. Thơ kháng chiến
chống Mĩ (1964-1975) đã thực sự nhập cuộc và để lại nhiều thành tựu to lớn góp
phần làm nên cuốn "biên niên văn học" về cuộc ái quốc vĩ đại của dân tộc ta. Để
làm nên những thành tựu to lớn ấy không thể không kể đến đội ngũ sáng tác.
Đội ngũ sáng tác thơ trong kháng chiến chống Mĩ vô cùng đông đảo.
Chưa một giai đoạn văn học nào mà ta thấy lại tập hợp được một lực lượng các
nhà thơ gồm nhiều thế hệ đến thế. Đó là thế hệ nhà thơ xuất hiện từ trước Cách
mạng tháng Tám tiêu biểu như: Tố Hữu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu,
Chế Lan Viên…Thế hệ nhà thơ trong kháng chiến chống Pháp với những gương
mặt xuất sắc như: Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông…Đặc
biệt ở thời kì này có sự góp mặt của thế hệ các nhà thơ trẻ xuất hiện và trưởng
thành ngay trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Đây là một thế hệ vô cùng mạnh
mẽ đã đem lại cho thơ kháng chiến một sức sáng tạo mới mẻ, trẻ trung, trong
sáng và nhạy cảm.
1.1.2. Thế hệ thơ trẻ thời chống Mĩ
Các chặng đường phát triển:
Nguyễn Thị Huấn

6

Lớp K35C - SP Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khi nhắc đến thơ ca thời chống Mĩ người ta không thể không nhắc đến
thơ của các nhà thơ trẻ thời kì này. Ta cũng không thể hình dung một cách toàn
diện diện mạo của thơ ca chống Mĩ nếu ta bỏ sót thơ của thế hệ trẻ này. Thơ trẻ
thời chống Mĩ cứu nước là khái niệm để chỉ toàn bộ các cây bút trẻ và những
sáng tác thơ ra đời trong giai đoạn lịch sử này và ghi được những dấu ấn trên
văn đàn.
Các nhà thơ trẻ thời kì này phần lớn thuộc lớp người sinh ra từ sau Cách
mạng, nhiều người trong số họ đã từ ghế nhà trường đi thẳng ra chiến trường
đầy ác liệt. Họ là những nhà thơ cầm súng trực tiếp chiến đấu nơi hòn tên mũi
đạn của kẻ thù, thực sự đối mặt với tất cả những khó khăn của cuộc sống thời
chiến thậm chí là cả cái chết. Ở họ đã có sự nhập cuộc thực sự và đối mặt với
hiện thực khốc liệt nhưng đầy vẻ vang để tạo nên những vần thơ phản ánh đúng
hiện thực, đáp ứng đúng nhu cầu phục vụ kháng chiến tạo nên gương mặt của
thế hệ thơ thời chống Mĩ. Chỉ trong vòng mười năm nhưng nền thơ chống Mĩ đã
lần lượt đón nhận liên tiếp hàng loạt những nhà thơ trẻ vô cùng xuất sắc đóng
góp vào nền thơ này như: Lê Anh Xuân, Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật, Nguyễn
Khoa Điềm, Nguyễn Đức Mậu, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Duy, Hoàng
Nhuận Cầm, Trần Đăng Khoa… Đó là những gương mặt thơ đã đóng góp những
viên gạch thơ vững chắc cho nền thơ chống Mĩ. Đây là một thế hệ có sự thống
nhất cao độ nhưng không bị hòa lẫn vào nhau mỗi nhà thơ lại mang những
phong cách riêng, giọng điệu riêng, quan điểm riêng về nghệ thuật.
Trên bình diện tổng quát, thơ trẻ thời kì chống Mĩ có thể chia làm ba
chặng đường. Ở mỗi chặng đường lại mang những nét riêng gắn liền với những
gương mặt tiêu biểu tạo nên dòng chảy liên tục đánh dấu sự trưởng thành của thế
hệ nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ.
Chặng thứ nhất từ 1964 đến 1968: Đây là chặng đầu của thế hệ thơ trẻ
chống Mĩ. Với sự góp mặt của các cây bút như: Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Lưu

Quang Vũ, Lê Anh Xuân, Nguyễn Mĩ, Phạm Ngọc Cảnh, Cảnh Trà…. Họ đem
đến trong thơ tiếng nói trẻ trung, sôi nổi, tươi tắn đầy nhiệt huyết của tuổi trẻ với
Nguyễn Thị Huấn

7

Lớp K35C - SP Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

sự chân thành sâu sắc. Đến cuối của chặng đường này tiếng thơ đã có sự gia tăng
những chiêm nghiệm, suy tư và khái quát. Nhưng những vần thơ ấy vẫn còn
mang những dấu vết sách vở và đó cũng chính là cái non nớt còn hạn chế của
thơ trẻ chống Mĩ trong chặng đầu này.
Chặng thứ hai từ 1969 đến 1972: Nguồn lực thơ trẻ được bổ sung thêm
khá nhiều gương mặt xuất sắc tiêu biểu như: Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa
Điềm, Phan Thị Thanh Nhàn, Hoàng Nhuận Cầm, Lâm Thị Mĩ Dạ… Đến chặng
này các nhà thơ đã thực sự khẳng định được tiếng thơ của thế hệ mình: trẻ trung,
khỏe khoắn, trong sáng, tự nhiên. Họ thực sự đưa nền thơ chống Mĩ đạt tới đỉnh
cao. Thơ ở thời kì này đã khái quát được những mảng hiện thực lớn của cuộc
chiến đấu từ chính con mắt của các nhà thơ – chiến sĩ. Hiện thực chiến tranh ác
liệt, dữ dội, bừa bộn, đã đổ vào trang thơ đúng như vốn có của nó với những
giọng điệu, tâm trạng riêng. Đến chặng đường này thơ trẻ đã đạt tới chiều sâu
của suy nghĩ và sự khái quát đem đến sự già dặn và chiều sâu tư tưởng cho thơ
chống Mĩ giai đoạn này.
Chặng thứ ba từ 1973: Đây là chặng cuối của thế hệ thơ trẻ chống Mĩ. Thế
hệ thơ trẻ ngày càng bề thế và đông đảo khi có mặt của những cây bút thơ giàu

sức sáng tạo. Ở chặng này ta không thể không nhắc tới những nhà thơ – chiến sĩ
có nhiều đóng góp như: Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Trần Mạnh Hảo, Văn Lê, Anh
Ngọc… Các nhà thơ đã có tầm nhìn và nhận thức cao hơn để bao quát toàn cảnh
về cuộc chiến. Bức tranh hiện thực của đời sống đến thời kì này không loại trừ
bất cứ điều gì. Người ta không còn né tránh sự hi sinh, mất mát mà soi chiếu
hiện thực ở tất cả mọi góc độ để từ đó khám phá ra những quy luật, đúc kết
những chân lí, xây dựng hình tượng thơ giàu ý nghĩa khái quát trong thể loại
trường ca.
Thành tựu
Đi qua một chặng đường gian khổ nhưng đầy hào hùng, thơ trẻ kháng
chiến chống Mĩ đã đạt được những thành tựu rất tiêu biểu trên cả hai phương
diện nội dung và nghệ thuật.
Nguyễn Thị Huấn

8

Lớp K35C - SP Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Về mặt nội dung, thơ trẻ thời chống Mĩ đã có sự mở rộng đào sâu hiện
thực trong thơ. Có thể nói dòng thơ trẻ chống Mĩ là dòng thơ mang những chi
tiết phản ánh hiện thực sống động. Tất cả những gì được coi là dữ dội, ác liệt,
ngổn ngang của thời chiến đều được đưa vào trong những trang thơ. Họ chứng
kiến tận mắt những cảnh tượng khốc liệt, dữ dội của chiến tranh thể hiện đậm
nét trong các thi phẩm như: Tiểu đội xe không kính(Phạm Tiến Duật), Trường ca
sư đoàn(Nguyễn Đức Mậu), Con chim thời gian(Nguyễn Khoa Điềm)... Đó có

thể là cái đói lay lắt của thời chiến “Nồi cơm chiến trường phải đội bốn tấn bom
/ Hạt sống vãi cũng hạt khét”(Ngã ba Chân Vạc – Hữu Thỉnh). Là căn bệnh sốt
rét triền miên trở thành nỗi ám ảnh của những nhà thơ – chiến sĩ mà nhiều trang
thơ đã ghi lại điều đó như: trường ca Đường tới thành phố(Hữu Thỉnh), Trường
Ca sư đoàn(Nguyễn Đức Mậu)… thậm chí đó còn là cả cái chết nhưng đầy hiên
ngang như trong: Dáng đứng Việt Nam( Lê Anh Xuân), Khoảng trời và hố bom
(Lâm Thị Mỹ Dạ) Trường Ca sư đoàn( Nguyễn Đức Mậu),… Nhưng dù hiện
thực có dữ dội, ác liệt thì ta vẫn bắt gặp trong thơ thời kì chống Mĩ hình ảnh một
thế hệ trẻ mang trong mình dòng máu đỏ tươi của chủ nghĩa anh hùng cách
mạng đầy trẻ trung, sôi nổi, nhiệt huyết, lạc quan ngay giữa chiến trường đầy
đạn bom và chết chóc.
Tính trí tuệ và chính luận không phải là đặc điểm riêng của thơ trẻ mà là
đặc điểm chung của thơ ca chống Mĩ nói chung nhưng trong thơ trẻ nó vẫn có
những sắc thái, đặc đểm riêng. Bởi nó được nảy sinh từ trong hiện thực chiến
tranh ác liệt, dữ dội. Tính trí tuệ ấy được thể hiện rõ nét thông qua ý thức khám
phá, phát hiện, bộc lộ những suy nghĩ, chiêm nghiệm, suy tư của cái tôi thế hệ
về con người, cuộc sống, dân tộc và thời đại. Bởi vậy những câu hỏi khám phá
bản chất của con người, cuộc sống, dân tộc và thời đại luôn được đặt ra. Khi nói
đến chất trí tuệ trong thơ trẻ chống Mĩ người ta không thể đặt tách rời nó với
tính chính luận. Tính chính luận nó đã tạo nên chiều sâu cho thơ trẻ thời chống
Mĩ. Với sự gia tăng chất trí tuệ và chính luận đã thể hiện được chân dung tinh

Nguyễn Thị Huấn

9

Lớp K35C - SP Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

thần của những nhà thơ – chiến sĩ trẻ giàu suy tư, đầy ắp tinh thần yêu nước và
tinh thần trách nhiệm đối với quốc gia, dân tộc.
Về nghệ thuật, thế hệ thơ trẻ thời chống Mĩ đã đạt được những thành tựu
to lớn về mặt nghệ thuật trong đó đáng chú ý là về mặt hình thức với những sáng
tạo tìm tòi đáng ghi nhận. Các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ đã sử dụng thành công
thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc như: Phạm Tiến Duật, Nguyễn Đức
Mậu, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Trần Đăng Khoa… Đặc biệt thể thơ tự do và
trường ca cũng được sử dụng nhiều và rất hiệu quả đáp ứng đúng nhu cầu, phù
hợp với hoàn cảnh đất nước trong thời chiến. Chất hiện đại trong thơ chống Mỹ
được bộc lộ ở ngôn ngữ thơ với khuynh hướng đưa ngôn ngữ thơ gần với ngôn
ngữ đời sống và sự gia tăng chất liệu văn xuôi vào thơ. Các câu thơ dài mang
dáng dấp văn xuôi, ngôn ngữ đời thường mang tính tranh luận, khẩu ngữ trong
thơ Nguyễn Khoa Điềm, Phạm Tiến Duật, Trần Mạnh Hảo, Hữu Thỉnh,… đã
đem lại cho thơ thời kỳ này giọng điệu mới, khỏe khoắn, trẻ trung và độc đáo.
Ta bắt gặp trong thơ của thế hệ này những thủ pháp tu từ truyền thống được sử
dụng theo lối hiện đại thông qua những phương thức chuyển nghĩa tạo ra những
hình ảnh thơ đầy sáng tạo đem đến sự cảm nhận, sự liên tưởng độc đáo như
trong thơ của: Phạm Tiến Duật, Thanh Thảo, Dương Hương Ly…
1.2. Những chặng đường thơ Hữu Thỉnh
Hữu Thỉnh sinh ngày 15 tháng 2 năm 1942, tên thật là Nguyễn Hữu
Thỉnh, bút danh Vũ Hữu. Ông quê ở làng Phú Vinh, xã Duy Phiên, huyện Tam
Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Hữu Thỉnh sinh ra trong một gia đình nông dân có
truyền thống Nho học. Nhưng tuổi thơ của ông không mấy được suôn sẻ: ở 6
năm với bác ruột, 10 tuổi phải đi phu và làm đủ mọi thứ lao dịch khác cho các
đồn binh Pháp: Vân Tập, chợ Vàng, Thứa, Thanh Vân.
Mãi đến khi hòa bình lập lại năm 1954 Hữu Thỉnh mới được đi học. Năm
1963, sau khi tốt nghiệp phổ thông, Hữu Thỉnh đã rời ghế nhà trường tham gia

nhập ngũ, trở thành một người lính thuộc Trung đoàn 202 binh chủng tăng thiết
giáp. Ông đã tham gia chiến đấu trên cả hai chiến trường Nam và Bắc, có mặt cả
Nguyễn Thị Huấn

10

Lớp K35C - SP Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

ở những nơi ác liệt nhất như tuyến Đường 9. Người chiến sĩ – nhà thơ ấy đã
tham gia nhiều hoạt động như học lái xe tăng, làm cán bộ tiểu đội, dạy bổ túc
văn hoá, viết báo và làm cán bộ tuyên huấn trong những năm tháng sống cuộc
sống của người lính. Sau khi thống nhất hai miền Nam Bắc vào năm 1975, Hữu
Thỉnh đã học tại Đại học Văn hóa và là sinh viên khóa đầu của Trường Viết văn
Nguyễn Du. Từ năm 1982, ông đã đảm nhiệm nhiều chức vụ công tác như: Biên
tập viên, Trưởng ban thơ và Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Từ
năm 1990, nhà thơ Hữu Thỉnh chuyển sang làm Tổng biên tập Tuần báo Văn
nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Hội nhà văn các khoá
3, 4, 5, 6, 7. Đại biểu Quốc hội khoá X, XI. Hiện nay ông là bí thư Đảng Đoàn,
Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam, Phó chủ tịch Hội đồng Lý luận, Phê bình Văn
học Nghệ thuật Trung ương, Chủ tịch Uỷ ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn
học nghệ thuật Việt Nam, Giám đốc Trung tâm Bồi dưỡng Viết văn Nguyễn Du.
1.2.1. Thơ Hữu Thỉnh trong kháng chiến chống Mĩ và thời kì hậu chiến
Hữu Thỉnh là nhà thơ thuộc thế hệ nhà thơ trẻ chống Mĩ. Ông là cây bút
xuất hiện ở chặng cuối của thế hệ này cùng với nhiều tên tuổi nổi tiếng như:
Thanh Thảo, Trần Mạnh Hảo, Văn Lê, Anh Ngọc… Nhưng Hữu Thỉnh đã

khẳng định được vị trí của mình trên thi đàn với tiếng thơ mang một phong cách,
giọng điệu riêng không bị khuất lấp trong "dàn đồng ca chung của thế hệ".
Hữu Thỉnh nhập ngũ ngay từ khi vừa rời khỏi ghế nhà trường. Ông là
người ý thức cao về vị trí, vai trò của thế hệ mình trong cuộc chiến đấu chống
giặc Mĩ xâm lược:
"Không có sách chúng tôi làm ra sách
Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình"
(Đường tới thành phố)
Hữu Thỉnh một nhà thơ – chiến sĩ đã thực sự hòa nhập vào cuộc chiến
đấu. Bởi vậy bằng con mắt của một con người nhập cuộc Hữu Thỉnh đã đưa vào
trong thơ mình hiện thực của thời chiến. Những vần thơ được bắt rễ từ hiện
thực, trước hiện thực mà rung lên. Mảng thơ viết về chiến tranh gồm tập thơ
Nguyễn Thị Huấn

11

Lớp K35C - SP Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Tiếng hát trong rừng (bài viết sớm nhất vào năm 1968, bài muộn nhất vào năm
1982), trường ca Sức bền của đất viết xong vào dịp tết Ất Mão (1975). Ông
được Đỗ Ngọc Yên đánh giá là "cánh chim đầu đàn của thơ ca chống Mĩ". Bước
ra khỏi cuộc chiến Hữu Thỉnh vẫn tiếp tục hành trình sáng tạo nghệ thuật của
mình. Năm 1977 ông viết trường ca Đường tới thành phố (viết từ tháng 8/1977
hoàn thành tháng 4/1978). Trước những đóng góp đó Trần Mạnh Hảo đánh giá
cao vị trí và vai trò của Hữu Thỉnh trên thi đàn văn học Việt Nam: "Hữu Thỉnh

và Thanh Thảo là cái gạch nối của nền thơ ca chống Mỹ sang thời bình. Sau
1975, cùng với Nguyễn Duy họ đưa thơ tiến về phía trước với những bước tiến
ngoạn mục, đa dạng và phong phú". Cảm hứng chủ đạo của những sáng tác
trong thời kì này là cảm hứng về đất nước, nhân dân, về cuộc chiến đấu chống
Mỹ cứu nước.
1.2.2. Thơ Hữu Thỉnh từ sau đổi mới
Khi đất nước chuyển mình sang một giai đoạn mới thì Hữu Thỉnh cũng
nhanh chóng nhập cuộc mang đến những tiếng thơ mới mẻ. Trong gần mười lăm
năm Hữu Thỉnh đã ủ mầm cho sự ra mắt của hai tập thơ: Trường ca biển và Thư
mùa đông vào năm 1994. Và đến năm 2005 ông lại tiếp tục cho ra đời tập thơ
Thương lượng với thời gian. Sự ra đời của các tập thơ này đã cho thấy sức sáng
tạo nghệ thuật mạnh mẽ của nhà thơ sau đổi mới. Nó đã ghi tên tuổi của Hữu
Thỉnh trong nền thơ đương đại Việt Nam.
Thơ Hữu Thỉnh trong giai đoạn này đã cho thấy sự nhìn nhận đánh giá
cuộc đời và những suy ngẫm của một con người đang trăn trở trước cuộc sống
đầy rẫy những khó khăn, thử thách. Cuộc sống của thời bình tưởng chừng như
không có gì phải suy nghĩ nhưng lại đặt ra bao nhiêu những câu hỏi lớn đòi hỏi
cần giải đáp. Ở những tập thơ này, ta nhận thấy chất lính trong thơ của Hữu
Thỉnh không bị mất đi . Và ở đây ta cũng bắt gặp một cái tôi cá nhân cô đơn, xót
xa, nhiều lo âu và dự cảm đau buồn trước cuộc sống đô thị hiện đại, nhưng đậm
nét hơn cả là một cái tôi hòa vào cái chung của dân tộc.

Nguyễn Thị Huấn

12

Lớp K35C - SP Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Cuộc sống được phản ánh trong thơ Hữu Thỉnh thời kì này là cuộc sống
thường nhật. Nhà thơ đã thể hiện sự nhìn nhận về tình đời, về lẽ sống, về thân
phận cá nhân trong cõi nhân gian đôi lúc phải tìm về nương tựa vào những giá
trị truyền thống. Một loạt bài: Nghe tiếng cuốc kêu, Hạnh phúc, Người bộ hành
lặng lẽ, Năm tháng trên vai… đã thể hiện cái tôi của nhà thơ luôn trăn trở, nghĩ
suy, tự vấn về nhân tình thế thái và về bản thân. Hữu Thỉnh luôn thường đặt ra
nhiều câu hỏi, nhiều giả thiết để tự mình chất vấn, ngẫm ngợi và nhiều khi bỏ
ngỏ để bạn đọc cùng suy ngẫm.
Những sáng tác thơ của Hữu Thỉnh trong cả hai thời kì đều có giá trị nhân
văn sâu sắc. Có những tác phẩm thơ của ông đã được đưa vào giảng dạy trong
nhà trường phổ thông và dùng để phổ nhạc.
1.3. Tập thơ Thư mùa đông
Tập thơ Thư mùa đông là một dấu mốc quan trọng trong hành trình thơ
Hữu Thỉnh. Tập thơ được xuất bản năm 1994 gồm 36 bài thơ. Ngay từ khi ra đời
tập thơ đã được độc giả đón nhận nồng nhiệt. Chỉ một năm sau tập thơ này đã
khẳng định được vị trí của mình với giải thưởng của Hội Nhà văn. Tiếp đó đến
năm 1998 một giải thưởng cao quý khác cũng đã dành cho tập thơ này đó là Giải
thưởng Văn học ASEAN. Đây cũng là tập thơ được bạn bè ông dịch ra tiếng
nước ngoài và cũng được chào đón khá nhiệt tình.
Thư mùa đông đã cho thấy sự đổi mới và biến chuyển của thơ Hữu Thỉnh
sau kháng chiến chống Mĩ. Tập thơ thể hiện cảm hứng của tác giả về quê hương,
đất nước, con người trong cuộc sống đời thường. Phải có một sự gắn bó sâu sắc
thì Hữu Thỉnh mới có thể viết được những bài thơ đầy xúc động như: Cuối năm,
Trông ra bờ ruộng, Phan Thiết có anh tôi, Tôi bước vào thành phố, Trông ra bờ
ruộng, Chiếc vó bè… Đó là những bài thơ thể hiện cái nhìn gần gũi của nhà thơ
đối với quê hương, đất nước với những con người của cuộc sống đời thường.
Bên cạnh cảm hứng về quê hương, đất nước thì cảm hứng thế sự - đời tư là một

trong những cảm hứng xuất hiện với tần số dày đặc trong tập thơ này. Đây là
chính là những trăn trở, suy tư, lo âu của nhà thơ trước cuộc sống con người còn
Nguyễn Thị Huấn

13

Lớp K35C - SP Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

những lấm láp, lo toan, bộn bề và biến đổi liên tục. Ta bắt gặp một Hữu Thỉnh
suy tư, trăn trở trước sự "mất mùa nhân nghĩa" của xã hội con người qua: Tôi
bước vào thành phố, Buổi sáng thức dậy, Đi dưới cây, Nghe tiếng quốc kêu,
Hạnh phúc.... Đó còn là một hồn thơ có sự trăn trở về văn chương, nghề nghiệp:
Tạp cảm, Mười hai câu, Chạm cốc với Xa-in… Và đôi khi đó còn là cả những
suy tư, trăn trở về chính cuộc sống gia đình của chính tác giả. Cảm hứng về tình
yêu không mất đi khi người lính ấy trở về với cuộc sống đời thường mà nó vẫn
cồn cào, da diết. Hữu Thỉnh vẫn có những vần thơ nhiệt thành sâu lắng đóng góp
cho cuộc đời như : Ấm lạnh, Em còn nhớ chăng, Thư mùa đông, Im lặng, Thơ
viết ở biển…
Đây cũng là tập thơ mà chứa đựng rất nhiều nét độc đáo, đặc sắc về nghệ
thuật, qua việc thể hiện không gian nghệ thuật; thời gian gian nghệ thuật; ngôn
từ nghệ thuật giàu hình ảnh, nhạc điệu … Tất cả những yếu tố này đã tạo nên nét
lôi cuốn cho tập thơ.
Có thể nói đây là tập thơ tiêu biểu cho sáng tác của Hữu Thỉnh sau đổi
mới. Nó là sự lắng đọng của tâm hồn nhà thơ trước cuộc sống, là sự thể nghiệm
cuộc sống để viết lên những vần thơ đầy trải nghiệm và suy tư.


Nguyễn Thị Huấn

14

Lớp K35C - SP Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

CHƯƠNG 2: NHỮNG PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG
TẬP THƠ THƯ MÙA ĐÔNG

2.1. Cảm hứng về quê hương, đất nước
Cảm hứng về quê hương, đất nước dường như là một mẫu số chung trong
sáng tác của các nhà thơ, nhà văn. Nhưng ta cũng khó có thể tìm ra những khuôn
mẫu giống nhau khi viết về cùng một đề tài này. Bởi khi sáng tác mỗi nhà văn,
nhà thơ lại có đối tượng chiếm lĩnh riêng và có sự thể hiện riêng. Thậm chí trong
mỗi sáng tác của cùng một tác giả ở các thời điểm khác nhau thì yếu tố này lại
có độ đậm nhạt khác nhau, thể hiện tình cảm ở những cung bậc khác nhau.
Chính điều đó đã tạo nên dấu ấn riêng của mỗi tác giả trong lòng bạn đọc. Hữu
Thỉnh cũng đã làm nên dấu ấn riêng đó qua tập thơ Thư mùa đông.
Trong Thư mùa đông, cảm hứng về quê hương, đất nước không được phát
biểu trực tiếp mà được Hữu Thỉnh đề cập một cách gián tiếp. Nhà thơ đã có sự
ngược dòng về quá khứ để viết lên những trang thơ về quê hương, đất nước
trong những năm tháng chống Mĩ vô cùng ác liệt. Nhưng Hữu Thỉnh không mải
đắm chìm, đào sâu khai phá những hình ảnh quê hương, đất nước trong quá khứ
mà quên đi hình ảnh quê hương, đất nước trong những năm tháng hòa bình vô

cùng gần gũi và giản dị mà ngược lại nó lại càng được khắc họa, tô đậm hơn.
Cảm hứng về quê hương, đất nước trong những năm tháng của cuộc
kháng chiến chống Mĩ được khơi gợi lên từ chính những điạ danh gắn liền với
những miền kí ức, những kỉ niệm trong chính cuộc đời nhà thơ. Trong tập thơ
này ta đã gặp biết bao nhiêu tên những địa danh nghe vừa quen lại vừa lạ: Phan
Thiết, Tràng Hương, Tân Cảnh, Sa Thầy, Đắc Pét, Đắc Tô, Mã Pí Lèng, Nho
Quế, Thượng Phùng, Sơn Vĩ, Cao Bằng…xuất hiện trong những bài thơ : Phan
Thiết có anh tôi, Qua cầu Tràng Hương.
Mảnh đất Phan Thiết chứng kiến biết bao sự ác liệt, dữ dội của cuộc chiến
tranh chống Mĩ. Mảnh đất kiên cường ấy đã oằn mình hứng chịu tất cả những
Nguyễn Thị Huấn

15

Lớp K35C - SP Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

mưa bom, bão đạn của kẻ thù. Và nơi đây cũng chính là nơi người anh thân thiết
của nhà thơ đã từng tham gia chiến đấu để chống lại đế quốc Mĩ sừng sỏ, trong
những hoàn cảnh hết sức nguy nan:
"Biển thì rộng căn hầm quá chật
Khẽ trở mình cát đổ trắng hai vai
Trong căn hầm mùi thuốc súng mồ hôi
Tim anh đập không sao ghìm lại được"
( Phan Thiết có anh tôi)
Chiến tranh đã đặt người lính vào ranh giới mong manh giữa sự sống và

cái chết. Trong cuộc chiến đấu với "kẻ thù mạnh vào loại bậc nhất trên Trái đất"
là đế quốc Mỹ, sự hy sinh lại càng nhiều hơn. Người anh ấy đã vĩnh viễn nằm lại
mảnh đất nơi đây sau loạt bom tọa độ:"Anh tôi mất sau loạt bom tọa độ / Mất
chỉ còn cách nước một vài gang". Quê hương Phan Thiết nó đã trở thành mảnh
đất không bao giờ quên, không thể quên của nhà thơ. Người con ấy trở về với
đất mẹ yêu thương trong sự nghẹn ngào, xúc động của người em:
"Em chưa hay cánh đồi ấy tên gì
Nhưng em biết ngày ngày anh vẫn đứng
Anh chưa biết đã tan cơn báo động
Chưa biết tin nhà không nhận ra em

Không nằm trong nghĩa trang
Anh ở với đồi anh xanh vào cỏ
Cỏ ở đây thành nhang khói nhà mình
Đồi ở đây cũng là con của mẹ"
Mỗi nhành cây, mỗi ngọn cỏ nơi mảnh đất này đều in dấu bóng hình những
người con đã ngã xuống. Hơn hết, những bóng hình ấy, mãi tạc khắc vào tâm
tưởng, suy tư của những người còn lại: "Anh không giữ cho mình dù chỉ là ngọn
cỏ/ Đồi thì rộng anh không vuông đất nhỏ/ Đất và trời Phan Thiết có anh tôi".

Nguyễn Thị Huấn

16

Lớp K35C - SP Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2


Nếu như mảnh đất Phan Thiết trong Phan Thiết có anh tôi gắn liền với
những kỉ niệm về người anh trai thương mến thì Qua cầu Tràng Hương lại lưu
dấu những năm tháng chiến đấu của chính bản thân và đồng đội nhà thơ. Cảnh
và người năm xưa ùa vào trang thơ với biết bao cảm xúc. Người đọc không khỏi
xúc động trước cảnh:
"Đồng đội tôi thay nhau đi cõng nước
Chiếc "can" cao quá đầu chằng chéo những bi – đông
Nước dồn lại từ những đôi vai ấy
Mấy năm qua đủ tưới cả cánh đồng

Đồng đội nhìn tôi thắc thỏm xuống dòng sông
Nắng gay gắt khi mình còn quá trẻ
Gió thỉnh thoảng đưa mây về chiếu lệ
Rồi tan mau
Hơi đá lại nung người

Khăn mặt xếp hàng trên giây phơi
Khô như mẻ bánh đa nỏ nắng"
Hữu Thỉnh không hề giấu giếm những thiếu thốn, khắc nghiệt của chiến
trường nơi đây cũng không tô hồng cuộc sống chiến đấu mà để cho hiện thực ấy
được phơi trải một cách chân thực trên những trang thơ. Chỉ bằng hình ảnh so
sánh "Khăn mặt xếp hàng trên giây phơi/ Khô như mẻ bánh đa nỏ nắng" đã bật
lên toàn bộ hiện thực chiến trường vô cùng dữ dội. Những người lính trẻ chỉ
mới mười tám, đôi mươi đã phải hứng chịu cảnh thiếu nước đến kiệt cùng. Đối
với họ lúc ấy chỉ có một mong ước vô cùng giản đơn:"Những cánh tay trần hai
mươi, mười tám/ Bao năm rồi khỏa nước trong mơ". Nhưng ước mơ ấy lại quá
khó để thực hiện. Những câu thơ ấy của Hữu Thỉnh gợi nhắc ta tới những vần
thơ của nhà thơ Thanh Thảo trước đó ít lâu:
"Ngày sinh nhật bắt đầu bằng cơn sốt

Nguyễn Thị Huấn

17

Lớp K35C - SP Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Cổ đắng khô ngồi thở trên đỉnh dốc
Bạn mở bi – đông nhường hớp nước cuối cùng
Hớp nước cuối cùng giữa cơn sốt đầu tiên
Ngày sinh nhật tuổi hai lăm mình được uống"
(Những người đi tới biển)
Chứng kiến sự thiếu thốn vất vả của đồng đội mình Hữu Thỉnh có thể sẵn
sàng hi sinh, từ bỏ con đường nghệ thuật của mình để đem đến cho những người
bạn chiến đấu dòng nước Nho Quế ngọt ngào:
"Tôi ao ước thơ mang dù chỉ ít
Dòng Nho Quế ngọt ngào lên với các anh"
Qua mỗi địa danh ta lại càng thấy rõ hình ảnh đất nước trong chiến tranh
– một đất nước phải hứng chịu bao mất mát đau thương nhưng cũng đầy anh
hùng, vẻ vang.
Những năm tháng chiến đấu gian khổ nhưng đầy vẻ vang ấy của toàn dân
tộc đã được đền đáp xứng đáp bằng chiến thắng mùa xuân năm 1975. Nó đã đưa
dân tộc ta, đưa nhân dân ta về với cuộc sống thời bình hằng mong ước bấy lâu.
Trở về với cuộc sống ấy cảm hứng về quê hương, đất nước lại càng trở nên dạt
dào hơn trong thơ Hữu Thỉnh. Hữu Thỉnh sinh ra ở một làng quê trung du Bắc
Bộ thuộc vùng Tam Dương, Vĩnh Phúc. Thời gian gắn bó với mảnh đấy ấy tuy

không phải là dài nhưng đã để lại biết bao dấu ấn trong tâm hồn nhà thơ. Dù sau
này phần nhiều những năm tháng cuộc đời Hữu Thỉnh sống và làm việc ở những
thành thị khác nhau nhưng hình ảnh quê hương ấy vẫn in dấu ấn đậm sâu trong
lòng ông. Với quê hương, đó là sự dạy dỗ rất nghiêm khắc của ông nội, là những
câu ca dao, truyện cổ tích, truyện Nôm khuyết danh mà người mẹ đã kể, đã hát
cho ông nghe suốt những năm dài thơ ấu. Mỗi sự vật, từ chiếc chõng tre xưa,
chiếc dây phơi, đến hàng gạch lún, chiếc bánh đa…trong nỗi nhớ của người xa
quê đều ẩn giấu hồn quê mộc mạc và đằm thắm. Trong những câu thơ viết về
quê hương, Hữu Thỉnh không chỉ thể hiện tình cảm sâu nặng của mình mà còn
gửi gắm rất nhiều suy tư. Trong tập thơ Thư mùa đông ta bắt gặp bao lần hình
Nguyễn Thị Huấn

18

Lớp K35C - SP Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

ảnh quê hương quen thuộc. Khi đọc những câu thơ trong bài Trông ra bờ ruộng
chắc hẳn ai cũng thấy phảng phất bóng dáng quê hương của mình trong đó. Nó
như một lời hoài niệm của một tâm hồn nặng lòng với quê hương:
"Trông ra bờ ruộng năm nào
Mưa bay trắng cỏ cào cào cánh sen
Mẹ tôi nón lá bước lên
Mạ non đầu hạ trăng liềm cuối thu"
(Trông ra bờ ruộng)
Hay những hình ảnh cánh đồng lúa quê hương khi phải hứng chịu những

trận mưa đá kéo về khiến người đọc không khỏi xót xa:"Đá rơi hạt chắc đầu
bông rụng/ Ếch nhái kêu ran cỏ hội hè/ Hạt lép vồng lên trương với gió/ Đồng
như canh bạc nước như mê"(Mưa đá).
Hữu Thỉnh bước chân vào cuộc sống nơi đô thành đầy bon chen, ồn ã
tưởng chừng những kí ức, những hình ảnh đẹp đẽ về quê hương sẽ phai mờ đi và
nhanh chóng chen vào đó những lối sống tấp nập của đô thành nhưng trong sâu
thẳm tâm hồn vẫn đem theo kí ức về những hình ảnh quê hương êm đẹp:"Tôi
bước vào thành phố / Với nguyên mùi rơm tươi"(Tôi bước vào thành phố). Nhà
thơ không thể quên được hình bóng quê hương ấy bởi nơi đây đã tạc ghi hình
bóng của mẹ cha thân yêu vất vả, lam lũ cả một đời vì các con:
"Gié thơm ai đã gặt rồi
Đồng quang bóng mẹ nắng nôi một mình"
(Trông ra bờ ruộng)
Những câu thơ của người con đi ra từ đất từ đồng, còn nồng đượm mùi
nắng gió, bùn non, rơm rạ…Tất cả đều gợi nhớ, gợi thương, gợi hoài niệm khắc
khoải những ai muốn tìm về một miền quê trong quá vãng xa xôi.
Cảm xúc về quê hương, đất nước nó còn được thể hiện qua cảm giác hạnh
phúc của nhà thơ đối với nơi ở; nơi làm việc, nơi công tác và đối với chính gia
đình bé nhỏ của chính mình. Hữu Thỉnh được sinh thành ở một làng quê nông
thôn nhưng ông lại có dịp sống gắn bó suốt sáu năm với mảnh đất Việt Trì yêu
Nguyễn Thị Huấn

19

Lớp K35C - SP Ngữ văn


×