1
Khóa luận tốt nghiệp
Cấn Thị Lan Hƣơng
MỞ ĐẦU
1. Lý do chon đề tài
Nhãn (Dimocarpus longan Lour.) – thuộc họ Bồ hòn (Sapindacea Juss),
được trồng rất phổ biến ở nước ta do đặc tính đễ thích nghi và cho giá trị kinh tế cao
với sự đa dạng về chủng loại và chất lượng. Trong số đó phải nhắc tới giống Nhãn
lồng Hưng Yên nổi tiếng trong và ngoài nước bởi nguồn gen tốt và phẩm chất quý,
xưa được dân Phố Hiến chọn lọc từ rất nhiều giống nhãn mang lên dâng Vua tỏ lòng
thành kính và được coi là “Vua” của các loài Nhãn.Theo quyết định số
64/2004/QĐ-BNN ngày 03/12/2004 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, đây là 1 trong 9 giống cây ăn quả quý hiếm cấm xuất khẩu [22].
Nhưng ngày nay do chạy theo lợi nhuận, đáp ứng những yêu cầu của thị
trường về giá cả và số lượng diện tích trồng của giống Nhãn đặc sản này đang bị thu
hẹp đáng kể, và thay vào đó là các giống Nhãn hương chi, Nhãn đường phèn, Nhãn
nước...
Nhãn lồng không chỉ là ẩm thực đặc sản mà còn là một nét văn hóa của dân tộc. Do
vậy vấn đề nghiên cứu bảo tồn, nhân rộng giống Nhãn “ vua” này ở các địa phương
khác của nước ta để nguồn gen quý này không bị mất đi và trở nên phổ biến là vấn
đề cần thiết.
Xã Ngọc Tảo – Phúc Thọ - Hà Nội và xã An Nội – Bình Lục – Hà Nam, là
những nơi có thể trở thành khu vực tiềm năng bảo tồn và tiêu thụ giống Nhãn quý
này. Việc bảo tồn, nhân rộng giống Nhãn lồng đặc sản không chỉ làm phong phú
nguồn thực phẩm mà còn làm giàu cho bà con nông dân của xã Ngọc Tảo, xã An
Nội ngay trên đồng đất quê hương mình.
Xuất phát từ thực tế trên tôi đã tiến hành thực hiện đề tài: “ Góp phần nghiên cứu
bảo tồn giống Nhãn lồng tại Hƣng Yên, Hà Nam và Hà Nội”.
Đại học sƣ phạm Hà Nội 2
1
2
Khóa luận tốt nghiệp
Cấn Thị Lan Hƣơng
2. Mục đích nghiên cứu
Góp phần bảo tồn, nhân rộng nguồn gen giống Nhãn lồng tại xã Quảng Châu,
Tp. Hưng Yên trên cơ sở điều tra diện tích, năng suất, chất lượng của từng loài nhãn
phân tích ưu điểm, nhược điểm của loài.
Đề ra phương hướng bảo tồn, nhân rộng các loài cây đặc sản để cộng đồng cùng
tham gia.
Quảng bá thương hiệu Nhãn lồng ở Việt Nam và thế giới.
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
Ý nghĩa khoa học: Góp phần bổ sung vốn kiến thức về đa dạng các giống
nhãn tại xã Quảng Châu, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên, bổ sung kiến thức
cho chuyên ngành Thực vật học, Bảo tồn tài nguyên sinh vật, Nông nghiệp,...
Kết quả của đề tài là cơ sở cho các công trình nghiên cứu tiếp theo để hoàn thiện
quá trình nghiên cứu bảo tồn giống Nhãn lồng tại Hưng Yên, Hà Nam, Hà Nội.
Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần bảo tồn giống
Nhãn lồng Hưng Yên, tăng thêm thu nhập của người dân xã Ngọc Tảo, An Nội,
Quảng Châu.
4. Điểm mới của đề tài
Công trình cung cấp dữ liệu về kết quả bảo tồn giống Nhãn lồng tại 3 xã
Ngọc Tảo (Hà Nội), An Nội (Hà Nam), Quảng Châu (Hưng Yên).
5. Bố cục của khóa luận
Gồm 49 trang, 33 ảnh, 1 biểu đồ, 10 bảng được chia thành các phần chính
như sau: Mở đầu (2 trang), chương 1 (Tổng quan tài liệu: 3 trang), chương 2 (Đối
tượng, phạm vi, thời gian và phương pháp nghiên cứu: 4 trang), chương 3 (Kết quả
nghiên cứu: 34 trang), kết luận và kiến nghị: (1 trang), tài liệu tham khảo: 33 tài liệu
tài liệu tham khảo; phụ lục.
Đại học sƣ phạm Hà Nội 2
2
3
Khóa luận tốt nghiệp
Cấn Thị Lan Hƣơng
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Khi các loài sinh vật đang bị suy thoái và một số đang có nguy cơ
tuyệt chủng thì chúng ta phải có những hình thức để bảo tồn các nguồn gen quý giá
để lưu giữ cho các thế hệ mai sau. Bảo tồn sự đa dạng và di truyền là điều vô
cùng quan trọng để giữ vững và cải thiện năng suất, phẩm chất các sản
phẩm của hầu hết các nghành trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và lâm
nghiệp.
Để bảo tồn nguồn tài nguyên động thực vật nói riêng và đa dạng sinh học nói
chung, hiện nay có 2 phương thức chủ yếu đó là bảo tồn nguyên vị (In - situ) và bảo
tồn chuyển vị (Ex- situ).
Bảo tồn nguyên vị là duy trì các loài cây động vật, thực vật trong điều kiện tự
nhiên xuất hiện tiến hóa của loài đó, hay nói cách khác là bảo vệ trong tự nhiên
hoang dại của chúng. Bả o t ồn n guy ên vị là mộ t h ệ t hố n g ho ạt độ n g vì
nó c ho p hé p cá c đ ộn g l ực tiến hóa tác động lên vật liệu bảo quản. Loại
bảo tồn này là hoàn toàn thích hợp đối với nhiều loài cây dại, kể cả những
loài cây là họ hàng của những loài cây trồng. Các hình thức bảo tồn nguyên vị như
xây dựng vườn quốc gia, khu bảo tồn, các hệ sinh thái tự nhiên được quản lý.
Bảo tồn chuyển vị là đưa nguồn gen ra khỏi điều kiện tự nhiên sinh sống của
chúng hoặc ra khỏi hệ thống sản xuất đến lưu giữ tại các Trung tâm với các điều
kiện và kĩ thuật bảo đảm sức sống của nguồn gen lâu dài, giữ nguyên được biến dị,
di truyền hiện có của nguồn cây trồng này và họ hàng hoang dại của chúng như
Nhãn (Dimocarpus longan Lour.) có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp con người
sống trong những vùng phong phú về đa dạng sinh học biết cách bảo tồn một cách
bền vững và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho việc phát
triển kinh tế của địa phương và cộng đồng.
Bảo tồn quỹ gen cây trồng đã trở thành nhiệm vụ khoa học thường xuyên của
cấp nhà nước từ năm 1987, sau khi Ủy ban khoa học Kỹ thuật Nhà nước, nay là Bộ
Khoa học và Công nghệ ban hành quy chế lâm thời về bảo tồn nguồn gen. Hiện nay,
có rất nhiều dự án bảo tồn các loại cây ăn quả đặc sản như bưởi Phúc Trạch, bưởi
Đại học sƣ phạm Hà Nội 2
3
4
Khóa luận tốt nghiệp
Cấn Thị Lan Hƣơng
Quế Dương (xã Cát Quế - Hoài Đức - Hà Nội), cam Hương Sơn, quýt sen Văn Chấn
(Yên Bái)... Tuy nhiên, nhiều nguồn gen quý vẫn chưa được quan tâm thích đáng.
Theo khảo sát của Trung tâm Tài nguyên Thực vật, Việt Nam đã có khoảng 30 đề
tài bảo tồn nguồn gen giống cây trồng tại chỗ.
Năm 2002 - 2005, Sở KH&CN đã phối hợp với Viện Di truyền Nông nghiệp
xây dựng một vùng bảo tồn nguồn gen Nhãn lồng đặc sản Hưng Yên tại xã Hồng
Nam thị xã Hưng Yên với diện tích là 20 ha đã được bà con nông dân trồng nhãn và
các cấp chính quyền địa phương nhiệt tình ủng hộ.[26]
Theo Quyết định số 80/2005/QĐ-BNN, ngày 05 tháng 12 năm 2005 của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, giống Nhãn lồng Hưng Yên là một trông
những giống cây trồng quý đang bị cấm xuất khẩu.[23]
Trong công trình nghiên cứu “Kết quả khảo sát, phân tích sự đa dạng của
một số giống Nhãn – Dimocarpus longan Lour. - tại tỉnh Hưng Yên và họ hàng
hoang dại của chúng” và “Kế hoạch bảo tồn các giống cây trồng mục tiêu tại Hưng
Yên” của Trần Minh Hợi (Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật) cùng các cộng sự
năm 2005 đã đề xuất hình thức bảo tồn giống Nhãn lồng. Công trình đã đề ra được
các giải pháp và hoạt động cụ thể hỗ trợ cho việc bảo tồn. Để bảo tồn giống Nhãn
lồng sử dụng chiến lược bảo tồn tương hỗ bao gồm cả bảo tồn tại chỗ tại cộng đồng
là chính và sự hỗ trợ bảo tồn ngoại vi tại Viện nghiên cứu rau quả.[9],[10]
Năm 2009, "Cần có biện pháp hữu hiệu để bảo tồn, lưu giữ và thâm canh
quản lý tốt cây giống nhãn lồng đặc sản" là chủ đề được bàn luận sôi nổi trong cuộc
hội thảo do Sở Khoa học và Công nghệ và Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
phối hợp tổ chức tại Hưng Yên ngày 13/8. Để lưu giữ nguồn giống Nhãn lồng đặc
sản, Hưng Yên đã coi trọng việc bình tuyển cây nhãn đầu dòng. Sở Khoa học và
Công nghệ Hưng Yên đã xây dựng được vườn ươm, chọn lọc gần 400 cây nhãn
giống đã qua bình tuyển, với các tiêu chuẩn: độ đường từ 19-23%, cùi dày và giòn,
trọng lượng đạt từ 50-80 quả/kg, năng suất cao ổn định. Cùng với việc bảo tồn lưu
giữ cây giống quí, vấn đề mấu chốt mà các chuyên gia và người làm vườn nhất trí
cao tại hội thảo là Hưng Yên cần qui hoạch phát triển vùng nguyên liệu qui mô rộng
lớn, tăng cường chuyển giao khoa học kỹ thuật, thường xuyên chọn lọc giống, nhân
Đại học sƣ phạm Hà Nội 2
4
5
Khóa luận tốt nghiệp
Cấn Thị Lan Hƣơng
giống và trồng mới những cây chất lượng cao; đồng thời coi trọng khâu bảo quản
chế biến, tiêu thụ nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. [27],[28]
Tháng 12 năm 2011, UBND tỉnh Hưng Yên có Quyết định số 2043/QĐUBND phê duyệt dự án "Bảo tồn giống nhãn đặc sản và nâng cao chất lượng, giá trị
sản phẩm vùng chuyên canh nhãn tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2012 - 2015". Dự án
được triển khai thực hiện từ tháng 3 năm 2012 đến hết năm 2015. Địa điểm thực
hiện dự án tại các huyện Tiên Lữ, Kim Động, Khoái Châu và thành phố Hưng Yên.
[30],[31]
Tại các xã An Nội, Ngọc Tảo cũng có vài hộ gia đình trồng Nhãn lồng hưng
yên nhưng số lượng không nhiều chỉ vài cây với mục đích lấy quả phục vụ nhu cầu
trong gia đình. Cũng góp phần vào việc bảo tồn giống Nhãn lồng hưng yên, tuy
nhiên chưa được nghiên cứu cụ thể.
Vì vậy công trình “Góp Phần nghiên cứu bảo tồn giống Nhãn lồng tại
Hƣng Yên, Hà Nam và Hà Nội” của tôi là một trong những công trình đầu tiên
nghiên cứu bảo tồn và phát triến giống Nhãn lồng tại xã Quảng Châu, xã Ngọc Tảo
và xã An Nội
Đại học sƣ phạm Hà Nội 2
5
6
Khóa luận tốt nghiệp
Cấn Thị Lan Hƣơng
CHƢƠNG 2. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI, THỜI GIAN
VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2. 1. Đối tƣợng nghiên cứu
Giống Nhãn lồng ở xã Quảng Châu, thành phố Hưng Yên dựa trên cơ sở số
liệu điều tra thực tế và các tài liệu về bảo tồn Nhãn lồng trên thế giới, của Việt Nam
và các tài liệu khác có liên quan.
2. 2. Phạm vi nghiên cứu
Xã Quảng Châu, TP. Hưng Yên; xã Ngọc Tảo, Phúc Thọ, TP. Hà Nội; xã
An Nội, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
* Điều kiện xã hội nơi nghiên cứu: Xã Quảng Châu
Dân số: 8236 nhân khẩu (năm 2011) với trên 2400 hộ, với 6 thôn. Với tỉ lệ
phát triển dân số tự nhiên 0,98.
Trước đây, Quảng Châu là một xã nghèo nhưng trong những năm gần đây
do có sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng nên kinh tế trong xã đã dần ổn định. Các hộ
trong xã chủ yếu phát triển cây ăn quả (nhãn, cam, chuối, táo…), trồng dâu, nuôi
tằm.
Thu nhập bình quân: 9,5 triệu đồng/người/năm
Tổng số hộ nghèo trong xã: 299 hộ với tỉ lệ 13,9 % (tỉ lệ cao nhất thành phố)
* Điều kiện tự nhiên:
Diện tích tự nhiên: 830,3 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp là 450 ha
( 65 ha đất cấy lúa một vụ) (năm 2011).
Xã Quảng Châu là một xã thuộc thành phố Hưng Yên, nằm trong vùng khí
hậu nhiệt đới gió mùa Đông Bắc Bộ. Một năm có bốn mùa rõ rệt. Mùa đông lạnh,
mùa hè nóng ẩm, mùa xuân, thu khí hậu ôn hoà. Nhiệt độ trung bình trong năm từ
22 - 23oC, độ ẩm dao động lớn, từ 80 - 90%.
Tổng lượng mưa trung bình trong năm dao động trong khoảng 1.500mm 1.600mm, lượng mưa trong những tháng mùa mưa trung bình từ 1.200mm 1.300mm, chiếm khoảng 80 - 85% tổng lượng mưa trong năm, mùa khô lượng mưa
trung bình từ 200 - 300 mm chiếm khoảng 15 - 20 % tổng lượng mưa trong năm.
Đại học sƣ phạm Hà Nội 2
6
7
Khóa luận tốt nghiệp
Cấn Thị Lan Hƣơng
* Khi đƣa giống Nhãn lồng này bảo tồn chuyển vị tại Hà Nội và Hà Nam, tôi
đã xem xét sơ bộ tình hình kinh tế - xã hội và điều kiện tự nhiên của 2 địa
phƣơng.
Xã Ngọc Tảo, Phúc Thọ, Hà Nội:
Xã Ngọc Tảo với diện tích đất canh tác là 365,48 ha trong đó diện tích đất
trồng cây ăn quả là 38,02 ha chiếm 10,4%. Thành phần cơ giới đất chủ yếu là đất
thịt nhẹ: 53,03%, đất thịt trung bình: 28,62%, đất thịt nặng: 18,35%
Nền kinh tế của xã phụ thuộc chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp, với thu
nhập bình quân: 16.250.000 đ/ng/năm
Với điều kiện thời tiết, khí hậu đất đai thích hợp với nhiều loài cây ăn quả,
việc đưa giống Nhãn lồng bảo tồn chuyển vị ở nơi đây tạo chuyển biến cho việc
nhân giống, bảo tồn, phát triển các giống đặc sản quý như Nhãn lồng nói riêng và
các giống đặc sản của Việt Nam nói chung. Tạo điều kiện phát triển kinh tế cho bà
con xã.
Nguồn: Địa chính và Ban thống kê xã Ngọc Tảo
Xã An Nội, Lục Bình, Hà Nam:
Xã An Nội với diện tích đất canh tác là 100,88 ha. Trong đó, đất trồng cây ăn
quả chiếm 27,5%. Thành phần cơ giới đất chủ yếu là đất thịt và đất bạc màu, khí
hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm
Đây là một xã nghèo, kinh tế kém phát triển chủ yếu dựa vào trồng lúa và
hoa màu.
Việc nghiên cứu bảo tồn giống Nhãn lồng thành công sẽ tạo thêm nguồn thu
nhập cho bà con trong xã. Và nhân rộng diện tích trồng Nhãn lồng.
Nguồn: Địa chính và Ban thống kê xã An Nội
2.3. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 2/ 2010 - 3/2013.
Đại học sƣ phạm Hà Nội 2
7
8
Khóa luận tốt nghiệp
Cấn Thị Lan Hƣơng
2.4. Nội dung nghiên cứu
Khảo sát thực địa, nhằm đánh giá thực trạng nguồn gen và những điều kiện
liên quan (tự nhiên, xã hội, con người, công nghiệp hóa,...) về đối tượng bảo tồn.
Xác định phương hướng bảo tồn tại chỗ (In-situ).
Nghiên cứu một số đặc điểm sinh thái học cá thể giống Nhãn lồng được
trồng thử nghiệm tại xã Quảng Châu, Tp. Hưng Yên và xã An Nội, huyện Bình Lục,
tỉnh Hà Nam và xã Ngọc Tảo, Phúc Thọ, Hà Nội từ đó đề xuất quy trình chăm sóc
và bảo tồn.
Khôi phục nguồn gen: xây dựng mô hình nông hộ, vườn bảo tồn,... cho các
cá thể thuộc giống Nhãn lồng tại Hưng Yên và nhân giống để trồng thử nghiệm tại
xã Quảng Châu, Tp. Hưng Yên - xã An Nội, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam – xã
Ngọc Tảo, Phúc Thọ, Tp. Hà nội.
Tổ chức quảng bá sản phẩm và vận động người dân các địa phương cùng
tham gia (nếu điều kiện cho phép).
2.5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu “Bảo tồn giống Nhãn lồng tại xã An Nội, huyện Bình Lục, tỉnh Hà
Nam và xã Ngọc Tảo, Phúc Thọ Hà Nội”, chúng tôi sử dụng các phương pháp phổ
biến đã và đang được áp dụng hiện nay. Các bước tiến hành cụ thể như sau:
2.5.1. Nghiên cứu tài liệu
Kế thừa các kết quả về thông tin, số liệu và những tư liệu, kết quả liên quan đến
đề tài mà các công trình nghiên cứu đã báo cáo tổng kết công khai, công bố, đăng
tải trên các phương tiện thông tin chính thức.
2.5.2. Nghiên cứu tham dự (PRA. RRA)
Thu hút sự tham gia của cộng đồng những người có sự hiểu biết thấu đáo tường
tận về đời sống của cây Nhãn lồng mà họ đã trải nhiều đời chung sống với nó. Vì
đây là những người giữ gìn nguồn gen bản địa, họ có cả kho tàng rất phong phú về
kiến thức truyền thống về cây nhãn lồng mà đề tài cần nghiên cứu khai thác (việc
nhân giống, kinh nghiệm chăm sóc, chống đỡ thiên tai, dịch bệnh, khai thác, sử
dụng sản phẩm của cây nhãn lồng). Đồng thời họ là những người sẽ nhận chuyển
giao sản phẩm (cây bảo tồn), kỹ thuật và sẽ đem công sức vào việc phát triển cây
nhãn lồng sau này với mục tiêu phát triển kinh tế gia đình và giữ gìn một loài cây
quí tại địa phương.
Đại học sƣ phạm Hà Nội 2
8
9
Khóa luận tốt nghiệp
Cấn Thị Lan Hƣơng
2.5.3. Điều tra, thống kê, phân tích
Đánh giá thực trạng tình hình kinh tế -xã hội tác động diễn biến sự phát triển cây
nhãn lồng ở nơi nghiên cứu.
2.5.4. Điều tra thực địa
Nhằm thu thập số liệu về đặc điểm phân loại, đặc điểm sinh học và sinh thái,
phân bố, đa dạng sinh học (số lượng, chất lượng, diễn biến về số lượng và chất
lượng), tình trạng suy thoái trong những vùng tiểu sinh thái cụ thể về cây nhãn lồng
ở nơi nghiên cứu.
2.5.5. Chọn cây mẹ (cây đầu dòng)
Bình tuyển, chọn cây ưu việt làm cây mẹ cho việc nhân giống (giâm hom, chiết
cành, nuôi cấy mô), cụ thể là:
- Dựa vào kết quả phân loại và kiến thức của dân địa phương để xác định chính
xác đối tượng nghiên cứu.
- Tổ chức điều tra thống kê số lượng cây nhãn lồng còn lại ở từng địa điểm; hiện
trạng và phân tổ: Tốt nhất, trung bình và kém.
- Kết hợp việc ứng dụng tiến bộ của Khoa học và kỹ thuật với phương pháp
truyền thống trong việc chăm sóc, phát triển các cây nhãn tại nơi nghiên cứu làm cơ
sở cho việc bảo tồn và phát triển. Đồng thời để lựa chọn cây mẹ sau này.
- Xây dựng tiêu chuẩn cây mẹ, lựa chọn trong nhóm những cây tốt nhất làm cây
mẹ, lên danh mục và xây dựng lý lịch cho từng cây.
- Lựa chọn những cây trội nhất trong tập đoàn những cây đã chọn để tiến hành
nhân giống, cây đáp ứng những tiêu chuẩn như sau:
+ Thân mập, cành, lá không hoặc ít sâu bệnh, bộ rễ chắc.
+ Phân cành: Tán rộng, cành có nhiều chồi mập, lá xum xuê, xanh thẫm.
+ Năng suất cao, phẩm chất tốt; quả to, đều, đẹp, mùi thơm,...
2.5.6. Xây dựng mô hình thử nghiệm
Áp dụng tiến bộ KHKT vào việc bảo tồn và phát triển đối tượng nghiên cứu (tùy
điều kiện cụ thể để xác định khu trồng mới).
2.5.7. Xây dựng quy trình và hƣớng dẫn kỹ thuật
Trên cơ sở các kết quả điều tra, nghiên cứu, phân tích và kết quả nghiên cứu nêu
trên, xây dựng quy trình và hướng dẫn kỹ thuật trồng và chăm sóc cây con.
Đại học sƣ phạm Hà Nội 2
9
10
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học sƣ phạm Hà Nội 2
Cấn Thị Lan Hƣơng
10
11
Khóa luận tốt nghiệp
Cấn Thị Lan Hƣơng
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thực trạng trồng trọt cây ăn quả tại xã Ngọc Tảo
Qua điều tra thực địa 30 hộ gia đình của xã Ngọc Tảo thống kê được hiện
trạng trồng cây ăn quả thể hiện ở bảng sau:
Bảng 1: Thực trạng trồng trọt cây ăn quả tại xã Ngọc Tảo
Năm 2000
TT
Năm 2005
Ghi
Năm 2010
chú
Loại cây
trồng
1.
Nhãn
Diện tích
trồng
(m2)
756
Số
lượng
cây
32
Diện tích
trồng
(m2)
750
Số
lượng
cây
30
Diện tích
trồng
(m2)
750
Số
lượng
cây
30
2.
Bưởi
1449
161
1224
136
1224
136
3.
Táo
1125
45
950
38
1000
40
4.
Xoài
832
52
848
53
800
50
5.
Ổi
720
80
675
75
960
60
6.
Chuối
1528
382
1540
385
1520
380
7.
cây khác
Nguồn: Điều tra thực địa
Qua bảng trên thấy được cây ăn quả được trồng chủ yếu ở xã Ngọc Tảo là các loài
cây ăn quả như bưởi, chuối, ổi… Nhãn cũng được trồng khá phổ biến nhưng với
diện tích hẹp hơn chủ yếu là giống Nhãn hương chi, chỉ có duy nhất một hộ gia đình
là Cấn Ngọc Ất có trồng một cây Nhãn lồng.
3.2. Thực trạng trồng trọt cây ăn quả tại xã Quảng Châu
Qua điều tra thực địa, kết quả hiện trạng trồng trọt cây ăn quả tại xã Quảng
Châu, TP. Hưng Yên được thể hiện qua bảng sau:
Đại học sƣ phạm Hà Nội 2
11
12
Khóa luận tốt nghiệp
Cấn Thị Lan Hƣơng
Bảng 2. Hiện trạng trồng trọt cây ăn quả tại xã Quảng Châu, TP. Hưng Yên
Nhãn
Năm 2000
Diện tích
Số
trồng
lượng
cây
2
16452 m
584
Năm 2005
Diện tích
Số
trồng
lượng
cây
2
16452 m
592
Năm 2010
Ghi
Diện tích
Số
chú
trồng
lượng
cây
2
16452 m
592
2
Bưởi
Trồng xen
32
Trồng xen
37
Trồng xen
39
3
Cam
Trồng xen
109
Trồng xen
113
Trồng xen
122
4
Chuối
Trồng xen
905
Trồng xen
909
Trồng xen
924
TT
Loại
cây
trồng
1
Nguồn: Điều tra thực địa
Kết quả điều tra cho thấy cây ăn quả trong xã chủ yếu là cây nhãn, bên cạnh
đó có sự trồng xen thêm một vài loại cây ăn quả khác như bưởi, cam, chuối nhưng
số lượng và diện tích không đáng kể. Cây nhãn được trồng nhiều ở khắp nơi trong
xã và chiếm tỉ lệ đáng kể trong tập đoàn cây ăn quả. Các giống nhãn được trồng
trong xã gồm các giống: Nhãn hương chi, Nhãn lồng, Nhãn đường phèn, Nhãn cùi,
Nhãn nước.
3.3. Một số thông tin phân loại về giống Nhãn lồng
Loài Nhãn có tên khoa học là Dimocarpus longan Lour. 1790 (tên đồng
nghĩa là Euphoria longana Lamk., Nephelium longana Cambess.,...); thuộc họ Bồ
hòn (Sapindaceae Juss.); bộ Bồ hòn (Sapindales); phân lớp Hoa hồng (Rosidae); lớp
Ngọc lan (Magnoliopsida); ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) [1], [8], [13-14], [22].
3.3.1.Đặc điểm hình thái
Cây gỗ thường xanh, sống nhiều năm, cao tới 30 (- 40) m, đường kính gốc
0,3 - 0,8 m, phần gốc bạnh cao tới 2m. Cành mang hoa thường màu nâu, thỉnh
thoảng có lỗ vỏ. Lá kép lông chim chẵn, gồm 2 - 5(- 6) đôi lá chét. Lá chét mọc đối
hoặc mọc cách, hình bầu dục hẹp hoặc hình mác, ít khi hình trứng, cỡ 3 - 45 x 1,8 20 cm; mép nguyên; gân bên 8 - 15 đôi. Cụm hoa chùy, cao 8 - 40(- 60) cm; mọc ở
đỉnh cành hoặc nách lá gần đỉnh; cụm xim có (1-)3- 5 hoa. Hoa đơn tính, cùng gốc,
màu vàng, thơm. Đài hơi hợp ở gốc, xẻ 5(- 6) thùy hình tam giác, tồn tại ở quả.
Cánh hoa 5(- 6), hình thìa, cỡ 1,5 - 6 x 0,8 - 2 mm; mặt ngoài không hoặc có lông
Đại học sƣ phạm Hà Nội 2
12
13
Khóa luận tốt nghiệp
Cấn Thị Lan Hƣơng
dài như len, mặt trong phần lớn rậm lông như len. Tuyến mật hình vành khuyên,
thường hơi có thùy, có lông. Nhị thường 8; chỉ nhị dài đến 6 mm (ở hoa cái cỡ 1
mm), hầu hết có lông như len; bao phấn dài 0,6 - 1,5 mm. Bầu chia 2 - 3 thùy tương
ứng 2 - 3 ô, mặt ngoài có nốt sần và lông dày đặc, mỗi ô chứa 1 noãn; vòi nhụy đính
ở đáy bầu, có lông; núm nhụy chia 2 - 3 thùy. Quả xẻ sâu thành 2 - 3 thùy, khi chín
có màu vàng; thùy quả gần hình cầu, cỡ 1 - 3 cm, có nốt sần. Hạt hình cầu, màu nâu
đậm hoặc đen, bóng, đường kính tới 1,7 cm; rốn hạt ở gốc, tròn hoặc gần tròn, cỡ 1
cm; áo hạt màu trắng đục, bao trọn hạt, không dính vào vỏ hạt. Lá mầm trong hạt
màu trắng, có nhiều tinh bột và dầu béo, phôi màu vàng [8], [14], [18 - 20].
3.3.2. Nguồn gốc và phân bố
Về nguồn gốc và xuất sứ của cây nhãn vẫn chưa thật sự rõ ràng: một số tác
giả cho rằng chúng có nguồn gốc từ dải núi kéo dài từ Mianma đến miền Nam
Trung Quốc, một số tác giả mở rộng giới hạn đến tận miền Tây nam Ấn Độ và Sri
Lanka, vùng có khí hậu lục địa, vùng Tây Ghats ở độ cao 1600 m vẫn còn rừng
nhãn dại. Nhãn cũng là cây trồng phổ biến ở Ấn Độ và khắp các nước khu vực
Đông Nam Á. Đến thế kỷ 19 nhãn mới được trồng ở một số nước châu Mỹ, châu
Phi và châu Đại Dương trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Hiện nay, Trung
Quốc là nước có diện tích trồng nhãn và sản lượng nhãn lớn nhất trên thế giới
(nhiều nhất là các tỉnh Phúc Kiến và Quảng Tây) [14], [19], [20].
Ở Việt Nam, theo tương truyền cây Nhãn xuất hiện cách đây hơn 300 năm.
Đó là cây Nhãn “tổ”, được trồng và chăm sóc tại Đình Hiến.
Hiện nay nhãn được trồng nhiều ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Vùng đất phù
sa ven sông Hồng, sông Thao, sông Lô, sông Mã và ở miền Nam ven sông Tiền,
sông Hậu cũng có rất nhiều nhãn và đã trở thành những vùng hàng hóa. Trong
những năm gần đây do nhu cầu quả tươi tại chỗ, cây nhãn phát triển nhanh tại các
tỉnh phía nam: Cao Lãnh (Đồng Tháp), Vĩnh Châu (Sóc Trăng), cù lao An Bình,
Đồng Phú,… đặc biệt là Vĩnh Long, Bến Tre với diện tích trồng tăng nhanh. Nhãn
không chỉ trồng tại vườn nhà mà còn được trồng ở vườn đồi, vườn rừng trong
những trang trại với quy mô đến hàng chục hecta [19 - 20].
Đại học sƣ phạm Hà Nội 2
13
14
Khóa luận tốt nghiệp
Cấn Thị Lan Hƣơng
3.3.3. Đặc điểm sinh học và sinh thái
Bộ nhiễm sắc thể 2n = 30. Cây thụ phấn chéo chủ yếu bởi kiến, ong và một số
côn trùng khác. Sau khi hoa nở khoảng 2 tuần hình thành rất nhiều quả con, nhưng
khi giả phân quả được khoảng 1 cm thì có hiện tượng rụng quả hàng loạt. Quả
thường chín sau khi hoa nở khoảng 4 - 7 tháng tùy giống và điều kiện môi trường
[14].
Nhãn là cây trồng thích hợp với vùng khí hậu cận nhiệt đới và nhiệt đới, trong
những vùng đất phù xa, đất phong hoá từ đá vôi, đất được tạo ra từ núi lửa,… ở độ
cao dưới 2000 m so với mực nước biển. Đây là loài cây ưa sáng và ẩm nhưng không
bị úng, pH đất khoảng 5,5 - 6,5; nhiệt độ thích hợp bình quân hàng năm là 21- 27oC,
ở 0oC cây con sẽ chết, từ -0,5 đến dưới -4oC cây trưởng thành bị tổn thương. Trong
quá trình sinh trưởng và phát triển nhãn rất cần nước, lượng mưa hàng năm cần thiết
khoảng 1300 - 1600 mm. Tuy có khả năng chịu ngập úng trong 3 - 5 ngày, nhưng
nếu bị ngập lâu bộ rễ sẽ thối, cây yếu dần và chết. Gió tây và bão gây thiệt hại nhiều
cho nhãn. Khi hoa nở, nhiệt độ thích hợp cho thụ phấn là 20 - 27oC; độ ẩm không
khí thích hợp 70 - 80% và không mưa; gió tây thường gây nóng làm núm nhụy mất
nước, khô teo ảnh hưởng đến quá trình thụ phấn, thụ tinh và làm quả kém phát triển
hoặc rụng [14], [18 - 20].
Ở miền Bắc thường ra hoa tháng 2 - 4, quả chín tháng 6 - 8; miền Nam ra hoa
tháng 5 - 8, quả chín tháng 9 - 12. Tuy nhiên, do việc áp dụng các tiến bộ của khoa
học kỹ thuật, ở miền Nam, người trồng cây có thể điều chỉnh thời vụ ra hoa theo ý
muốn. Cây nhãn thường được trồng xen với những cây ăn quả khác như táo, cam,
chuối, bưởi.
3.3.4. Giá trị kinh tế
Thịt quả (tử y, áo hạt, cơm quả,...) ở một số giống nhãn có thể chiếm 67 - 78%
khối lượng quả, đối với giống Nhãn lồng thì tỷ lệ cùi/quả đạt 62,7% cao hơn các
giống nhãn khác (trừ nhãn cùi điếc). Thành phần 100 g thịt quả chứa khoảng 72,4 g
nước; 25,2 g các chất đường bột; 1 g chất đạm; 0,5 g chất béo; 0,5 g tro; 0,4 g chất
xơ; 6 mg P; 2 mg Ca; 0,3 mg Fe; 28 IU vitamin A; 0,04 mg vitamin B1; 0,07 mg
Đại học sƣ phạm Hà Nội 2
14
15
Khóa luận tốt nghiệp
Cấn Thị Lan Hƣơng
vitamin B2; 0,06 mg niacin và 8 mg vitamin C. Năng lượng trung bình 458 kJ/100 g
[14], [18 - 20].
Với thành phần như vậy, quả nhãn được coi là một loại quả rất có giá trị. Quả
nhãn thường được dùng tươi, ở một số tỉnh Trung Quốc, Đài Loan và Thái Lan
ngành công nghiệp chế biến quả nhãn làm đồ hộp rất được coi trọng [14]. Ngoài ra,
quả sấy khô làm long nhãn được dùng làm thuốc chữa mất ngủ, trí nhớ suy giảm,
thần kinh suy nhược, gan kém, tỳ kém, rong kinh, huyết hư, ốm yếu sau khi trị
bệnh, làm nước giải khát, làm rượu mùi,... Hạt chứa dầu béo, tinh bột, saponin và
tanin nên có thể dùng để sản xuất xà phòng. Trong dân gian, hạt nhãn còn được
dùng chữa các vết thương bị chảy máu, các vết bỏng. Lá nhãn chứa các hợp chất
quercetin và quercitrin và đôi khi được dùng chữa cảm mạo dưới dạng thuốc sắc.
Hoa nhãn là nguồn nuôi ong mật rất tốt, một số nơi ở Trung Quốc hoa nhãn khô còn
được bày bán ở chợ như một loại hàng hoá. Gỗ nhãn thường được dùng làm đồ gia
dụng, đôi khi được dùng làm đồ thủ công mỹ nghệ...[2 - 3], [6], [12], [14], [19 - 20].
Như vậy loài Nhãn rất có giá trị về kinh tế và có ý nghĩa đối với sức khoẻ của
con người.
Ở Việt Nam, trước kia các sản phẩm từ nhãn chủ yếu được tiêu thụ trong
nước, những năm gần đây nhãn và long nhãn nước ta đã được xuất khẩu đi nhiều
nước trên thế giới. Theo Vũ Mạnh Hải (2005), nhãn là 1 trong những cây ăn quả
chủ đạo ở miền Bắc Việt Nam [7]. Theo quyết định số 64/2004/QĐ-BNN ngày
03/12/2004 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đây là 1 trong 9
giống cây ăn quả quí hiếm cấm xuất khẩu [23].
3.3.5. Về phân loại
Trên thế giới, loài Nhãn (Dimocarpus longan Lour.) được chia thành 2 phân
loài: Phân loài Nhãn (D. longan ssp. longan), phân loài Nhãn mã lai (D. longan ssp.
malesianus Leenh.) và 5 thứ.
Việt Nam có cả 2 phân loài và 4 thứ là: Nhãn (D. longan var. longan); Nhãn
dầu (D. longan var. longipetiolulatus Leenh.); Nhãn tà hay Xuồng cơm vàng (D.
Đại học sƣ phạm Hà Nội 2
15
16
Khóa luận tốt nghiệp
Cấn Thị Lan Hƣơng
longan var. obtusus (Pierre) Leenh.); Nhãn mã lai (D. longan var. malesianus
Leenh.) [13-14], [23].
Các giống nhãn ở miền Bắc có: Nhãn lồng, Nhãn bàm bàm, Nhãn đường phèn,
Nhãn cùi, Nhãn cùi điếc, Nhãn nước, Nhãn thóc,… Tất cả đều thuộc thứ Nhãn (D.
longan var. longan) [14], [18 - 20].
3.3.6. Đặc điểm phân biệt các giống nhãn trồng tại xã Quảng Châu
Tại xã Quảng Châu, thành phố Hưng Yên, có 5 giống nhãn được trồng phổ
biến là: Nhãn lồng, Nhãn hương chi, Nhãn đường phèn, Nhãn nước, Nhãn cùi. Các
giống này phân biệt nhau bởi các đặc điểm chuẩn loại như sau:
Nhãn lồng: Tán cây tròn, thân chia nhánh nhiều, vỏ thân màu hơi hồng, cành
lá dày xum xuê, 8 - 10 lá chét, lá cứng, đầu lá nhọn. Hoa gọn buồng. Chùm quả
ngắn và gọn; kích thước quả khá đều nhau; khối lượng quả trung bình đạt 11 - 12
g/quả; quả to có thể đạt 14 - 15g/quả, quả nhỏ khoảng 7 - 8g/quả. Quả chín ăn giòn,
ngọt đậm, các múi chồng lên nhau ở phía đỉnh quả. Trên mặt ngoài cùi hình thành
các nếp nhăn. Độ bám giữa cùi và hạt, cùi và vỏ yếu. Các múi bóng, cùi dày, giòn,
dóc, cùi mềm ướt; hạt nâu đen. Tỷ lệ cùi/quả đạt trung bình 62,7%, cao hơn các
giống nhãn trừ cùi điếc. Vỏ quả Nhãn lồng thường dày, giòn, độ dày trung bình đạt
0,8 mm.
Nhãn hƣơng chi: Tán cây tròn, gọn, xoè đều. Thân phân nhánh nhiều. Cành lá
xum xuê, lá to, dày, dài, xanh đậm, 8 - 10 lá chét, khoảng cách giữa các lá ngắn.
Hoa dày, có thể ra 3 đợt. Chùm quả ngắn và gọn; quả sát nhau, quả to, tròn, vỏ dày,
cứng. Trọng lượng quả 11,2 g/quả, kích thước quả không đều nhau (do ra hoa nhiều
đợt). Hạt tròn, đen, bóng. Cùi dày, giòn, dóc, hơi khô, ngọt vừa. Tỷ lệ cùi/quả trung
bình đạt 66%.
Nhãn đƣờng phèn: Tán cây tròn, hơi có dạng chóp. Thân chia nhánh nhiều,
cành, lá xum xuê, cành thường vươn dài, hoa nhỏ. Màu sắc vỏ quả và kiểu chùm
quả tương tự như Nhãn lồng, song quả có hình dạng tròn hơn so với Nhãn lồng,
kích thước quả nhỏ hơn. Trọng lượng quả trung bình từ 7 - 12g/quả. Vỏ quả màu
nâu nhạt, dày, giòn, hàm lượng nước trong cùi nhiều hơn so với nhãn lồng. Cùi
Đại học sƣ phạm Hà Nội 2
16
17
Khóa luận tốt nghiệp
Cấn Thị Lan Hƣơng
tương đối dày, cùi có màu trắng ngà (tạo nên các vết trắng, trong lẫn lộn), hạt có
màu hồng cánh gián. Tỷ lệ cùi/quả trung bình là 60%. Cùi ăn thơm, ngọt sắc, chín
muộn hơn nhãn cùi từ 10 - 15 ngày.
Nhãn nƣớc: Tán cây cao, dạng trụ không xoè tròn. Thân phân nhánh nhiều,
cành đứng, lá nhỏ, thưa, số lá chét thường 6 - 8 lá. Hoa thưa. Chùm quả dài, trọng
lượng trung bình 6,15 g/quả, kích thước quả nhỏ, hạt to, cùi mỏng, trong và nát (do
nhiều nước). Độ dày cùi trung bình 2,7 mm, tỷ lệ phần trọng lượng cùi/quả trung
bình đạt 31%. Hàm lượng đường tổng số trong quả thấp 11,7%. Giống nhãn này
thường dùng để làm long sấy, rất ít dùng để ăn tươi.
Nhãn cùi: Tán cây tròn, thân phân chia nhánh nhiều, vỏ thân màu hơi hồng.
Lá màu xanh đậm, có trung bình 8 - 10 lá chét; phiến lá dày, gợn sóng, đầu lá không
nhọn, mép lá quăn. Hoa dày, chùm quả ngắn. Trọng lượng quả trung bình đạt
8,5 - 11,5 g/quả (tương đương khoảng 85 - 120 quả/kg). Độ ngọt và hương thơm
của quả kém nhãn lồng và nhãn đường phèn. Độ dày trung bình của vỏ quả là 0,5
mm, của cùi là 4,7 mm. Cùi khô, hạt đen. Tỷ lệ cùi/quả đạt trung bình 58% [9 - 10],
[18]
Bảng 3. Một số đặc điểm sinh học của các giống nhãn được trồng tại xã Quảng Châu ở
độ tuổi 10-15 năm
TT
Tên giống
Thời gian hoa nở
rộ
Thời gian
thu hoạch
1.
Nhãn lồng
Tháng 5
Tháng 7 - Tháng 8
Khối
lƣợng quả
(g)
11-12
Tỷ lệ
áo hạt
(%)
62,7%
Ghi
chú
g/quả
2.
Nhãn hương
Tháng 4 - Tháng 5
Tháng 6 - Tháng 8
11,2 g/quả
66%
Tháng 5
Tháng 7
9,4 g/quả
60%
Tháng 4 - Tháng 5
Tháng 7 - Tháng 8
8,5 - 11,5
58%
chi
3.
Nhãn đường
phèn
4.
Nhãn cùi
g/quả
5.
Nhãn nước
Tháng 4 - Tháng 5
Tháng 6 - Tháng 7
6,15 g/quả
31%
Nguồn: Điều tra thực địa
Đại học sƣ phạm Hà Nội 2
17
18
Khóa luận tốt nghiệp
Cấn Thị Lan Hƣơng
Nhãn lồng mang đặc điểm chung của loài Nhãn, nhưng khác biệt các giống
nhãn khác bởi lá mang 8 - 10 lá chét, lá cứng. Hoa gọn buồng. Chùm quả ngắn và
gọn; khối lượng quả trung bình đạt 11 - 12 g/quả; quả to có thể đạt 14 – 15 g/quả,
quả nhỏ khoảng 7 – 8 g/quả. Tỷ lệ cùi/quả đạt trung bình 62,7%.
Giống Nhãn hƣơng chi
Giống Nhãn lồng
Giống Nhãn đƣờng phèn
Giống Nhãn cùi
Ảnh 1. Một số giống nhãn được trồng tại xã Quảng Châu
(Người chụp ảnh: Trần Huy Thái)
Đại học sƣ phạm Hà Nội 2
18
19
Khóa luận tốt nghiệp
Cấn Thị Lan Hƣơng
3.4. Thực trạng nguồn gen giống Nhãn lồng tại xã Quảng Châu
3.4.1. Vị trí và tiềm năng của giống Nhãn lồng
Bảng.4. Hiện trạng trồng trọt các giống nhãn tại xã Quảng Châu, Tp. Hưng Yên
TT
Tên giống
Nguồn gốc
Diện tích
Số lƣợng cá thể
trồng
(m2)
Tốt
TB
Tỷ lệ
Khả năng đáp
Lợi nhuận thu
(%)1)
ứng nhu cầu
đƣợc từ cây 9-10
của thị trƣờng
tuổi (nghìn
Xấu
đồng/1cây)
1.
Nhãn lồng
Địa phương
2000
53
0
0
9,01%
Trung bình
5700.000đ
2.
Nhãn
Địa phương
14452
461
7
3
80,1%
Tốt
6000.000đ
Địa phương
Trồng xen
21
3
0
4,08%
Kém
3000.000đ
Địa phương
Trồng xen
17
0
0
2,09%
Kém
2250.000đ
hương chi
3.
Nhãn
đường phèn
4.
Nhãn nước
1
) Tỷ lệ này được tính bằng công thức (tổng số cá thể ở mỗi giống/ tổng số cá thể nghiên cứu) x 100
Đại học sƣ phạm Hà Nội 2
19
Ghi chú
20
Khóa luận tốt nghiệp
5.
Nhãn cùi
Cấn Thị Lan Hƣơng
Địa phương
Trồng xen
22
1
0
3,91%
Trung bình
4000.000đ
Nguồn: Điều tra thực địa
Đại học sƣ phạm Hà Nội 2
20
21
Khóa luận tốt nghiệp
Cấn Thị Lan Hƣơng
Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy Nhãn hương chi là giống được trồng nhiều
nhất với 471 cá thể (chiếm 80,1%); tiếp theo là các giống Nhãn lồng với 53 cá thể
(9,01%), Nhãn đường phèn với 24 cá thể (4,08%), Nhãn cùi với 23 cá thể (3,91%),
ít nhất là Nhãn nước với 17 cá thể (2,09%).
Về lợi nhuận thu được, qua khảo sát lợi nhuận thu được từ các cá thể có độ
tuổi 9 - 10 năm, chúng tôi thấy rằng Nhãn hương chi cho lợi nhuận cao nhất với
trung bình đạt 6 triệu đồng/1 cá thể; tiếp theo là Nhãn lồng với 5,7 triệu đồng/1 cá
thể, Nhãn cùi 4 triệu đồng/1 cá thể, Nhãn đường phèn 3 triệu đồng/1 cá thể, và thấp
nhất là Nhãn nước chỉ đạt 2,25 triệu đồng/1 cá thể.
Nhãn lồng tuy có nguồn gen quý, phẩm chất tốt, lợi nhuận cũng khá cao (chỉ
đứng sau Nhãn hương chi) nhưng trong những năm gần đây diện tích trồng và số
lượng cá thể giống nhãn này đang ngày càng suy giảm đáng kể (chỉ chiếm 7,8%).
Người dân đã chặt bỏ những cây nhãn cổ thụ thay bằng nhãn trồng bằng cành chiết,
ghép với những giống nhãn mới năng suất cao hơn. Nhiều cây nhãn có nguồn gen
quý bị mai một, không được lưu giữ, phục tráng. Việc chiết ghép, tạo ra những
giống nhãn mới với ưu điểm cho năng suất cao, quả to, cùi dày, sáng quả, cho thu
hoạch sớm hoặc muộn, thời gian thu hoạch kéo dài. Tuy vậy, những giống nhãn này
không thể thơm ngon, hương vị đậm đà như những giống nhãn ngon trước kia.
Ngay cả những giống nhãn được coi là chất lượng hiện nay vẫn không thể sánh với
hương vị đặc trưngcủa giống Nhãn lồng ngon truyền thống.
3.4.2. Kỹ thuật trồng trọt giống Nhãn lồng tại xã Quảng Châu
3.4.2.1. Kỹ thuật nhân giống
Nhân giống hữu tính: Gieo hạt (chủ yếu để làm gốc ghép)
Hạt lấy về cần xử lý gieo ngay. Ngâm hạt nửa ngày, vớt ra , ngâm vào nước
vôi trong, sau 2 - 3 giờ vớt ra, ủ vào đất cát ẩm 2 - 4 ngày. Khi ngâm hạt nhú ra đem
gieo.
Nhân giống vô tính:
Chiết cành: Đường kính gốc cành chiết 1,0 - 1,5 cm, dài 40 - 60cm. Sau khi
hạ cành, nên tháo bỏ giấy PE, quấn thêm ra ngoài bầu chiết một lớp bùn rơm, để
cho đến khi rễ nhú ra ngoài lớp bùn rơm, để cho đến khi rễ nhú ra ngoài lớp bùn
rơm này mới đem trồng.
Đại học sƣ phạm Hà Nội 2
21
22
Khóa luận tốt nghiệp
Cấn Thị Lan Hƣơng
Ghép cành: Chọn giống nhãn tốt, quả to, cùi dày, hạt bé, ra quả đều lấy làm
mắt ghép. Ghép vào tháng 3 đến tháng 4 hoặc tháng 9 - 10 (cần thời tiết khô ráo,
mát mẻ). Chọn cành ghép 1 - 2 tuổi. Sau 2 - 3 năm trên đất tốt đã cho quả; 4 - 5 năm
cho thu hoạch tốt.
Đất: Đất phù sa (thích hợp nhất), đất cát ven biển, đất gò đồi trung du hay đất núi,
pH = 4,5 - 6,0.
Khí hậu:
Nhiệt độ thích hợp cho nhãn sinh trưởng và phát triển 21 - 27 độ C; mùa hoa
nở cần nhiệt độ cao 25 - 31 độ C; Mùa Đông cần một thời gian nhiệt độ thấp để
phân hoá mầm hoa.
Kỹ thuật trồng
Giống:
Giống địa phương: Nhãn lồng, Nhãn đường phèn, Nhãn nước,nhãn tiêu.
Giống nhập nội: Đại Ô Viên (Trung Quốc), nhãn Thạch Hiệp (Trung Quốc).
Khoảng cách và mật độ trồng: 8 m x 8 m (160 cây/ha) hoặc 7 m x 7 m; hoặc
4 m x 4m hoặc 5 m x 5 m (khi cây giao tán thì tỉa bớt đi 1 hàng).
Thời vụ trồng
Miền Bắc: tháng 2 - 3 và tháng 8 - 9
Miền Nam: Đầu và cuối mùa mưa
3.4.2.2. Kỹ thuật chăm sóc
Bón phân: Mỗi năm bón thúc cho cây 3 lần (kg/cây)
Tưới nước: Là cây chịu hạn, thích ẩm, sợ đọng nước. Tháng đầu tiên sau
trồng tưới 1-2 ngày/lần; 2-3 ngày/1 lần ở tháng thứ 2. Sau đó chỉ quá khô hạn mới
cần tưới cho cây.
Tỉa cành tạo tán: Cắt tỉa tạo hình sao cho cây thấp để dễ chăm sóc. Tiến hành
cắt tỉa sau khi thu hoạch quả muộn hơn - cắt vỏ những cành yếu, cành sâu bệnh,
cành mọc
lộn xộn trong tán.
Phòng trừ sâu bệnh: Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật theo chỉ dẫn trên nhãn
bao bì của từng loại thuốc.
+Bọ xít: Phun Basudin 0,2% hoặc Diazinnon 0,04%; Dipterex 0,015 - 0,1%,
Trebon 0,15 - 0,2% (Phun 2 đợt liền nhau cách nhau một tuần vào khoảng cuối
tháng 4).
+ Sâu tiện vở nhãn: Dùng thuốc bơm vào lỗ đục hoặc dùng gai mây để bắt. Dùng
Đại học sƣ phạm Hà Nội 2
22
23
Khóa luận tốt nghiệp
Cấn Thị Lan Hƣơng
nước vôi đặc quệt lên gốc cây.
+ Rệp sáp: Dung Dimecron, BI58 (0,15 - 0,28%).
+ Dơi, Rốc: Bó các chùm nhãn trong giấy cứng, bao cói, mo cau, túi PE để
bảo vệ quả.
+ Nhện hái lá: Phun Nuvacron 0,2%.
+ Rầy hại hoa: Dipterex 0,2% và Trebon 10 ND 0,15 - 0,2%.
+ Dòi đục cành hoa: Phun bằng Monitor 0,2%, Trebon 0,15%.
+Bệnh sương mai (mốc sương): Phun Bordeau 1% hoặc Ridomil- MZ 0,2%,
Anvil 0,2%, Score 0,1%, hoặc hỗn hợp Ridomil - MZ 0,2% + Anvil 0,2%. Phun 2
lần (lần 1: khi cây ra giò; lần 2: khi giò hoa nở 5 - 7 ngày).
Thu hoạch
Khi vỏ quả chuyển từ màu nâu hơi xanh màu nâu sáng, vỏ quả hơi sù sì hơi
dày chuyển sang mọng và nhẵn, bóc quả xem thấy hạt có màu nâu đen thì có thể thu
hoạch. Nên thu hoạch quả vào ngày tạnh ráo, vào buổi sáng và buổi chiều. Không
cắt trụi hết cành lá của cây vì có thể ảnh hưởng đến khả năng nảy lộc vụ sau.
3.4.3. Khả năng sinh trƣởng và năng suất của giống Nhãn lồng tại xã Quảng Châu
Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy cây trồng từ cành chiết sau 2-3 năm đã bắt đầu
ra hoa, đậu quả (người trồng trọt thường ngắt bỏ cho cây lớn), từ năm thứ 4 trở đi
mới thu hoạch. Khả năng sinh trưởng và năng suất của giống này được trình bày ở
bảng sau đây:
Bảng 5. Khả năng sinh trưởng và năng suất của giống Nhãn lồng ở xã Quảng Châu
TT
Số
Chiều
lƣợng cao cây
cá thể (cm)
0
Đƣờng
kính tán
(cm)
Đƣờng
kính gốc
(cm)
Năng suất
(kg/1 cây)
Lợi nhuận
(nghìn đồng/1 cây)
1.
Tuổi
cây
(năm)
4
2.
5
0
3.
6-7
40
450
700
55
200
5.400.000
4.
8-9
7
500
750
56
210
5.670.000
5.
10-15
0
6.
>20
6
700-
1000-
65-70
180
4.860.000
750
1200
Nguồn: Điều tra thực địa
Đại học sƣ phạm Hà Nội 2
23
24
Khóa luận tốt nghiệp
Cấn Thị Lan Hƣơng
3.5. Kết quả bảo tồn
3.5.1. Kết quả bảo tồn cây ban đầu và cây mẹ
Qua điều tra chúng tôi thấy rằng các cá thể đang được bảo tồn tại xã Quảng Châu đa số nằm ở độ tuổi từ 6-7 tuổi (40 cá thể), 7 cá thể
ở độ tuổi 8-9 tuổi còn lại 6 cá thể có độ tuổi trên 21 tuổi. Kết quả bảo tồn cây mẹ và cây ban đầu được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 6. Kết quả bảo tồn nguyên vị giống Nhãn lồng tại xã Quảng Châu
Số lƣợng cá thể đang tiến hành bảo tồn
Tên chủ hộ
1-3
4
5
6-7
8-9
10 - 12
13 - 15
16 - 20
≥ 21
tuổi
tuổi
tuổi
tuổi
tuổi
tuổi
tuổi
tuổi
tuổi
Trần Ngọc Thẩm
35
Trần Đức Hinh
2
Phan Văn Thức
1
Phan Văn Dân
1
Trần Văn Chạc
2
Bùi Văn Sơn
4
Tổng cộng
ban
1
1
Trần Văn Tuyết
quả
5
1
Dương Văn Thung
Kết
Ghi chú
40
đầu
về
Đại học sƣ phạm Hà Nội 2
khả
năng
sinh
24
trưởng,
7
phát
6
triển
của
cây
đang
tiến
hành
bảo
tồn
là
53
cây.
25
Khóa luận tốt nghiệp
Cấn Thị Lan Hƣơng
3.5.2. Kết quả trồng mới
3.5.2.1.
Đối với cây nhân giống hữu tính (bằng gieo hạt)
Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng, các cá thể được bảo tồn tại gia đình
ông Trần Ngọc Thẩm có sức sống tốt, năng suất ổn định nhất, vì vậy chúng tôi đã
chọn các cá thể mang số hiệu 5, 6, 9, 10 làm cây mẹ để lấy hạt và chiết cành.
Sau khi lựa chọn được các quả có chất lượng tốt nhất, chúng tôi tiến hành
ươm và gieo 50 hạt theo phương pháp của Trần Thế Tục. Thời điểm gieo hạt là
ngày 5/9/2011 (ngay sau khi thu hoạch quả). Do điều kiện không cho phép gieo hạt
trong bầu nên tôi đã tiến hành gieo hạt trên luống.
Chúng tôi tiến hành gieo tại xã Quảng Châu, TP. Hưng Yên 20 hạt; số hạt
nảy mầm là 17 hạt (chiếm 85 %); tính đến tháng 3/2012 số cây con sống: 15 cây (tỷ
lệ: 88,2%); gieo tại xã An Nội, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam 30 hạt; số hạt nảy
mầm là 20 hạt (chiếm 66,67%); tính đến tháng 3/2012 số cây sống: 20 cây (tỷ lệ:
100%); và gieo tại xã Ngọc Tảo, huyện Phúc Thọ, Tp. Hà Nội 20 hạt; số hạt nảy
mầm 16 hạt (chiếm 80%); tính đến tháng 3/2012 số cây sống: 12 cây (tỷ lệ: 75%);
Trung bình 18 ngày sau khi gieo hạt bắt đầu nảy mầm, đến ngày 20/3/2012
(sau khi gieo hạt 5 tháng) các cá thể con sinh trưởng và phát triển bình thường, một
số cây nhân giống hữu tính bắt đầu nảy chồi đợt 1. Tốc độ sinh trưởng và phát triển
của cây nhân giống hữu tính được thể hiện qua bảng sau:
Đại học sƣ phạm Hà Nội 2
25