PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa thuộc khu vực Đông Nam Á, có
đường bờ biển dài trên 3260 km, vùng biển đặc quyền kinh tế rộng hơn 1 triệu km 2.
Biển Việt Nam có hơn 2000 loài cá, trong đó có khoảng 130 loài có giá trị kinh tế
cao. Sản lượng khai thác cho phép hằng năm khoảng 1,4 - 1,5 triệu tấn. Do đặc
điểm của vùng biển nhiệt đới nên cá biển của Việt Nam phần lớn là các loài kích
thước nhỏ và chu kỳ sinh sản ngắn. Sản lượng khai thác cá biển hằng năm hiện nay
khoảng 1,2 - 1,3 triệu tấn. Vùng biển gần bờ là nơi tập trung nhiều loài cá biển có
giá trị kinh tế, song do áp lực khai thác lớn nên nguồn lợi cá biển ở khu vực này đã
có dấu hiệu suy giảm. Hiện nay, ngành thuỷ sản đang đẩy mạnh việc mở rộng phạm
vi khai thác ra vùng biển xa bờ với các đối tượng khai thác có kích thước và giá trị
cao hơn. Đồng thời nghề nuôi cá biển cũng đang được phát triển. Đã hình thành các
mô hình nuôi công nghiệp phục vụ xuất khẩu đối với một số loài như cá song (cá
mú), cá chẽm (cá vược), cá hồng, cá giò. Một sô loài khác cũng đang được tiến
hành nuôi thử nghiệm như cá tráp, cá chim biển, cá bơn, cá chình.
Tuy nhiên, sự phát triển của nghề nuôi cá biển ở nước ta còn bị hạn chế do
thiếu một môt hình nuôi với đầu tư thấp và tính ổn định cao, giúp hạn chế tối đa các
ảnh hưởng bất lợi lên môi trường xung quanh. Cá biển được nuôi chủ yếu trong
lồng và một phần trong các ao ven biển với con giống thu gom từ tự nhiên là chính.
Chính vì những lý do trên, tôi đã chọn chủ đề “Kỹ thuật nuôi thương phẩm
cá biển trong lồng và trong ao đất” để trình bày trong bài tiểu luận của mình.
1
PHẦN 2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Một số tìm hiểu về tình hình nuôi cá biển trên thế giới và Việt Nam
Theo thống kê của FAO, sản lượng nuôi thủy sản thế giới đang tiếp tục
tăng. Năm 2004, sản lượng nuôi thủy sản đạt 59,4 triệu tấn, trong đó sản lượng
nuôi biển đạt 30,2 triệu tấn (Hình 1). Mười nước đứng đầu về sản lượng nuôi
thủy sản gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Nhật Bản, Bangladesh, Thái Lan,
Nauy, Chilê, Việt Nam và Mỹ.
Hình 1: Biến động sản lượng và giá trị nuôi trồng thủy sản và hải sản thế giới
Đối với nuôi biển, nhuyễn thể và rong biển có sản lượng lớn nhất, tuy nhiên,
giáp xác và cá biển lại có giá trị cao. Sản lượng cá biển nuôi không ngừng tăng lên
với tốc độ nhanh, trung bình 9,5%/năm, chỉ sau giáp xác 11,0%/năm trong giai đoạn
1970-2002. Đặc biệt, sản lượng cá biển tăng 12,3%/năm trong giai đoạn 1990- 2000.
Theo FAO, năm 2004, sản lượng cá biển đạt gần 2,7 triệu tấn và giá trị gần 10
triệu USD (Hình 2). Trong số này, sản lượng cá hồi chiếm ưu thế với gần 2 triệu tấn
(Hình 3). Các nhóm cá khác chiếm tỷ lệ khá nhỏ, tuy nhiên rất phong phú về thành
phần đối tượng nuôi và tập trung chủ yếu vùng nhiệt đới. Đối với Việt nam, nghề
nuôi cá biển còn khá mới mẻ, chỉ mới được bắt đầu từ những năm đầu 1990. Năm
2005, cả nước đạt 3.500 tấn cá biển và sản xuất giống được 2 triệu con giống với 6
loài cá biển như cá bớp (Rachycentron canadum), cá mú (Epinephelus coioides), cá
hồng Mỹ (Scyaenops ocellatus), cá dìa (Siganus canaliculatus), cá chẽm (Lates
calcarifer) và cá chẽm mõm nhọn (Psammoperca waigiensis).
2
Hình 2: Biến động sản lượng và giá trị cá biển nuôi trên thể giới
Hình 3: Biến động sản lượng các nhóm cá biển nuôi thế giới
1.1. Các đối tượng cá biển nuôi
Hiện có ít nhất 54 loài cá biển được nuôi ở vùng nhiệt đới và á nhiệt đới.
Trong số các đối tượng cá biển nuôi, nhóm cá hồi là đối tượng được nuôi phổ biến ở
vùng ôn đới Châu Âu. Trong khi đó, vùng nhiệt đới có thành phần loài nuôi khá
phong phú với các nhóm đối tượng như cá đối, cá mú, cá chẽm, cá tráp, cá hồng, cá
cam, cá bớp, cá măng… (Bảng 1)
Bảng 1: Một số đối tượng cá biển nuôi ở vùng nhiệt đới (Silva, 1998)
Đối tượng
Hiện trạng
Mugilidae – Cá đối
Mugil cephalus
Co, I/Po, P, B/S
Liza macrolepis
Co, Po/I, P, F/B
Serranidae – Cá vược
Lates calcarifer
Co, I/Po, P, F/B
Cromileptes altivelis
L
Epinephelus tauvina
Co, I, P/C, S/B
E. malabaricus
Co, I, P/C, S/B
E. cocoides
Co, I, P/C, S/B
E. awaoara
L
E. amblycephalus
D, Po, C, S
3
E. akaara
Co, I, C/P, S
E. fuscogutatus
Co, I, C, S
Sparidae – Cá tráp
Pagrus major
Acanthopagrus schelegeli
Co, I, C, S
A. latus
Co, I, P, B
A. sivicolus
Co, I, P, B
Sparus sarba
Co, I, P, S/B
Lutjanidae – cá hồng
Lutjanus argentimaculatus
Co, I, P/C, B/S
L. johnii
Co, I, C, S
L. russelli
Co, I, C, S
Caragidae – cá cam
Seriola dumerili
D, I, C, S
S. quinqueradiata
Co, I, C, S
Rachycentredae- Cá bớp
Rachysentron canadum
D, I, C, S
Siganidae – Cá dìa
Siganus guttatus
D, Po, P/C, S
S. canaliculatus
L
S. javus
L
S. oramin
L
S. fuscenes
Co, I, p, s/p
Chanidae – Cá măng L
Chanos chanos
Co, E/I, P, S/B
Chú thích: Co - sản xuất đại trà, D - sản xuất qui mô nhỏ, L - qui mô nghiên
cứu thí nghiệm, I - nuôi tham canh, E - nuôi quãng canh, Po-nuôi kết hợp, C - nuôi
lồng, P - nuôi ao, S - nước biển, B - nước lợ, F - nước ngọt.
Đối với nhóm cá đối, cá đối Mugil cephalus được nuôi phổ biến nhất do đặc
tính phân bố rộng, rộng muối, ăn tạp. Cá có thể được nuôi đơn, nhưng thường là
nuôi kết hợp với các loài cá khác.
Đối với nhóm cá vược, cá chẽm và cá mú được nuôi phổ biến nhất. Cá chẽm
rộng muối nên có thể được nuôi cả vùng nước mặn lẫn nước ngọt. Cá mú có giá trị
cao trên thị trường thế giới so với các đối tượng cá khác. Cá phân bố rộng ở vùng
nhiệt đới đến á nhiệt đới, rộng muối, lớn nhanh. Cá có thể được nuôi trong lồng hay
ao, đạt kích cỡ 600- 800g sau 7- 8 tháng nuôi.
4
Đối với nhóm cá tráp, có ít nhất 17 loài được nuôi trên thế giới. Cá tráp đỏ
(Pagrus major) được nghiên cứu và nuôi phổ biến nhất. Sản lượng cá tráp đỏ chiếm
trên 90 % sản lượng các loài cá tráp nuôi trên thế giới. Nơi nuôi phổ biến là Nhật
Bản. Cá tráp đỏ có thể đạt 600-700 g sau 1,5 năm nuôi.
Nhóm cá hồng (Lutjanus sp) phân bố rộng. Tuy nhiên, nghề nuôi chưa phổ
biến lắm trên thế giới. Đa số các loài cá hồng thích nghi độ mặn cao, riêng cá hồng
bạc (L. argantimaculatus) có thể thích nghi ở độ mặn thấp. Nhóm cá cam (Seriola
sp.) là cá biển rất được ưa chuộng để nuôi, đặc biệt là ở Nhật bản. Sản lượng cá cam
đứng thứ hai sau cá hồi (Salmo sp). Cá cam có thể đạt 1-1,5 kg sau 1 năm nuôi. Đối
với cá bớp (Rachysentron canadum), đây là loài cá đang được phát triển nuôi lồng ở
nhiều nơi. Cá lớn nhanh và kích cỡ lớn.
Nhóm cá dìa (Siganus sp.) được khai thác và nuôi nhiều ở Châu Á. Cá dìa rộng
muối, phân bố rộng. Cá ăn thực vật hay ăn tạp. Cá măng (Chanos chanos) là cá nuôi
truyền thống ở các nước Châu Á, nhất là Indonesia, Philippines, Đài Loan. Hình
thức nuôi phổ biến là quảng canh cải tiến.
1.2. Xu hướng phát triển nghề nuôi cá biển
Nuôi cá nước lợ truyền thống đã được thực hiện từ lâu ở nhiều quốc gia với
mô hình nuôi cá măng và cá đối quảng canh cải tiến. Tuy nhiên, hầu hết các loài cá
khác hiện nay đều được nuôi theo hướng bán thâm canh hay thâm canh trong bể, ao,
đăng hay lồng. Đối với nuôi bể, có nhiều loại bể khác nhau như bể sợi thủy tinh
(composite) hay bể ximăng, kích cỡ vài chục đến vài trăm mét khối. Ao nuôi thâm
canh có kích cỡ vài trăm đến vài ngàn mét khối. Nuôi thâm canh được trang bị hệ
thống cấp ôxy, cấp thay nước hoàn chỉnh. Đối với nuôi cá trong đăng quầng, hình
thức này phổ biến ở Philippines trước đây để nuôi cá măng, tuy nhiên cũng suy
giảm từ những năm 1980 do một số trở ngại trong khâu quản lý và rủi ro khác. Đối
với nuôi lồng, có 3 qui mô gồm qui mô đơn giản như giai -lồng cố định đặt ở đầm –
phá; hay qui mô bán hiện đại gồm giàn lồng nổi đặt ở eo, vịnh gần bờ, kín gió; và
qui mô hiện đại đang được phát triển gồm những lồng ngầm, nuôi ở biển khơi, nhất
là nơi gần các giàn khoan.
Trong nuôi cá biển, thức ăn thường sử dụng là cá tạp. Tuy nhiên, có một số trở
ngại do không chủ động, cá ôi thối, ô nhiễm, mầm bệnh… Vì thế, thức ăn hỗn hợp
ẩm thường được bổ sung để tăng cường dinh dưỡng, phòng chống bệnh tật.
Thức ăn hỗn hợp ẩm thường được làm tại trang trại. Một vài đối tượng có thể
sử dụng tốt thức ăn viên dạng khô, nổi rất thuận tiện. Hệ số thức ăn thông thường là
4-10:1 đối với cá tạp hay 1,5-2,5:1 đối với thức ăn viên khô.
5
1.3. Tác động của nghề nuôi cá biển và phương pháp quản lý nuôi bền vững
Nghề nuôi cá biển đang phát triển nhanh chóng, góp phần phát triển kinh tế xã
hội quan trọng cho các vùng ven biển. Tuy nhiên, cũng có một số trở ngại trong
nghề này. Do đa số các loài cá nuôi vùng nhiệt đới và á nhiệt đới Châu Á – Thái
Bình Dương đều là loài cá ăn thịt, có nhu cầu đạm động vật cao trong thức ăn chế
biến, vì thế, chí phí thức ăn cao, giá thành cao và sản lượng nuôi thường thấp. Do
các nước đang phát triển thường có xu hướng tập trung nuôi một số loài cá có giá trị
cao để xuất khẩu sang Nhật, Bắc Mỹ và Châu Âu, nên đôi khi cạnh tranh rất lớn về
thị trường, giá cá, dẫn đến khó xuất khẩu và giá giảm thấp, gây trở ngại kinh tế xã
hội cho người nuôi. Chính vì thế, không nên tập trung quá mức vào một vài loài có
giá trị cao xuất khẩu mà nên có những loài khác nuôi hỗ trợ tiêu thụ nội địa. Việc
tập trung nuôi những loài cá ăn thịt và sử dụng quá mức nguồn cá tạp cũng gây trở
ngại về nguồn thức ăn, nguồn lợi tự nhiên và ô nhiễm môi trường.
Hiện nay, nghề nuôi cá biển tuy đạt được một số thành tựu quan trọng trong
sản xuất giống nhân tạo cho ương nuôi, nhưng rất nhiều loài cá vẫn còn lệ thuộc
vào nguồn giống đánh bắt tự nhiên. Điều này gây trở ngại là khả năng cung cấp
giống không đầy đủ, thiếu chủ động và chất lượng giống cũng khó đảm bảo. Hơn
nữa, nếu khai thác quá mức sẽ gây trở ngại về nguồn lợi cá tự nhiên. Trong khi đó,
giống cá nhân tạo vừa thiếu, vừa có thể gặp trở ngại về chất lượng do bệnh tật, thoái
hoá giống do thiếu cá bố mẹ.
Chính vì thế, tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nuôi thích hợp cần phải dựa vào
nhiều yếu tố như nhu cầu, giá trị kinh tế của loài, kỹ thuật nuôi, đặc điểm sinh học,
điều kiện môi trường nuôi… Kỹ thuật nuôi ngày càng được phát triển, nhưng cần
chọn lựa giải pháp kỹ thuật sao cho vừa đạt hiệu quả kinh tế cao, vừa đảm bảo thân
thiện môi trường. Chính vì thế, nuôi kết hợp ở vùng ven nội địa và nuôi thâm canh
trong lồng biển khơi là phương án chọn lựa quan trọng trong thời gian tới. Ngoài ra,
nuôi cá biển là một trong những hoạt động quan trọng trong vùng ven biển, chính vì
thế, cần được quản lý thỏa đáng trong khuôn khổ quản lý tổng hợp vùng ven biển.
Các hoạt động quản lý tổng hợp bao gồm:
- Phân vùng nuôi phù hợp với qui hoạch chung toàn vùng
- Xây dựng luật, chính sách, qui chế, qui tắc quản lý nuôi thủy sản bền vững
và phù hợp với các luật, qui tắc của các ngành kinh tế khác
- Xây dựng cơ sở hạ tầng
- Giải quyết xung đột giữa các thành phần kinh tế, các hoạt động.
- Đánh giá tác động kỹ thuật, môi trường cho từng dự án phát triển nuôi biển,
tránh gây tác động xấu đến kinh tế, xã hội và môi trường chung trong vùng.
6
2. Nuôi thương phẩm cá biển trong lồng
Hiện nay ở Việt Nam đang có hàng chục loài cá thích nghi với việc nuôi bằng
bè, lồng nhằm cung cấp nguồn thực phẩm tươi sống cho tiêu thụ và xuất khẩu. Các
giống cá có chất lượng và giá trị kinh tế cao, khi được nuôi lồng trên biển, thường
đem lại khả năng xuất khẩu lớn. Mỗi kg cá lồng biển ở các nước khu vực Đông Nam
Á bán ra bình quân từ 15- 25 USD. Còn ở Việt Nam. Giá cả giao động từ 100- 150
ngàn đồng/kg. Các loại nuôi lồng trên biển thường là những loài có giá trị kinh tế và
dễ nuôi như: cá song, cá cam, cá hồng...
Từ năm 1989 đến nay nghề nuôi cá lồng biển ở nước ta đã bắt đầu phát triển
trên diện rộng. Dọc theo chiều dài bờ biển nước ta có nhiều đảo và bán đảo, kín gió
rất thuận lợi cho nghề nuôi cá lồng biển. Đối với khu vực duyên hải miền Trung,
trong mấy năm gần đây đã xuất hiện hình thức nuôi cá lồng ven biển và các đảo
ngoài khơi, xa đất liền. Đăc biệt là từ đoạn bờ biển Đà Nẵng đến Bình Thuận, ngành
thuỷ sản đã thống kê có trên 200 ô lồng nuôi cá biển. Nhiều gia đình ngư dân và các
cơ sở sản xuất đã tiến hành khai thác, mua gom để nuôi lồng xuất khẩu.
Trong xu hướng mở rộng các loại hình nghề biển, bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản
ngày càng bị cạn kiệt như hiện nay, mô hình nuôi cá lồng ven biển cần được Nhà
Nước và ngành thuỷ sản đầu tư đúng mức, tạo điều kiện cho bà con ngư dân tiếp
nhận được những kỹ thuật nuôi cá bằng lồng - bè trên biển một cách thuận lợi. Đồng
thời cũng là cách tạo ra công ăn việc làm cho ngư dân, hình thành một mặt hàng xuất
khẩu hải sản tươi sống có giá trị kinh tế cao.
2.1. Kỹ thuật nuôi thương phẩm cá biển trong lồng
2.1.1. Chọn vị trí nuôi lồng
Một vị trí tốt cho việc nuôi lồng cá biển là cần có:
- Độ sâu phải bảo đảm đáy lồng cách đáy biển ít nhất 2-3 m.
- Ít sóng, gíó (tránh nơi sóng cao trên 2m), tốc độ dòng chảy nhỏ (dưới 1m/s).
- Tránh nơi nước chảy quá yếu hay nước đứng (tốc độ chảy thích hợp từ 0,20,6 m/s) (có thể làm chết cáthiếu oxy, thức ăn thừa, mùn).
- Đảm bảo hàm lượng oxy từ 4- 6mg/lít, nhiệt độ 25- 30oC, độ mặn từ 27- 33‰.
- Cần tránh xa những nơi gây ô nhiễm dầu, ô nhiễm chất thải công nghiệp,
nước thải sinh hoạt, và tàu bè. Nơi phú dưỡng có thể xảy ra hồng triều.
2.1.2. Thiết kế và xây dựng lồng
Lồng nổi gỗ, chia ô
Thông thường một dàn lồng được thiết kế gồm nhiều ô lồng nhỏ, mỗi ô lồng
có kích cỡ 3 x 3 x 3 m hay 5 x 5 x 4 m. Như thế sẽ thuận lợi cho việc phân cỡ và thả
7
giống được đồng loạt cho từng lồng riêng, đồng thời để trống một lồng không nuôi
cá dành để thay lồng khi xử lý bệnh cá hay xử lý rong tảo bẩn đóng trên lồng.
Các vật liệu rẻ tiền như tre, gỗ,... sẽ dễ bị hư hỏng. Vì thế, chỉ nên làm khung
trên lồng bằng gỗ với kích cỡ thông thường loại 8x 15cm. Khung đáy lồng dùng
bằng ống nước đường kính 15/21 và được mạ kẽm để tăng tuổi thọ lồng. Lưới lồng
tốt nhất nên là Polyetylen không gút, hay cũng có thể thay thế bằng Polyamide.
Kích thước mắt lưới có thể thay đổi tùy vào kích cỡ cá nuôi. Cỡ cá 1- 2cm dùng
mắtlưới 0,5 cm, cỡ cá 5- 10 cm dùng mắc lưới 1 cm; cỡ cá 20- 30cm dùng mắt lưới
2cm và cỡ cá trên 25cm dùng mắc lưới 4cm.
Để giữ bè nổi, dùng phao bằng thùng nhựa (1 x 0,6m) hay thùng phuy được
sơn kỹ và bố trí nâng khung gỗ. Số lượng phao có thể thay đổi tùy theo lồng có nhà
hay không. Cố định hay lồng dây treo để tránh bị nước cuốn trôi. Số lượng neo
thường 4 cái và dây neo lớn Φ = 24 mm với chiều dài khoảng 30 - 50 m.
Ngoài ra ở các vùng cạn ven bờ có thể phát triển kiểu lồng cố định bằng cách
dùng lưới và cọc gỗ bao quanh khu nuôi.
Lồng của Nauy
+ Lồng kiểu trọng lực của Na Uy: Hình tròn, vật liệu là ống Polyetylen chịu
được áp lực lớn vòng đáy thùng 2- 3 ống đường kính 250mm để cho lồng nổi, người
có thể đi phía trên. Vòng trên ống có đường kính 125mm làm lan can vịn. Giữa hai
vòng trên và đáy có giá đỡ bằng Polyetylene. Lồng lưới phổ biến hiện nay có đường
kính 25 - 85 m (chu vi 80- 110 m có khi 180 m), sâu 40 m, nuôi được 200 tấn cá,
lượng thức ăn hàng ngày là 6 tấn. Lồng có thể nổi trên mặt nước, tuổi thọ trên 10
năm, chịu được gió cấp 12, chống sóng 5 m, dòng chảy nhỏ hơn 1m/giây. Ưu điểm
lớn nhất của lồng Nauy là tiện quản lí, dể quan sát.
+ Lồng lưới kiểu nổi mạnh, toàn khối hình trống của Nauy: Đường kính lớn
nhất ở giữa là 11m, đường kính vòng đáy là 9m, đường kính miệng 3m. chiều cao
từ vòng miệng đến vòng giữa là 10m.Tổng dung lượng là 2500m 3 thông qua cấp
tháo nước ở 8 ống rộng ở cạnh lồng để điều khiển lồng chìm nổi. Phía trên miệng
lồng có sàn quản lí, thùng chứa thức ăn, 1 tuần cho ăn 1 lần, cho cá ăn tự động.
+ Lồng chân lực căng (còn gọi là lồng lưới khung giá lực căng).
Do Na Uy chế tạo, hình dạng của nó là kiểu đảo ngược loại lồng lưới truyền
thống. Phần đáy dùng dây nút chặt ở đáy biển khối lưới ở dưới mặt nước 5 m. Sẽ
không có sóng đánh thẳng đứng, có thể chống sóng cao 10 m, chịu được lưu tốc 2
hải lý/giờ. Trường hợp sóng gió mạnh, thể tích lồng lưới có thể dãn không quá 25%.
Lồng của Mỹ
+ Kiểu lồng con bướm của Mỹ (lồng trụ tròn): Dùng ống sắt mạ kẽm, đường
kính 1m, dài 16 m làm trục giữa, xung quanh dùng 12 ống sắt mạ kẽm làm thành
8
hình 12 cạnh, chu vi là 80 m, đường kính 25,5 m. Trên và dưới dùng 12 sợi PE nối
liền với hai đầu trụ tròn trung tâm, tác dụng giống như nan hoa bánh xe đạp. Dùng
lưới dệt loại Dynecma làm áo lưới tạo thành lồng hình con bướm, diện tích 600 m2,
dung lượng là 300 m3. thân lồng không bị biến dạng khi dòng chảy 2,25 HL/giờ.
Trụ tròn có thể cho nước vào hoặc nạp khí để điều tiết tỷ trọng bằng lưới, đồng thời
cân bằng với khối bê tông nặng 15 tấn treo ở phần đáy làm toàn bộ lồng lưới nổi lên
hay chìm xuống, trong 6 phút có thể từ mặt nước chìm tới độ sâu 30 m. Phía trên có
ống để tiện thả cá giống và cho thức ăn. Lồng có thể đặt nhô cách xa bờ 20 km. Thợ
lặn dùng súng phan nước áp lực cao để rửa các sinh vật bám vào áo lưới.
+ Lồng lưới cột trụ tròn do Mỹ sản xuất (lồng sàn phẳng hải dương)
Dùng 4 cột tròn bằng thép dài 15 m và 8 sợi thép dài 80 m bện xung quanh.
Cột trụ dựa vào neo và lưới cố định thẳng đứng, dùng loại lưới không gút làm bằng
sợi Dynecma. Khi thời tiết xấu toàn bộ sàn phẳng bị ngập trong nước. Do sự thay
đổi của sức nổi của trụ tròn nên việc lên xuống rất dể dàng chỉ mất 30 giây là xong.
Lồng Nhật Bản
+ Lồng kiểu dây nổi (Nhật Bản) : Là loại cải tiến lồng kiểu nổi động chống
sóng gió tương đối mạnh được dùng sớm nhất ở Nhật.
Cấu tạo lồng: dây, thân lồng, phao, neo sắt kết cấu mềm, có thể dao động theo
sóng gió. Lồng bao kín 6 mặt, khung mềm do hai sợi pe đường kính 2,5 cm làm dây
chính, nhiều sợi nilông hay PE đường kính 1,7 cm là dây phụ; dây nilông (hoặc PE)
đường kính 1 cm làm dây phao. Khoảng cách giữa các phao là 50 – 100 cm, đồng
thời hai đầu của dây chính buộc cố định một cái phao lớn.
+ Lồng lưới tổ hợp hình vuông của Nhật Bản
Khung lồng làm bằng vật liệu chống mục , mỗi nhóm 6 cái, mối lồng lưới hình
vuông 15 x 15 m, đường đi giữa các lồng lưới cố định rộng theo 3 cỡ: 3 m, 2 m,1 m.
Điểm cố định ở một đầu, có thể quay vòng 3600, chiếm diện tích gấp 10 lần diện
tích lồng lưới, lồng chịu được sóng cao 4,3 m. Lồng kiểu hình vuông, loại nhiều
cạnh do công ty Sekikiou Nhật Bản phát triển được làm bằng vật liệu cao su đàn
hồi, có thể lắp ráp bằng ốc vít không cần hàn.
Hình 4: Lồng lưới Nhật Bản
9
2.1.3. Quản lý và chăm sóc
Xác định lượng thức ăn hàng ngày
Lượng thức ăn hàng ngày của cá là chỉ số phần trăm giữa lượng thức ăn của cá
và trọng lượng cá nuôi. Khi nuôi cá lồng, sau khi thả giống 1- 2 ngày bắt đầu cho cá
ăn. Các loài ăn khoẻ như: cá vược, cá cam, cá hồng... thì lượng cho ăn cao; đối với
cá song thì thấp hơn. Khi cá còn nhỏ, giai đoạn tháng 6 đến tháng 10 do nhiệt độ cao
nên lượng thức ăn cũng cần cao. Nói chung nên điều chỉnh trong phạm vi 3 - 8%, có
80% số lượng cá ăn no là được. Đối với cá vược, thời kỳ nuôi ban đầu mức cho ăn
độ 20%, thời kỳ giữa 7- 15%, thời kỳ cuối 3 - 7%.
Mức cho ăn đối với cá song từ 3-10%, cá tráp vàng khoảng 6%. Có thể căn cứ
vào lượng giống thả và những con số theo dõi của năm trước như tỉ lệ sống, tăng
trọng, hệ số thức ăn để tính ra số lượng thức ăn cần sử dụng cho cá năm sau, sau
đó lại căn cứ vào tình hình nhiệt độ nước cao thấp để dự tính lượng thức ăn phân
phối cho từng tháng, từng tuần và từng ngày.
Thành phần thức ăn
Hầu hết các loài cá nuôi lồng biển đều là cá ăn động vật, phần lớn cho ăn
bằng cá, tôm, mực, trai, ốc tươi sống; đồng thời cũng có thể cho cá ăn bằng thức ăn
đông lạnh và một phần thức ăn công nghiệp. Thành phần dinh dưỡng trong thức ăn
của mỗi loài cá không giống nhau, vì thế khi nuôi chúng ta cần chú ý đáp ứng.
Nhu cầu thức ăn của cá hồng: đạm 50- 55%, chất béo 10- 15%, chất đường
10- 15%, chất tro 15- 21%. Căn cứ vào đó làm tiêu chuẩn, có thể pha chế thức ăn
công nghiệp theo tỉ lệ sau: bột cá 15- 21%, bột mì 20%, bột khô đậu 5%, sinh tố 2%,
muối khoáng 3%. Thức ăn pha chế để nuôi cá song cần có hàm lượng đạm 40 - 50%.
Cách cho ăn
- Tốt nhất là cho ăn vào lúc lặng sóng ban ngày, nếu không kịp thì cho ăn ở phía
nước đến để giảm tình trạng thức ăn bị trôi.
- Cá còn nhỏ cho ăn ngày 3- 4 lần, cá lớn cho ăn ngày 2 lần vào sáng và chiều,
về mùa rét cho ăn vào lúc nắng ấm buổi trưa. Nên làm dàn cho ăn để kiểm tra và đỡ
rơi vãi thức ăn.
- Cá mú đớp mồi rất chậm, còn cá tráp thấy mồi đớp luôn, vì thế trong lồng nuôi
cá mú nên thả lẫn một ít cá tráp đen và tráp vây vàng để kích động cá bắt mồi nhanh.
- Đối với cá hồng: trước khi xuất bán 2 tháng cần cho ăn thêm tôm vụn để
tăng chất caroten làm cho màu cá đỏ đẹp thêm, cũng có thể che kín lồng để ức chế
sắc tố đen tạo cho cá có được màu đỏ của cá biển tự nhiên.
10
Các biện pháp nâng cao hiệu quả
- Khi gặp sóng to gió lớn, nước chảy mạnh, nước đục phải giảm bớt lượng cho ăn.
Dùng thức ăn viên nổi phải có sẵn dụng cụ vớt phòng thức ăn bị trôi mất khi có sóng
gió, nước chảy mạnh. Dùng các loại thức ăn khác phải tăng độ cao thành dàn cho ăn.
- Khi nhiệt độ nước hạ nhanh, trời âm u không gió, hàm lượng ôxy thấp phải
giảm lượng cho ăn.
- Không cho ăn vào ngày thay lồng lưới đồng thời giảm lượng cho ăn ngày hôm.
- Định lượng cho ăn theo từng lần, gia giảm lượng cho ăn theo mức ăn của cá.
- Ngừng cho ăn một ngày trước khi vận chuyển cá thịt đường dài.
2.2. Kỹ thuật nuôi thương phẩm một số loài cá biển trong lồng
2.2.1. Kỹ thuật nuôi thương phẩm cá chẽm trong lồng
2.2.1.1. Một số đặc điểm sinh học của cá chẽm
Phân loại và hình thái: Cá chẽm hay cá vược, có tên tiếng Anh là
Seabass, thuộc vị trí phân loại như sau:
Lớp:
Osteichthyes
Bộ:
Perciformes
Họ:
Serranidae
Giống:
Lates
Loài:
Lates calcarifer
Cá chẽm có thân hình thon dài và dẹp bên, cuống đuôi khuyết sâu. Đầu
nhọn, nhìn bên cho thấy phía trên hơi lõm xuống ở giữa và hơi lồi ở lưng. Miệng
rộng và hơi so le, hàm trên kéo dài đến phía dưới sau hốc mắt. Răng dạng nhung,
không có răng nanh, trên nấp mang có gai cứng, vây lưng gồm có 2 vi: vi trước có 7
- 9 gai cứng và vi sau có 10 - 11 tia mềm. Vi hậu môn có 3 gai cứng, vi đuôi tròn và
có hình quạt. Vẩy dạng lược và có kích cỡ vừa phải, có 61 vãy đường bên.
Hình 5: Cá chẽm (Lates calcarifer)
Đặc điểm phân bố
Cá chẽm phân bố rộng từ vùng nhiệt đới đến cận nhiệt đới thuộc Tây Thái
Bình Dương và Ấn Độ Dương.
11
Cá chẽm rất rộng muối và có tính di cư xuôi dòng, lớn lên chủ yếu ở vùng
nước ngọt như sông, hồ. Khi thành thục (3 - 4 năm tuổi), chúng sẽ di cư ra vùng cửa
sông, ven biển có độ mặn thích hợp từ 30-32‰ để sinh sản. Ấu trùng sau khi nở ra
sẽ theo dòng nước vào vùng cửa sông, ven bờ và lớn lên. Cá con sẽ dần dần di cư
vào các thủy vực nước ngọt sinh sống và phát triển thành cá thể trưởng thành.
Tính ăn
Cá chẽm là loài cá rất dữ. Khi cá còn nhỏ, tuy chúng có thể ăn các loài phiêu
sinh thực vật (20% trọng lượng thức ăn) mà chủ yếu là tảo khuê, nhưng thức ăn chủ
yếu vẫn là cá, tôm nhỏ (80%). Khi cá lớn hơn 20 cm, 100% thức ăn là động vật bao
gồm giáp xác khoảng 70% và cá nhỏ 30%. Cá chẽm bắt mồi rất dữ và có thể bắt cả
mồi có kích cỡ bằng cơ thể của chúng. Cá chẽm chỉ bắt mồi sống và di động.
Đặc điểm sinh sản
Cá chẽm là có sự chuyển đổi giới tính từ cá đực thành cá cái sau khi tham gia
lần sinh sản đầu tiên và đây được gọi là cá chẽm thứ cấp. Tuy nhiên, cũng có những
cá cái được phát triển trực tiếp từ trứng và được gọi là cá cái sơ cấp. Vì thế trong
thời gian đầu (1,5- 2kg) phần lớn là cá đực, đến khi cá đạt 4- 6kg, phần lớn là cá cái.
Cá thành thục (3 - 4 năm tuổi) có tập tính di cư sinh sản vào chu kỳ trăng. Cá
đẻ quanh năm nhưng tập trung vào tháng 4- 8. Trước khi đẻ, cá tách đàn và ngừng
ăn 1 tuần, cá đẻ nhiều đợt trong vòng 7 ngày. Cá có trọng lượng 5,5- 11 kg có thể đẻ
2,1- 7,1 triệu trứng. Trong điều kiện nhiệt độ 28- 32 oC, độ mặn 30- 32 ‰, trứng nở
trong vòng 17- 18 giờ, ấu trùng mới nở có chiều dài khoảng 1,5 mm, có túi noãn
hoàng 0,86 mm và giọt dầu nằm ở phía trước.
2.2.1.2. Kỹ thuật nuôi thương phẩm cá chẽm trong lồng
Lồng nuôi: Lồng nuôi cá chẽm thường là lồng gỗ chia ô, kích thước
mỗi ô khoảng 3x 3x 3m hay 5 x 5 x 4m.
Hình 6: Lồng nuôi cá chẽm trên biển
12
Kỹ thuật nuôi và quản lý lồng
Trước khi thả cá giống vào lồng, cần thuần hóa để cá thích nghi với nhiệt độ
và độ mặn nước. Cá giống nên phân cỡ theo nhóm và nuôi trong những lồng riêng
biệt. Thả cá vào lúc sáng sớm (6- 8 giờ) hoặc buổi tối (8- 10 giờ) khi nhiệt độ thấp.
Mật độ thả thường từ 40- 50con/m 3. Sau 2- 3 tháng nuôi đạt trọng lượng 150200g, lúc này giảm mật độ còn 10- 20con/m3.
Nên dành một số bè trống, để sử dụng khi cần thiết như chuyển cá giống hay
đổi lưới cho lồng nuôi khi bị tắc nước do vi sinh vật bám.
Thông qua việc chuyển đổi lồng giúp phân cỡ và điều chỉnh mật độ nuôi.
Thức ăn và cách cho ăn
Cá tạp là nguồn thức ăn được dùng chủ yếu cho cá chẽm. Cá tạp được băm
nhỏ cho ăn hai lần mỗi ngày vào buổi sáng (8 giờ), buổi chiều (5 giờ) với tỷ lệ 10 %
trọng lượng cá trong 2 tháng đầu. Sau 2 tháng chỉ cho ăn một lần/ngày vào buổi
chiều với tỷ lệ 5% trọng lượng cá. Chỉ cho cá ăn khi cá bơi lội gần mặt nước.
Do nguồn cá tạp ở một số nước hiếm và đắt, cám gạo và tấm được dùng trộn
thêm để giảm lượng cá tạp sử dụng. Tuy nhiên gíá thành thức ăn vẫn còn cao mặc
dù áp dụng phương pháp hạ giá này. Phối hợp nguyên liệu làm thức ăn có thể là cá
tạp 70 % và cám hoặc tấm 30 %.
Thức ăn ẩm cũng có thể được dùng cho cá ăn với thành phần như ở Bảng 2.
Bảng 2: Thành phần thức ăn ẩm
Thành phần
Phần trăm (%)
35
20
15
10
3
7
8
2
Bột cá
Cám
Bột đậu nành
Bột bắp
Bột lá
Dầu mực (hoặc dầu cá)
Tinh bột khuấy hồ
Hỗn hợp Vitamin
Quản lý lồng nuôi
Cần phải thường xuyên theo dõi lồng. Do luôn luôn ngập nước, lồng có thể bị
phá hại bởi các động vật thủy sinh như cua, rái cá,... Nếu lồng bị hư hỏng phải lập
tức sửa chữa hoặc thay mới. Ngoài ra, lồng có thể bị bịt kín do lắng đọng phù sa
hay rong tảo bám. Cần vệ sinh lưới thường xuyên hay thay lưới cho lồng.
13
2.2.2. Nuôi cá giò trong lồng
2.2.2.1. Đặc điểm sinh học của cá giò
Cá giò hay còn gọi là cá bớp, có tên khoa học là Rachycentron canadum, là đại
diện duy nhất thuộc họ Rachycentridae, tiếng Anh là Cobia.
Hình 7: Cá giò (Rachycentron canadum)
Cá có thân hình thon dài, chiều dài bằng 5,5 - 7,5 lần chiều cao. Đầu xẹp, mõm
nhọn, hàm dưới dài hơn hàm trên. Lưng và hai bên lưng có màu nâu sẫm. Có 2 sọc hẹp
màu trắng bạc hai bên thân. Vảy nhỏ và sát vào da. Vây lưng phía trước có các gai
ngắn riêng rẻ. Đây là loài cá quan trọng trong nuôi trồng, khai thác và câu cá giải trí.
Phân bố rộng ở vùng biển nhiệt đới và cận nhiệt đới Ấn Độ- Tây Thái Bình
Dương. Cá sống ở nhiều nơi khác nhau như nơi đáy bùn, cát sỏi, san hô hay vùng
rừng ngập mặn, có thể được đánh bắt ở độ mặn từ 22- 44.
Cá giò là loài cá ăn thịt. Thức ăn là cá tạp, giáp xác. Cá sinh trưởng nhanh, có
thể đạt 3- 5 kg sau 1 năm nuôi. Cá có thể đạt kích cỡ lớn 2 m và nặng 61 kg. Cá cái
lớn nhanh và lớn con hơn cá đực. Cá có thể sống 15 năm trong tự nhiên.
Cá giò có thể thành thục sau 2 năm tuổi với kích cỡ con đực dài 60 - 65 cm và
con cái dài 80 cm. Cá giò thành thục đầy đủ sau 4 năm. Cá cái có thể đẻ nhiều lần
trong năm. Khi thành thục, cá theo từng nhóm nhỏ. Chúng đẻ gần bờ hay cả xa bờ.
Mỗi con cái có thể đẻ 0,4 - 0,5 triệu trứng.
2.2.2.2. Kỹ thuật nuôi thương phẩm cá giò trong lồng
Lồng nuôi
Hình 8: Lồng nuôi cá giò
14
Có hai kiểu lồng nuôi cá giò phổ biến là: Lồng gỗ có kích thước từ 27216m3 thường được dùng nuôi ở vùng biển kín sóng gió, và lồng nhựa chịu lực
HDPE hình tròn (thể tích từ 300m 3 trở lên) có khả nẳng nuôi được ở những vùng
biển hở. Cỡ mắt lưới lồng dùng cho lồng nuôi cá thương phẩm tăng dần theo tăng
trưởng của cá, từ 2a = 3 - 7cm.
Thả giống
Cỡ giống thả nên đạt khối lượng trung bình 30g, chiều dài 18– 20 cm (70– 75
ngày tuổi). Giống phải đồng đều, khoẻ mạnh, không xây xát và mang bệnh.
Mật độ thả: Cá Giò có tốc độ sinh trưởng nhanh, khi thu hoạch, cá thịt đạt
trung bình 5 kg/con nên mật độ thả nuôi ban đầu cần dừng ở mức 5 – 6 con/m 3.
Trong giai đoạn khi cá đạt từ 1 – 3 kg cần phân cỡ cá một số lần để đảm bảo cá
lớn đồng đều. Khi cần có thể giảm bớt mật độ cá trong lồng.
Thức ăn và chế độ cho ăn
Cá tạp: Khi sử dụng cá tạp để cho cá Giò ăn cần phải dùng cá tươi. Ngày cho
ăn một lần vào buổi sáng. Mỗi lần cho ăn khoảng 5 – 8 % tổng khối lượng đàn cá
nuôi. Hệ số thức ăn sử dụng cá tạp dao động từ 6 – 10 kg cá tạp/1 kg cá thịt.
Thức ăn công nghiệp: Sử dụng thức ăn công nghiệp chất lượng tốt để nuôi cá Giò,
mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn cá tạp, chủ động nguồn thức ăn và giảm thiểu ô
nhiễm môi trường. Có các cỡ thức ăn phù hợp theo tăng trưởng của cá: từ 2– 16mm.
Cho cá ăn ngày 2 lần, sáng và chiều, khẩu phần cho ăn từ 1,5 – 2 % khối lượng
cá/ngày. Hệ số thức ăn dao động từ 1,5 – 1,8 cho 1 kg tăng trọng.
Bảng 3: Chế độ cho cá ăn bằng thức ăn viên
Quản lý lồng nuôi
Trong quá trình nuôi cần theo dõi tình trạng sức khoẻ và bệnh tật của cá để kịp
thời xử lý. Định kỳ vệ sinh và thay lưới lồng 2– 3 tháng/lần để đảm bảo thông
thoáng cho lồng nuôi. Cần định kỳ kiểm tra các bộ phận lồng (phao, khung, dây
neo, lưới…) khi cần thì kịp thời bảo dưỡng hoặc thay thế để giảm thiểu rủi ro do hư
hỏng lồng. Hằng tháng đo mẫu để xác định tăng trưởng của cá, qua đó xác định
được khối lượng đàn cá trong lồng để điều chỉnh lượng thức ăn cho hợp lý.
15
Thu hoạch cá
Cỡ cá thu hoạch tốt nhất từ 5– 10 kg. Trong quá trình nuôi, khi cá đạt cỡ
thương phẩm có thể thu tỉa để bán dần, nên thu hoạch và bán hết khi có đầu ra để
quay vòng chu kỳ nuôi mới.
Hình 9: Thu hoạch cá giò
2.2.3. Nuôi cá hồng mỹ trong lồng
2.2.3.1. Đặc điểm sinh học của cá hồng mỹ
Hình 10: Cá Hồng Mỹ (Sciaenops ocellatus)
Cá Hồng Mỹ (Sciaenops ocellatus) là loài cá rộng nhiệt, rộng muối, thường sống
ở biển, phân bố nhiều ở vịnh Mễ Tây Cơ và miền Duyên Hải Tây Nam nước Mỹ. Nhiệt
độ nước thích hợp nhất là 18- 25oC. Chúng thích ứng được phạm vi độ mặn rất rộng,
có thể sinh sống và phát triển bình thường ở cả nước ngọt, nước lợ và nước mặn.
Trong tự nhiên cá Hồng Mỹ là loài cá ăn tạp, chủ yếu ăn thịt, thường bắt mồi là
các loài giáp xác, đầu túc, cá con... Trong điều kiện nuôi nhân tạo, cá Hồng Mỹ ăn rất
mạnh thức ăn nhân tạo (có khi đạt tới 40% trọng lượng thân cá), khả năng tiêu hóa thức
ăn nhanh. Cá khi đã ăn no, sau thời gian nghỉ không lâu, nếu bỏ thức ăn vào cá lại có
thể tiếp tục ăn tích cực. Giai đoạn cá hương, cá ăn mồi liên tục. Nếu thức ăn không đủ
cá sẽ ăn lẫn nhau. Sau khi cá đạt 3cm trở lên thì hiện tượng ăn lẫn nhanh giảm xuống.
Tốc độ lớn rất nhanh, trong một năm cá thường đạt 500- 1000g, con lớn nhất
có thể đạt 3000g. Trong điều kiện nuôi nhân tạo ở Đài Loan, cá nuôi một năm có
thể đạt 1000g. ở vùng biển Thanh Đảo (Trung Quốc) cá nuôi trong 1 năm có thể đạt
khoảng 500g. Trong vực nước thiên nhiên đã phát hiện thấy cá lớn nhất đến 41kg.
16
Cá đực 4 năm tuổi có thể thành thục, cá cái phải trên 5 năm tuổi mới thành
thục. Khi đó có thể dùng làm cá bố mẹ cho sản xuất giống nhân tạo, với sức sinh
sản và tỷ lệ thụ tinh cao. Cá Hồng Mỹ có lượng trứng lớn, khoảng 5- 10 vạn trứng.
Nhiều con có thể đạt trên 300 vạn trứng. Cá đẻ trứng từng đợt. Trứng nổi lơ lửng
trong một khoảng thời gian nhất định, đường kính trứng từ 0,9- 1mm. ở điều kiện
nhiệt độ 23- 25oC, khoảng sau 24h thì trứng nở. Cá bột trong 5 ngày đầu sinh
trưởng nhờ noãn hoàng.
2.2.3.2. Kỹ thuật nuôi cá Hồng Mỹ trong lồng
Chọn địa điểm thả lồng: Chọn nơi để đặt lồng nuôi cá có đặc điểm sau:
- Kín gió để tránh bão, sóng, gió to ...như: Eo, vịnh, vụng kín, hồ nước mặn.
- Độ sâu tối thiểu là 5- 6 m vào lúc thuỷ triều xuống thấp nhất và đáy là sỏi cát.
- Biên độ dao động của thuỷ triều không lớn.
- Dòng chảy của thuỷ triều thấp.
- Có độ mặn dao động 18 - 350/00.
- Nguồn nước ít bị ô nhiễm do nước thải dân dụng, công nghiệp và bến cảng.
- Giao thông đi lại thuận tiện để dễ dàng vận chuyển con giống, cung cấp thức
ăn cho cá và bán sản phẩm.
- Sẽ tốt hơn nếu nơi nuôi cá có nguồn điện lưới thường xuyên.
Lồng nuôi
Lồng nuôi cá thương phẩm có kích cỡ 3x 3 x 3m hoặc 3 x 6 x 3m. Lồng làm
bằng sợi cước PE 210/9 hoặc sợi tổng hợp 380/23 với kích cỡ mắt lưới 2a= 1,55cm. Miệng lồng được buộc chặt vào khung gỗ và được giữ nổi trên mặt nước nhờ
hệ thống phao nhựa hoặc phao xốp, các góc đáy lồng được buộc đá hoặc khối
ximăng đảm bảo cho lưới được chìm đều, đáy lồng đặt cách đáy biển ít nhất là 1m
khi mức thuỷ triều thấp nhất.
Chọn và thả giống
+ Chọn những con cá giống có khối lượng từ - 10g, chiều dài thân từ 1012cm, khoẻ mạnh, không dị tật, không sây sát. Cá cần được tắm formalin trước khi
thả với nồng độ 200- 250ppm trong 30 phút để loại bỏ ký sinh trùng ngoài da.
+ Thả cá: Cá được phân nhóm theo độ dài để nhốt riêng từng lồng. Thả cá vào sáng
sớm (6- 8 giờ) hoặc chiều tối (18- 20 giờ), mật độ thả ban đầu là 20- 30con/m3 lồng.
Thời gian nuôi
Thời gian nuôi 18 tháng, tính từ lúc thả (WTb = 7,0 g, Ltb = 10cm) đến khi cá
đạt kích thước thương phẩm. Thời gian nuôi thích hợp là từ tháng 2 đến tháng 3
năm sau (tính từ lúc có con giống từ Trại sản xuất).
Thức ăn và cho ăn
17
+ Giai đoạn 2 tháng đầu: Thức ăn là thịt cá, thịt nhuyễn thể băm nhỏ, khẩu
phần ăn hàng ngày khoảng 10% khối lượng cá nuôi. Cho ăn ngày 3 lần (sáng, trưa
và tối). Sau đó giảm dần khẩu phần ăn đến 5% khối lượng cá.
+ Giai đoạn sáu tháng tuổi trở lên: Thức ăn chủ yếu là cá tạp tươi băm nhỏ
thành miếng. Tỷ lệ cho ăn hàng ngày là 5% khối lượng cá nuôi, cho ăn 2 lần vào
buổi sáng và chiều. Thức ăn được rải đều, dần dần trên mặt nước để cá kịp đớp mồi.
Tạo phản xạ bắt mồi cho cá bằng cách gõ vào khung lồng trước khi cho ăn.
+ Có thể dùng thức ăn chế biến chủ động trong việc cung cấp thức ăn cho cá
Hồng mỹ. Có thể sử dụng công thức sau:
Bảng 4: Thành phần công thức thức ăn cho cá
Thành phần
Hàm lượng(%)
Thành phần
Hàm lượng (%)
Bột cá
50
Khoáng
1
Đỗ tương
8
Vitamin tổng hợp
Bột mỳ
12
Mỡ
2
Cám
5
Kết dính
4
0,2
Quản lý chăm sóc khác
- Hàng ngày sau mỗi lần cho cá ăn phải kiểm tra nếu thấy thừa thức ăn ở đáy
lồng phải vệ sinh để tránh ô nhiễm, tránh cua cá, địch hại đến phá lồng. Nếu phát
hiện thấy lồng nuôi bị một số sinh vật biển như cua, hà, rái cá, cá nóc... gây hư hại
thì phải sửa chữa ngay hoặc thay lồng khác. Thường xuyên kiểm tra phao và dây
neo, nếu có vấn đề cần phải sửa chữa hoặc khắc phục ngay.
- Hàng tháng phải phân lọc cá cùng cỡ nhốt riêng từng lồng, tránh trường hợp
cá lớn tranh mồi của cá bé và tránh hiện tượng ăn nhau. Nếu lồng bị nhiều sinh vật
biển bám thì cần phải vệ sinh ngay đảm bảo sự thông thoáng của lưới. Nên có 1 - 2
lồng lưới dự trữ để luân phiên nhốt cá và làm vệ sinh.
- Sau mỗi 2 tháng, phải tiến hành san lồng để dãn mật độ cá nuôi đảm bảo cho
chúng sinh trưởng tốt hơn.
Thu hoạch
- Sau 16 - 18 tháng nuôi, cá đạt tới khối lượng từ 1500 - 2000 gram có thể thu
hoạch. Dự kiến năng suất đạt khoảng 7 - 10kg/m3/vụ (18 tháng) với tỷ lệ sống
khoảng 90%. Khi thu hoạch chỉ cần kéo lồng lưới lên, bắt hết cá, giao cho người
mua.
- Sau khi thu hoạch, lồng lưới được đưa lên làm vệ sinh sạch sẽ, phơi khô, bảo
quản tốt, chuẩn bị cho vụ nuôi tiếp theo.
18
2.3. Kỹ thuật nuôi thương phẩm cá biển trong ao đất
2.3.1. Nuôi cá chẽm trong ao đất
2.3.1.1. Tiêu chuẩn chọn lựa địa điểm nuôi cá chẽm
Địa điểm cần có nguồn nước tốt và đầy đủ quanh năm. Chất lượng nước nuôi
cá chẽm như sau:
Bảng 5: Các yếu tố môi trường nước cho ao nuôi cá chẽm
Thông số
Phạm vi cho phép
pH
7,5 - 8,5
Oxy hòa tan
4 - 9 mg/l
Nồng độ muối
10 - 30 ‰
Nhiệt độ
26 - 32oC
NH3
< 1 mg/l
H2S
0,3 mg/l
Độ đục
< 10 mg/l
Vùng tốt nhất cho nuôi cá chẽm nên có biên độ triều vừa phải từ 2- 3m. Đất có
thành phần sét đầy đủ để đảm bảo giữ được nước cho ao. Cần tránh những vùng bị
nhiễm phèn. Giao thông là vấn đề quan trọng cần xem xét trong việc chọn địa điểm
nuôi. Ngoài ra, một số yếu tố khác như khả năng về lao động, trợ giúp kỹ thuật, khả
năng về thị trường và điều kiện xã hội thích hợp cũng cần được xem xét khi chọn
lựa vị trí.
2.3.1.2. Thiết kế và xây dựng ao
Ao nuôi cá Chẽm thường có hình chữ nhật với kích cỡ 2.000 m2 đến 2ha, sâu
từ 1,2-1,5 m. Mỗi ao cần có cống cấp và tiêu nước riêng để thuận tiện cho việc thay
đổi nước. Đáy ao bằng phẳng và dốc về cống thoát nước
Chuẩn bị ao nuôi thịt bao gồm các bước những chuẩn bị hệ thống nuôi thông
thường. Trong nuôi đơn sau khi bón vôi trung hòa môi trường thì tiến hành lấy nước
đầy ao và thả cá nuôi ngay.
Đối với nuôi ghép, sau khi bón vôi trung hòa môi trường thì bón phân hữu cơ
(phân gà) với lượng 1 tấn/ha. Tiếp đó, tăng mức nước dần lên để thức ăn tự nhiên
phát triển. Khi thức ăn tự nhiên phát triển nhiều thì thả cá rô phi bố mẹ vào với mật
độ 5.000-10.000 con/ha. Tỷ lệ đực:cái là 1:3. Cá rô phi nuôi trong ao từ 1-2 tháng
hoặc đến khi cá con xuất hiện nhiều thì thả cá chẽm giống vào ao nuôi.
Cá chẽm giống nuôi với kích cỡ 8-10 cm thả vào ao nuôi thịt với mật độ
10.000-20.000 con/ha trong ao nuôi đơn và 3.000-5.000 con/ha cho ao nuôi ghép.
19
Trước khi thả cá giống phải thuần hóa chúng dần với nồng độ muối và điều kiện
ao nuôi. Cá thả nuôi tốt nhất nên có kích thước đồng đều và thả cá vào lúc trời mát.
2.3.1.3. Quản lý ao, chăm sóc và cho ăn
Do phải duy trì thức ăn tự nhiên trong ao nên cần hạn chế sự thay đổi nước
cho ao nuôi theo dạng kết hợp. Định kỳ 3 ngày thay một lần với lượng khoảng 50%.
Tuy nhiên trong ao nuôi đơn do có cung cấp thức ăn hàng ngày, thức ăn dư thừa sẽ
gây cho nước nhiễm bẩn, vì vậy cần phải cung cấp nước thêm hàng ngày.
Trong ao nuôi ghép không cần phải bổ sung thức ăn, nhưng ao nuôi đơn thì
phải cho ăn hàng ngày.
Phương pháp cho ăn trong ao nuôi cũng giống như trong nuôi lồng.
2.3.2. Nuôi cá mú trong ao
2.3.2.1. Đặc điểm sinh học của cá mú
Cá mú nằm trong họ phụ Epinephelinae có 159 loài thuộc 15 giống, phân bố ở
vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới nơi có rạn san hô, đá ngầm, ở vùng biển nước ấm.
Mùa hè sống ở vên bờ, mùa đông di cư ra vùng xa bờ. Chúng có tập tính dinh
dưỡng ăn thịt, thức ăn gồm cá con, mực, giáp xác, thường ăn thịt lẫn nhau ở giai
đoạn cá con. Ở Việt Nam, chúng phân bố từ vịnh Bắc Bộ đến vịnh Thái Lan, tập
trung nhiều ở ven biển miền Trung.
Hình 11: Một số loài cá mú nuôi chủ yếu
Tuổi thành thục lần đầu của cá mú lúc 3 tuổi. Trọng lượng thành thục lần đầu
thay đổi tùy theo, kích thước nhỏ nhất là cá mú chuột (1kg), lớn nhất là cá mú nghệ
(50- 60kg). Mùa vụ sinh sản thay đổi theo từng loài và vùng địa lý, ở Đài Loan mùa
20
sinh sản từ tháng 3 đến tháng 10, ở Trung Quốc từ tháng 4 đến tháng 10, ở
Philippine và các tỉnh Nam Bộ cá có thể đẻ quanh năm.
Cá mú là loài cá tập tính chuyển giới tính, thông thường lúc còn nhỏ là cá cái
khi lớn chuyển thành cá đực. Thời điểm chuyển giới tính thay đổi theo từng loài,
loài cá mú đỏ (E. akaara) chuyển giới tính lúc có chiều dài 27- 30cm, với trọng
lượng 0,7-1kg, loài cá mú ruồi (E. tauvina) lúc có chiều dài 65- 75cm, loài cá mú
chuột lúc có trọng lượng trên 3kg.
Hệ số thành thục và sức sinh sản khác nhau ở các loài: ở cá mú đen chấm đen
có hệ số thành thục cao nhất vào tháng 1 (5,2± 2,7%) và thấp nhất vào tháng 3. Sức
sinh sản cao nhất vào tháng 12 là 3,18 ± 0,61 x 106 và thấp nhất vào tháng 8 là 0,13
x 106 trứng. Sức sinh sản của cá mú đỏ (E. akaara): 150.000 - 500.000 trứng, cá mú
đen chấm nâu: 600.000 -1.900.000 trứng/kg.
Tốc độ tăng trưởng khác nhau giữa các loài: tốc độ tăng trưởng của một vài
loài cá mú nuôi ở nước ta sau 1 năm: cá mú son (Cephalopholis miniata) là 0,30,4kg, cá mú đen chấm đen: 0,8kg, cá mú đen chấm nâu 0,8kg, cá mú ruồi: 1-1,2kg,
cá mú nghệ: 3-4kg.
2.3.2.2. Kỹ thuật nuôi cá mú trong ao
Chọn vị trí và thiết kế, chuẩn bị ao
Vị trí ao nuôi cần đảm bảo được nguồn nước tốt và đầy đủ. Nơi có biên độ
triều 2-3 m để dễ dàng thay nước. Nước có độ mặn 20- 32 ‰. Ngoài ra cũng cần có
nguồn nước ngọt tốt để sử dụng khi cần thiết như xử lý cá giống và cá bệnh, ổn định
độ mặn ao nuôi… Ao có chất đất là sét hay sét pha cát. Ao nuôi tiện lợi giao thông
và an ninh tốt. Cần tránh nơi sóng gió mạnh, hay nơi dễ xói lở. Tránh nơi ô nhiễm
nước thải nông nghiệp hay công nghiệp.
Ao nuôi có qui cách khác nhau tùy theo nuôi quảng canh hay bán thâm canh và
thâm canh. Ao nuôi quảng canh cải tiến tương tự như ao nuôi tôm quảng canh cải tiến và
ao nuôi cá bán thâm canh hay thâm canh cũng tương tư như ao nuôi tôm thâm canh.
Nhìn chung, ao nuôi cá bán thâm canh và thâm canh có kích cỡ 100 m2 đến 1
ha. Tốt nhất nên từ 0,1-0,5 ha, sâu 1-2m, có bờ đất hay kè bê tông. Ngoài ra, cần có
ao chứa nước để chủ động xử lý và cấp cho ao nuôi.
Cần chuẩn bị ao kỹ trước khi nuôi. Các công tác bao gồm tháo cạn nước ao,
phơi ao, sên vét ao, diệt tạp, bón vôi và bón phân gây màu. Dịêt cá tạp bằng dây
thuốc cá với lượng 2- 4kg/1000m2. Bón vôi CaCO3 với lượng 1- 2 tấn/ha hay vôi
CaO với lượng 200- 300kg/ha. Sau khi cho nước vào 30- 40cm thông qua lưới lọc
mịn, cần bón phân gây màu bằng phân gà 1- 2tấn/ha hay phân vô cơ (DAP, NPK)
với lượng 20- 50kg/ha. Sau 5- 7 ngày, nước sẽ có màu xanh thì tiến hành thả giống.
21
Thả giống và chăm sóc
Có thể nuôi cá kết hợp với cá rô phi hay nuôi cá mú đơn trong ao bán thâm
canh và thâm canh.
Nếu nuôi kết hợp với rô phi, sau khi gây màu nước, thả cá rô phi bố mẹ với
mật độ 5.000- 10.000con/ha. Sau 1 tháng, cá rô phi con xuất hiện thì thả cá mú
giống. Cá mú giống 6cm được thả với mật độ cá mú là 5.000- 10.000con/ha.
Trường hợp nuôi cá bán thâm canh và thâm canh, mật độ thả là 2- 7con/m 2 tùy kích
cỡ giống và điều kiện chăm sóc.
Cho ăn
Khi nuôi cá mú ghép với rô phi, mật độ cá rô phi phong phú thì cho cá
mú ăn bằng cá tạp băm nhỏ với tỷ lệ 5% trọng lượng thân. Nếu nuôi đơn,
cho cá ăn bằng cá tạp với tỷ lệ 10% trọng lượng thân hay bằng thức ăn nhân
tạo với tỷ lệ 3 % trọng lượng thân. Cho ăn 2 lần mỗi ngày. Khi cá đạt 200 g,
giảm lượng cá tạp xuống còn 5% hay thức ăn nhân tạo xuống còn 2 % trọng
lượng thân và cho ăn 1 lần mỗi ngày.
Cần thay nước cho ao 2 tuần một lần với tỷ lệ thay 20- 50 %. Duy trì
mức nước ao trên 1,2 m. Ao tốt nên có màu nước xanh, pH 7,5- 8,3; nhiệt độ
25- 32 o C; độ mặn 20- 32‰; Oxy hoà tan 4- 8ppm; Nitrite < 0,05ppm; và
NH3 dưới 0,02ppm.
Thu hoạch
Trong quá trình thu hoạch nên có bể giữ cá với hệ thống sục khí mạnh.
Khi kéo cá lên đưa vào bể để cho cá khoẻ và quen môi trường chật hẹp nhằm
giảm tỷ lệ hao hụt khi vận chuyển. Cũng có thể sử dụng đá lạnh để thả vào
bể giữ cá để hạn chế hoạt động của cá nhằm tránh sây sát nâng cao giá trị cá
thương phẩm.
2.3.3. Nuôi cá măng trong ao
2.3.3.1. Đặc điểm sinh học cá măng
Đặc điểm phân loại
Cá măng còn gọi là cá măng sữa, tên tiếng Anh là Milkfish, thuộc vị trí phân
loại như sau:
Bộ: Gonorhynchiformes
Họ: Chanidae
Giống: Chanos
Loài:
Chanos chanos
22
Hình 12: Cá măng (Chanos chanos)
Đặc điểm hình thái
Cá măng có thân dài và dẹp bên, đầu to, vừa, mõm tù và tròn, màng mỡ mắt
dày, che kính mắt. Lổ mũi cách xa nhau, miệng nhỏ ở phía trước, không có răng,
không có râu. Cá có vảy tròn, khó rụng, gốc vi lưng và vi hậu môn có vảy bẹ, gốc vi
ngực và vi bụng có vảy nách, gốc vây đuôi có 2 vẩy đuôi dài, vảy đường bên phát
triển. Lưng có màu xanh lục, lường và bụng có màu trắng, mép vây lưng vây hậu
môn và vây đuôi đều có viềng đen, vây ngực và vây bụng đen ở gốc.
Đặc điểm phân bố
Cá măng là loài cá rộng nhiệt, phân bố khắp vùng biển nhiệt đới, và á nhiệt
đới, từ Ấn Độ Dương đến Thái Bình Dương.
Ở nước ta, cá phân bố ở phía đông vịnh bắc bộ và vùng biển trung bộ. Cá lớn
nhanh ở nhiệt độ 28- 30oC, nhiệt độ dưới 15oCcá phải trú đông.
Cá măng rất rộng muối, cá trưởng thành và sống ngoài khơi, ấu trùng sau khi
nở sẽ di chuyển vào bờ và lớn lên ở vùng đầm, cửa sông nước lợ hay có thể vào sâu
trong sông hồ nước ngọt, cá có thể chịu được độ mặn đến 158‰, tuy nhiên trên
45‰ cá sẽ chậm lớn, độ mặn tốt nhất cho sự tăng trưởng là 27- 28‰.
Đặc điểm dinh dưỡng và sinh trưởng
Trong tự nhiên, cá măng chủ yếu là ăn phiêu sinh thực vật. Tuy nhiên, cá con
rất ít ăn phiêu sinh thực vật, phần lớn là mùn bã hữu cơ và các chất vẩn trong nước
hay đáy thủy vực. Cá có tập tính ăn ban ngày và cao điểm vào lúc 7 giờ và 13 giờ.
Cá bắt đầu ăn bên ngoài từ ngày thứ 3 sau khi nở, khi đã hết noãn hoàn và giai
đoạn 4-7 ngày tuổi là giai đoạn nguy kịch cho ấu trùng.
Sau 3 tuần tuổi, cá măng ăn các loại lab-lab bao gồm các loại tảo lam, tảo lục,
tảo khuê, giáp xác, ấu trùng côn trùng, giun đất và các chất vẩn. Trong điều kiện
nuôi cá măng, cá cũng có thể thích nghi và sử dụng tốt các thức ăn nhân tạo.
Đặc điểm sinh sản
23
Tùy từng điều kiện tự nhiên khác nhau, tuổi thành thục của cá măng cũng
khác nhau. Cá cái thường thành thục ở 5- 6 năm tuổi, cá đực ở 4 năm tuổi. Kích cỡ
cá đực khi thành thục dài khoảng 0,9m, cá cái khoảng 1 m, trọng lượng 2- 3kg.
Mùa vụ sinh sản bắt đầu từ khoảng tháng 4- 5. Mùa vụ sinh sản có thể kéo dài
và có thể đẻ nhiều lần trong năm. Đến mùa sinh sản, cá di cư ra biển để bắt cặp và
đẻ trứng. Bãi đẻ của cá là những rạn san hô, có độ sâu 20- 40m, xa bờ 20 hải lý.
Sức sinh sản của cá rất lớn. Cá cái 1m có thể đẻ 3- 4 triệu trứng. Trứng cá
măng thuộc dạng bán trôi nổi do không có giọt dầu. Kích thước trứng khoảng 1,2
mm. Sau khi đẻ khoảng 24 giờ, trứng bắt đầu nở. Ấu trùng có chiều dài 4-4,5 mm
với hạt noãn hoàng to. Trong 3 ngày đầu, ấu trùng dinh dưỡng bằng noãn hoàng,
sau đó, chuyển sang dinh dưỡng ngoài.
2.3.3.2. Kỹ thuật nuôi cá măng trong ao
2.3.3.2.1. Nuôi cá măng trong ao quảng canh cải tiến
Chuẩn bị ao
Ao nuôi cá măng có thể rộng 3- 8 ha và có hình chữ nhật. Ao có đáy bằng
phẳng, và hơi dốc về một đầu có cống thoát nước. Ao nuôi cá măng cần độ sâu rất
cạn, chỉ khoảng 0,45- 0,5 m. Xung quanh ao có mương rộng 2- 5m, sâu 0,75 m như
khu ương cá con.
Trước khi nuôi, chuẩn bị ao thật kỹ là khâu rất quan trọng quyết định đến tỷ lệ
sống và năng suất. Trong việc chuẩn bị ao, vấn đề quan trọng là phải tạo được lớp
lab-lab, lumut và phiêu sinh vật cho cá. Các bước như sau:
Tạo lab-lab:
1) Rải phân chuồng khắp đáy ao, đầm với liều lượng 500-2.000 kg/ha tùy ao
đầm cũ hay mới.
2) Cho nước vào 5 cm, sau đó phơi khô đáy ao.
3) Cho nước vào tiếp 7,5-10 cm.
4) Bón phân 16-20-0 với lượng 100kg/ha hay 18-46-0 với lượng 50 kg/ha.
5) Mỗi ngày thêm 5 cm nước, sau đó làm đầy đến 40- 50cm.
6) Thả giống
7) Để duy trì sự phát triển liên tục của lab-lab trong ao đầm, sau mỗi 7-10
ngày, bón 15kg phân (16-20-0)/ha. Trước khi thu hoạch 20 ngày nên ngừng bón
phân. Đáy ao cứng và nước mặn 25-32 ‰ là điều kiện tốt để tạo lab-lab.
Tạo phiêu sinh vật:
Phương pháp gây màu nước tạo phiêu sinh vật không giống như phương pháp
tạo lab-lab do yêu cầu mức nước sâu hơn và thường vào mùa mưa trong khi tạo lablab vào mùa nắng. Các bước như sau:
24
1) Tháo cạn nước, sau đó làm đầy trong vòng 24 giờ
2) Thêm nước đến độ sâu 60 cm
3) Bón phân vô cơ với lượng 22 kg (NPK 18-46-0)/ha; 50 kg (16-20-0)/ha;
hay 25 kg (16-20-0) cùng với 25 kg (0-20-0)/ha.
4) Sau khi bón phân 1 tuần thì thả giống
5) Mỗi tuần bón với liều lượng trên để duy trì độ trong 20-30 cm. Ngừng bón
phân 2 tuần trước khi thu hoạch.
Mật độ thả: Cá măng giống có kích cỡ 5-150 g được thả nuôi với mật độ
3.500 - 4.500 con/ha.
Chăm sóc, quản lý
Trong quá trình nuôi cá, để tránh tảo và lab-lab bị tàn, cần cho ăn bổ sung.
Thức ăn bao gồm cám hay bột đậu nành cho ăn với lượng 20- 50kg/ha/ngày. Thỉnh
thoảng cần bổ sung phân hữu cơ.
Độ mặn tốt nhất cho nuôi cá thịt là 10‰. Cần thay nước 2 tuần một lần để duy
trì chất lượng nước tốt. Mức nước nên duy trì không vượt quá 50 cm. Cần tránh tảo
sợi phát triển quá mức trong ao. Mật độ cá thích hợp sẽ giúp kiểm soát mật độ tảo.
Thu hoạch
Cá có kích cỡ thương mại từ 200-500 g. Việc nuôi cá có thể theo hình thức
đánh tỉa thả bù. Năng suất cá đạt trung bình 2.000 kg/ha/năm.
2.3.3.2.2. Nuôi cá trong ao thâm canh
Ao nuôi cá thâm canh có kích cỡ 0,5-2ha, sâu 2m. Nước ao có độ mặn 15 ‰
và nhiệt độ 25oC. Cá có kích cỡ 60-70g được thả nuôi với mật độ trong bình 20.00030.000 con/ha. Hình thức nuôi này dựa hoàn toàn vào thức ăn nhân tạo bổ sung với
tỷ lệ trung bình 2-4% trọng lượng thân. Thức ăn cho cá có hàm lượng đạm 23-27%
và hệ số chuyển hoá thức ăn khoảng 1,2-1,8. Sau thời gian nuôi 8 tháng, cá đạt
trọng lượng thì thu hoạch. Năng suất có thể đạt 12 tấn/ha.
2.3.4. Nuôi cá đối trong ao đất
2.3.4.1. Đặc điểm sinh học
Đặc điểm hình thái – phân loại
Hiện nay, trên thế giới có nhiều loài cá đối được định danh, loài được chú
trọng nhất là Cá đối mục (Mugil cephalus). Ở ĐBSCL, loài cá đối phổ biến là Liza
subviridis.
Cá đối mục có thân hình ống tròn, cân đối, phần trước bằng, dẹt, phần sau dẹp
dần về phía hai bên. Đầu ngắn, bằng, dẹt. Lưng rộng và hợi lồi. Cá có mõm rộng và
ngắn, mắt cá lớn và bên ngoài có một lớp màng mỡ dày che. Miệng nhỏ, viền của
25