1
Phần thứ nhất
Mở đầu
1.1. Đặt vấn đề
ở Việt Nam sản xuất lúa đã, đang và sẽ là ngành sản xuất quan trọng.
Việt Nam là một nớc đông dân, ngời Việt Nam coi gạo là nguồn lơng thực
chính. Cây lúa tồn tại rất lâu ở Việt Nam và thế giới biết đến Việt Nam nh
một nền văn minh lúa nớc. Lúa phát triển rất phù hợp với đất đai, điều kiện
sinh thái khí hậu của nớc ta. Chính vì vậy, Nhà nớc Việt Nam đã u tiên phát
triển cây lúa, có nhiều chính sách thích hợp cho nông dân phát triển trồng
lúa.
Năm 2005, lần đầu tiên nớc ta xuất khẩu gạo đạt hơn 5,2 triệu tấn, với
giá bình quân mỗi tấn 267 USD, thu về hơn 1,34 tỷ USD, đây là năm đạt đợc
cả ba chỉ tiêu: sản lợng, kim ngạch và giá cả xuất khẩu ở mức cao nhất, kể từ
khi Việt Nam chính thức tham gia thị trờng gạo thế giới.
Những năm gần đây xu hớng xây dựng nền nông nghiệp bền vững nhằm
nâng cao sản lợng, chất lợng cây trồng nhng vẫn giữ đợc độ phì nhiêu của đất
thông qua phát triển nông nghiệp hữu cơ sinh thái đợc coi là một biện pháp
quan trọng trong sự hình thành nhanh các cân bằng sinh học trên cơ sở sử
dụng cân đối giữa phân vô cơ, phân hữu cơ và phân bón vi sinh vật là nội dung
quan trọng của nền nông nghiệp sinh thái bền vững, sản phẩm nông nghiệp
sạch chất lợng cao.
Phân hữu cơ vi sinh đã và đang góp phần tích cực vào việc xây dựng
nền nông nghiệp hữu cơ bền vững. Trong đó phải kể đến vai trò của vi sinh vật
trong việc làm tăng độ phì nhiêu của đất. Ngoài việc góp phần tích cực vào
các quá trình chuyển hoá các chất bền vững trong đất thành các chất dễ tiêu
cung cấp dinh dỡng cho cây trồng, vi sinh vật còn sinh ra nhiều chất sinh học
nh: các loại vitamin, các chất kích thích sinh trởng, kháng sinh, enzimcung
cấp cho cây trồng, tăng độ phì của đất và cân bằng sinh thái học trong đất.
2
Định hớng phát triển nông nghiệp đến năm 2010 là nhanh chóng xây
dựng nền nông nghiệp Việt Nam theo hớng sinh thái bền vững, nông nghiệp
sạch và chất lợng cao.
Sóc Sơn là huyện ngoại thành phía Bắc thủ đô Hà Nội, với dân số là
268.136 ngời và diện tích đất tự nhiên là 30.651,3 ha (bằng 1/3 diện tích tự
nhiên của thành phố Hà Nội), trong đó diện tích đất nông nghiệp là 12.675,6
ha, chiếm 41,35% tổng diện tích đất tự nhiên, diện tích lúa hai vụ hiện nay là
16.281 ha, sản xuất lúa chất lợng cao đang đợc quan tâm phát triển trong hệ
thống cơ cấu cây trồng của toàn huyện. Đất đai của huyện Sóc Sơn chủ yếu là
bạc màu trên nền phù sa cổ nghèo dinh dỡng, do vậy bón phân hữu cơ và phân
hữu cơ vi sinh có tác dụng tăng độ phì của đất là rất cần thiết.
Những năm gần đây, mức sống của ngời dân ngày càng cao dẫn đến
nhu cầu sử dụng lúa gạo, nhất là các loại gạo thơm chất l ợng cao và an toàn
ngày càng lớn. Để có đợc sản phẩm lúa gạo chất lợng cao, ngoài yếu tố
giống ra thì phân bón bón là một yếu tố quan trọng trong thâm canh giống
lúa mới hiện nay.
Xuất phát từ thực tế nêu trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
Nghiên cứu ảnh hởng của một số loại phân hữu cơ vi sinh đến sinh trởng
phát triển của giống lúa Bắc Thơm số 7 và một số chỉ tiêu sinh, hoá học đất
ở Sóc Sơn - Hà Nội năm 2005.
1.2. Mục đích của đề tài
- Đánh giá ảnh hởng của phân hữu cơ vi sinh tới giống lúa Bắc thơm số
7: các chỉ tiêu sinh trởng của cây lúa, các yếu tố cấu thành năng suất, năng
suất lúa và hiệu quả kinh tế của phân bón.
- Đánh giá ảnh hởng của phân hữu cơ vi sinh đến một số chỉ tiêu sinh,
hoá học đất của đất bạc màu huyện Sóc Sơn - Hà Nội.
- Xác định tỷ lệ thay thế vô cơ bằng phân hữu cơ vi sinh.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế của phân hữu cơ vi sinh so với phân
hoá học.
3
1.3. Những đóng góp mới của đề tài
- Về khoa học: kết quả của đề tài góp phần vào cơ sở lý luận sử dụng
phân bón hữu cơ vi sinh trên đất bạc màu.
- Về thực tiễn: kết quả nghiên cứu của đề tài có tác dụng nhân rộng diện
tích bón phân hữu cơ vi sinh cho cây lúa.
Việc xác định mức thay thế của phân hữu cơ vi sinh đối với phân hoá
học góp phần tiết kiệm đầu t, tăng thu nhập cho ngời trồng lúa, mà còn có
tác dụng cải tạo đất trồng, giảm ô nhiễm môi trờng do giảm lợng phân hoá
học.
4
Phần thứ hai
Tổng quan tài liệu
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Nớc ta, từ chỗ thiếu lơng thực cho đến nay chúng ta đã trở thnh n ớc
xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới. Để đạt đợc thành quả đó trong 15
năm (1981- 1995) mức độ đầu t phân bón hoá học ở nớc ta tăng liên tục
khoảng 7% đối với đạm, 8% đối với lân, 10% đối với kali, mặc dù vậy vẫn
không đáp ứng đợc nhu cầu cân bằng dinh dỡng của đất.
Theo tính toán của các nhà khoa học thì hàng năm ở nớc ta nông dân đã
sử dụng trên 60 triệu tấn phân hữu cơ các loại, nhờ đó mà tăng đợc khoảng 3
triệu tấn thóc. Mặt khác nhờ có sử dụng phân hữu cơ mà đã góp phần tăng
hiệu quả sử dụng phân hóa học, làm giảm việc sử dụng phân khoáng, ngăn
chặn ô nhiễm môi trờng và tăng năng suất cây trồng. Điều đó cho thấy phân
bón hữu cơ rất quan trọng đối với sự phát triển của nông nghiệp Việt Nam
(Bảo vệ môi trờng và phát triển bền vững, 1995) [1].
Nông nghiệp Việt Nam trong 20 năm qua đã có nhiều bớc phát triển vợt
bậc, song sản xuất còn nhiều bất cập và cha mang tính bền vững. Nông phẩm
hữu cơ đang là sản phẩm đợc nhiều ngời tiêu dùng ở các nớc công nghiệp a
chuộng và có tiềm năng thị trờng rất lớn. áp dụng việc quản lý dinh dỡng tổng
hợp cây trồng kết hợp các tiến bộ kỹ thuật về giống, phân bón và kiểm soát
dịch hại, để xây dựng giải pháp tổng hợp trong chăm sóc toàn diện cây trồng
sẽ tạo ra bớc đột phá mới trong phát triển nông nghiệp ở nớc ta. Để đáp ứng
nhu cầu của sản xuất, phân bón vi sinh sắp tới sẽ là sản phẩm đợc tạo ra từ
những tổ hợp vi sinh đa hoạt tính, khi đó vi sinh vật sử dụng không chỉ có
nhiệm vụ cung cấp, chuyển hoá dinh dỡng, giúp cây trồng sử dụng dinh dỡng
tốt hơn mà còn có tác dụng nâng cao độ phì, giảm thiểu các yếu tố sinh học và
phi sinh học đối với cây và đất trồng (Chuyến khảo sát học tập về năng suất
xanh và phát triển cộng đồng, 2000) [3].
5
Việc áp dụng các giống cây trồng mới vào sản xuất cũng là nguyên
nhân làm mất dần đi một số giống cây trồng truyền thống, làm giảm sự đa
dạng sinh học và làm tăng thiệt hại bởi dịch bệnh gây hại cây trồng. Trong
những năm cuối của thế kỷ 20, số lợng giống lúa mới đợc gieo trồng chiếm
75%, các giống lúa cũ chiếm 25%. ở Việt Nam, rất nhiều giống lúa địa phơng
bao gồm hàng trăm giống lúa đang bị thay thế bởi các giống đợc cải tạo và các
giống lúa lai.
Nhìn lại các quá trình sử dụng phân khoáng, sản xuất nông nghiệp nớc
ta bắt đầu sử dụng phân hóa học ở đầu thế kỷ 20. Sau khi đất nớc thống nhất
(1975), phân hóa học đợc sử dụng rộng rãi và với khối lợng lớn. Nhng việc
tuyên truyền, hớng dẫn sử dụng phân bón còn cha đợc chú ý đúng mức. Ngời
nông dân sử dụng phân bón còn tùy tiện, cha cân đối dẫn tới hệ số sử dụng
phân bón không cao, cây dễ bị sâu bệnh phá hại, chất lợng nông sản thấp, gây
ô nhiễm môi trờng.
Việc sử dụng các chế phẩm sinh học đã đợc nghiên cứu và áp dụng
tại Việt Nam từ hơn 20 năm qua. Các chế phẩm phân vi sinh thuộc các
nhóm vi sinh vật đã đợc sản xuất gồm: vi sinh vật cố định nitơ phân tử cộng
sinh, vi sinh vật cố định ni tơ phân tử tự do và hội sinh, vi sinh vật phân giải
các chất hữu cơ dùng cho cây lúa và cây trồng cạn, vi sinh vật phân giải lân
khó hòa tan, chế phẩm hỗn hợp giữa vi sinh vật cố định nitơ và phân giải
quặng phốt phát...
Những hạn chế của cuộc cách mạng xanh và công nghiệp hóa nông
nghiệp đã dẫn đến việc nhiều nớc quay trở lại với nền nông nghiệp hữu cơ,
làm cho nông nghiệp hữu cơ càng đợc nâng cao vị trí quan trọng trong đời
sống xã hội và trên thị trờng thế giới. Đặc điểm quan trọng nhất của nông
nghiệp hữu cơ là không sử dụng các chất hóa học tổng hợp nh phân bón,
thuốc trừ sâu và sử dụng hợp lý tài nguyên tự nhiên nh đất, nớc... và tăng cờng sử dụng các vật liệu hữu cơ. Nông nghiệp hữu cơ có khuynh hớng sử
dụng các biện pháp kỹ thuật rất kinh tế nh làm đất tối thiểu... Sử dụng có
6
hiệu quả đầu t hữu cơ và làm giảm giá thành sản phẩm, tăng chất lợng nông
sản.
Nh vậy, phát triển nông nghiệp hữu cơ phải nằm trong mối quan hệ hài
hòa của sự phát triển nông nghiệp bền vững ở cả ba mặt kinh tế - xã hội và
môi trờng, việc phát triển kinh tế hợp lý dựa trên khai thác các nguồn tài
nguyên thiên nhiên để bảo đảm mức sống và xóa bỏ cách biệt giữa các tầng
lớp và các thế hệ trong xã hội gắn với bảo vệ môi trờng. Nhng hiện tại, nông
nghiệp nớc ta đang đứng trớc những thách thức lớn là: Việt Nam là nớc nghèo,
số dân cao (hơn 83 triệu ngời), các nguồn lợi tự nhiên đang bị suy giảm
nghiêm trọng, diện tích canh tác ngày càng bị thu hẹp.
Để bảo đảm an ninh lơng thực, các nớc đều phải dựa vào hai yếu tố là
tăng diện tích gieo trồng và tăng năng suất. Với Việt Nam, biện pháp tăng
năng suất đang là biện pháp cơ bản hiện nay. Xu thế này cũng là xu thế chung
của các nớc đang phát triển. Nh vậy, để bảo đảm an ninh lơng thực, các Quốc
gia đông dân, đất nông nghiệp hạn chế cả về số lợng và chất lợng sẽ phải đi
theo con đờng thâm canh tăng năng suất với việc sử dụng các giống mới có
năng suất và phẩm chất tốt, hạn chế phân khoáng và hóa chất bảo vệ thực vật.
Việt Nam cũng đã đi theo hớng này trong vài thập kỷ vừa qua.
Vì vậy, các biện pháp tác động trong nông nghiệp hữu cơ cần hớng tới
là: bảo vệ và cải thiện một cách bền vững độ phì tự nhiên của đất đai, trong đó
biện pháp ổn định hàm lợng hữu cơ trong đất là rất quan trọng vì nó không
những tạo cho đất tơi xốp, mà còn tăng cờng khả năng giữ ẩm, giữ chất dinh
dỡng và giảm các yếu tố gây độc trong đất, thiết lập một hệ thống quản lý
dinh dỡng tổng hợp mà trong đó dinh dỡng từ nguồn cung cấp nh phân hữu cơ,
phân vi sinh... phải bảo đảm đợc cung cấp cho cây đầy đủ về lợng, cân đối về
tỷ lệ, tại từng thời điểm theo yêu cầu sinh trởng, nhằm khai thác hợp lý với
khả năng của hệ sinh thái. Tăng cờng sử dụng phân chuồng, phân xanh, phế
phụ phẩm trong nông nghiệp, than bùn và các nguồn hữu cơ khác, trong đó
chú ý sử dụng các nguồn phân sinh học, phân hữu cơ vi sinh, nớc phù sa
(không bị ô nhiễm...). Khai thác tốt nhất hệ thống luân canh cây trồng và cây
7
họ đậu nói riêng để nâng cao dinh dỡng cho đất và hạn chế phát sinh dịch hại,
sử dụng giống cây trồng có năng suất, chất lợng cao, có khả năng kháng sâu,
bệnh và tăng cờng sử dụng thuốc trừ sâu, bệnh có nguồn gốc sinh học, chú ý
bảo vệ thiên địch và tạo điều kiện cho thiên địch phát triển, bảo đảm giữ vững
cân bằng sinh học trong hệ sinh thái, tăng cờng phát triển chăn nuôi, đa chăn
nuôi trở thành ngành chính để cung cấp nguồn phân hữu cơ cho trồng trọt, tạo
tiền đề cho sự phát triển nông nghiệp hữu cơ. Nhà nớc cần có chính sách phù
hợp, khuyến khích phát triển nông nghiệp hữu cơ với những u tiên đầu t ban
đầu về khoa học công nghệ, hệ thống tiêu thụ.
Căn cứ vào chiến lợc phát triển kinh tế của cả nớc, lợi thế phát triển sản
xuất nông nghiệp trên cả nớc và ở từng vùng, Bộ NN-PTNT đã định hớng
chiến lợc phát triển các ngành hàng chính đến 2010. Theo đó, sản xuất lúa sẽ
ổn định diện tích canh tác từ 3,8 ha đến 4 triệu ha, giảm khoảng 200.000 đến
300.000 ha so với hiện nay, trong đó có 1,3 triệu ha lúa hàng hoá chất lợng
cao phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng trong nớc (đồng bằng Sông Cửu Long 1
triệu ha, đồng bằng Sông Hồng 0,3 triệu ha).
Huyện Sóc Sơn là huyện ngoại thành phía Bắc của thủ đô, giáp các tỉnh:
Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên. Sóc Sơn là đầu mối giao
thông thuận tiện nối liền Thủ đô Hà Nội với các vùng công nghiệp, các trung
tâm dịch vụ lớn trong khu vực tam giác kinh tế phía Bắc nên có rất nhiều lợi
thế trong phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm lúa chất lợng cao.
2.2. Tình hình sản xuất, nghiên cứu lúa trong nớc và trên thế giới
2.2.1. Tình hình sản xuất, nghiên cứu lúa trên thế giới
2.2.1.1. Tình hình sản xuất, tiêu thụ và xuất khẩu gạo trên thế giới
Lúa đợc trồng ở 125 nớc với diện tích 155 triệu ha, lúa đợc trồng
chủ yếu tập trung ở các nớc: Châu á chiếm 90% diện tích trồng lúa của
thế giới, châu Mỹ 3,6%, châu Phi 3,13%,Trung Mỹ 3,1%, châu Âu 1%,
châu úc 1%. Tổng sản lợng đạt 519.869 nghìn tấn. Bình quân năng suất đạt
khoảng 39 tạ/ha (năm 2000-2001) trong đó châu á chiếm 139-500 nghìn ha
8
và sản lợng là 477,267 nghìn tấn, năng suất bình quân 36 tạ/ha. Châu Âu có
diện tích trồng lúa ít nhất nhng năng suất bình quân lại cao hơn các Châu lục
khác (Nguyễn Thị Lẫm, 2002) [8].
Nớc có diện tích trồng lúa lớn nhất là ấn Độ đạt 42,2 triệu ha, sau đó là
Trung Quốc 35 triệu ha, Bănglađét 10,2 triệu ha. Nớc có sản lợng cao nhất là
Trung Quốc 187.450 nghìn tấn. Nớc có năng suất cao nhất là úc 82 tạ/ha.
Tiếp đó là Bắc Triều Tiên 75 tạ/ha, Nam Triều Tiên 62 tạ/ha, Mỹ 63 tạ/ha.
Nhật Bản 59 tạ/ ha, Trung Quốc 57 tạ/ha.
Trong năm 2006, mậu dịch gạo thế giới theo dự báo của Tổ chức Nông
-Lơng Liên hiệp Quốc (FAO) có thể đạt 28,5 triệu tấn, giảm 2,5% so với mức
kỷ lục 29,7 triệu tấn năm 2005.
Theo FAO, sản lợng lúa năm 2005 của nhiều nớc châu Phi tơng đối bội
thu đã làm giảm nhu cầu nhập khẩu từ lục địa này trong năm nay. Theo đó,
nhập khẩu gạo của Nigiêria năm 2006 có khả năng giảm xuống còn 1,6 triệu
tấn so với 2 triệu tấn năm 2005. Nhập khẩu gạo của châu Phi năm 2006 ớc
tính đạt 9,2 triệu tấn (chiếm 32% thị trờng nhập khẩu thế giới), giảm 1 triệu
tấn so với năm 2005.
Về thị trờng mậu dịch gạo châu á, FAO cho biết, lợng gạo giao dịch
tại thị trờng này năm 2006 gần đạt mức 13,4 triệu tấn so với năm 2005. Nhu
cầu của Bănglađét, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Philipin giảm
xuống do thu hoạch vụ lúa 2005 của các nớc này đạt cao. Trái lại, sức mua từ
các nớc Trung Quốc, Irắc, Hàn Quốc, ả Rập Xê út, Thổ Nhĩ Kỳ và đặc biệt là
Iran năm nay có khả năng tăng mạnh do nhu cầu gây dựng kho dự trữ cũng
nh gạo chất lợng cao của thị trờng nội địa tăng lên. Ngoài ra, nhập khẩu gạo
của Indonesia năm 2006 dự kiến vẫn duy trì ở mức 600.000 tấn do chính sách
hạn chế mua gạo của chính phủ nớc này. Hoạt động mậu dịch gạo của các nớc
châu Mỹ La tinh và vùng Ca-ri-bê năm 2006 sẽ sôi động hơn năm 2005 khi
nhu cầu của các thị trờng này tăng nhẹ, đặc biệt là Brazil với sản lợng vụ lúa
năm nay có khả năng giảm xuống.
9
Sức mua từ một số thị trờng lớn đáng lu ý trong năm 2006 nh Mỹ, theo
FAO sẽ tăng lên trong khi giảm tại Nga.
Về thị trờng xuất khẩu gạo, FAO cho biết, Thái Lan có thể xuất khẩu đợc 7,5 triệu tấn gạo trong năm 2006 bất chấp việc đồng Bạt tăng giá so với
đồng USD bởi nhu cầu mua của Iran và Irắc đều tăng mạnh. Trong khi đó, lợng gạo xuất khẩu của Việt Nam nhiều khả năng sẽ đạt 5,2 triệu tấn theo nh
mục tiêu của chính phủ. Tuy nhiên, xuất khẩu gạo của Ai cập, Pakistan, Mỹ
và Uruguay có thể giảm xuống do nhu cầu nhập hàng từ các nớc trên sẽ trở
nên hạn hẹp hơn trong năm 2006. Trong khi đó, hoạt động xuất khẩu gạo
Argentina, dự kiến sẽ diễn ra tích cực hơn năm 2005 trớc triển vọng nhập
khẩu của Brazil v giá go ti M tng (Thị trờng mậu dịch năm, 2006)[37].
Theo dự báo ngày 12-5-2006 của Bộ Nông nghiệp Mỹ, tổng sản lợng
gạo thế giới năm 2006/07 sẽ đạt 417,01 triệu tấn, tăng 5,50 triệu tấn
(1,34%) so với 411,52 triệu tấn ớc tính đạt trong năm 2005/06 nhờ diện tích
và năng suất tăng nhẹ. Trong đó sản lợng tăng mạnh nhất ở Trung Quốc,
tăng 1,6 triệu tấn (1,26%), đạt 23,0 triệu tấn, Việt Nam tăng 440 nghìn tấn
(1,96%), đạt 32,0 triệu tấn, Brazil tăng 700 nghìn tấn (8,97%), đạt 8,97
triệu tấn và Thái Lan tăng 350 nghìn tấn (1,94%), đạt 18 ,35 triệu tấn. Trong
khi đó, sản lợng gạo của Mỹ sẽ giảm 580 nghìn tấn (8,17%) xuống còn
6,51 triệu tấn; Pakixtan sẽ giảm 300 nghìn tấn (5,45%) xuống còn 5,2 triệu
tấn; Nhật Bản giảm 320 nghìn tấn (3,84%) xuống còn 7,94 triệu tấn (Grain:
WM&T, May, 2006)[26].
Tổng mức tiêu dùng gạo toàn cầu năm 2006/07 dự báo tiếp tục vợt
mức sản lợng, sẽ tăng 5 triệu tấn, đạt 423,15 triệu tấn. Điều này khiến tổng
dự trữ gạo thế giới cuối niên vụ 2006/07 tiếp tục quĩ đạo suy giảm, giảm
6,1 triệu tấn, xuống còn 61,95 triệu tấn, mức thấp nhất trong 5 năm qua
(Grain: WM&T, May, 2006)[26].
Theo dự báo ngày 12-5-2006 của Bộ Nông nghiệp Mỹ, tổng mậu
dịch gạo thế giới năm 2007 sẽ đạt 27,860 triệu tấn, tăng nhẹ so với 27,491
10
triệu tấn dự tính đạt trong năm 2006. Nguồn cung gạo trên thế giới dự báo
sẽ tăng do Thái Lan sẽ đóng vai trò lớn hơn trên thị trờng thế giới với dự
báo sẽ tăng xuất khẩu gần 1 triệu tấn. Nguồn cung cấp gạo xuất khẩu của
Thái Lan tăng nhanh nhờ các chính sách hỗ trợ trong n ớc, khiến dự trữ sẽ
tăng lên gần 4,2 triệu tấn. Xuất khẩu của Thái Lan có thể làm giảm cơ hội
của Việt Nam. Trong khi đó, xuất khẩu gạo của ấn Độ dự báo sẽ tăng lên
4,0 triệu tấn mặc dù tiêu dùng trong nớc tăng do sản lợng lúa mì giảm. Dới
đây là số liệu dự báo xuất khẩu gạo của các nớc trong năm 2007 so với số
liệu xuất khẩu ớc tính đạt trong năm 2006 (Bảng 2.1):
Bảng 2.1. Số liệu dự báo xuất khẩu gạo của các nớc trong năm 2007
so với số liệu xuất khẩu ớc tính đạt trong năm 2006
(đơn vị: triệu tấn)
Tên nớc
Năm 2006
Năm 2007
Achentina
0,400
0,400
Ôxtrâylia
0,500
0,600
Myanmar
0,200
0,250
Trung Quốc
0,800
0,800
Ai Cập
1,000
0,800
ấn Độ
3,800
4,000
Pakixtan
2,800
2,400
Thái lan
7,300
8,250
Urugoay
0,700
0,750
Việt Nam
5,200
4,700
EU-25
0,175
0,175
Mỹ
3,300
3,400
Các nớc khác
1,316
1,335
27,491
27,860
Tổng
(Grain: WM&T, May 2006)
Tháng 5 năm 2006, với số lợng gạo 425.000 tấn trúng thầu trong tổng
số 500.000 tấn mời thầu của Philippin đã đa Việt Nam trở thành nớc chiến
11
thắng, vợt qua 3 nớc lớn trên thị trờng gạo thế giới là Thái Lan, Trung Quốc
và Mỹ.
Các nhà phân tích thị trờng cho biết, giá gạo Việt Nam cạnh tranh hơn
so với gạo Thái Lan trong khi chất lợng gạo Việt Nam cũng đã đợc cải thiện
đã trở thành yếu tố chủ yếu đa gạo Việt Nam dần thu hút đợc các khách hàng
khó tính và chiếm lĩnh thị trờng các nớc ASEAN trong thời gian gần đây. Năm
nay Philippin dự định sẽ mua khoảng 782.500 tấn gạo của Việt Nam. Điều
này cũng đồng nghĩa với việc khoảng cách về xếp hàng vị trí xuất khẩu gạo
lớn trên thế giới giữa Thái Lan và Việt Nam sẽ ngày càng bị thu hẹp. Năm
2006 xuất khẩu gạo Thái Lan dự báo sẽ giảm nhẹ so với mức xuất khẩu năm
2005 là 7,3 triệu tấn. Do vậy mặc dù tính tới thời điểm này, Thái Lan vẫn giữ
vị trí số 1 trong bảng xếp hạng các nớc xuất khẩu gạo lớn trên thế giới, nhng
các nhà xuất khẩu Thái Lan e ngại rằng năm nay Việt Nam sẽ không chỉ thu
hẹp đợc khoảng cách với nớc họ mà sẽ còn mở rộng thị trờng sang Nhật Bản,
Hàn Quốc và Australia hiện đang là các khách hàng tiêu thụ gạo lớn của Thái
Lan (AFP, 2006) [25].
Hiện nay, gạo Việt Nam đã có mặt tại nhiều thị trờng tiềm năng nh Mỹ
Latinh, Trung Đông và các nớc Châu Phi. Nh vậy triển vọng đối với gạo xuất
khẩu của Việt Nam là rất sáng sủa (AFP,2006).
Theo dự báo ngày 12-5-2006 của Bộ Nông nghiệp Mỹ, tổng sản lợng
gạo của Trung Quốc năm 2006/07 sẽ đạt 129,0 triệu tấn tơng đơng 184,29
triệu tấn thóc, tăng 1,6 triệu tấn (1,26%) so với sản lợng 127,4 triệu tấn ớc tính
đạt trong năm 2005/06 nhờ tăng diện tích và năng suất (Grain: WM&T, May
2006) [26].
Sự hỗ trợ mạnh mẽ của chính phủ Trung Quốc cho sản xuất lơng thực
dạng hạt trong những năm qua, bao gồm giảm thuế, đảm bảo giá thu mua và
trợ cấp giống đã khuyến khích nông dân gia tăng diện tích gieo trồng. Diện
tích gieo trồng lúa năm 2006/07 dự báo đạt 29,20 triệu ha, tăng so với 29,00
triệu ha của năm 2005/06 và 28,38 triệu ha của năm 2004/05. Năng suất bình
12
quân dự báo sẽ đạt 6,31 tấn thóc/ha trong năm 2006/07, tăng so với 6,28
tấn/ha của năm 2005/06 (WAP, May 2006).
Trên thị trờng gạo trắng, trong khi Pakistan và Việt Nam tiếp tục cạnh
tranh mạnh hơn ấn Độ trên thị trờng gạo trắng thế giới thì ấn Độ đang rất hy
vọng tình hình sẽ thay đổi. Giá gạo trắng đang có chiều hớng tăng. Trong hai
năm qua, giá đã tăng 35%. ấn Độ cho biết họ sẽ có d gạo trắng để xuất khẩu
và sẽ giành đợc thị phần trên thị trờng thế giới, khi mà Pakistan và Việt Nam
cạn kiệt gạo dự trữ và sẽ buộc phải giảm xuất khẩu. Hiện nay, giá gạo trắng
25% tấm của Thái Lan chào bán trên thị trờng thế giới là 290 USD/tấn trong
khi gạo Việt Nam cùng loại chỉ là 245 USD/tấn và của Pakistan là 218
USD/tấn, của ấn Độ là 238 USD/tấn (Xinhua, 2006) [41].
Theo dự báo của Bộ Nông nghiệp Mỹ, sản lợng gạo của Cămpuchia
năm 2006/07 sẽ đạt 3,03 triệu tấn, tăng 190 nghìn tấn (+6,7%) so với sản lợng
2,84 triệu tấn của năm 2005/06 nhờ tăng cả diện tích và năng suất, và tăng so
với 2,33 triệu tấn năm 2004/05 (Grain: WM&T, May, 2006) [26].
Tổng diện tích gieo cấy lúa của Cămpuchia năm 2006/07 dự báo đạt
2,20 triệu ha, tăng so với 2,15 triệu ha của năm 2005/06 và 2,07 triệu ha của
năm 2004/05. Năng suất lúa bình quân dự báo sẽ đạt 2,18 tấn thóc/ha trong
năm 2006/07, tăng so với 2,09 tấn/ha của năm 2005/06 và 1,76 tấn/ha của
năm 2004/05 (WAP, May, 2006).
Theo dự báo của Tổ chức Nông nghiệp và Lơng thực của Liên Hợp
Quốc (FAO), tổng sản lợng lúa gạo của Châu á năm 2005/06 đạt 562,3 triệu
tấn thóc, tăng 2,8% so với 547,0 triệu tấn thóc của năm 2004/05. Sản lợng
thóc của các nớc sản xuất chủ yếu ở Châu á năm 2005/06 đợc nêu trong bảng
2.2.
Bảng 2.2. Sản lợng thóc ở Châu á (đơn vị: triệu tấn)
13
Tên nớc
2004/05
2005/06
Châu á
547.0
562,3
Băng lađét
38,0
42,0
Trung Quốc
180,5
184,3
ấn Độ
128,0
130,5
lndonexia
54,1
54,0
Iran
3,1
3,3
Nhật Bản
10,9
11,4
Cadăcxtan
0,2
0,2
CHDHND Triều tiên
2,4
2,5
Hàn Quốc
6,7
6,5
Myanmar
23,7
24,5
Pakixtan
7,5
7,5
Thái Lan
23,9
27,0
Thổ Nhĩ kỳ
0,5
0,5
Việt Nam
36,1
35,8
Sản lợng lúa gạo của Trung Quốc (lục địa) năm 2005/06 sẽ đạt 184,3
triệu tấn thóc, tăng 2% so với năm 2004/05, và là mức sản lợng cao nhất kể từ
năm 2000/01. Sản lợng thóc tăng chủ yếu nhờ Chính phủ Trung Quốc khuyến
khích tăng diện tích trồng lúa.
Triển vọng sản xuất lúa ở ấn Độ cũng đợc cải thiện so với báo cáo trớc
đây. Sản lợng thóc của ấn Độ năm 2005/06 đạt 130,5 triệu tấn, tăng 2,5 triệu
tấn so với năm 2004/05. ở Indonexia, theo Bộ Nông nghiệp nớc này, sản lợng
thóc đạt 54,0 triệu tấn, ngang với mức 54,1 triệu tấn của năm 2004/05 là năm
đợc mùa. Sản lợng thóc của Bănglađét tăng 4 triệu tấn, đạt 42,0 triệu tấn trong
năm 2005/06 nhờ có ma thuận lợi gió hoà và giá gạo trong nớc ở mức cao
trong suốt cả năm đã khuyến khích nông dân tăng gieo cấy lúa. ở Cămpuchia,
ma dồi dào trong tháng 9/2005 đã chấm dứt tình trạng hạn hán kéo dài và tạo
14
điều kiện tăng gieo trồng lúa, góp phần làm cho sản xuất lúa gạo phục hồi ở nớc này.
Triển vọng sản xuất lúa gạo ở Myanmar cũng rất khả quan, sản lợng
thóc tăng 800 ngàn tấn, đạt 24,5 triệu tấn trong năm 2005/06. ở Philippin, dự
báo sản lợng thóc năm 2005/06 (tháng 7/tháng 6) đạt kỷ lục 14,8 triệu tấn nhờ
dự báo bội thu trong thu hoạch trong thời gian từ tháng 11/2005 đến tháng
2/2006. Sản lợng thóc của Nhật Bản đợc điều chỉnh tăng sau đợt khảo sát hồi
tháng 8/2005 với đánh giá điều kiện mùa màng trên mức trung bìn. Sản lợng
thóc của Nhật Bản đạt 11,4 triệu tấn, tăng 4,6% so với năm 2004/05. ở
SriLanka, sản lợng thóc tăng 19% so với năm 2004/05.
ở Thái Lan, sản xuất lúa gạo đợc phục hồi nhờ điều kiện canh tác trở
lại bình thờng. Ngày 1-11-2005 Chính phủ Thái Lan mở đợt thu mua can thiệp
mới để mua 9 triệu tấn với giá tối thiểu khoảng 7000 Bạt (171 USD)/tấn. Chơng trình thu mua này là công cụ để ổn định giá trong nớc. Sản lợng thóc của
Thái Lan đạt 27,0 triệu tấn, tăng mạnh so với 23,9 triệu tấn của năm 2004/05.
Tuy nhiên, sản lợng giảm ở một số nớc trong khu vực, nhất là ở Việt
Nam sau khi bị hai cơn bão tàn phá hồi tháng 9 và tháng 11/2005. Sản lợng
thóc của Việt Nam năm 2005/06 đạt 35,8 triệu tấn, giảm 300 nghìn tấn so với
sản lợng kỷ lục 36,1 triệu tấn của năm 2004/05. ở Hàn Quốc, sản lợng thóc
giảm do Chính phủ sẽ ngừng thu mua lúa gạo với giá sản xuất tối thiểu trong
niên vụ 2005/06 này. Sản lợng thóc ở Lào và Nêpan cũng giảm do hoạt động
sản xuất bị trở ngại vì hạn hán và ma lũ ("Food Outlook", FAO, No4, Dec.
2005).[33]
2.2.1.2. Tình hình nghiên cứu lúa trên thế giới
Viện nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI) đã lai tạo hàng trăm giống lúa tốt
đợc gieo trồng phổ biến trên thế giới. Các giống lúa IR8, IR5, IR6, IR30 và
những giống lúa khác đã tạo sự nhảy vọt về năng suất. Các viện khác nh
15
IRAT, EAT, ICRISAT cũng đã chọn tạo đợc nhiều những giống tốt phục vụ
sản xuất (Nguyễn Thị Lẫm, 2003)[9].
Các chuyên gia Đài Loan đã nghiên cứu thành công các giống lúa giàu
dinh dỡng. Các giống lúa này không phải là giống biến đổi gen, có nhiều màu
sắc khác nhau nh đen, đỏ và vàng, màu sắc phụ thuộc vào hàm lợng dinh dỡng
nh Beta - carotene và anthocyanins - một chất chống oxy hoá. Đây là kết quả
nghiên cứu gần 9 năm để kết luận đột biến trên cây lúa với việc sử dụng các
tác nhân hoá học (ICARD, 2003) [27].
ở Thái Lan, từ năm 1950 đã thu thập và làm thuần một số giống lúa
địa phơng, đa các giống lúa cổ truyền vào trồng ở miền Nam và Bắc của nớc này.
ở Hàn Quốc việc đa giống lúa Tongin đã tạo ra bớc nhảy vọt về năng
suất lúa.
Một số nớc có tốc độ thay đổi giống lúa mới khá nhanh nh Philippin
20,6%, Hàn Quốc 16,1%, ấn Độ 13,5%, Thái Lan 6,7%.
Trung Quốc là nớc đầu tiên sử dụng thành công u thế lai trong sản xuất
lúa. Các nhà khoa học Trung Quốc đã cho ra đời tổ hợp lai có u thế lai cao,
đồng thời xây dựng quy trình kỹ thuật sản xuất hạt lai hệ 3 dòng, 2 dòng và
đẩy mạnh nghiên cứu lúa lai một dòng và lúa siêu cao sản (Nguyễn Thị Lẫm,
2003)[9].
2.2.2. Tình hình sản xuất, xuất khẩu và nghiên cứu lúa trong nớc
2.2.2.1. Tình hình sản xuất và xuất khẩu lúa trong nớc
Nghề trồng lúa đã có từ lâu đời, gắn liền với lịch sử dân tộc Việt Nam từ
bớc sơ khai ruộng bạc đến đất đợc đắp bờ giữ nớc để trồng lúa, từ Lạc Việt
đến Việt Nam (Lịch sử nông nghiệp Việt Nam ,1994) [10].
Hiện nay nớc ta có 3,95 triệu ha đất trồng lúa nớc. Diện tích này có thể
giảm đi một chút do diện tích trồng lúa không hiệu quả chuyển sang cây trồng
khác có hiệu quả hơn hoặc do quá trình đô thị hoá. Vì vậy cần tập trung thâm
canh cao đạt năng suất bình quân 45-50 tạ/ha vào năm 2010. Riêng đồng bằng
16
sông Cửu Long phải đa năng suất bình quân trên 50 tạ/ha và chú trọng phát
triển một diện tích đáng kể về giống lúa chất lợng cao.
Năm 1991 diện tích trồng lúa của Việt Nam chiếm 70% tổng diện tích
gieo trồng, đến năm 2001, diện tích này chỉ còn 60%. Từ năm 2002, diện tích
này ngày càng thu hẹp lại, đặc biệt năm 2005 giảm tới 340.000 ha, nhng nhờ
các tiến bộ khoa học đợc áp dụng, khả năng thâm canh của nông dân đợc nâng
cao trong 5 năm gần đây, mỗi năm sản lợng lúa vẫn tăng trung bình 700.000
tấn.
Từ một đất nớc với mức dân số tăng gần 1,5 triệu ngời/năm, từng phải
nhập khẩu 199,5 nghìn tấn lơng thực ở năm 1988, thế nhng sang năm 1989,
Việt Nam xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo và liên tục đẩy mạnh xuất khẩu trong 10
năm tiếp theo. Năm 2005, đánh dấu mốc quan trọng khi Việt Nam xuất khẩu
đạt kỷ lục 5,2 triệu tấn gạo, với kim ngạch 1,4 tỷ USD, vợt hơn nhiều so với kế
hoạch.
Theo Hiệp hội Lơng thực Việt Nam, từ đầu năm 2006 tới nay, các
doanh nghiệp xuất khẩu gạo nớc ta đã ký đợc các hợp đồng xuất khẩu hơn hai
triệu tấn gạo, trong đó đã xuất khẩu hơn 1,5 triệu tấn. Ngoài một số thị trờng
truyền thống nh Philippin, Trung Đông, Việt Nam đã xuất khẩu gạo với khối
lợng lớn sang thị trờng Nhật Bản, Nam Mỹ và Châu Phi.
Năm 2005, Việt Nam đã thu hút đợc nhiều khách hàng truyền thống
của Thái Lan. Điều đó trở thành mối quan ngại của các nhà xuất khẩu gạo nớc
này. Thái Lan đang theo dõi rất kỹ về tình hình sản xuất và xuất khẩu gạo Việt
Nam. Các doanh nghiệp Thái Lan nhận định, nếu không xảy ra ma bất thờng,
dự kiến sản xuất gạo Việt Nam sẽ đạt 38 - 39 triệu tấn gạo trong năm 2006,
tăng 15,2% - 18,2 % so với năm 2005 và có thể đe doạ tới xuất khẩu gạo của
Thái Lan.
Kinh nghiệm của các doanh nghiệp Thái Lan cho thấy, việc nâng giá
gạo năm 2005 khiến một số khách hàng chính của họ nh Iran, Uruguay, Syria
và Nigeria đã chuyển hớng sang nhập khẩu gạo Việt Nam với giá rẻ hơn. Vì
17
vậy, các doanh nghiệp Thái Lan lo ngại rằng, Việt Nam không những giữ đợc
vị trí khá vững chắc trên thị trờng xuất khẩu gạo Quốc tế mà sẽ còn tăng thị
phần hơn nữa thông qua việc mở rộng xuất khẩu hàng sang Nhật Bản, Hàn
Quốc và Australia... những nớc sẽ từ bỏ nhập khẩu gạo Thái Lan.
Trong chiến lợc phát triển lúa gạo của Việt Nam thập kỷ 21, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn đã xây dựng rất nhiều chơng trình, cụ thể là từ
nay đến 2010 đạt 36 triệu tấn. Duy trì xuất khẩu khoảng 4 triệu tấn/năm. Xây
dựng vùng sản xuất lúa xuất khẩu 1 triệu ha ở Đồng bằng sông Cửu Long và
300 nghìn ha ở khu vực Đồng bằng sông Hồng để sản xuất gạo đủ tiêu chuẩn
xuất khẩu, nâng cao năng lực chế biến và kỹ năng kinh doanh chiếm lĩnh thị
trờng Quốc tế. Thực hiện mục tiêu này, Việt Nam đang đầu t mạnh vào công
nghệ tới tiêu và khuyến khích nông dân chọn phơng thức sản xuất hiện đại,
bền vững nhằm nâng cao sản lợng lúa. Chính phủ cũng tăng cờng cải tiến hầm
chứa thóc để có thể bảo đảm dự trữ lâu dài đồng thời hỗ trợ các nhà xuất khẩu
quảng bá thơng hiệu nhằm tạo niềm tin cho khách hàng trên thị trờng Quốc tế
về chất lợng và tiêu chuẩn gạo của Việt Nam (Xuất khẩu gạo hớng tới mục
tiêu số 1 Thế giới, 2006) [39].
Đến hết tháng 6/2006, Việt Nam đã xuất khẩu đợc trên 2,7 triệu tấn
gạo, thị trờng lúa gạo đang biến chuyển thuận lợi, tạo điều kiện để các
doanh nghiệp có thể xuất khẩu thêm 2,3 triệu tấn gạo từ nay đến cuối năm
2006, đa tổng lợng gạo xuất khẩu cả năm lên 5 triệu tấn, kim ngạch đạt 1,4
- 1,45 tỷ USD.
Trong 6 tháng đầu năm, Việt Nam đã xuất khẩu gạo sang 16 th trờng
chính: trong ó, Philipin l nớc nhập khẩu gạo Việt Nam nhiều nhất với
896.226 tấn, tr giá 252.875.786 usd (chiếm 38,31% v lợng v 39,81% v
kim ngạch của cả nớc ). Sau đó đến Malaysia, Nhật Bản, Indonesia, Thổ Nh
K... (Xuất khẩu lúa gạo năm, 2006) [40].
18
2.2.2.2. Tình hình nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất lúa ở Việt Nam
Trong thực tế sản xuất đã khẳng định giống lúa có vai trò quan trọng
trong sản xuất lơng thực, nó góp phần tăng năng suất, chất lợng và sản lợng
góp phần ổn định an ninh lơng thực và xuất khẩu. Công tác chọn tạo giống đợc chú trọng phát triển, cùng với các biện pháp kỹ thuật phù hợp sẽ tạo cho
nền nông nghiệp Việt Nam phát triển nhanh chóng cả về số lợng và chất lợng
nông sản phẩm.
Theo thống kê của Trung tâm khảo kiểm nghiệm giống cây trồng Trung
ơng, thì trong vụ lúa đông xuân 2000 riêng ở các tỉnh phía Bắc có 192 giống
lúa (cha kể một số giống lúa địa phơng không có tên rõ ràng) đã đợc gieo
trồng trong sản xuất, trong đó lúa thuần Việt Nam chiếm 45% diện tích và
giống lúa Trung Quốc chiếm 55% diện tích. Trong các giống trên thì có 10
giống lúa thâm canh có diện tích gieo trồng lớn nhất là: Khang dân 18, Q5,
Sán u 63, IR17494, X21, Nhị Ưu 63, Xi 23, C70, DT10 và CR 20312 (Nguyễn
Thiên Lơng, 2000) [12].
Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp Miền Nam đã chọn lọc, nhập nội
một số giống lúa mới nh: IR64, IR66, NN9A... đây là những giống lúa đạt
tiêu chuẩn xuất khẩu.
Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam và các chuyên gia Trung
Quốc (2005) đã thử nghiệm thành công giống lúa lai thơm LVC2 phục vụ cho
cánh đồng 50 triệu của tỉnh Nam Định. Đây là giống lúa cấy đợc cả 2 vụ xuân
và mùa, năng suất trung bình vụ xuân đạt 75-85tạ/ha, vụ mùa đạt 65-75 tạ/ha,
thâm canh cao có thể đạt 120 tạ/ha, chất lợng gạo rất tốt, hạt gạo trong, cơm
dẻo có mùi thơm (TTXVN, 2005) [34]
Công tác chọn tạo giống chất lợng cao đang đợc chú trọng: Viện cây lơng thực thực phẩm đã chọn tạo ra giống P4 có hàm lợng protein đạt 11%;
Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam đã chọn tạo giống lúa 9810 là
giống có chất lợng tốt và năng suất khá.
19
Trong khuôn khổ chơng trình lơng thực thực phẩm cấp nhà nớc, Lê
Doãn Diên và các cộng sự ,1999 [11] đã tiến hành nghiên cứu chất lợng tập
đoàn lúa gạo ở việt Nam. Nghiên cứu đã đánh giá tơng đối toàn diện chất lợng
của các tập đoàn giống lúa Việt Nam theo 4 nhóm chất lợng: chất lợng thơng
phẩm, chất lợng nấu nớng, chất lợng ăn uống và chất lợng dinh dỡng
Sau 3 năm thử nghiệm đến năm 2006, giống lúa lai hai dòng VL24 của
Viện Nghiên cứu lúa trờng ĐHNN I đợc các nhà chuyên môn đánh giá cao cả
về năng suất và khả năng kháng bệnh, chịu hạn tốt.
Viện Nghiên cứu lúa trờng ĐHNN I (2006) vừa phối hợp với Trung
tâm giống cây trồng Thái Nguyên trình diễn giới thiệu 3 giống lúa mới do các
nhà khoa học VN lai tạo gồm VL24, TH3 - 4 và TH3 - 5 tại xã Tân Cơng, tỉnh
Thái Nguyên. Qua thực tế khảo nghiệm diện tích trồng giống lúa mới của 22
hộ dân cho thấy giống VL24 có nhiều đặc tính nổi trội, đặc biệt thu hút sự chú
ý của nhà nông. ông Lê Văn Sinh, xóm Y Na II là ngời trồng thử nghiệm
cùng lúc cả 3 giống lúa cho biết, để kiểm chứng khả năng chịu hạn của giống
VL24 ông đã chủ động cấy trên nền đất vàn cao, pha cát. Kết quả vụ xuân
năm nay mặc dù gặp hạn nhng vẫn đạt năng suất 180-200 kg/sào (Việt lai 24
trên đất hạn, 2006) [38].
Sau khi xây dựng thành công mô hình trồng lúa Bắc Thơm số 7 tại 4
xã Hng Đạo, Hoàng Tung, Bế Triều, huyện Hoà An và xã Ngọc Xuân, thị
xã Cao Bằng với diện tích 40 ha vào vụ mùa năm 2005, vụ xuân năm 2006,
Trung tâm khuyến nông khuyến lâm tỉnh Cao Bằng tiếp tục nhân rộng thêm
50 ha giống lúa chất lợng cao tại xã Bình Long, huyện Hoà An. Kết quả
khảo nghiệm cho thấy giống lúa Bắc Thơm số 7 hoàn toàn thích nghi với
điều kiện khí hậu của địa phơng, cây chịu hạn tốt và ít sâu bệnh, có thời
gian sinh trởng ngắn nên tăng đợc hệ số sử dụng đất, cho năng suất cao và
chất lợng gạo thơm ngon nên đợc thị trờng chấp nhận, có giá trị kinh tế cao.
Theo đánh giá của ngời dân tại xã Hng Đạo, huyện Hoà An: Giống lúa Bắc
Thơm số 7 có năng suất bình quân đạt 56 tạ/ha, cao hơn giống lúa trớc đây
20
địa phơng vẫn sử dụng nh: Tam Nông, Thanh Hoá... từ 5 đến 6 tạ/ha, do sản
phẩm có giá trị kinh tế cao nên trồng lúa Bắc Thơm cho lãi gấp 3 lần và
nhất là có thể gieo cấy đợc cả vụ xuân và vụ mùa. Tại những vùng trồng
lúa của huyện Hoà An và thị xã Cao Bằng, ngời dân đã chủ động mở rộng
diện tích gieo trồng giống lúa Bắc Thơm số 7 trong những vụ tiếp theo.
Hiện đội ngũ khuyến nông thôn, bản cũng tăng cờng tuyên truyền vận động
ngời dân đa giống lúa chất lợng cao vào sản xuất, tập huấn kỹ thuật trồng
trọt tới bà con nhằm đẩy mạnh việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng có chất lợng cao, góp phần xoá đói giảm nghèo tại địa phơng (Cao Bằng mở rộng
diện tích gieo cấy lúa đặc sản, 2006) [36].
Những năm gần đây, nhu cầu gạo chất lợng cao của thị trờng trong tỉnh
tăng mạnh, do vậy tỉnh Tuyên Quang đang thực hiện đồng bộ các giải pháp
giúp đỡ, khuyến khích nông dân mở rộng diện tích gieo cấy lúa đặc sản.
Từ năm 2001- 2002, nhiều hộ nông dân xã Hng Thành (thị xã Tuyên
Quang) đã chuyển sang gieo cấy lúa đặc sản. Do mới làm, kinh nghiệm cha
có, việc quảng bá tiêu thụ sản phẩm cha đợc quan tâm nên kết quả đem lại cha
cao. Năm 2004, trung tâm khuyến nông tỉnh đã phối hợp với ban khuyến nông
các huyện, thị xã và một số hợp tác xã nông nghiệp xây dựng mô hình sản
xuất lúa đặc sản đã đem lại kết quả. Năm 2005 và 2006, trung tâm khuyến
nông tỉnh tiếp tục mở rộng mô hình sản xuất lúa chất lợng cao ra nhiều xã
trong tỉnh với tổng diện tích trên 200 ha. Thấy đợc hiệu quả của mô hình gieo
cấy lúa đặc sản, nhiều hộ nông dân đã tự liên hệ mua giống để mở rộng diện
tích gieo cấy lúa đặc sản. Vụ xuân 2006, tổng diện tích lúa đặc sản của tỉnh đã
lên tới hơn 500 ha, tuy nhiên do chỉ đạo cha kịp thời nên diện tích còn phân
tán, khó tạo thành vùng sản xuất hàng hoá lúa gạo chất lợng cao. Toàn bộ sản
lợng lúa đặc sản sản xuất ra trong vụ xuân 2006 cha đủ phục vụ nhu cầu tiêu
thụ trong tỉnh. Phấn đấu từ nay đến năm 2010 mở rộng diện tích gieo cấy lúa
21
đặc sản lên 10.000 ha, trong những năm đầu 2.000 đến 3.000 ha (Tuyên
Quang mở rộng diện tích gieo cấy lúa đặc sản, 2006) [36].
Hợp tác xã nông nghiệp Vũ Xuân (xã Vũ Di, huyện Vĩnh Tờng, tỉnh
Vĩnh Phúc) vừa thu hoạch 13 ha lúa vụ xuân 2006, do 100 hộ nông dân đợc
khoán gieo cấy. Điều thuyết phục nông dân là năng suất lúa đạt rất cao, nơi
thấp nhất 9,5 tấn/ha, nơi cao 12 tấn /ha, bình quân 10 tấn /ha. Nh vậy, nếu tính
ra sào thì mỗi sào cho năng suất 370 kg đến 380 kg, gấp đôi các loại giống
hiện có vẫn đang sử dụng phổ thông trên địa bàn. Đây là giống lúa lai Nghi Hơng 2308 có nguồn gốc từ Trung Quốc. Việc ứng dụng thành công giống lúa
này ở Vĩnh Phúc là kết quả quá trình thử nghiệm của Trung tâm Khuyến nông
tỉnh với sự hợp tác, hỗ trợ của Công ty Dịch vụ Kỹ thuật Nông nghiệp
TrungTín - Hà Nội và các chuyên gia Trung Quốc. Ngành nông nghiệp Vĩnh
Phúc đang mở rộng diện tích gieo cấy loại lúa này trên các vùng thổ nhỡng,
địa hình, sinh thái khác nhau trong tỉnh...(Sản xuất & thị truờng số 25, 2006)
[31].
Vụ xuân năm 2006, tỉnh Thái Bình gieo trồng giống lúa lai CNR36
với diện tích hơn 2.000 ha, tại 184 xã trong tỉnh. CNR36 là giống lúa lai ba
dòng do trờng Đại học Nông nghiệp Tứ Xuyên (Trung Quốc) lai tạo. Kết
quả, sau 4 tháng gieo trồng, giống lúa lai CNR36 cho thu hoạch bình quân
đạt 8 tấn /ha, đặt biệt có những thửa ruộng đạt 9,5 tấn/ha, cao hơn các giống
lúa lai đang trồng tại địa phơng hơn 1 tấn /ha (Sản xuất & thị truờng số 25,
2006) [30].
Tại các tỉnh phía Nam, mấy năm gần đây khi các giống lúa đặc sản
có giá trị cao hơn nhiều so với các giống lúa thông thờng, thì rất nhiều nông
dân đã chuyển sang trồng lúa chất lợng cao: tại huyện Trà Ôn tỉnh Vĩnh
Long vụ Đông xuân 2003-2004 cả huyện gieo cấy đợc gần 2.000 ha lúa
thơm trên diện tích 12.500 ha. Tại An Giang, toàn tỉnh gieo cấy đợc 52.000
ha lúa thơm trên tổng diện tích 220.000 ha (TTXVN, 2006) [35].
22
Vụ hè thu năm 2006, Thành phố Cần Thơ đã hoàn thành kế hoạch gieo
cấy gần 86.000 ha lúa, trong đó, có 90% diện tích đợc sử dụng lúa giống chất
lợng cao nh 0M 1490, VND 95-20, OMCS 2000, 0M 2517, OM 3536, OM
2717(Sản xuất & thị truờng số 25, 2006) [32].
Năm 2005 huyện Sóc Sơn có tổng diện tích 22.185 ha đất sản xuất
cây lơng thực, trong đó 16.281 ha sản xuất lúa hai vụ, các giống lúa chủ
đạo trong sản xuất nông nghiệp (Khang dân, Bồi tạp 49, Bao thai, Bắc thơm
số 7...). Luá thơm chiếm 10% diện tích lúa của cả huyện (1.625 ha), trong
khi đó diện tích lúa thơm năm 2001 chỉ đạt khoảng 3% (420 ha) tổng diện
tích trồng lúa. Trong các năm tiếp theo, diện tích lúa thơm sẽ đợc mở rộng
để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về chất lợng gạo của ngời tiêu dùng.
Nh vậy trong sản xuất lúa của ta hiện nay, việc nghiên cứu và ứng
dụng các giống lúa chất lợng cao vào sản xuất nhất là các giống lúa thơm
đang dần thay thế các giống lúa bình thờng, đó là xu thế của nền sản xuất
nông nghiệp hàng hoá chất lợng cao.
2.3. Vai trò của vi sinh vật đất với dinh dỡng cây trồng trong hệ sinh thái
nông nghiệp bền vững
Hàng loạt công trình nghiên cứu đã khẳng định: đất là môi trờng thuận
lợi nhất cho sinh trởng và phát triển của các loài vi sinh vật. Trong thành phần
sinh vật đất, vi khuẩn chiếm tới 90%, trong thành phần các bon hữu cơ của đất
vi sinh vật chiếm khoảng 2%. Số lợng vi sinh vật trong mỗi gam đất có tới
hàng triệu, hàng tỷ và thậm chí lên tới vài chục tỷ tế bào. Vi khuẩn là nhóm
chiếm số lợng lớn nhất trong đất (106 - 1010 tế bào/g đất) nhng vì kích thớc
quá nhỏ (vào khoảng 1àm ) nên chúng chỉ chiếm không quá 20% trọng lợng
của vi sinh vật trong đất. Sau đó đến xạ khuẩn với số lợng khoảng 107, vi nấm
104- 106 tế bào/g đất và hàng loạt các nhóm khác với số lợng ít hơn (Dilly.O
and Blume. H.P,1998; Powlson D.S, 1975; Sonani L.L, 1989; Subba Rao N.S,
1965) [48], [64], [65], [66].
23
Vi sinh vật đất tham gia trực tiếp vào quá trình phân giải xác động
vật.. Các nhà nghiên cứu mùn theo quan điểm sinh học đều khẳng định vai
trò không thể thiếu đợc của vi sinh vật trong quá trình tạo thành mùn. Tất cả
các phản ứng sinh hoá đợc thực hiện nhờ các enzim do vi sinh vật sinh ra
(Kononova M.M, and Alexandrova I.V.,1971, 1984) [55], [56].
Vi khuẩn Rhizobium, Azotobacter có thể sinh ra chất keo gắn kết lại
các hạt đất với nhau (Ahmad N, and Jha K.K,1968) [42]. Các niêm dịch chất
nhầy của vi khuẩn Pseudomonas có tác dụng rất lớn trong việc kết gắn tạo ra
cấu trúc bền của đất (Katznelson h, 1959; Katoh K and Itoh K,1983) [51],
[53]. Sự kết gắn của các chất nhầy trong vi khuẩn liên quan đến sự có mặt của
các chất polisacarit, aminosaccarit.
Khu hệ vi sinh vật trong đất lúa nớc, đặc biệt là vi sinh vật vùng rễ lúa
có khả năng hoà tan phốt phát vô cơ khó tan để làm giàu lân dễ tiêu cho đất
(Gerrtsen F.C,1948; Guyer G E,1970; Pareek R.P A.C.1973) [49], [50], [62].
Sử dụng Bacillus firmus và Azotobacter nhiễm vào cây lúa sẽ tăng năng suất
lúa 10 - 70% (trung bình là 28%) (Murakami,1990; Pikovskaya, 1948 ;
Vasantharajan V.N, 1996) [61], [63], [67].
* Vi sinh vật cố định đạm
Khí nitơ chiếm khoảng 78,16% thể tích không khí bao quanh chúng ta.
Con ngời, động vật, thực vật đều cần đạm. Song sống giữa bầu không khí
mênh mông đạm nh vậy tuyệt đại đa số sinh vật đều không sử dụng trực tiếp
khí nitơ, chỉ có nhóm vi sinh vật cố định nitơ là có khả năng này.
Hàng năm, nhu cầu về nitơ đối với cây trồng trên toàn thế giới là hàng
trăm triệu tấn. Tuy nhiên, phân bón hoá học chỉ mới đáp ứng đợc khoảng
30%, lợng còn lại là do quá trình cố định nitơ phân tử cung cấp (Lê Văn Khoa
và cộng sự ,1998) [7].
Khả năng cố định đạm của vi khuẩn cố định đạm hội sinh Azospirillum
đợc Beijerinck phát hiện từ năm 1922, nhng vai trò của nó trong hoạt động cố
định đạm vùng rễ của cây hòa thảo chỉ đợc biết đến vào những năm của thập
24
kỷ 70 nhờ việc tìm ra nơi trú ngụ của chúng. Năm 1976 đã phát hiện thấy
Azospirillum bên trong bề mặt của mô rễ, tạo ra mối quan hệ hội sinh với cây,
chúng có thể tồn tại trong đất vùng rễ, trên bề mặt rễ. Đây là loài vi khuẩn có
khả năng cố định đạm khá lớn, chúng nhận các chất hữu cơ nh Pectin, Axit
hữu cơ làm nguồn dinh dỡng để phát triển và cố định đạm, đồng thời cung cấp
các hợp chất chứa nitơ cho cây chủ. Hiện nay, ngời ta đã sản xuất ra các phân
vi sinh vật cố định đạm cho cây hoà thảo, đặc biệt là cây lúa mang tên là
Azogin và đã đợc triển khai cho các cây trồng khác nhau ở nhiều vùng sinh
thái khác nhau, có thể tăng năng suất cây trồng từ 5 - 15% (Lê Văn Tri, 2002)
[19].
Chế phẩm vi khuẩn nốt sần đã đợc sản xuất từ rất lâu trên thế giới. Năm
1896 ở Đức lần đầu tiên chế ra loại chế phẩm gọi là Nitrazin, ở Mỹ sản xuất
chế phẩm Nitroculture, ở Anh sản xuất loại phân Nitrobacterin (Nguyễn Đờng, 1999) [4]. Tới nay hầu hết các nớc đều sử dụng chế phẩm vi khuẩn nốt
sần cho cây bộ đậu đặc biệt là cây đậu tơng. Tuy nhiên khả năng làm giàu
đạm cho đất tuỳ thuộc vào các loại cây trồng (Lê Văn Tri, 2002) [19].
25
- Đậu đũa, đậu răng ngựa (Vicia faba) cố định đợc 45 55 kgN/ha/năm.
- Đậu Hà Lan (Pirum rativum) cố định đợc 52 77 kgN/ha/năm.
- Đậu xanh (Phaseolas aureus) cố định đợc 63 342 kgN/ha/năm.
- Đậu tơng (Glycine max) cố định đợc 179kgN/ha/năm.
Vi sinh vật cố định đạm tự do trong không khí đã đợc biết đến từ lâu. Ngời
ta đã sử dụng chúng để làm phân vi sinh vật Azotobactrin, dùng để xử lý cho
hạt giống hoặc chế khô nuôi cấy trong đất hoặc trộn với than bùn để bón vào
đất. Tuy nhiên hiệu lực của chúng không ổn định, năng suất chỉ tăng từ 5 10% 20 (Lê Văn Tri, 2004) [20].
Ngoài ra, vi khuẩn Lam (Cyanobacteria) cộng sinh với Bèo hoa dâu
(Azolia) có khả năng cố định đợc 20 - 30 kg N/ha/vụ trên ruộng ngập nớc.
Có tất cả 1400 loài vi khuẩn Lam, trong đó có rất nhiều loài có khả năng cố
định đạm. ở các nớc nh: Nhật Bản, ấn Độ, Senegan, Trung Quốc, ý, Ai
Cập, chúng đợc sử dụng nh một nguồn đạm sinh học (Lê Văn Tri, 2002)
[19].
* Vi sinh vật phân giải lân
Vi sinh vật phân giải lân là nhóm các vi sinh vật (vi khuẩn, xạ khuẩn,
nấm sợi), có khả năng phân hủy các hợp chất Phospho khó tan đã có sẵn trong
đất hoặc bón vào đất thành dạng dễ tan mà cây trồng có thể hấp thụ đợc. Các
loài vi sinh vật phân giải lân có thể kể đến: Pseudomonas, Flavobacterium,
Pennicilium.....(Hoàng Hải, 2000) [5].
Vai trò của vi sinh vật phân giải lân đợc nhiều nhà khoa học trên thế
giới biết đến từ năm 1910, với các cây ngũ cốc nh kiều mạch, đại mạch và ngô
(NXBNN Hà Nội, 2000)[17]. Vi sinh vật phân giải lân không chỉ làm tăng
năng suất mà còn làm tăng hiệu quả của phân lân vô cơ từ 15 - 30%. Tuy
nhiên, tùy từng loại đất mà phản ứng của cây trồng đối với vi sinh vật phân
giải lân có khác nhau. Năng suất cây trồng tăng hơn đối chứng ở vùng đất
chua khoảng 9 - 27%. Một số thử nghiệm khi bón quặng phot phat cho thấy sử
dụng vi sinh vật phân giải lân có thể tiết kiệm đợc 50kg P2O5/ha/vụ. Chúng có