LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân
thành và sâu sắc tới Th.S Ninh Thị Hạnh – Khoa Lịch sử - Trường Đại học Sư
Phạm Hà Nội 2. Cô đã tận tình hướng dẫn và có những lời nhận xét quý báu trong
suốt quá trình tôi thực hiện khóa luận này.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn tới toàn thể các thầy cô giáo và cán bộ nhân
viên khoa Lịch sử - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. Các thầy cô đã nhiệt tình
truyền đạt những kiến thức, những kinh nghiệm của mình, cũng như thầy cô đã tạo
điều kiện thuận lợi để chúng tôi hoàn thành khóa học tại trường.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, tiếp thêm nghị lực
cho tôi hoàn thành khóa học cũng như khóa luận này.
Mặc dù hết sức cố gắng song khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu
sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô và các bạn để khóa luận
của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2013
Sinh viên
Đỗ Thị Thanh Mai
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Công
trình được thực hiện dưới sự hướng dẫn của Th.S Ninh Thị Hạnh, giảng viên khoa
Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
Các tài liệu, số liệu sử dụng trong khóa luận là trung thực, đảm bảo tính
khách quan, khoa học và có nguồn gốc rõ ràng.
Hà Nội, tháng 5 năm 2013
Sinh viên
Đỗ Thị Thanh Mai
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu......................................................... 4
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu........................................................... 4
5. Đóng góp của khóa luận ...................................................................................... 5
6. Bố cục khóa luận ................................................................................................. 5
NỘI DUNG ............................................................................................................ 7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN THI ĐÌNH
THỜI TỰ ĐỨC...................................................................................................... 7
1.1. Khái quát về thi Đình trong lịch sử................................................................ 7
1.1.1. Thi Đình dưới thời Lý, Trần, Hồ .................................................................... 8
1.1.2. Thi Đình dưới thời Lê Sơ ............................................................................... 9
1.1.3. Thi Đình dưới thời Mạc, Lê – Trịnh ............................................................. 13
1.2. Bối cảnh lịch sử dưới triều vua Tự Đức....................................................... 22
1.2.1. Tình hình chính trị ....................................................................................... 22
1.2.2. Tình hình kinh tế.......................................................................................... 24
1.2.3. Tình hình văn hóa – xã hội........................................................................... 27
CHƯƠNG 2: THI ĐÌNH DƯỚI TRIỀU VUA TỰ ĐỨC ................................... 30
2.1. Quy định chung trong thi Đình dưới triều vua Tự Đức.............................. 30
2.1.1. Thời gian thi ................................................................................................ 30
2.1.2. Địa điểm thi ................................................................................................. 31
2.1.3. Đối tượng thi Đình ....................................................................................... 32
2.1.4 .Các quan trách phụ trách thi Đình ................................................................ 34
2.1.5. Phép thi........................................................................................................ 35
2.1.6. Cách chấm thi .............................................................................................. 36
2.1.7. Ân điển với người thi đỗ kì thi Đình ............................................................ 37
2.2. Nội dung các kì thi Đình dưới triều vua Tự Đức (1848 - 1883) .................. 38
2.2.1. Nội dung đề thi Đình thời Tự Đức ............................................................... 38
2.2.2. Nội dung bài thi Đình dưới thời Tự Đức ...................................................... 51
2.3. Đánh giá nội dung các kì thi Đình dưới thời Tự Đức (1848 -1883) và
bài học kinh nghiệm .......................................................................................... 72
2.3.1. Tích cực ....................................................................................................... 74
2.3.1.1. Về đề thi ................................................................................................... 74
2.3.1.2. Về nội dung trả lời của sĩ tử ...................................................................... 75
2.3.2. Hạn chế........................................................................................................ 76
2.3.3. Bài học kinh nghiệm .................................................................................... 79
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 88
PHỤ LỤC ............................................................................................................. 91
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thi cử là một khâu trọng yếu trong quá trình giáo dục, đóng vai trò quan
trọng trong sự phát triển của đất nước. Mỗi quốc gia có một chế độ thi cử phục vụ
cho lợi ích, kinh tế, chính trị, xã hội của mình.
Trong lịch sử phong kiến nước ta, chế độ khoa cử đã đóng vai trò quan trọng
trong việc tuyển chọn nhân tài, đúng như Phan Huy Chú nhận xét: “Con đường tìm
người tài giỏi trước hết là khoa mục. Phàm thu hút người tài năng tuấn kiệt vào trong
phạm vi của mình thì người làm vua một nước không thể nào không có khoa cử”.
Vua Lê Hiến Tông cũng đã viết: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí
mạnh thì trị đạo mới thịnh. Khoa mục là đường thẳng của quan trường, đường thẳng
có mở thì chân nho mới có” [3, tr.139]. Trong hệ thống khoa cử thời kỳ này, có ba
cấp thi: thi Hương, thi Hội, thi Đình. Trong đó, thi Đình là kì thi cuối cùng trong khoa
thi Tiến sĩ. Đó là kì thi rất quan trọng, có vai trò nâng cao vị thế của nhà vua trong xã
hội phong kiến. Vì vậy, kì thi này luôn được nhà nước chú trọng, quan tâm và đặc
biệt qua kì thi Đình chúng ta sẽ có cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về thi cử.
Sang đến thời Nguyễn các vua chúa cũng rất coi trọng khoa cử. Ngay khi lên
ngôi vua Gia Long ra lời chỉ dụ cho các đình thần : “Học hiệu là nơi chứa nhân tài,
tất phải giáo dục có căn bản thì mới có thể thành tài. Trẫm muốn bắt chước người
xưa, đặt nhà học, nuôi học trò, ngõ hầu văn phong dấy lên, hiền tài đều nổi để cho
nhà nước dùng”[10, tr.135] . Vua Minh Mạng thì rất khao khát tìm người hiền tài.
Bản thân vua đã từng nói: “khát nhân tài như khát nước” và “ luôn để chống chỗ
bên cạnh mình để mong tìm được người tài ” [30, tr.19].
Thời Tự Đức (1848-1883), đất nước có nhiều biến động mạnh mẽ trên tất cả
các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội… Dưới tác động của các yếu tố này, nội dung
các kỳ thi Đình thời Tự Đức có nhiều nét mới, nhiều thay đổi so với các triều đại
trước. Vì vậy khi nghiên cứu chế độ khoa cử thời Tự Đức chẳng những giúp ta hiểu
một cách đầy đủ, sâu sắc, về chế độ khoa cử thời kì ấy mà còn giúp chúng ta hiểu
1
sâu sắc, toàn diện về một giai đoạn lịch sử nước ta nửa sau thế kỉ XIX. Bên cạnh đó
nghiên cứu thi Đình mong muốn rút ra những kinh nghiệm phục vụ đổi mới giáo
dục ở nước ta hiện nay.
Do đó chúng tôi quyết định chọn vần đề “Thi Đình dưới thời Tự Đức(1848 –
1883)” làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Khoa cử nói chung, thi Đình nói riêng là những nội dung quan trọng trong
lĩnh vực giáo dục. Do đó, vấn đề thi Đình đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
Có thể kể đến một số công trình như sau.
Thứ nhất sách chuyên khảo về khoa cử:
Tác giả Phạm Đức Thành Dũng trong cuốn “Khoa cử và các khoa bảng triều
Nguyễn” (2000) đã đề cập những nét khái quát về kì thi Đình dưới thời Tự Đức như:
Địa điểm thi, thời gian thi, đối tượng tham gia dự thi, cách chấm thi.
Tác giả Nguyễn Quang Thắng trong cuốn“Khoa cử và giáo dục Việt Nam”
(1945) đã viết một cách khái quát về giáo dục và thi cử thời phong kiến từ thời
Lý,Trần, Lê Trung Hưng, Nguyễn, Pháp thuộc.
Tác giả Nguyễn Tiến Cường trong cuốn“Sự phát triển giáo dục và chế độ thi
cử ở Việt Nam thời phong kiến” (1958) đã đề cập đến đối tượng dự thi, quan coi thi,
cách chấm thi, học vị tiến sĩ, ân điển của nhà vua qua các kì thi Hương, Hội, Đình.
Tuy nhiên, thi Đình không phải là trọng tâm của cuốn sách. Tác giả tìm hiểu về thi
Đình mang tính chất chung chung cho cả thời kì phong kiến chứ không riêng cho
một giai đoạn nào.
Tác giả Trần Hồng Đức trong cuốn“Các vị trạng nguyên, bảng nhãn, thám
hoa qua các triều đại phong kiến Việt Nam”(1999) đã đi sâu khảo cứu một cách có
hệ thống và tương đối toàn diện về các khoa bảng Việt Nam.
Đặc biệt là tập tài liệu “Văn sách thi Đình triều Nguyễn” gồm 3 tập. Tổ tư
liệu trường Đại học Sư phạm Hà Nội I. Văn sách thi Đình triều Nguyễn đã đề cập
cụ thể việc ra đề thi, cách làm bài thi trong các kì thi đình dưới thời Tự Đức.
2
Thứ hai bài viết trên tạp chí nghiên cứu về giáo dục:
Tác giả Phạm Thị Kim Anh có bài viết “Những luật lệ thi cử thời xưa dành
cho thí sinh”. Tạp chí Dạy và học ngày nay số 5 năm ( 2008). Bài viết đã nêu lên
luật lệ thi cử dưới thời phong kiến rất nghiêm ngặt.
Tác giả Thái Hoàng - Bùi Quí Lộ có bài viết “Thanh tra, giám sát và khảo
sát quan lại thời phong kiến ở nước ta”. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 6 năm
(1995). Trong bài viết tác giả đã đề cập về việc coi thi dưới thời phong kiến.
Tác giả Trần Thị Kim Anh có bài viết “Sách văn và kinh nghĩa trong khoa
trường Nho giáo ở nước ta”. Tạp chí Hán nôm số 2(93) năm 2009. Bài viết cung
cấp cho bạn đọc đôi điều về văn sách và kinh nghĩa trong khoa trường thời xưa ở
nước ta.
Tác giả Nguyễn Đăng Tiến có bài viết. “ Tìm hiểu về nội dung giáo dục và
giảng dạy trong nhà trường phong kiến Việt Nam”. Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số
11 năm 1995. Bài viết đề cập đến mục tiêu giáo dục của các triều đại phong kiến Việt
Nam lấy tư tưởng Nho giáo làm nộí dung giáo dục và giảng dạy trong nhà trường.
Thứ ba các bộ thông sử:
“Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú ghi chép đầy đủ và chi
tiết về thi Đình thế kỉ XVII - XVIII như: thời gian thi, địa điểm thi, nghi thức thi, họ
tên, quê quán và số người trong mỗi khoa thi.
“Đại Nam thực lục chính biên” do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn ghi
chép về lệ thưởng phạt cho các kì thi, ân điển của nhà vua đối với người thi đỗ, ra
điều lệ cho các kì thi.
“Đại Việt Sử Kí Toàn Thư” do Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê biên
soạn, là tài liệu biên niên các sự kiện lịch sử của nước ta ghi chép về thời gian thi,
địa điểm thi…
Thứ tư luận văn, khóa luận tốt nghiệp
Luận văn “Các kì thi Đình thế kỉ XVII - XVIII” của tác giả Lê Thị Thu Hiền,
trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn. Trong luận văn, tác giả đã đề cập đến
thi Đình dưới thời Lý, Trần, Hồ, Lê Sơ bao gồm có thời gian thi, địa điểm thi, phép
thi, nội dung thi, ân điển của nhà vua đối với người thi đỗ.
3
Khoa luận “Giáo dục và khoa cử thời Tự Đức (1884-1883)” của tác giả Đào
Thị Trang, trường Đại học Giáo Dục, (2009). Tác giả đã trình bày khá rõ về giáo
dục và khoa cử thời Tự Đức.
Vì nhiều lý do khác nhau, mà các tác giả chưa tập trung nghiên cứu một cách
hệ thống và toàn diện về nội dung thi Đình. Nhưng các tư liệu trên là nguồn tài liệu
quý giá, giúp chúng tôi hoàn thành tốt khóa luận.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu nội dung thi Đình trong cái nhìn đối sánh với các thời
kì trước, chúng tôi tập trung nghiên cứu các kì thi Đình dưới thời Tự Đức: từ thời
gian thi, địa điểm thi… cho đến cách ra đề thi, cách chấm thi, nội dung bài làm để
thấy được sự đổi mới trong cách ra đề thi, cách làm bài thi.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu nêu trên, khóa luận cần thực hiện
những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Tìm hiểu khái quát nội dung của các kì thi Đình trong lịch sử.
- Bối cảnh lịch sử về chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục thời Tự Đức.
- Các kì thi Đình và nội dung của thi Đình dưới thời Tự Đức.
- Nhận xét, đánh giá và rút ra bài học kinh nghiệm trong việc đổi mới giáo
dục nước ta hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này tập trung nghiên cứu các nội dung: thời gian thi, địa điểm thi, đối
tượng dự thi, các quan chức phụ trách thi Đình, phép thi, cách chấm thi, cách ra đề
thi, cách làm bài thi, ân điển của nhà vua đối với những người đỗ đạt, nội dung đề
thi, nội dung bài thi. Qua đó giúp ta rút ra được những mặt tích cực, hạn chế của thi
Đình dưới thời Tự Đức.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Luận văn được thực hiện dựa trên các nguồn tư liệu chính sau:
4
- Các công trình nghiên cứu, các loại sách chuyên khảo như: khoa cử và
khoa bảng triều Nguyễn; văn sách thi Đình triều Nguyễn; sự phát triển giáo dục và
chế độ thi cử ở Việt Nam thời phong kiến; khoa cử và giáo dục Việt Nam.
- Tư liệu trong các bộ thông sử: Lịch triều hiến chương loại chí, Đại Nam
thực lục, Khâm điển hội sự lệ.
- Nhiều ấn phẩm của các nhà nghiên cứu như: sách, báo, tạp chí, các luận án
Tiến sĩ, Thạc sĩ về vấn đề có liên quan đến nội dung đề tài nghiên cứu.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Để nghiên cứu đề tài này chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử và phương
pháp lôgic để phán ánh bản thân sự kiện lịch sử cần nghiên cứu và nhận thức sự
kiện ấy.
- Phương pháp thống kê toán học: Xử lý, thống kê, phân tích số liệu thu được
trong quá trình thống kê sự kiện qua các bộ thông sử.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu để tổng hợp và đánh giá sự kiện.
5. Đóng góp của khóa luận
Thực hiện tốt những nghiệm vụ đề ra khóa luận góp phần:
- Khái quát nội dung thi Đình trước thời Tự Đức.
- Tập trung làm rõ thi Đình dưới thời Tự Đức bao gồm các vấn đề: thời gian
thi, địa điểm thi, đối tượng dự thi, các quan chức phụ trách thi Đình, phép thi, cách
chấm thi, cách ra đề thi, cách làm bài thi, ân điển của nhà vua đối với những người
đỗ đạt, nội dung đề thi, nội dung bài thi.
- Đánh giá tích cực, hạn chế của thi Đình dưới thời Tự Đức. Từ đó rút ra bài
học kinh nghiệm cho các kì thi ở thời kì sau.
Với những đóng góp nêu trên, chúng tôi mong muốn khóa luận sẽ trở thành
nguồn tài liệu tham khảo phục vụ việc học tập và giảng dạy về lịch sử giáo dục nói
riêng, phần lịch sử Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX nói chung.
6. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung khóa luận
gồm 2 chương:
5
Chương 1: Cơ sở hình thành và phát triển thi Đình thời Tự Đức
Chương 2: Thi Đình dưới triều vua Tự Đức
6
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN THI ĐÌNH THỜI TỰ ĐỨC
1.1. KHÁI QUÁT VỀ THI ĐÌNH TRONG LỊCH SỬ
Thi Đình là một khái niệm thuộc phạm trù khoa cử. Khoa cử về ngữ nghĩa
bao gồm nghĩa của hai từ khoa và cử: “khoa” nghĩa là phân chia ra nhiều loại khoa
khác nhau: “cử” là tuyển cử. Như vậy, khoa cử nghĩa là phân khoa tuyển chọn sỹ tử
(nhân tài) làm quan bằng cách thi – khảo thí. Toàn bộ thể chế của khoa cử như hệ
thống khoa thi, cách tổ chức thi, hệ thống bài thi, xếp hạng người đỗ... đều là chế độ
khoa cử [35, tr.13]. Chế độ khoa cử ra đời và thành định chế ở Trung Quốc, kéo dài
trên 10 thế kỷ. Việc thi tuyển khoa cử đã được bắt đầu từ đời Tùy. Tuy nhiên,
không phải khi chế độ khoa cử ra đời, thi Đình đã xuất hiện. Sự xuất hiện của thi
Đình chỉ được đánh dấu ở thời nhà Tống.
Năm Khai Bảo thứ 6 đời Tống, Tri cống cử Hàn lâm viện học sĩ Lý Phưởng
(là chủ khảo khoa thi Tiến sỹ năm đó) lấy Tiến sỹ Vũ Tế Xuyên là người đồng
hương với ông, học lực kém, đối đáp không thông, bị Hoàng đế truất bỏ và nghi
ngờ việc trọn đỗ này. Một số sĩ tử bị đánh hỏng lại dâng sớ tố cáo Lý Phưởng
“dùng tình để lấy bỏ”, đề nghị Hoàng đế tổ chức Phúc thí tại cung điện nhà vua.
Tiếp nhận kiến nghị này, Hoàng đế cho tổ chức Phúc thí ở điện Giảng Võ, vua thân
hành ra đề thi và trực tiếp chủ trì kì thi này. Cũng từ đó, Điện thí thở thành kỳ thi
cao cấp của khoa cử. Mục tiêu của Điện thí xuất phát từ việc chống tệ thiên vị và
xác định vai trò quyết định của Hoàng đế trong khoa cử.
Tiếp nhận ảnh hưởng của chế độ khoa cử Trung Quốc, các triều đại phong
kiến nước ta cũng tiếp nhận luôn cách thức tổ chức thi Đình. Để hiểu rõ hơn vấn đề
này, chúng tôi sẽ đi vào trình bày các nội dung có liên quan đến thi Đình trong các
triều đại phong kiến trước thời Tự Đức.
Thi Đình ở Việt Nam đã có một lịch sử lâu đời. Khoa thi Đình đầu tiên xuất
hiện dưới thời Lý, và vào cuối đời Trần, nó trở thành cấp thi cao nhất trong hệ
thống khoa cử Việt Nam. Đến thời Lê sơ, với sự củng cố và phát triển mạnh mẽ của
7
chế độ phong kiến trung ương tập quyền, những nội dung liên quan đến thi Đình đã
dần hoàn thiện, trở thành chuẩn mực cho các thời sau. Bước sang thời Lê – Trịnh,
mặc dù có một số thay đổi, số người đỗ ít đi... nhưng thi Đình vẫn được tổ chức một
cách đều đặn, là phương tiện quan trọng để tuyển chọn quan lại cho chính quyền
phong kiến. Thông qua thi Đình, vị trí của nhà vua trong xã hội. Với ý nghĩa đó,
mặc dù không phải là biện pháp duy nhất mà các triều vua chúa chuyên chế thực
hiện để củng cố vị trí xã hội và quyền lực của mình.
1.1.1. Thi Đình dưới thời Lý, Trần, Hồ
Theo lịch sử khoa cử nước ta, nhà Lý là triều đại đầu tiên tổ chức thi cử, tổng
cộng có tất cả 6 khoa. Theo đó thi Đình đã xuất hiện dưới thời Lý vào năm 1152.
Sách Đại Việt sử kí toàn thư chép: Năm Đại Định thứ 13(1152), “mùa đông,
tháng 10, thi Điện”. Thi Điện là kì thi vô cùng quan trọng của các sĩ tử sau khi đã
vượt qua kì thi Hương, thi Hội. Các sĩ tử sẽ vào trong sân điện của nhà vua để làm
bài thi.Thời Lý đã xuất hiện khoa thi Minh Kinh với nội dung thi là Kinh nghĩa, tứ
thư nghĩa, văn sách Kinh sử. Song do sử cũ không ghi rõ nên về cách thức thi, phép
thi trong các khoa thi nói chung và thi Đình nói riêng chưa khảo cụ thể được. Ngay
cả đối tượng dự thi là ai, thi xong được bổ làm gì cũng chỉ có vài khoa có ghi mà lại
quá sơ sài, không hình dung rõ được các tiêu chuẩn cụ thể. Riêng với thi Đình, theo
Phan Huy Chú: “ Thỉnh thoảng có chiếu của vua cử học trò trong nước vào thi, vua
tự xem thi ở điện đình” còn nội dung thi gồm những gì không thấy đề cập đến.
Thời Trần việc ghi chép của sử sách về khoa thi đã rõ ràng hơn ít. Có 2 loại
thi là thi Thái học sinh và thi Đại tỉ. Năm 1232, đặt ra Tam giáp. Năm 1246, định
niên hạn thi. Năm 1247 ban danh hiệu Tam khôi và có Trạng nguyên nên được gọi
là thi Trạng nguyên, năm 1347 được gọi là thi Tiến sĩ.
Về phép thi: Năm 1304 mới bắt đầu có: Kì I thi ám tả cổ văn; kì II thi Kinh
nghĩa và thơ phú; kì III thi chiếu, chế, biểu; kì IV thi văn sách để định thứ tự đỗ cao
thấp. Năm 1396 khi Hồ Quý Ly lên nắm quyền nội dung thi đã có sự thay đổi bãi
bỏ kì thi ám cổ văn thay bằng thi Kinh nghĩa, thư nghĩa. Thời gian thi cũng thay đổi
cứ năm trước thi Hương thì năm sau thi Hội và thi Đình. Dưới thời Hồ Hán Thương
(năm 1404) thêm nội dung thi nữa là thi Thư (viết chữ), thi Toán (làm tinh).
8
Về ân điển: Mãi đến năm 1304 mới thấy ghi chép rõ: Trạng nguyên bổ chức
thái học sinh hỏa dũng thủ, sung làm nội thư gia; Bảng nhãn bổ chức Chi hậu bạ thư
mạo sam, sung làm nội lệnh thư gia; Thám hoa bổ chức hiệu thư quyền miện sung
làm nhị tư. Tiêu biểu có trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, bảng nhãn Bùi Mộ, thám hoa
Trương Phóng. Năm 1314 quy định cứ thi đỗ Thái học sinh được nhận chức Bạ thư
lệnh, đợi sau một thời gian rèn luyện học tập sẽ được bổ dụng. Năm 1374, ban yến
và áo xếp cho những người thi đỗ khoa Đại tỉ. Ba vị đỗ đầu là Trạng nguyên Đào
Sư Tích, Bảng nhãn Lê Hiến Phủ và Thám hoa Trần Đình Thám.
Ngoài kì thi Thái học sinh, nhà Trần còn tổ chức một kì thi Đình riêng. “Đại
Việt sử kí toàn thư” ghi: Năm 1374, “tổ chức thi Đình cho các tiến sĩ” [9, tr.157158]. Sách “Khâm Định Việt Sử thông giám cương mục” chú: Thi Trạng nguyên
chính là thi Đình ( Đình thí).
Như vậy, thi Đình ở thời Lý, Trần đã tồn tại như một khoa thi riêng, bên
cạnh những khoa thi học sinh, thái học sinh, sĩ nhân và mang tính bất thường,
không định lệ. Phải đến năm 1396, thi cử chính thức phân chia làm ba cấp: thi
Hương – thi Hội – thi Đình.
1.1.2. Thi Đình dưới thời Lê Sơ
Năm 1396, có quy định về sự phân biệt giữa thi Hương, thi Hội, thi Đình
nhưng do bị dán đoạn bởi chiến tranh (quân Minh sang xâm lược), cho nên trong
thực tế, sự phân biệt giữa thi Hương, thi Hội, thi Đình chỉ thực sự bắt đầu từ khoa
thi Nhâm Tuất 1442.
Dưới triều Lê Sơ, những nội dung liên quan đến thi Đình được định lệ một
cách quy củ và chặt chẽ. Cụ thể:
Triều Lê sơ thành lập từ năm 1428 nhưng cho đến năm 1442 vua Lê Thánh
Tông mới tổ chức khoa thi đầu tiên, tổng cộng có 26 khoa thi tiến sĩ, trong đó có
một khoa không tổ chức thi Đình ( khoa thi năm 1458), bổ sung thêm 989 tiến sĩ
(tính cả khoa thi không có thi Đình là 993 tiến sĩ) vào bộ máy quan lại. Có thể nói
dưới thời Lê sơ thi Đình đã được tổ chức thành một kì thi riêng nhằm nâng cao vị
thế của nhà vua trong xã hội.
9
Về thời gian thi Đình: Dựa vào một số nguồn sử liệu cũ chúng tôi lập bảng
thống kê như sau:
Bảng 1.1: Thời gian thi Đình thời Lê sơ
STT
Khoa thi năm
Thi Hội
Thi Đình Thời gian giữa hai kì thi
1
Thái Hòa 6 (1448)
Tháng 8
23/8
Cùng tháng
2
Quang Thuận 4 (1463)
Tháng 2
16/2
Cùng tháng
3
Quang Thuận 7 (1466)
Tháng 2
12/3
1 tháng
4
Quang Thuận 10 (1469)
Tháng 2
26/2
Cùng tháng
5
Hồng Đức 6 (1475)
Tháng 3
11/5
2 tháng
6
Hồng Đức 9 (1478)
Tháng 3
14/5
2 tháng
7
Hồng Đức 12 (1481)
Tháng 4
27/4
Cùng tháng
8
Hồng Đức 15 (1484)
Tháng 2
Tháng 3
1 tháng
9
Hồng Đức 18 (1847)
Tháng 3
7/4
1 tháng
10
Hồng Đức 21 (1490)
Tháng 3
Tháng 4
1 tháng
11
Hồng Đức 24 (1493)
Tháng 3
21/4
1 tháng
12
Hồng Đức 27 (1496)
Tháng 2
19/3
1 tháng
13
Cảnh Thống 2 (1499)
Tháng 4
19/7
3 tháng
14
Cảnh Thống 5 (1502
Tháng 2
Tháng 2
Cùng tháng
15
Đoan Khánh 1 (1505)
Tháng 2
Tháng 2
Cùng tháng
16
Đoan Khánh 4 (1508)
Tháng 2
Tháng 2
Cùng tháng
17
Hồng Thuận 3 (1511)
Tháng 3
17/4
1 tháng
18
Hồng Thuận 6 (1514)
Tháng 3
27/4
1 tháng
19
Quang Thiệu 5 (1520)
Tháng 4
Tháng 4
Cùng tháng
20
Thống Nguyên (1523)
Tháng 2
Tháng 2
Cùng tháng
21
Thống Nguyên (1526)
Tháng 4
Tháng 4
Cùng tháng
(Nguồn: Đại Việt sử ký toàn thư – Năm 2004, Nxb Văn Hóa Thông Tin;
Khâm định Việt sử thông giám cương mục; Văn Miếu – Quốc Tử Giám và 82 bia
tiến sĩ).
10
Qua bảng thống kê cho ta thấy thi Đình không có “thời gian biểu cố định”
diễn ra chủ yếu vào các tháng 2 chiếm (28,5%), tháng 4 chiếm (38,1%). Thời gian
giữa hai kì thi Hội và thi Đình cũng không theo một nguyên tắc nhất định nào, có
thể trong một tháng hoặc cách nhau một, hai tháng.
So với thi Đình, thi Hội có thời gian ổn định hơn, tập trung chủ yếu vào ba
tháng: Tháng 2 (9 kì – chiếm 42,9 %), tháng 3 (7 kì – chiếm 33,3%), tháng 4 (4 kì –
chiếm 19%). Thời gian giữa hai kì thi Hội và thi Đình cũng không theo một nguyên
tắc nhất định nào, có thể cùng trong một tháng hoặc cách nhau một, hai tháng. Cụ thể:
+ Cùng trong tháng: 10 kì – chiếm 47,6%
+ Cách 1 tháng: 8 kì – chiếm 38,1%
Về địa điểm thi: Thi Đình các sĩ tử sẽ vào trong sân (hiên) điện của nhà vua
để thi. Đa số các kì thi Đình diễn ra ở điện Kính Thiên, thỉnh thoảng có kì thi tổ
chức tại điện Hội Anh hay điện Tập Hiền.
Về đối tượng dự thi Đình: Những người đã đỗ kì thi Hương và thi Hội chính
là đối tượng sẽ tham gia vào thi Đình. Để được giáp mặt hoàng thượng, tỏ rõ tài học
của mình, các sĩ tử phải nỗ lực hết sức để vượt qua hàng trăm, hàng ngàn thí sinh
tham dự trong khoa thi tiến sĩ.
Dễ dàng nhận thấy tương ứng với sự gia tăng về số lượng người dự thi Hội là
sự gia tăng về số lượng lấy đỗ. Ban đầu số người dự thi Hội chỉ vài trăm người rồi
tăng dần lên hơn một nghìn, hai nghìn, ba nghìn, có năm lên đến 5000 người khoa
thi năm Cảnh Thống thứ 5 (1502). Số lượng lấy đỗ cũng từ hai, ba, chục tăng lên
bốn, năm chục người. Cá biệt ba khoa thi năm Hồng Đức thứ 9 (1478), Hồng Đức
thứ 18 (1487), Cảnh Thống thứ 5 (1502) con số lấy đỗ lên 60 người. Về cuối thời
Lê sơ, số lượng người dự thi Hội ít nên số người lấy đỗ cũng giảm hẳn đi.
Bên cạnh việc tăng số người lấy đỗ là sự gia tăng về “tỷ lệ chọi”. Càng ngày
“tỷ lệ chọi” càng cao dù triều đình đã tăng thêm ngạch lấy đỗ, đó là do số người dự
thi quá đông.
Các quan phụ trách thi Đình:
Ở thời Lý – Trần, sử sách không nói đến các quan phụ tá nhà vua trong thi
Đình nhưng sang thời Lê sơ, ở khoa thi năm 1442 đời Lê Thái Tông thi Đình đã có
11
một bộ phận tổ chức thi, coi thi có Đề điệu (viên quan đứng đầu chịu trách nhiệm
toàn bộ công việc của trường thi), Giám thi làm lãnh đạo (viên quan đứng sau đề
điệu, cũng phụ trách công việc trong trường thi), tuần xước (tuần tra canh gác trong
ngoài trường thi), thu quyển (người thu các quyển thi của thí sinh), di phong (quan
dọc phách, niêm phong các quyển thi), đằng lục (người sao chép bài thi của thí
sinh), đối độc (người đọc soát bản sao so với bản chính) và bộ phận chấm thi gồm
vua Lê, quan độc quyển đây là chức quan rất đặc biệt thay mặt vua chấm trước, dự
kiến xếp loại cho điểm trước rồi trình bày để vua nghe, sau đó vua đọc những quyển
cần thiết. Sau này đời vua Lê Tương Dực, trong khoa thi năm 1551, có thêm chức
Tri cống cử đứng sau chức Đề điệu và trên chức Giám thí.
Phép thi và nội dung thi:
Thi Đình thời Lê sơ, về phép thi không có gì thay đổi, vẫn chỉ thi một bài
văn sách để phân hạng cao, thấp. Ở một số kì thi, sử cũ có đề cập đến đề mục bài
văn sách trong kì thi Đình.
Trong số 17 đề thi Đình có đến 8 đề hỏi về đạo trị nước của các bậc đế
vương, còn lại đề cập đến các vấn đề khác như lễ nhạc, chính hình, nhân tài, vương
chính, đạo làm vua, làm thầy..., đặc biệt kì thi Đình khoa thi năm Cảnh Thống thứ 5
(1502) hỏi về kinh Phật chứng tỏ Nho học tuy phát triển nhưng Phật học vẫn giữ vị
trí quan trọng trong đời sống tư tưởng của xã hội Việt Nam.
Ân điển đối với những người thi đỗ kì thi Đình:
Năm 1484, Lê Thánh Tông, xếp hạng và gọi tên các thứ tự học vị như sau:
Bảng một: Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, trong bảng này có 3 vị:
Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (Trạng nguyên).
Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ nhị danh (Bảng nhãn).
Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ tam danh (Thám hoa).
Bảng hai: Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân. Số vị đỗ không hạn chế. Các vị Tiến
sĩ bảng này còn gọi là Hoàng giáp.
Bảng ba: Đệ nhị giáp Tiến sĩ đồng xuất thân. Số người đỗ bảng này không
hạn định.
12
Bên cạnh đó, ân điển dành cho những người thi đỗ kì thi Đình thời Lê sơ so
với các triều đại Lý, Trần cũng trọng hậu hơn.
Ở thời Trần, nhà vua mới ban ân điển cho các vị đỗ Tam khôi ra cửa Long
Môn, Phượng Thành đi chơi phố 3 ngày. Các vị Trạng nguyên thì bổ Thái học sinh
hỏa dũng thủ, sung làm Nội thư gia; Bảng nhãn thì bổ Chi hậu bạ thư mạo sam,
sung làm Nội thư gia; Thám hoa thì bổ Hiệu thư quyền miện, sung làm nhị tư.
Sang thời Lê sơ, ân điển phong phú hơn, bao gồm các lễ: Xướng danh, Yết
bảng, Thăm vườn thượng uyển, Vinh quy bái tổ... Đặc biệt là lập bia Tiến sĩ đề
danh tại nhà Quốc học Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
Ngoài những ân điển mang tính lễ nghi, long trọng trở thành điển lễ văn hóa
ở thời Lê sơ, người đỗ Tiến sĩ còn được hưởng những ưu đãi, cụ thể là: Năm 1472,
Lê Thánh Tông quy định tư cách Tiến sĩ: Trạng nguyên hàm chánh lục phẩm; Bảng
nhãn hàm tòng lục phẩm; Thám hoa hàm chánh thất phẩm; Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất
thân được hàm tòng thất phẩm; Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân được hàm chánh
bát phẩm.
Với các ân điển ban cho các Tiến sĩ cho thấy triều Lê sơ rất đề cao người có
học, khuyến khích và cổ vũ phong trào học trong toàn dân. Khoa cử thời Lê sơ nói
chung, thi Đình nói riêng, đã trở thành chuẩn mực cho các triều đại phong kiến về sau.
1.1.3.Thi Đình dưới thời Mạc, Lê – Trịnh
Thời gian thi:
Dựa vào nguồn sử liệu cũ chúng tôi lập bảng thống kê về thời gian thi Đình
dưới thời Tự Đức như sau:
Bảng 1.2: Thời gian tổ chức các kỳ thi Hội và thi Đình của một số khoa thi tiến
sĩ dưới thời Mạc, Lê – Trịnh
STT
Năm
Thi Hội
Thi Đình
Thời gian giữa hai kì thi
1
Phúc Thái 1(1643)
Tháng 10
Tháng 12
2 tháng
2
Phúc Thái 4 (1646)
Tháng 10
Tháng 12
2 tháng
3
Khánh Đức 2 (1650)
Tháng 10
Tháng 12
2 tháng
4
Khánh Đức 4 (1652)
Tháng 3
Tháng 4
1 tháng
13
5
Thịnh Đức 4 (1656)
Tháng 10
Tháng 12
2 tháng
6
Vĩnh Thọ 2 (1659)
Tháng 2
Tháng 4
2 tháng
7
Vĩnh Thọ 4 (1661)
Tháng 3
Tháng 4
1 tháng
8
Cảnh Trị 2 (1664)
Tháng 3
Tháng 6
3 tháng
9
Cảnh Trị 5 (1667)
Tháng 2
Tháng 4
2 tháng
10
Cảnh Trị 8 (1670)
11/1670
1/1671
2 tháng
11
Dương Đức 2 (1673)
Tháng 10
Tháng 12
2 tháng
12
Vĩnh Trị 5 (1680)
Tháng 3
Tháng 6
3 tháng
13
Chính Hòa 4 (1683)
11/1683
1/1684
2 tháng
14
Chính Hòa 6 (1685)
12/1685
1/1686
1 tháng
15
Chính Hòa 9 (1688)
10/1688
1/1689
3 tháng
16
Chính Hòa 12 (1691)
Tháng 3
Tháng 5
2 tháng
17
Chính Hòa 15 (1694)
Tháng 3
Tháng 4
1 tháng
18
Chính Hòa 18 (1697)
Tháng 10
Tháng 12
2 tháng
19
Chính Hòa 21 (1700)
Tháng 2
Tháng 5
3 tháng
20
Chính Hòa 24 (1703)
Tháng 10
Tháng 12
2 tháng
21
Vĩnh Thịnh 2 (1706)
Tháng 3
Tháng 5
2 tháng
22
Vĩnh Thịnh 8 (1712)
Tháng 3
Tháng 6
3 tháng
23
Vĩnh Thịnh 11 (1715)
Tháng 3
Tháng 6
3 tháng
24
Vĩnh Thịnh14 (1718)
Tháng 1
Tháng 6
5 tháng
25
Bảo Thái 2 (1721)
Tháng 10
1/1722
3 tháng
26
Bảo Thái 5 (1724)
Tháng 3
Tháng 4
1 tháng
27
Bảo Thái 82 (1727)
Tháng 3
Tháng 5
2 tháng
28
Vĩnh Khánh 3(1731)
Tháng 10
Tháng 11
1 tháng
29
Long Đức 2 (1733)
Tháng 4
Tháng 5
1 tháng
30
Vĩnh Hựu 2 (1736)
Tháng 3
Tháng 5
2 tháng
31
Vĩnh Hựu 5 (1739)
Tháng 3
Tháng 5
2 tháng
32
Cảnh Hưng 4 (1743)
Tháng 10
Tháng 12
2 tháng
14
33
Cảnh Hưng 7 (1746)
Tháng 3
Tháng 5
2 tháng
34
Cảnh Hưng 9 (1748)
Tháng 3
Tháng 5
2 tháng
35
Cảnh Hưng 13 (1752)
Tháng 10
Tháng 12
2 tháng
36
Cảnh Hưng 15 (1754)
Tháng 3
Tháng 4
1 tháng
37
Cảnh Hưng 18 (1757)
Tháng 3
Tháng 4
1 tháng
38
Cảnh Hưng 21 (1760)
Tháng 2
Tháng 3
1 tháng
39
Cảnh Hưng 27 (1766)
Tháng 4
Tháng 5
1 tháng
40
Cảnh Hưng 33 (1772)
Tháng 10
Tháng 11
1 tháng
41
Cảnh Hưng 36 (1775)
Tháng 10
Tháng 11
1 tháng
42
Cảnh Hưng 39 (1778)
Tháng 3
Tháng 4
1 tháng
43
Cảnh Hưng 40 (1779)
Tháng 11
Tháng 12
1 tháng
44
Cảnh Hưng 42 (1781)
Tháng 4
Tháng 5
1 tháng
45
Cảnh Hưng 46 (1785)
Tháng 3
Tháng 4
1 tháng
46
Chiêu Thống 1 (1787)
Tháng 10
Tháng 11
1 tháng
(Nguồn: Đại Việt sử kí toàn thư – Năm 2004, Nxb Văn Hóa Thông Tin; Đại
Việt sử kí tục biên; Lịch triều tạp kỷ - Tập I, II; Văn Miếu – Quốc Tử Giám và 82
bia Tiến sĩ).
Qua bảng thống kê trên cho ta thấy: Thời gian thi Đình phổ biến là tháng 4,
tháng 5 và tháng 12. Nếu như thi Hội chủ yếu vào mùa xuân tháng 1, 2, 3 chiếm
(52,2%) thì ngược lại vào mùa hè các tháng 4, 5, 6 chiếm phần lớn thời gian tiến
hành các kì thi Đình, sau đó là mùa đông (28,3%) rồi mới đến mùa xuân (15,2%).
Thời gian giữa hai kì thi Hội và thi Đình: Có thể một tháng, hai tháng hoặc
ba tháng, có khi đến năm tháng. So với thời Lê sơ, khoảng cách từ thi Hội đến thi
Đình đa phần chỉ khoảng một tháng, thậm trí trong cùng một tháng và cả thi Đình
lẫn thi Hội đều tổ chức trong một năm. Còn thi Đình thời Lê –Trịnh sau thi Hội một
hoặc hai tháng là thông dụng phân loại ngay những người đỗ thi Hội. Thời Lê –
Trịnh, thi Hội và thi Đình phần nhiều cũng được tổ chức ngay trong một năm nhưng
xuất hiện và trường hợp không cùng năm do thi Hội đã vào cuối năm nên thi Đình
phải chuyển sang năm sau.
15
Địa điểm thi Đình:
Các nguồn sử liệu cũ cho biết những người đỗ thi Hội sẽ được vào trong sân
điện Kính Thiên để dự kì thi Đình đối và làm bài ở lều thi. Ngoài ra, cũng có khoa,
thi Đình được Chúa tổ chức ngay tại phủ cửa mình, đó là hai khoa năm Vĩnh Hựu 2
(1736) và Cảnh Hưng 40 (1779).
Đối tượng dự thi:
Điều kiện tất yếu để được dự thi Đình đương nhiên là phải đỗ kì thi Hội
nhưng để đỗ được kì thi Hội không phải là điều dễ dàng. Số người vào dự thi Hội
thời Lê - Trịnh rất đông, đông hơn nhiều so với thời Lê sơ. Khoa thi năm Bảo Đại
thứ 3 (1442) có số người dự thi thấp nhất thời Lê sơ là 450 người, trong khi đó thời
Lê – Trịnh, khoa thi thấp nhất theo số liệu có được là khoa thi năm Vĩnh Tộ thứ 3
(1613) là 1000 người, còn trung bình số người dự thi của các khoa là 2000 – 3000.
Khoa thi năm Dương Hòa thứ 6 (1640) là khoa thi có số người dự thi Hội đông nhất
thời Lê - Trịnh nói riêng cũng như chế độ khoa cử phong kiến Việt Nam nói chung
với số người dự thi lên đến 6000 người.
Số người thi Hội thì đông nhưng số lấy đỗ lại không nhiều, do đó, “tỷ lệ
chọi” để được dự thi Đình là rất lớn, một người phải chọi với mấy trăm người. Thời
Lê sơ có những khoa lấy đỗ đến hơn 60 người còn ở thời Lê – Trịnh, khoa lấy đỗ
nhiều nhất cũng chỉ có 31người . Vì vậy, tỷ lệ chọi để vào thi Đình ở sân điện nhà
vua càng cao, cao nhất là khoa thi năm Hoằng Định thứ 5 (1604): Tỷ lệ 1 chọi 714.
Dưới đây là bảng thống kê những người dự thi Đình thời Lê – Trịnh với
nhiều độ lứa tuổi và thành phần xã hội khác nhau:
Bảng 1.3: Độ tuổi của đối tượng dự thi Đình
Tuổi
19 - 29
30 - 39
40 - 49
Trên 50
Không ghi
Số người
218
283
126
48
52
%
30
38,9
17,3
6,6
7,2
Qua bảng số liệu trên cho ta thấy: Hai lứa tuổi phổ biến nhất trong thi Đình
là: Thứ nhất từ 19 tuổi – 29 tuổi chiếm (30%), có 218 người. Thứ hai từ 30 tuổi – 39
16
tuổi chiếm ( 39%), có 283 người. Không riêng gì những người trẻ tuổi, có khá nhiều
người được xếp vào hàng “lão” vui thú điền viên, an hưởng tuổi già. Có 9 người thi
Đình khi tuổi quá 60 tuổi là Nguyễn Nghi (61 tuổi), Đặng Phi Hiển, Nguyễn Khắc
Văn, Trịnh Lương Bật (đều 62 tuổi), Đặng Kính Chỉ (63 tuổi), Nguyễn Hữu
Thường, Vũ Miễn (64 tuổi), Đặng Thị Mẫn (65 tuổi) và Quách Đồng Dần (68 tuổi).
Dưới thời Lê - Trịnh thì Thăng Long là địa phương có số người dự thi Đình
đông nhất 144 người chiếm (19,8%), kế tiếp là các tỉnh khác thuộc đồng bằng và
trung du Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ như Hải Dương, Bắc Ninh, Hà Tây, Thanh Hóa,
Hưng Yên, Hà Tĩnh, Nghệ An. Ít nhất là các tỉnh miền núi Bắc Bộ (Lạng Sơn,
Tuyên Quang, Cao Bằng...) và một số tỉnh duyên hải miền Trung (Quảng Bình,
Quảng Nam, Quảng Trị) trong suốt 65 khoa thi dưới thời vua Lê chúa Trịnh không
hề có một người nào lọt vào kì thi Đình.
Trong các đối tượng tham gia kì thi Đình, xảy ra một “hiện tượng” là có
không ít người đã đỗ các kì thi khác do triều đình tổ chức như Sĩ Vọng, Hoành Từ
nhưng những người đỗ lại vẫn muốn tham gia khoa thi tiến sĩ vì ân điển dành cho
những người đỗ hai kì này so với ân điển trong thi Đình thì không thể nào sánh
bằng. Điều đó chứng tỏ thi Đình có sức hấp dẫn rất lớn.
Thể lệ thi Đình:
“Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú là cuốn sách duy nhất
chính thức ghi chép về thể lệ thi Đình ở thời Lê – Trịnh. Qua ghi chép của Phan
Huy Chú về nghi thức thi Đình đã thể hiện tầm quan trọng cũng như không khí
trang nghiêm của kì thi Đình với sự có mặt của cả vua Lê, chúa Trịnh cùng đại thần
các ban, các quan văn võ. Trong thi Đình, Phan Huy Chú không đề cập gì đến quy
tắc trường thi hay luật lệ làm bài thi... song chắc chắn thi Đình phải được giám sát
chặt chẽ hơn thi Hương, thi Hội.
Cũng như thi Hương, thi Hội, văn bài thi của sĩ tử phải tuân theo những luật
lệ nhất định như kỵ húy, khiếm tị, khiếm trang, khiếm tài, khiếm cung, bất túc, đồ,
di, câu, cải... Dù không bị đánh trượt nhưng nếu phạm luật thì bài viết có hay đến
mấy cũng bị giáng xuống hạng thấp và không bao giờ lọt vào hàng tam khôi như
trường hợp của Nguyễn Huy Cẩn và Nguyễn Tông Quai.
17
Các quan chức phụ trách thi Đình:
Đại khái có thể chia các quan phụ trách thi Đình ra làm 3 bộ phận và mỗi
chức quan trong một bộ phận giữ một nhiệm vụ riêng.
Thứ nhất, bộ phận trông coi, tổ chức thi Đình gồm: Quan đề điệu, tri cống
cử, giám thí. Bộ phận này được sự trợ giúp của các viên lại làm các công việc thu
quyển, di phong, đằng lục, đối độc.
Những người giữ chức Đê điệu trong thi Đình đều là đại thần ban võ với các
chức thái úy, thái bảo, thiếu bảo, thái phó, thiếu phó mang tước hàm quận công,
thuộc hàng quan nhất, nhì phẩm và đã giảm bớt một người so với thời Lê sơ. Tất cả
các quan đê điệu hoặc anh em họ hàng chúa Trịnh (Trịnh Đỗ, Trịnh Ninh, Trịnh Đệ,
Trịnh Khuê, Trịnh Quân, Trịnh Tương, Trịnh Lãng) hoặc có quan hệ thông gia với
nhà chúa (Nguyễn Hoàng), không cũng là những vị thân tín, thủ túc của chúa Trịnh
(Lê Lựu, Hoàng Nghĩa Phi). Còn các quan tri cống cử và giám thí sinh phải
là những người đã đỗ tiến sĩ. Tri cống cử thì hầu hết do các bộ đảm nhiệm, giám thí
thì phần lớn các quan tả hữu thị lang. Việc đề cử quan lại có phẩm cấp và học vị
cao, có quan hệ mật thiết với nhà chúa một mặt chứng tỏ sự quan tâm, coi trọng có
ý đề cao của triều đình đối với kì thi Đình; mặt khác thể hiện uy quyền của dòng họ
chúa đã vươn lên đến cấp cao nhất của khoa thi tiến sĩ mà đáng lẽ phải thuộc về vua
Lê. Trong một khoa thi tiến sĩ, người nào giữ chức đề điệu, tri cống cử, giám thí ở
kì thi Hội sẽ kiêm luôn các chức đó trong kì thi Đình.
Thứ hai, bộ phận chấm thi: Ở thi Đình, bộ phận chấm thi gồm vua Lê và có
thêm chức độc quyển phụ tá cho vua. Về hình thức, quan độc quyển sẽ tiến dâng
các quyển thi làm từ hôm trước để vua đọc và chấm định điển cao thấp, song thực
chất việc đọc và chấm thi được khoán luôn cho quan độc quyển. Điểm chấm các
quyển thi có thể thay đổi hay giữ nguyên tùy theo quyết định của nhà vua. Thời Lê
– Trịnh, sử sách ghi lại hai trường hợp ngoại lệ: Khoa thi năm Vĩnh Hựu thứ 2
1736) và khoa thi Cảnh Hưng thứ 40 (1779), người chấm quyển thi Đình mà cho đỗ
không phải là vua Lê mà là chúa Trịnh.
18
Thứ ba, bộ phận giữ gìn an ninh trật tự. Để đảm bảo cho kì thi diễn ra
nghiêm túc, an toàn, hai viên tuần xước và nhân viên hai vệ Cẩm y Kim ngô sẽ lo
việc an ninh, trật tự tại khu vực thi. Ngoài ra, vì thi ở điện đình nên có quân lính
thiên triều canh giữ xung quanh.
Như vậy, cấp thi càng cao thì bộ phận trông coi, tổ chức thi sẽ do quan lại có
tước phẩm càng cao nắm giữ, đồng thời số lượng người phụ trách, phục vụ trường
thi cũng giảm đi do số lượng thí sinh dự thi ngày một ít.
Phép thi:
Thi Đình thì không nhiều trường thi như thi Hương, thi Hội mà chỉ là một
bài văn sách do vua ra đề. Một bài văn sách được chia làm hai phần:
Phần câu hỏi trong đề bài (gọi là sách vấn).
Phần trả lời (gọi là đối sách). Chia ra hai phần: Phần lấy Kinh điển trả lời câu
hỏi và phần đưa ra kiến giải của mình do đề tài nêu ra và phải liên hệ với tình hình
thực tế.
Nội dung thi Đình:
Nội dung thi Đình thời Lê – Trịnh được thể hiện qua các đề thi. Đề văn sách
thi Đình thời Lê – Trịnh, cả thi Hương và thi Hội, chủ yếu về văn sách mục. Khác
với thời Lê Sơ, câu hỏi trong văn sách bao quát rộng rãi, thời Lê Trung Hưng từ
niên hiệu Quang Hưng (1578 - 1599) thứ 10 trở về sau, người ra câu hỏi chuyên lấy
những câu hiểm hóc để làm đề.
Hầu hết trong các đề thi vấn đề quan tâm hàng đầu của triều đình là “đường
lối trị nước xưa và nay”, chiếm 13/15 khoa, hai khoa còn lại thì một khoa hỏi về
đạo lý trời đất muôn vật, một khoa hỏi về môn học tâm tính của con người.
Cách chấm thi Đình:
Việc chấm thi Đình trong thời Lê sơ hay Lê Trung Hưng hoàn toàn theo cách
chấm điểm theo thang bốn bậc, tức ưu - binh - thứ - liệt, như thi Hương, Hội và việc
lấy đỗ cao thấp thì tính từ trên xuống.
Lệ quy định là vậy nhưng quyết định cuối cùng vẫn phải phụ thuộc ý muốn
của vua có thể cho đỗ cao thấp, ban hoặc không ban chức tước không dựa vào chất
19
lượng văn bài mà do yếu tố khách quan như xét tuổi, xét tướng mạo... Trước thời Lê
– Trịnh, giai thoại Việt Nam có ba trường hợp:
Nguyễn Hiền: Trạng nguyên khoa thi năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 16
(1247) vì còn quá trẻ nên không được bổ dụng làm quan. Theo giai thoại, khi biết
thí sinh đỗ nhất Tam khôi là một cậu bé 13 tuổi, vua Trần Thái Tông rất lấy làm lạ
bèn cho Trạng vào bệ kiến. Nhà vua hỏi trạng học với ai mà giỏi giang thông minh
trước tuổi như vậy. Nguyễn Hiền đang tuổi trẻ con đã thành thực trả lời là tự học.
Vua Trần nghe Trạng nói năng tự nhiên chưa hiểu phép tắc, lễ giáo vua tôi, lại nói
học giỏi, đỗ cao là do tự học, thì cho rằng Trạng nguyên kiêu căng nên lệnh cho về
nhà học thêm chờ 3 năm sau khôn lớn mới bổ dụng làm quan.
Mạc Đĩnh Chi: Trạng nguyên khoa thi năm Hưng Long thứ 12 (1304) vì
tướng mạo xấu nên suýt không được đỗ trạng nguyên. Theo giai thoại, khi Mạc
Đĩnh Chi vào bái kiến, vua Trần Anh Tông nhìn thấy ông tướng mạo khác thường,
thân lùn, da đen, mồm rộng, trán dô… quá xấu nên không muốn lấy đỗ trạng
nguyên. Mạc Đĩnh Chi liền làm bài phú tự ví mình như hoa sen trong giếng ngọc
(Ngọc tỉnh liên phú) dâng lên vua.Vua xem xong cảm phục là hay và mới quyết
định vẫn cho ông đỗ Trạng.
Nguyễn Giản Thanh: Trạng nguyên khoa thi năm Đoan Khánh thứ 1 (1508)
vì tướng mạo đẹp và khôn khéo mà được đỗ Trạng. Theo giai thoại, trong kì thi
Hội, bài của Hứa Tam Tỉnh được chấm hạng nhất, Nguyễn Giảng Thanh đỗ hạng
hai. Khi yết kiến vua, thoạt nhìn thấy Nguyễn Giản Thanh nho nhã, hào hoa, tướng
mạo đẹp, bà Thái Phi mẹ của nhà vua nức nở khen: “Trạng nguyên đây phải
không? Chà quý hóa quá!”. Bấy giờ, vua và quan đều lúng túng trước sự nhầm lẫn
của bà Thái Phi, song không biết phải xử lí như thế nào. Nhà vua bèn nghĩ cách ra
cho hai người một bài phú, đề “Phụng thành xuân sắc”. Hứa Tam Tỉnh theo lệ
thường làm bài bằng chữ Hán. Nguyễn Giản tinh khôn nhận thấy nhà vua còn nể ý
kiến Thái Phi mà bà thì không am hiểu chữ Hán mấy nên làm bài bằng chữ Nôm.
Quả nhiên khi bình văn, bà Thái Phi luôn miệng tấm tắc khen bài Giản Thanh hay.
Kết quả là vua rất đẹp lòng, bèn đánh tụt Hứa Tam Tỉnh xuống bảng nhãn và đưa
Giản Thanh lên Trạng nguyên.
20
Dưới thời Lê – Trịnh, “Đại Việt sử kí tục biên” và “Khâm định Việt sử thông
giám cương mục” có ghi lại một trường hợp của Định Tuệ - Trạng nguyên khoa thi
năm 1736 vì quen biết mà đỗ Trạng nguyên.
Mặt khác, dù đã có lệ “Đình thí bất truất” song vua là người định ra lệ nên
trong lịch sử khoa cử vẫn có trường hợp đánh trượt sĩ tử đã vào thi Đình đó là: khoa
thi Bính Thìn năm Hồng Đức thứ 27 (1498) và khoa thi Đinh Sửu năm Cảnh Hương
thứ 18 (1757). Thi Đình đã dần dần được hoàn thiện và phát triển mạnh. Từ thời Lý,
Trần thi Đình là một kì thi rất sơ khai và đơn giản, nhưng từ thời Lê sơ trở đi thi
Đình đã trở thành một kì thi vô cùng quan trọng.
Thi Đình được tổ chức sau kì thi Hội. Địa điểm diễn ra kì thi này ở hiên điện,
sân điện của nhà vua do vua trực tiếp kiểm tra và ban đỗ. Có một “hội đồng” tổ
chức thi, coi thi và chấm thi. Phép thi chỉ thi một bài văn sách. Nội dung thi tập
trung vào các vấn đề trị nước, an dân, minh quân, lương thần, hưng đạo, giáo hóa,
phong tục, dụng người, lý tài, bình bị... Ân điển giành cho người đỗ kì thi Đình đầy
đủ và trọng hậu.
Đối tượng dự thi Đình đa dạng về lứa tuổi, quê quán cũng như thành phần xã
hội. Họ đến từ khắp các tỉnh đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ thuộc
Đàng Ngoài. Họ bị lôi cuốn bởi nhiều thứ: quyền lợi sau khi đỗ, để “vua biết mặt
chúa biết tên”, hoặc vì sự vẻ vang cho cả dòng họ...
Như vậy, trong hệ thống khoa cử Việt Nam thời phong kiến. Thi Đình là một
kì thi vô cùng quan trọng, bởi lẽ:
Thứ nhất: Có nhiều người đã đỗ các khoa thi khác cũng do triều đình tổ chức
nhưng họ vẫn tiếp tục tham dự kì thi tiến sĩ, mong muốn lọt vào kì thi Đình, thậm
chí một số người trước đó đã ra làm quan với các chức vụ khác nhau.
Thứ hai: Dù thi Đình không đánh trượt số người đã đỗ thi Hội song không vì
thế mà giảm tầm quan trọng. Nó sắp xếp lại vị thứ cao thấp của những người đã đỗ
thi Hội và theo đó sẽ làm thay đổi ân điển mà họ được hưởng.
So với các thời kì trước (chủ yếu là thời Lê sơ), thi Đình thời (Lê – Trịnh) đã
bộc lộ những điểm khác biệt. Thi Đình thời Lê sơ tập trung vào tháng 2, 4, thi Đình
21