Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Các thủ pháp đặt tiêu đề của báo hoa học trò

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (550.75 KB, 66 trang )

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
===***===

HOÀNG THỊ THƯỜNG

CÁC THỦ PHÁP ĐẶT TIÊU ĐỀ CỦA
BÁO “HOA HỌC TRÒ”
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

HÀ NỘI - 2013

Hoàng Thị Thường

K35C- SP Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
===***===

HOÀNG THỊ THƯỜNG



CÁC THỦ PHÁP ĐẶT TIÊU ĐỀ CỦA
BÁO “HOA HỌC TRÒ”
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

Người hướng dẫn khoa học
ThS. GVC. LÊ KIM NHUNG

HÀ NỘI - 2013

Hoàng Thị Thường

K35C- SP Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp
LỜI CẢM ƠN

Chúng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới cô
giáo ThS. GVC. Lê Kim Nhung – người trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận
tình giúp tôi hoàn thành khoa luận này.
Chúng tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới tất cả các thày cô giáo trong
khoa Ngữ văn, đặc biệt là các thầy cô trong tổ Ngôn ngữ đã giúp đỡ và tạo
điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành khóa luận.
Khóa luận được hoàn thành song không tránh khỏi thiếu sót, hạn chế.
Chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp từ phía thầy cô và các
bạn sinh viên để đề tài nghiên cứu của chúng tôi tiếp tục được hoàn thiện.

Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2013
Người thực hiện

Hoàng Thị Thường

Hoàng Thị Thường

K35C- SP Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp
LỜI CAM ĐOAN

Khóa luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của cô giáo
ThS. GVC. Lê Kim Nhung. Tôi xin cam đoan rằng:
- Khóa luận này là kết quả tìm tòi, nghiên cứu của riêng tôi.
- Những tư liệu được trích dẫn trong khóa luận là trung thực.
- Kết quả nghiên cứu này không hề trùng khít với bất kì công trình
nghiên cứu được công bố.
Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2013
Người thực hiện

Hoàng Thị Thường


Hoàng Thị Thường

K35C- SP Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu .............................................................................. 4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................. 5
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 5
6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 5
7. Bố cục của luận văn................................................................................ 5
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................ 6
Chương 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT ................................................................... 6
1.1. Vài nét về phong cách ngôn ngữ báo chí ............................................. 6
1.1.1. Khái niệm ..................................................................................... 6
1.1.2. Đặc trưng của phong cách BCCL ................................................. 6
1.1.3. Đặc điểm ngôn ngữ của phong cách BCCL .................................. 7
1.2. Vài nét về tiêu đề báo .......................................................................... 9
1.2.1. Đặc điểm của tiêu đề báo.............................................................. 9
1.2.2. Chức năng của tiêu đề báo ......................................................... 10
1.2.3. Tính chất của tiêu đề báo ............................................................ 11
1.2.4. Cấu tạo của tiêu đề báo .............................................................. 12
1.2.5. Dạng tiêu đề báo......................................................................... 12

1.3. Một số thủ pháp đặt tiêu đề báo ........................................................ 12
Chương 2. PHÂN TÍCH KẾT QUẢ THỐNG KÊ ........................................ 15
2.1. Kết quả thống kê................................................................................ 15
2.2. Nhận xét ............................................................................................ 15
2.3. Phân tích các thủ pháp đặt tiêu đề ...................................................... 16
2.3.1. Dùng các biện pháp tu từ ........................................................... 16

Hoàng Thị Thường

K35C- SP Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

2.3.2. Dùng dấu chấm lửng................................................................... 31
2.3.3. Dùng tiếng Anh ........................................................................... 35
2.3.4. Dùng câu hỏi .............................................................................. 37
2.3.5. Dùng dấu ngoặc kép ................................................................... 41
2.3.6. Dùng con số để nhấn mạnh ......................................................... 48
2.3.7 Dùng .thành ngữ, tục ngữ ............................................................ 49
2.3.8. Dựa theo tên tác phẩm văn học, điện ảnh, tên ca khúc nổi tiếng…
hoặc nương theo ý thơ, danh ngôn ........................................................ 53
PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................... 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 58

Hoàng Thị Thường

K35C- SP Ngữ văn



Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong vài thập niên gần đây, ở nước ta các phương tiện truyền thông đại
chúng nói chung và báo chí nói riêng có bước phát triển vượt bậc cả về số lượng
và chất lượng. Theo thống kê của Bộ văn hóa, tính đến hết ngày 30/11/2012, cả
nước có 812 cơ quan báo chí in với 1.084 ấn phẩm. Trong đó, báo in có 197 cơ
quan (84 cơ quan báo chí trung ương và 113 cơ quan báo chí địa phương), tạp
chí có 615 cơ quan (488 tạp chí trung ương và 127 tạp chí địa phương). Như
vậy, mỗi ngày có tới hàng nghìn bài báo được xuất bản, đứng trước một số
lượng báo khổng lồ như vậy người đọc không thể đọc hết tất cả các bài báo, mà
phải có sự lựa chọn. Một trong những yếu tố có tính chất khêu gợi, thu hút sự
chú ý của người đọc là tiêu đề văn bản báo chí.
Tiêu đề giữ một vai trò đặc biệt quan trọng đối với văn bản báo chí. Tiêu
đề là cái tác động vào thị giác đầu tiên đối với độc giả. Nó vừa là nội dung,
vừa là hình thức của tờ báo, do đó bài báo có được người đọc quan tâm, chú ý
hay không phụ thuộc rất nhiều vào tiêu đề. Nói cách khác, tiêu đề báo có tính
chất quyết định đến số phận của bài báo. Để tiêu đề có thể thu hút được độc
giả, các nhà báo thường sử dụng tới các thủ pháp ngôn từ khác nhau. Có khá
nhiều thủ pháp đặt tiêu đề báo, nhưng lựa chọn thủ pháp này hay thủ pháp
khác lại lệ thuộc vào từng tình huống, hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Song dù thế
nào thì mỗi tiêu đề cũng phải vừa nêu được thần thái của bài viết, vừa gợi trí
tò mò cho độc giả.
Như chúng ta đã biết, đối tượng độc giả của báo Hoa học trò là học sinh
và người viết bài cho báo Hoa học trò cũng chủ yếu là học sinh. Trong việc sử

dụng ngôn ngữ, các bạn học sinh ít khi sử dụng những cách diễn đạt thông
thường mà luôn có xu hướng tìm đến những cách diễn đạt độc đáo, hấp dẫn.
Vì vậy, việc đặt tiêu đề của báo Hoa học trò thường được các bạn học sinh sử
dụng nhiều thủ pháp khác nhau để tăng tính hấp dẫn cho bài báo.

Hoàng Thị Thường

1

K35C- SP Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Từ trước đến nay, nghiên cứu về các thủ pháp đặt tiêu đề báo chưa được
quan tâm nhiều. Vì vậy, luận văn này chọn các thủ pháp đặt tiêu đề của báo Hoa
học trò làm đối tượng khảo sát và nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Những năm gần đây có khá nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về tiêu
đề báo dưới nhiều góc độ khác nhau.
2.1. Nghiên cứu từ góc độ báo chí
Trong cuốn “Ngôn ngữ báo chí” (NXB ĐHQG, 2004), tác giả Vũ Quang
Hào đã có một phần nghiên cứu tương đối đầy đủ về tít báo: cấu trúc và chức
năng của tít báo, một số thủ pháp đặt tít thường gặp, một số tít mắc lỗi. Đây là
những gợi mở rất quan trọng cho việc nghiên cứu tiêu đề báo chí. Ngoài ra,
tác giả còn trực tiếp hướng dẫn một số sinh viên khoa báo chí trường Đại học
Tổng hợp làm các khóa luận tốt nghiệp, báo cáo khoa học về tiêu đề báo như:
Trần Thu Nga, “Đầu đề bài báo trên báo Nhân dân chủ nhật” (Luận văn

tốt nghiệp, khoa Báo chí, ĐH Tổng hợp, 1993).
Nguyễn Thu Hà, “Về những khiếm khuyết của một số tít báo tiếng Việt
theo cách nhìn của ngôn ngữ học” (Luận văn tốt nghiệp, khoa Báo chí, ĐH
Tổng hợp, 1995 )
Nguyễn Đức Thắng, “Tính hấp dẫn của tít báo Việt ngữ” ( Luận văn tốt
nghiệp, khoa Báo chí, ĐH Tổng hợp, 1996)
Nguyễn Thị Mai, “Về đặc trưng ngôn ngữ của tít báo và những thủ
pháp đặt tít thông thường” (Báo cáo khoa học sinh viên, khoa Báo chí, ĐH
Tổng hợp, 1998)
Tuy những bài viết này chỉ tập trung nhiều ở lĩnh vực báo chí, nhưng
đã cho thấy được tầm quan trọng của ngôn ngữ tít báo. Thuật ngữ tít, theo Vũ
Quang Hào còn được gọi là tiêu đề, đầu đề, nhan đề…nhưng tác giả đề nghị
và chấp nhận dùng thuật ngữ tít. Tác giả cho rằng đây là một thuật ngữ báo

Hoàng Thị Thường

2

K35C- SP Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

chí, lại vừa là một từ nghề nghiệp, được dùng phổ biến và có tính quốc tế.
Ngoài ra, thuật ngữ này còn có khă năng phái sinh, tiện lợi cho việc gọi tên
các thao tác xử lý tít.
2.2. Nghiên cứu từ góc độ ngôn ngữ
Trong cuốn “Tiếng Việt – Sơ thảo ngữ pháp chức năng” (NXB Khoa học

xã hội, 2006), tác giả Cao Xuân Hạo đã có một phần nói về chức năng của
tiêu đề báo. Tuy đề cập đến vấn đề một cách gián tiếp nhưng tác giả có một
nhận định đáng lưu ý: “Xét về chức năng thông báo, tiêu đề là một thứ chủ đề
mà phần thuyết là cả bài văn, bài báo kia”
Trong bài viết “Dấu ngoặc kép trong những tiêu đề báo” (Kiến thức ngày
nay, số 218, 1996), tác giả Nguyễn Đức Dân đã chú ý đến vai trò quan trọng
của dấu ngoặc kép trong những đề báo. Ngoài ra, trong các bài viết “Ý tại
ngôn ngoại, những thông tin chìm trong ngôn ngữ báo chí” (Tạp chí Ngôn
ngữ và đời sống, số 2, 2004), “Vận dụng thành ngữ, tục ngữ và danh ngôn
trên báo chí” (Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 10, 2004), tác giả đã xét hàm
ý của tiêu đề báo chí ở phương diện ngữ dụng, chú ý về mặt sử dụng những
tiêu đề báo chí có dẫn những lời trong bài hát và tục ngữ, thành ngữ.
Rải rác trên các tạp chí chuyên ngành có các bài nghiên cứu về tiêu đề
báo chí, nhưng chỉ dừng lại ở mức nghiên cứu một vài khía cạnh nào đó và
phần lớn đều có sự so sánh với tiêu đề báo chí nước ngoài (báo tiếng Anh,
tiếng Nga):
Trong bài viết “Một số nhận xét về đặc điểm ngôn ngữ của các đầu đề
trong báo chí tiếng Anh hiện đại” (Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 9 + 10,
2001), tác giả Nguyễn Thanh Hương đã khảo sát một cách khái quát và toàn
diện về đặc điểm ngôn ngữ của các đầu đề trong báo chí tiếng Anh hiện đại.
Mặc dù tác giả khảo sát báo tiếng Anh, nhưng những vấn đề tác giả đưa ra đã
phần nào chỉ dẫn cho việc vận dụng vào tiếng Việt.

Hoàng Thị Thường

3

K35C- SP Ngữ văn



Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Trong bài viết “Về kiểu tiêu đề mô phỏng trên các văn bản báo chí”
(Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 10, 2003), tác giả Trần Thanh Nguyện đã
nêu vấn đề này một cách chi tiết và sâu rộng hơn, giúp làm phong phú thêm
diện mạo của tiêu đề văn bản báo chí.
Trong bài viết “Đôi điều nên biết về tiêu đề báo chí tiếng Anh và tiếng
Việt” (Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 11, 2003), tác giả Nguyễn Thị Vân
Đông đã tập trung vào một số đặc điểm của tiêu đề và một số kinh nghiệm
viết tiêu đề báo của báo chí phương Tây với các dẫn chứng trong báo tiếng
Anh và tiếng Việt. Ngoài ra, trong bài viết “Tiêu đề báo tiếng Anh và tiếng
Việt dạng ngữ cố định” (Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 1 + 2, 2005), tác
giả cho rằng việc sử dụng ngữ cố định để đặt tiêu đề cho các bài báo được các
nhà báo khai thác triệt để nhằm thực hiện một cách có hiệu quả những yêu
cầu về chức năng và đặc điểm của báo chí.
Trong bài viết “Từ trái nghĩa trong các tiêu đề báo chí Nga” (Tạp chí
Ngôn ngữ và đời sống, số 1, 2007), tác giả Vũ Thị Chín đã nhận định việc sử
dụng từ trái nghĩa là một trong những thủ pháp yêu thích và được sử dụng
rộng rãi trong các tiêu đề trên báo chí Nga.
Trên đây là một số công trình nghiên cứu và bài viết tiêu biểu có liên
quan đến tiêu đề báo chí ở góc độ báo chí và ngôn ngữ. Việc nghiên cứu tiêu
đề báo là một vấn đề có tính thời sự và được nhiều người quan tâm. Luận văn
này kế thừa những kết quả trên, đi sâu tìm hiểu các thủ pháp đặt tiêu đề của
báo Hoa học.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này chúng tôi xác định rõ một số mục đích sau:
- Khẳng định, củng cố vấn đề lý thuyết của phong cách học.
- Góp thêm tiếng nói khẳng định hiệu quả của các thủ pháp đặt tiêu đề

văn bản báo chí.

Hoàng Thị Thường

4

K35C- SP Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

- Tư liệu thống kê phục vụ thiết thực cho việc học tập và giảng dạy ở
trường phổ thông sau này.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này chúng tôi xác định một số nhiệm vụ sau:
- Tập hợp các vấn đề lý thuyết có liên quan đến đề tài.
- Khảo sát, thống kê, phân loại các thủ pháp đặt tiêu đề văn bản báo chí
trong giới hạn nghiên cứu.
- Phân tích, nhận xét, đánh giá các thủ pháp đặt tiêu đề văn bản báo chí
và hiệu quả của nó.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này chúng tôi áp dụng một số phương pháp nghiên
cứu sau đây:
- Phương pháp thống tư liệu
- Phương pháp phân loại
- Phương pháp phân tích ngôn ngữ
6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi xác định rõ đối tượng và phạm vi như

sau:
- Đối tượng nghiên cứu: Các thủ pháp đặt tiêu đề của báo Hoa học trò.
- Phạm vi nghiên cứu: Do giới hạn về thời gian và khuôn khổ đề tài,
chúng tôi chỉ khảo sát trên tờ báo Hoa học trò, với 40 số trong các năm:
2009, 2010, 2011, 2012.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được cấu trúc thành hai
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2 : Phân tích kết quả thống kê

Hoàng Thị Thường

5

K35C- SP Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT

1.1. Vài nét về phong cách ngôn ngữ báo chí
1.1.1. Khái niệm
Phong cách báo chí- công luận (BCCL) là khuôn mẫu thích hợp để xây
dựng lớp văn bản trong đó thể hiện vai của người tham gia giao tiếp trong lĩnh
vực báo chí- công luận. Nói cụ thể hơn đó là vai của người đưa tin, nhà báo,

cổ động, người quảng cáo, bạn đọc…tất cả những ai tham gia vào hoạt động
thông tin của xã hội về tất cả các vấn đề thời sự.
Phong cách ngôn ngữ báo chí- công luận dựa chủ yếu trên kiểu ngôn
ngữ viết- phi nghệ thuật, nhưng có thể bao gồm rộng rãi những cấu trúc của
các kiểu viết và miệng- nghệ thuật của lời nói. Yếu tố cá tính đóng vai trò
quan trọng.
1.1.2. Đặc trưng của phong cách BCCL
Muốn thực hiện được chức năng thông báo- tác động trong công việc
thông tin, tuyên truyền, quảng cáo phong cách BCCL phải có những đặc
trưng sau:
- Tính thông tin: Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ thông tin thời sự cập
nhật, truyền bá những tin tức nóng hổi hàng ngày trên mọi lĩnh vực hoạt động
xã hội. Để đảm bảo chất lượng thông tin, ngôn ngữ phải chính xác, nhất là
thông tin về địa điểm, thời gian, nhân vật, sự kiện.
- Tính ngắn gọn: Văn bản báo chí là lối văn ngắn gọn, lượng thông tin
cao. Tiêu biểu sự ngắn gọn là bản tin, đặc biệt là loại tin vắn, tin nhanh, tin
quảng cáo…Ở đó có khi chỉ dùng một câu mà người đọc có thể nắm bắt được
thông tin cần thiết. Phóng sự có thể dài hơn nhưng trừ từng trường hợp không
dài quá ba trang báo.

Hoàng Thị Thường

6

K35C- SP Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp


- Tính sinh động, hấp dẫn: Không phải thể loại nào cũng sinh động, hấp
dẫn nhưng muốn thu hút sự chú ý của người đọc, ngôn ngữ báo chí phải kích
thích sự tò mò hiểu biết của người đọc. Điều đó thể hiện ở cách dùng từ, đặt
câu trước hết là ở đầu đề bài báo.
1.1.3. Đặc điểm ngôn ngữ của phong cách BCCL
1.1.3.1. Từ ngữ của phong cách BCCL
Lối nói của ngôn ngữ báo chí sử dụng lớp từ ngữ được cấu tạo đặc biệt
có màu sắc biểu cảm- cảm xúc rõ rệt và màu sắc tu từ học chức năng nổi bật.
Ví dụ: thảm họa hạt nhân, giải pháp số không, ảnh hưởng bị xói mòn, leo
thang chiến tranh, gây lò lửa căng thẳng…
Trong phong cách ngôn ngữ báo chí, cách mở rộng ý nghĩa của từ
thường đem lại tính chất bình giá rõ rệt và mang màu sắc báo chí đậm nét. Xu
hướng luôn đi tìm cái mới trong ý nghĩa của từ trở thành một nguyên tắc dùng
từ của phong cách này. Ví dụ: đứng bên cạnh nhân dân ta, đứng sau kẻ thù
xâm lược, đứng ở mũi nhọn của cuộc chiến đấu, lôi kéo vào quỹ đạo thù địch,
bật đèn xanh cho bọn xâm lược…
Đặc điểm nổi bật của từ ngữ trong phong cách ngôn ngữ báo chí là mối
tương quan giữa những từ ngữ diễn cảm (có màu sắc tu từ) có tính năng động
và linh hoạt. Sau khi xuất hiện trong một hoàn cảnh nói năng nhất định,
những từ ngữ diễn cảm được lặp lại nhiều lần trong những hoàn cảnh khác
nhau, sẽ mất dần tính sắc sảo và chuyển sang những từ khuôn mẫu. Chẳng
hạn từ “kiện tướng” được dùng trước hết trong lĩnh vực thể dục thể thao: kiện
tướng bơi lội, kiện tướng bóng đá, kiện tướng bắn súng, kiện tướng chơi
cờ…Nhưng một thời nó đã xuất hiện gợi cảm trong những kết hợp từ mới
như: kiện tướng thủy lợi, kiện tướng đào đất, kiện tướng làm phân… rồi đến
kiện tướng cải tiến kỹ thuật, kiện tướng sáng chế phát minh…và có lúc thì
kiện tướng xuất hiện trong cả quân sự: kiện tướng diệt máy bay Mỹ (Nhân dân

Hoàng Thị Thường


7

K35C- SP Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

ngày 1- 9- 1996)… Rõ ràng ý nghĩa của từ kiện tướng ngày càng mở rộng và
mất dần tính gợi cảm lúc đầu của nó.
Phong cách ngôn ngữ báo chí dùng nhiều từ có màu sắc trang trọng
như: thiết lập quan hệ hợp tác toàn diện, thiện chí hòa bình, xu thế đối thoại,
tăng cường đoàn kết, loài người tiến bộ… Nhiều từ ngữ có thái độ bình giá
phủ định như: dính líu, trả đũa, chủ bài, ngóc đầu, phỉnh phờ, ve vãn, bán
rao, tiếp tay, câu kết, quảng cáo rùm beng. Ngoài ra, phong cách ngôn ngữ
báo chí sử dụng những từ ngữ thuộc nghề báo như: thông tín viên, đặc phái
viên, hãng thông tấn, đua tin, tiết lộ, lớp từ ngữ quốc tế như: Mácxít, Lêninit,
sôvanh, ôlympíc… nhiều kiểu từ viết tắt cho việc tiếp thu thông tin được
nhanh gọn: CBCNV (cán bộ công nhân viên), CLB (câu lạc bộ), T.W (trung
ương)…
Phong cách ngôn ngữ báo chí không hạn chế sử dụng các biện pháp tu
từ từ vựng và cú pháp. Trong báo chí ta thấy không ít hình ảnh ví von, so
sánh, ẩn dụ, hoán dụ, đảo ngữ song song kết hợp câu ngắn với câu dài. Những
biện pháp tu từ này nhằm vào việc diễn đạt chính xác, có hình ảnh và nhạc
điệu phù hợp với từng nội dung và thể loại.
Các phương tiện diễn đạt nói trên thể hiện đặc điểm ngôn ngữ báo chí
rõ nét và góp phần tạo nên một phong cách ngôn ngữ độc lập, phong cách
ngôn ngữ báo chí.

1.1.3.2. Cú pháp của phong cách BCCL
Câu khuyết chủ ngữ nêu sự kiện, thường chỉ được dùng ở những phạm vi
nhất định như ở đầu các bảng thông tin, bản tin. Ví dụ:
- Hôm qua…tại…khai mạc…
- Đối với các thành phố…sẽ đào tạo một đội ngũ…
- Qua phát huy vai trò…mà lựa chọn, nhận xét…
Câu có đề ngữ làm nổi bật thông tin, thường dùng trong các đầu đề tin
tức như: Hà Tĩnh: 15 nghìn tấn phân đạm phục vụ sản xuất vụ chiêm xuân.

Hoàng Thị Thường

8

K35C- SP Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Câu có nhiều thành phần tách biệt được in thành dòng riêng bằng những
con chữ khác nhau, để nhấn mạnh các nội dung thông tin, thường dùng trong
các đầu đề tin tức.
Những yếu tố diễn cảm cú pháp, những cách diễn đạt làm nổi bật thông
tin. Ví dụ: Điều làm cho khách hàng nhớ tới Bình Thiên là chất lượng sản
phẩm và mẫu mã khá đẹp.
Những câu đơn phát triển kết hợp lời nói trực tiếp với lời nói gián tiếp
để cô đúc thông tin và tăng sức thuyết phục của thông tin.
Đặc điểm nổi bật của cú pháp trong phong cách ngôn ngữ BCCL là sử
dụng kết hợp những yếu tố khuôn mẫu và những yếu tố diễn cảm.

1.2. Vài nét về tiêu đề báo
1.2.1. Đặc điểm của tiêu đề báo
Có thể nói, so với tiêu đề sách hay tiêu đề của tác phẩm âm nhạc (ca
khúc, bản nhạc…) thì tiêu đề báo có mấy đặc điểm nổi bật sau đây:
- Số lượng tiêu đề báo là rất lớn. Mỗi trang báo có thể có đến hàng chục
tiêu đề và một số báo bốn trang với mỗi ngày một số…thì con số đó là hoàn
toàn dễ hiểu. Trong khi đó chẳng hạn, ở nước ta hiện nay có khoảng 40 nhà
xuất bản, mỗi năm xuất bản khoảng một vài nghìn tiêu đề sách mà thôi.
- Chính vì số lượng tiêu đề báo lớn như vậy nên ngoại trừ những tiêu đề
rất đặc biệt, rất hấp dẫn, khó có thể được độc giả lưu nhớ và nhắc lại. Khi đã
không nhớ tiêu đề, họ cũng rất khó có thể nhớ được nội dung bài. Trong khi
đó, nếu không nhớ tên sách độc giả có thể vẫn nhớ cốt truyện, nhân vật, hoặc
khi quên tên ca khúc họ vẫn có thể nhắc được toàn bộ hoặc một phần ca từ
hay giai điệu.
- Đời sống của tiêu đề báo rất ngắn ngủi, xét về mặt nào đó, nó chỉ
“sống” trong khoảng thời gian giữa hai kì ra báo (một ngày, một tuần, một
tháng, hoặc ba tháng). Trong khi đó tiêu đề sách và tác phẩm âm nhạc tồn tại

Hoàng Thị Thường

9

K35C- SP Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

lâu dài hơn, nhất là những tên sách, tên ca khúc đã chiếm được cảm tình của

đại bộ phận độc giả / thính giả theo năm tháng.
- Tiêu đề báo đòi hỏi một sự hấp dẫn cao hơn, có khả năng níu mắt
người đọc nhất đối với tác phẩm báo chí đó. Trong khi tính hấp dẫn không
phải là yêu cầu đối với việc đặt tên sách hay tên tác phẩm âm nhạc.
1.2.2. Chức năng của tiêu đề báo
Nói đến chức năng của tiêu đề báo, Lô- íc Éc-vu-ê khẳng định ngay
rằng “Chức năng đầu tiên của đầu đề là bắt mắt (thu hút mắt) độc giả khi họ
lướt xem tờ báo lần đầu tiên”. Có những người xem lướt qua tờ báo ấy trước
khi quyết định mua. Dù họ có phải mua báo hay nhận được báo miễn phí, thì
việc đầu tiên bao giờ cũng là nhìn lướt qua xem có gì đáng đọc hay không.
Một đầu đề hấp dẫn, ngay lập tức sẽ thu hút được sự chú ý của độc giả.
Chức năng thứ hai của tiêu đề báo, theo tác giả là nó có khả năng
“phân biệt bài nào quan trọng hơn bài nào. Nó thể hiện sự lựa chọn của ban
biên tập”. Do vậy mà “đọc toàn bộ các đầu đề trong một tờ báo, độc giả sẽ
biết ngay hôm nay có gì mới và thông tin nào quan trọng hơn”. Tiếp theo, vai
trò chính của đầu đề là “giúp độc giả lựa chọn”, nghĩa là có khi độc giả chỉ
đọc đầu đề, có khi độc giả đọc đầu đề họ sẽ xem luôn bài, nhưng cũng có khi
họ đọc đầu đề rồi tự nhủ lát nữa sẽ quay lại bài này. Chính vì thế , tác giả này
yêu cầu “Đầu đề phải nêu bật được chủ đề, nếu có thể được thì nêu cả góc độ
của bài báo nữa. Đầu đề phải nhấn mạnh có gì mới, có gì hay đáng đọc” để
độc giả có thể lựa chọn ngay khi xem lướt qua tờ báo.
Như đã biết, tiêu đề là một bộ phận hữu cơ của tác phẩm báo chí, cho
nên nó cũng có những chức năng chung của báo chí. Nhưng do chỗ tiêu đề
tồn tại tương đối độc lập với bài nên có những chức năng riêng, đặc thù- chức
năng định danh thông tin. Do vậy, để thực hiện được chức năng này, tiêu đề
phải thỏa mãn ít nhất hai yêu cầu:

Hoàng Thị Thường

10


K35C- SP Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

- Tiêu đề phải khái quát được nội dung của cả bài báo trong một cấu trúc
ngôn ngữ định danh xác định, chuẩn mực, ngắn gọn và có thể có sức biểu cảm
(đối với một vài loại tiêu đề).
- Tiêu đề phải được trình bày hấp dẫn
Hai yêu cầu này cũng đồng thời là hai điều kiện để một tiêu đề níu mắt
người đọc. Đó là điều kiện cần và đủ.
1.2.3. Tính chất của tiêu đề báo
Theo Lô-íc Éc-vu-ê “Một đầu đề hay và hiệu quả đòi hỏi nhiều tính
chất, và không thể thỏa mãn mọi tính chất đó trong một đầu đề”. Theo tác giả
đó là những tính chất sau:
- Tiêu đề phải rõ ràng và dễ hiểu, nghĩa là làm thế nào để độc giả có thể
hiểu ngay lập tức. Tác giả cũng giải đáp ngay là tránh các từ trừu tượng, từ
viết tắt, từ chuyên môn (thuật ngữ), từ gây hiểu lầm…ở trong tiêu đề.
- Tiêu đề phải ngắn và năng động, nghĩa là phải viết trực tiếp, loại bỏ các
yếu tố thừa (như tính từ hoặc các trạng từ), các yếu tố lặp.
- Tiêu đề phải chính xác và chứa thông tin, nghĩa là không đặt đầu đề
quá mơ hồ, chung chung theo kiểu: “Thể thao cũng là một cách giải trí”,
cũng không nên đặt đầu đề nửa vời, theo kiểu: “Một dân tộc không bị mắc
bệnh ung thu” (dân tộc nào?). Và đặc biệt là phải dựa vào nội dung để đặt đầu
đề, tránh các kiểu đầu đề dùng cho bài báo nào cũng được.
- Tiêu đề phải thích đáng, nghĩa là nó phải nêu được thông tin độc đáo ở
chỗ nào và nhất thiết phải phù hợp với nội dung bài báo. Để biết một đầu đề

có thực sự thích đáng không, tự đặt cho mình câu hỏi: Dùng đầu đề này cho
một bài báo khác có được không ? Trong sáu tháng nữa dùng đầu đề này có
được không ? Nếu cả hai câu trả lời đều là “có” thì rõ ràng là đầu đề đó không
thích đáng. Đặc biệt phải chú ý đến tỉ lệ cân xứng của đầu đề với độ dài của
bài báo.

Hoàng Thị Thường

11

K35C- SP Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

1.2.4. Cấu tạo của tiêu đề báo
Tiêu đề báo có thể được cấu tạo theo ba loại sau:
- Tiêu đề được cấu tạo bởi một từ: danh từ, động từ, tính từ.
- Tiêu đề được cấu tạo bởi một cụm từ: cụm danh từ, cụm động từ, cụm
tính từ.
- Tiêu đề được cấu tạo bởi một câu: câu trần thuật, câu nghi vấn, câu cầu
khiến, câu cảm thán.
1.2.5. Dạng tiêu đề báo
Về dạng tiêu đề, Lô-íc Éc-vu-ê cho rằng có ba dạng sau:
- Tiêu đề thông báo: “Tham vọng duy nhất của loại tiêu đề này là cung
cấp thông tin chính cho độc giả…Đầu đề này phải tóm tắt được toàn bộ bài
báo, trả lời một cách đơn giản một trong số các câu hỏi cơ bản (Ai ? Cái gì ?
Ở đâu ? Khi nào ? Như thế nào ? Tại sao ?... Nhiều báo phải lựa chọn cẩn

thận thông tin nào sẽ đưa lên làm đầu đề bài báo...”
- Tiêu đề kích thích: Loại tiêu đề này “chỉ chứa một vài yếu tố liên quan
đến chủ đề của bài báo, mục đích chính là làm cho độc giả tò mò, muốn đọc
ngay lập tức…Nó phản ánh cái thần của bài báo, hơn là nội dung bài báo”.
Tuy nhiên, tác giả cãng cảnh báo rằng “chú ý không để cho xu hướng rẻ tiền
lấn át”.
- Tiêu đề hỗn hợp: Theo Lô-íc, đây là loại “thường được dùng nhất. Đó
là sự hòa hợp của cả hai loại trên, tức là vừa cung cấp thông tin, lại vừa gợi trí
tò mò”.
1.3. Một số thủ pháp đặt tiêu đề báo
Có thể kể đến một số thủ pháp sau đây:
- Dùng biện pháp tu từ (so sánh, ẩn dụ, chơi chữ…):
+ So sánh: Phim truyền hình đã ngon như cơm bình dân, Nghệ sĩ múa
Thu Vân như ngọn gió hành hương xứ lạ, Hầm để xe như trung tâm thương
mại, Chiến dịch bắt dạy,thêm học thêm như bát trộm…

Hoàng Thị Thường

12

K35C- SP Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

+ Ẩn dụ: Đừng sống quỳ teen nhé, Cặp đôi đũa lệch, Những cái bướu,
Nuốt pin và nuốt thuốc súng…
+ Chơi chữ: Cô ta sang Tây, Từ mạn bạc đến két bạc, Sầu riêng với nỗi

buồn chung, Phá rừng bằng luật rừng…
- Dùng dấu ngoặc kép đánh dấu những từ có cách dùng đặc biệt: Khi
“Ex” của ba tái xuất, Để trở thành “BFF” của “gà bông”, Binh pháp
“dihomu” của biệt đội gà còi, Vi vu xe điện, teen phải đội “mubahi”…
- Dùng cấu trúc bỏ lửng, mà dấu lửng lại thường hiện diện ở giữa tiêu
đề: Cấp cứu cần được…cấp cứu, Trẻ, đẹp và…cô đơn, Sự “mềm dẻo”…chết
người, Những sản phụ tuổi …học trò, Liên doanh để … ngậm bồ hòn, Ra tòa
vì…váy
- Dùng từ tiếng Anh : Đến trường cùng Hot girl, Có nên soi Rating để
chọn phim, Tên khám phá Quilling đến từ Ai Câp, Cẩm nang ứng phó Drama
queen…
- Đặt ra những câu hỏi: Công chứng: khổ chung! Tại sao ?, Chất xám
chảy về đâu ?, Ăn xin: Cho ? Không cho?, Valentin’s day: Tặng gì? Đi đâu?
- Dùng dấu ngoặc kép đánh dấu những từ có cách dùng đặc biệt: Khi
“Ex” của ba tái xuất, Để trở thành “BFF” của “gà bông”, Binh pháp
“dihomu” của biệt đội gà còi, Vi vu xe điện, teen phải đội “mubahi”
- Dùng con số để nhấn mạnh, gây ấn tượng: Ba triệu dân Singapore sẽ
không còn một xu, Nước có số dân mười con số 1, Giết 9 người lấy 65 đồng
bạc, 9 triệu người điên, 7000 tấn thuốc độc, 7 quốc gia 1 biên giới….
- Dựa theo tên các tác phẩm văn học, điện ảnh, tên ca khúc nổi
tiếng…hoặc nương theo ý thơ, danh ngôn: Kĩ nghệ lấy chồng Tàu (Kỹ nghệ
lấy Tây- Vũ Trọng Phụng), Hà Nội trong mắt tôi: Tiền (Hà Nội trong mắt ai –
Trần Văn Thủy), Ngàn lẻ một chuyện…ôm (Ngàn lẻ một đêm), Em ơi ! Hà
Nội …váy (Em ơi ! Hà nội ..phố)...

Hoàng Thị Thường

13

K35C- SP Ngữ văn



Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

- Dùng các đơn vị ngôn ngữ dân gian như thành ngữ, tục ngữ, ca dao, dân
ca…Ít nhất có ba cách dùng đơn vị ngôn ngữ dân gian để đặt tiêu đề. Đó là:
+ Sử dụng nguyên dạng như nó vốn có trong dân gian: Hậu sinh khả úy,
Buôn có bạn, bán có phường, Thả con săn sắt, bắt con cá rô, Đục nước béo
cò, Nước chảy chỗ trũng, Thuốc đắng giã tật…
+ Chỉ sử dụng một vế của câu tục ngữ hoặc của câu ca dao: Sai một ly…,
Cháy nhà ra…, Bầu ơi thương lấy bí cùng…, Muốn con hay chữ …, Trông
người lại ngẫm đến ta…
+ Dùng đơn vị ngôn ngữ dân gian đồng thời thêm, bớt, thay đổi thành tố
của nó…cho phù hợp với nội dung của bài báo. Đây là thủ pháp được sử dụng
khá phổ biến: Gậy ông đập lưng…bà, Vải thưa có che được mắt thánh ?, Xôi
hỏng bỏng mất, Không bột mà gột nên hồ, Đi đêm có tránh được ma, Đồng
tiền đi liền đồng ruộng, Tình ngay cái lý gian gian, Trăm dâu đổ đầu… doanh
nghiệp, Sai một mâm, âm một triệu.

Hoàng Thị Thường

14

K35C- SP Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2


Khóa luận tốt nghiệp
Chương 2

PHÂN TÍCH KẾT QUẢ THỐNG KÊ
2.1. Kết quả thống kê
Dựa trên kết quả thống kê cụ thể tư liệu, chúng tôi thu được kết quả sau đây:

STT

Tên thủ pháp

Số lượng

Tỉ lệ
(%)

1

Dùng biện pháp tu từ

212

34.9

2

Dùng cấu dấu chấm lửng

109


18

3

Dùng tiếng Anh

102

16.8

4

Dùng câu hỏi

89

14.7

5

Dùng dấu ngoặc kép

40

6.6

6

Dùng con số để nhấn mạnh


32

5.3

7

Dùng thành ngữ, tục ngữ

13

2.1

8

Dựa theo tên tác phẩm văn học, điện ảnh, tên ca

10

1.6

khúc nổi tiếng hoặc nương theo ý thơ, danh ngôn

2.2. Nhận xét
Như chúng ta đã biết, tiêu đề báo chí có hai chức năng cơ bản là: chức
năng thông báo và chức năng hấp dẫn người đọc. Để tiêu đề báo vừa khái
quát được chủ đề của bài báo, vừa hấp dẫn người đọc thì các nhà báo thường
sử dụng đến nhiều thủ pháp ngôn từ khác nhau.
Qua việc khảo sát trên 40 số báo Hoa học trò, chúng tôi nhận thấy có 8
thủ pháp thường được sử dụng để đặt tiêu đề là: dùng biện pháp tu từ; dùng
dấu chấm lửng; dùng tiếng Anh; dùng câu hỏi; dùng dấu ngoặc kép; dùng con

số để nhấn mạnh; dùng thành ngữ, tục ngữ; dựa theo tên tác phẩm văn học,
điên ảnh, tên ca khúc nổi tiếng hoặc nương heo ý thơ, danh ngôn. Trong đó,

Hoàng Thị Thường

15

K35C- SP Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

thủ pháp dùng biện pháp tu từ chiếm tỉ lệ nhiều hơn cả với 212 tiêu đề (chiếm
34.9 %).
Mỗi một thủ pháp lại có những đặc điểm và tác dụng riêng. Việc tìm
hiểu các thủ pháp đặt tiêu đề trên báo Hoa học trò là việc cần thiết, bởi vì từ
đây giúp cho độc giả có cái nhìn khái quát về đặc điểm của từng thủ pháp
cũng như tác dụng của chúng đối với các văn bản báo chí nói chung và báo
Hoa học trò nói riêng.
2.3. Phân tích các thủ pháp đặt tiêu đề
2.3.1. Dùng các biện pháp tu từ
Theo số liệu thống kê thì dùng biện pháp tu từ là thủ pháp được sử dụng
nhiều nhất trên báo Hoa học trò, với 212 tiêu đê (chiếm 34.9 %).
Dùng biện pháp tu từ (BPTT) là việc sử dụng các phương tiện ngôn ngữ
nhằm đạt tới hiệu quả diễn đạt hay, đẹp, biểu cảm, hấp dẫn. Tùy theo các
phương tiện ngôn ngữ được kết hợp mà BPTT được chia ra thành: BPTT ngữ
âm, BPTT từ vựng- ngữ nghĩa, BPTT cú pháp, BPTT văn bản. Trong khóa
luận này, chúng tôi chỉ đề cập đến một số BPTT ngữ nghĩa tiêu biểu như: ẩn

dụ, chơi chữ, nhân hóa, so sánh.
2.3.1.1. Biện pháp ẩn dụ
Trong các biện pháp tu từ: ẩn dụ, chơi chữ, nhân hóa, so sánh thì biện
pháp ẩn dụ được sử dụng nhiều hơn cả, với 137 tiêu đề (chiếm 64.6 %). Đúng
như Walter đã ghi nhận “…những văn bản quá hình thức lạnh lùng dường
như không dùng ẩn dụ, còn văn bản thông thường thì ngược lại, tận dụng tối
đa ẩn dụ để tạo thêm sức mạnh diễn đạt” (dẫn theo Phan Văn Hòa, Ngôn ngữ
và đời sống 4/2008).
Ẩn dụ là phương thức chuyển nghĩa tu từ, lấy tên gọi đối tượng này để
chỉ cho đối tượng khác, trên cơ sở hai đối tượng có nét tương đồng nào đó,
nhằm làm cho đối tượng hiện lên một cách biểu cảm và có hình ảnh.

Hoàng Thị Thường

16

K35C- SP Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Qua thống kê, chúng tôi thấy dùng biện pháp ẩn dụ để đặt tiêu đề có thể
theo một số dạng sau:
a. Ẩn dụ phẩm chất
Ẩn dụ phẩm chất là ẩn dụ mà giữa hai đối tượng có sự giống nhau về
phẩm chất
VD1: Nuốt pin và nuốt thuốc súng
( HHT, số 968 )

Bài báo đề cập đến một hiện tượng đáng buồn xảy ra trong cuộc sống
hiện nay. Người ta ăn một bát cháo và nghe chửi hàng ngày, lâu dần nhiều
người bảo cháo ngon vì được nghe chửi. Vượt xe bằng cách phóng rào rào lên
vỉa hè, làm vậy nhiều rồi thấy nó cũng thành “giải pháp”. Đến bệnh viện, để
được khám nhanh người ta đút tiền cho bác sĩ, lâu dần thành “luật”….Việc
chúng ta tặc lưỡi cho qua những thứ không đúng chuẩn mực khiến chúng ta
tích tụ những năng lượng xấu trong cái vỏ bọc tưởng như vô hại và ta chỉ biết
độc tố của nó khi những điều xấu nho nhỏ đã thành thảm họa. Người xưa có
câu: đừng thấy việc tốt nhỏ mà không làm, đừng thấy việc xấu nhỏ mà làm ,
có lẽ là để tự nhắc nhau chớ hồn nhiên “nuốt pin và nuốt thuốc súng”.
Trong tiêu đề trên, tác giả dùng cụm từ “nuốt pin và nuốt thuốc súng” để
chỉ việc người ta tặc lưỡi cho qua những thứ rõ ràng không đúng chuẩn mực,
trên cơ sở hai đối tượng này có sự giống nhau về phẩm chất: là việc làm
không đúng, gây hại cho con người. Việc sử dụng biện pháp ẩn dụ phẩm chất
này giúp cho tiêu đề có tính biểu cảm cao. Nó không chỉ thông báo chủ đề của
bài báo: người ta tặc lưỡi cho qua những thứ rõ ràng không đúng chuẩn mực,
mà còn thể hiện thái độ phê phán của tác giả với việc làm sai trái ấy.
VD2: Những cái bướu
(HHT, số 968)
Bài báo đề cập đến cách nhìn những khiếm khuyết của con người. Chúng
ta không ai hoàn hảo, ai cũng có những khiếm khuyết, song chúng ta thường

Hoàng Thị Thường

17

K35C- SP Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2


Khóa luận tốt nghiệp

không nhìn thấy khiếm khuyết của mình mà lại dễ dàng nhìn thấy khiếm
khuyết của người khác. Cũng như con lạc đà không bao giờ nhìn thấy cái
bướu của chính mình, nhưng cái bướu của người anh em nó lại luôn hiện ra
trước mắt nó. Nói như nhà tâm lý học Care Jung thì “Tất cả những gì ở người
khác khiến ta bực mình đều có thể giúp ta hiểu hơn về bản thân mình”.Vậy tại
sao chúng ta không nhìn những “cái bướu” của người khác như một món quà,
vì dù sao nó cũng giúp ta hiểu hơn bản thân mình.
Trong tiêu đề trên, tác giả dùng hình ảnh “cái bướu” để chỉ những khiếm
khuyết của con người, trên cơ sở hai đối tượng này có sự giống nhau về phẩm
chất: là cái xấu, thiếu hoàn hảo. Việc sử dụng biện pháp ẩn dụ phẩm chất này
không chỉ có tác dụng thông báo chủ đề của bài báo: những khiếm khuyết của
con người, mà còn thể hiện thái độ cảm thông và những bài học rút ra từ
những khiếm khuyết ấy.
b. Ẩn dụ hình thức
Ẩn dụ hình thức là ẩn dụ mà giữa hai đối tượng có sự giống nhau về
hình dáng hoặc màu sắc.
VD1: Bay cùng rồng thép
(HHT, số 962)
Một số teen ưa thích cảm giác mạnh thường tìm đến với trò chơi lượn tàu
siêu tốc trên đường ray sắt. Trung bình đường ray của các “rồng thép” nằm trên
độ cao khoảng từ 70- 100m và có chiều dài từ 100- 140m, chạy với vận tốc từ
150- 200 km/h, với mức độ ngoằn ngoèo khác nhau. Cảm giác ngồi trên con
“rồng thép” bay với vận tốc 193 km/h từ độ cao 130m xuống vuông góc với
mặt đất thật là kinh khủng. Nhưng khi dừng lại, ai nấy đều hét lên sung sướng
như vừa từ cõi chết trở về, nhảy nhót tưng bừng và ôm chầm lấy nhau.
Trong tiêu đề trên, tác giả sử dụng hình ảnh “rồng thép” để chỉ chiếc tàu
lượn siêu tốc trên đường ray sắt, trên cơ sở giữa hai đối tượng này có sự giống


Hoàng Thị Thường

18

K35C- SP Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

nhau về hình dáng: dài, ngoằn ngoèo, uốn lượn ở trên cao. Việc sử dụng biện
pháp ẩn dụ hình thức này giúp cho người đọc hình dung ra sự oai phong, hùng
dũng của tàu siêu tốc cũng như mức độ hấp dẫn của nó vì sự liên tưởng: chiếc
tàu siêu tốc như con rồng thép bay lượn trên cao.
VD2: Hãy bảo vệ núi đôi
(HHT, số 969)
Một trong những bệnh đáng sợ nhất của phái nữ chính là bệnh ưng thư
vú. Để bảo vệ “núi đôi” khỏi căn bệnh ung thư các teen nữ cần có một chế độ
sinh hoạt đúng cách. Thứ nhất, phải tắt tất cả các loại ánh sáng khi đi ngủ. Vì
theo các nhà nghiên cứu thì ánh sáng trong giấc ngủ sẽ làm gia tăng nguy cơ
ung thư vú. Thứ hai, cần tăng cường Vitamin D và chất xơ cho cơ thể để làm
giảm nguy cơ ung thư vú. Thứ ba, hạn chế ăn đồ nướng. Vì đồ nướng chín ở
nhiệt độ quá cao sẽ sản sinh ra một loại chất hóa học có tên là HCAS- chất
sinh ung thư. Thứ tư, nên hòa mình với thiên nhiên trong lành.
Trong tiêu đề trên, tác giả sử dụng hình ảnh “núi đôi” để chỉ bầu vú của
người phụ nữ, trên cơ sở giữa hai đối tượng này có sự giống nhau về hình
dáng: tròn, nhô lên. Việc sử dụng biện pháp ẩn dụ hình thức này giúp cho tiêu
đề vừa có tính hình ảnh, vừa thể hiện sự tế nhị của tác giả khi nói đến bộ phận

nhạy cảm của người phụ nữ.
c. Ẩn dụ cách thức
Ẩn dụ cách thức là ẩn dụ mà giữa hai đối tượng có sự giống nhau về
cách thức hành động.

VD1: Binh pháp đốn tim của Justin Bieber
(HHT, số 969)
Bài báo đề cập đến chuyện tình yêu của ca sĩ Justin Bieber. Chắc hẳn các
fan của Justin Bieber đều biết về mối tình lãng mạn của Justin và Selena

Hoàng Thị Thường

19

K35C- SP Ngữ văn


×