1
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Lịch sử phát triển của xã hội loài người là sự thay thế của các phương
thức sản xuất. Ở phương Tây, khi thay thế phương thức sản xuất chiếm nô,
chế độ phong kiến được coi là một phương thức sản xuất tiến bộ, giải quyết
được những mâu thuẫn tồn tại trong phương thức sản xuất chiếm nô. Tuy
nhiên đến thế kỉ XV – XVI, sau một thời gian dài tồn tại và phát triển,
phương thức sản xuất phong kiến lại trở nên lỗi thời, kìm hãm sự phát triển
của xã hội. Với những kìm kẹp cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, thời kì
“đêm trường Trung cổ” đã làm cho phương Tây gần như bị lãng quên, tụt hậu
lại so với tiềm năng vốn có của nó. Lúc này, sự xuất hiện của phương thức
sản xuất tư bản ra đời thay thế cho phương thức sản xuất phong kiến là tất yếu
của lịch sử. Nếu năm 1566, bình minh của chế độ tư bản lần đầu tiên ló sáng
trên “vùng đất thấp” Hà Lan. Đến năm 1688, cách mạng tư sản thành công
của nước Anh đã làm xáo động cả châu Âu phong kiến thì năm 1775, nhìn
sang bờ bên kia Đại Tây Dương, cuộc đấu tranh giành độc lập của 13 bang
thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ bùng nổ như một phát súng phá tan sự “yên bình”
của cả châu Mỹ hầu như còn đang chìm đắm trong sự mông muội, dã man của
xã hội nguyên thủy và ngột ngạt trong ách đô hộ của các nước thực dân
phương Tây. Sự ra đời của Hợp chủng quốc Hoa Kì không chỉ có ý nghĩa đối
với bản thân nhân dân 13 bang thuộc địa vì đã thoát khỏi sự kiểm soát của
chính quyền thực dân Anh mà cón có ý nghĩa to lớn đối với lịch sử thế giới:
Kích thích cuộc cách mạng tư sản Pháp nổ ra, cổ vũ nhân dân các nước thuộc
địa đấu tranh, khẳng định đà thắng lợi của chủ nghĩa tư bản so với chế độ
phong kiến và sự kiện đó còn giúp chúng ta chứng minh rằng: sự phát triển
2
của lịch sử loài người không chỉ là sự phát triển một cách tuần tự mà còn xen
vào đó những bước nhảy vọt.
Với sự mở rộng nhanh chóng về mặt lãnh thổ và tốc độ phát triển đến
chóng mặt về kinh tế, quân sự dưới thiết chế Cộng hòa, chỉ trong khoảng hơn
một trăm năm sau khi ra đời, Mĩ đã vươn lên vị trí hàng đầu thế giới về công
nghiệp. Song ánh sáng của chủ nghĩa tư bản liệu có chiếu rọi được mọi ngõ
ngách của đất nước này hay không? Theo cách phổ biến, người ta biết rằng
mặt trái của chủ nghĩa tư bản Mĩ trong giai đoạn này là chế độ nô lệ.
Cho đến những năm giữa thế kỉ XIX, nước Mĩ – một dân tộc được hình
thành từ cuộc chiến tranh giành độc lập đầy vinh quang lại phải đối mặt với
nguy cơ chia rẽ trong cuộc Nội chiến đẫm máu nhất trong lịch sử. Nhưng
cũng từ cuộc chiến tranh ly khai đó, một Liên bang Mĩ thống nhất thực sự về
kinh tế, chính trị, văn hóa mới được định hình. Bởi vậy, lịch sử nước Mĩ nói
chung và lịch sử nước Mĩ thời kì nội chiến nói riêng đã trở thành hiện tượng
cần được nghiên cứu, một thực nghiệm về tinh thần và chính trị cần được
đánh giá.
Có thể nói, một vấn đề trọng tâm vận động xung quanh cuộc nội chiến
là vấn đề về chế độ nô lệ. Tất nhiên ta có thể nói rằng những yếu tố khác cũng
cần được nói tới là Hiến pháp, lý tưởng tự do và bình đẳng, biên giới được mở
rộng và sự nhập cư, nhưng từng yếu tố này đều được hình thành dựa trên thực
tế một nước Mĩ nửa tự do, nửa nô lệ. Do vậy, rất nhiều các tài liệu về lịch sử
nước Mĩ giai đoạn này đã tập trung nghiên cứu thể chế chế độ nô lệ, nguồn
gốc và những nguyên nhân dẫn tới việc xóa bỏ nó bởi cuộc Nội chiến tàn
khốc nhất trong lịch sử Hoa Kì. Ở Bắc Mĩ, cuộc chiến tranh giành độc lập của
13 bang thuộc địa Anh (1775 – 1783) mặc dù là cuộc cách mạng “ba trong
một” nhưng vẫn không thể xóa bỏ được chế độ nô lệ. Phải đến nửa đầu thế kỉ
XIX, khi chế độ nô lệ đang có nguy cơ lan rộng và trở thành vật cản cho chủ
3
nghĩa tư bản Mĩ thì cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ bóc lột tàn bạo này mới
không còn là vấn đề riêng của những người nô lệ da đen mà trở thành vấn đề
chung của quốc gia, dân tộc.
Chế độ nô lệ xuất hiện trên thế giới từ thời tiền sử. Nhưng có lẽ nó chỉ
được thể chế hóa khi những tiến bộ về nông nghiệp làm xuất hiện các hình
thức xã hội có tổ chức cao thời cổ đại. Sau đó được thực hành trên khắp thế
giới qua mọi thời đại.
Các cuộc phát kiến địa lí diễn ra cuối thế kỉ XV – đầu thế kỉ XVI đã
giúp tìm ra các con đường đến phương Đông không cần qua Địa Trung Hải.
Không chỉ thế, người châu Âu còn phát hiện ra vùng đất mới – châu Mĩ, một
nơi giàu có về vàng bạc và là nơi lí tưởng cho sự làm giàu cho giai cấp tư sản.
Từ phát kiến địa lí, chủ nghĩa thực dân ra đời. Sự ra đời của nó góp phần thúc
đẩy nhanh quá trình tích lũy tư bản nguyên thủy cho tư sản Tây Âu bằng các
biện pháp cướp bóc, bóc lột thuộc địa. Trong số đó, buôn bán nô lệ là biện
pháp tàn bạo nhất nhưng cũng đem lại nhiều lời lãi nhất.
Không phải ngẫu nhiên mà giai cấp tư sản châu Âu làm những việc đê
tiện và hèn hạ đó, buôn bán nô lệ bắt nguồn từ bản chất của giai cấp tư sản: tất
cả vì lợi nhuận. Nó đem lại lợi nhuận kếch xù cho tư bản Tây Âu, góp phần
quan trọng làm cho họ mạnh lên, nhanh chóng lật đổ chế độ phong kiến mở
đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển.
Buôn bán nô lệ da đen cũng tác động trực tiếp và lớn lao đến tiến trình
lịch sử của châu Phi và châu Mĩ. Trong gần năm thế kỉ, hàng chục triệu người
châu Phi đã bị đẩy ra khỏi quê hương của họ, bị đưa lên những hầm tàu tối
tăm, ẩm thấp, lênh đênh trên biển hàng tháng trời. Trong số đó không ít người
phải bỏ mạng ở dọc đường, những người “may mắn” sống sót đến với Tân lục
địa, họ bị bán cho các chủ đồn điền, hầm mỏ, bị đối xử tàn tệ, bóc lột cùng
cực…Từ thế kỉ XV – XVIII, chế độ nô lệ ở các nước thuộc địa đã trở nên tàn
4
bạo đến nỗi loài người không thể dung thứ được. Đến cuối thế kỉ XVIII, việc
buôn bán nô lệ bắt đầu bị cấm. Đan Mạch là nước mở đầu với việc cấm buôn
bán nô lệ (1792), tiếp đó là chính quyền cách mạng Pháp (1794). Đến đầu thế
kỉ thứ XIX, nước Anh chính thức cấm buôn bán nô lệ (1807), tiếp đó là Hợp
chủng quốc Hoa Kì (các bang miền Bắc năm 1808). Đến năm 1813, Anh và
Achentina chính thức bãi bỏ chế độ nô lệ. Và với bản “Tuyên ngôn giải
phóng nô lệ” của Tổng thống Mĩ Abraham Linconl có một ý nghĩa to lớn
trong tiến trình giải phóng nô lệ của nước Mĩ nói riêng và nhân loại nói chung.
Chế độ nô lệ ở châu Mĩ, đặc biệt ở Hoa Kì là một trong những vấn đề
đặc sắc của lịch sử thế giới cận đại. Hiện nay, mặc dù chế độ nô lệ đã bị xóa
bỏ từ lâu nhưng tàn dư của nó vẫn còn tồn tại dai dẳng ở Mĩ, nổi bật là sự kì
thị chủng tộc. Vấn đề xóa bỏ tận gốc nạn phân biệt chủng tộc, giải phóng
hoàn toàn người da đen vẫn còn là một vấn đề thời sự nóng bỏng ở nước Mĩ
hiện nay, nên việc nghiên cứu chế độ nô lệ và cuộc đấu tranh để xóa bỏ chế
độ nô lệ là một vấn đề rất cần thiết đối với những người nghiên cứu và giảng
dạy lịch sử thế giới cận đại.
Chính vì vậy mà em chọn đề tài “Quá trình giải phóng nô lệ ở Mĩ
(1861 -1865)” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Có rất nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập đến vấn
đề chế độ nô lệ và cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ trên thế giới nói chung
và ở nước Mĩ nói riêng. Tuy nhiên các tài liệu tiếng Việt và tài liệu dịch lại
chưa đề cập cụ thể về vấn đề mà người viết tìm hiểu. Có thể kể ra một số tài
liệu liên quan như:
Cuốn “Lịch sử thế giới cận đại (1640 – 1870)” gồm hai quyển của các
tác giả: Phạm Gia Hải, Phan Ngọc Liên, Phan Hữu Lư, Trần Văn Trị, là một
cuốn thông sử, đề cập đến hầu hết những sự kiện lớn trên thế giới giai đoạn
5
nay trong dó có vấn đề chế độ nô lệ và cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ
trong thời kì Nội chiến ở Mĩ. Tuy nhiên, vấn đề này chưa được các tác giả đi
sâu tìm hiểu và chưa có hệ thống.
Tác giả Eric Foner trong cuốn “Lược sử nước Mĩ thời kì tái thiết
(1863 – 1977)”. Đây là cuốn sách rút ngọn của cuốn “Tái thiết cuộc cách
mạng dở dang của Hoa Kì (1863 – 1877)” của tác giả. Tuy đã được rút ngọn
nhưng những vấn đề chính yếu của lịch sử Hoa Kì thời kì này vẫn được tác
giả diễn tả một cách khá chi tiết. Trong cuốn sách Eric Foner đã đề cập đến
những vấn đề sự ra đời của bản tuyên ngôn giải phóng nô lệ, vấn đề người da
đen, công cuộc tái thiết nước Mĩ. Nhưng tác giả mới chỉ diễn tả được bối cảnh
và tình hình chung của hai miền Nam – Bắc nước Mĩ chứ chưa đề cập đến
vấn đề cụ thể mà tác giả nghiên cứu. Song đây cũng là nguồn tài liệu tham
khảo có giá trị để nghiên cứu đề tài.
Tác giả Nguyễn Thái Yên Hương trong cuốn “Liên bang Mĩ, đặc điểm
xã hội - văn hóa” đã trình bày về tình hình nước Mĩ trước Nội chiến, ở một
mức độ nào đó đã phân tích về cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, lực lượng
trong xã hội Mĩ xung quanh vấn đề nô lệ và cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ nô
lệ trước Nội chiến.
Tìm hiểu về vấn đề nô lệ và cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ chúng ta
không thể không kể tới tác giả F.Ia.Pooolianxki, trong hai cuốn “Lịch sử kinh
tế các nước ngoài Liên Xô”, tập một (thời phong kiến) và tập hai (thời chủ
nghĩa tư bản) do Trương Hữu Quýnh và Lương Ninh dịch, xuất bản tại NXB
khoa học xã hội năm 1978. Poolianxki đã đề cập đến việc buôn bán nô lệ da
đen, nguyên nhân của việc buôn bán nô lệ và tình trạng hủy diệt người da đỏ,
nhu cầu về lao động ở châu Mĩ….Những tư liệu mà Poolianxki đã đưa ra chủ
yếu đề cập đến vấn đề buôn bán nô lệ da đen nhưng vấn đề về chế độ nô lệ cà
cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mĩ được tác giả đề cập rất hạn chế.
6
Các tác gia kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin như Mác, Ănghen
cũng đề cập đến vấn đề này nhưng chỉ ở mức độ khái quát, lí luận, chưa cụ
thể và tạo thành hệ thống.
Ngoài ra, chúng ta phải kể đến các công trình chuyên khảo cũng ít
nhiều đề cập đến vấn đề này như những khóa luận tốt nghiệp:
Tác giả Nguyễn Thị Nga, khoa lịch sử, trường đại học sư phạm Hà Nội
năm 1987 với đề tài “Chế độ nô lệ và cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở
Bắc Mĩ”. Đề tài nghiên cứu những nét cơ bản về chế độ nô lệ và cuộc đấu
tranh xóa bỏ nó ở Bắc Mĩ, đặc biệt là ở miền Nam nước Mĩ. Tác giả đi sâu
vào tìm hiểu về sự ra đời và phát triển của chế độ nô lệ, tình cảnh người nô lệ
trong xã hội tư bản Mĩ và những phong trào đấu tranh tiêu biểu của những
người nô lệ và nhân dân Mĩ chống chế độ tàn bạo này. Tuy nhiên, những vấn
đề như, yêu cầu xóa bỏ chế độ nô lệ, tác động của việc xóa bỏ chế độ nô lệ ở
Mĩ…vẫn chưa được tác giả nói tới.
Tác giả Nguyễn Hồng Liên, khoa Lịch sử, trường Đại học sư phạm Hà
Nội với đề tài “Lịch sử buôn bán nô lệ da đen (XV – XIX) và cuộc đấu
tranh xóa bỏ nó (cuối XVIII – cuối XIX)” năm 2008. Đây là đề tài tác giả
tập trung nghiên cứu về việc buôn bán nô lệ da đen, còn vấn đề đấu tranh xóa
bỏ việc buôn bán nô lệ và chế độ nô lệ được đề cập ở tất cả các châu lục như :
châu Âu, châu Phi và châu Mỹ nên khi đề cập đến vấn đề chế độ nô lệ và cuộc
đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mĩ cũng chỉ dừng lại ở mức độ sơ lược.
Tác giả Phùng Thị Hà, khoa Lịch Sử, trường Đại học sư phạm Hà Nội
với đề tài “Bản tuyên ngôn giải phóng nô lệ của nước Mĩ và tác động của
nó đến tình hình nước Mĩ trong thời kì nội chiến (1863 - 1865)” khóa luận
tốt nghiệp năm 2010, đã đề cập khá chi tiết và đầy đủ về tình hình nước Mĩ
trong thời kì Nội chiến, đặc biệt là bản “Tuyên ngôn giải phóng nô lệ” do tổng
thống Abraham Linconl soạn thảo. Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu trọng tâm về
7
vấn đề của bản Tuyên ngôn giải phóng nô lệ và tác động của nó chứ chưa diễn
tả cụ thể quá trình đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mĩ.
Đề tài: “Tổng thống Abraham Linconl (1809 – 1865)” của tác giả Lù
Văn Thành khoa Lịch Sử, trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong khóa luận
tốt nghiệp năm 2005 đã đề cập khá chi tiết về con người Abraham Linconl –
một con người giản dị, chân thực, gắn bó và cảm thông với người lao động
nghèo khổ. Tác giả đã phân tích khá đầy đủ về nhận thức của Abraham
Linconl trước những sự thực lịch sử ở nước Mĩ trước Nội chiến để thấy được
thái độ của ông đối với chế độ nô lệ, từ đó dẫn đến hành động đấu tranh xóa
bỏ chế độ nô lệ và ban bố bản Tuyên ngôn giải phóng nô lệ.
Ngoài ra, còn có một số trang web có đề cập đên các vấn đề về cuộc
Nội chiến Mĩ, về Abraham Linconl như: http//www.mrlincolnandfreedom.
Org; http//www.mrlincolnandnewyork.org…cũng cung cấp một số tài liệu
liên quan đến đề tài.
Như vậy, điểm lại các tài liệu trong và ngoài nước đều chưa có một
công trình chuyên sâu nào nghiên cứu về quá trình giải phóng nô lệ ở Mĩ giai
đoạn 1861 -1865. Vì vậy, đây cũng là cơ sở để tôi lựa chọn đề tài này làm
khóa luận tốt nghiệp của mình.
3. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Về đối tượng nghiên cứu của đề tài: của khóa luận là quá trình giải
phóng nô lệ ở Mĩ giai đoạn 1861 – 1865. Bao gồm những nét khái quát nhất
về tình hình nước Mĩ nửa đấu thế kỉ XIX, sự ra đời của chế độ nô lệ và yêu
cầu xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mĩ, cũng như tác động của quá trình giải phóng nô
lệ đến tình hình nước Mĩ trong thời kì Nội chiến. Tuy nhiên, do lịch sử nước
Mĩ giai đoạn này bao gồm rất nhiều vấn đề lớn nên đề tài chỉ đi sâu vào tìm
hiểu quá trình giải phóng nô lệ và tác động của nó đến lịch sử nước Mĩ.
8
* Về nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: Xuất phát từ đối tượng nghiên
cứu là quá trình giải phóng nô lệ ở Mĩ (1861 – 1865) nên nhiệm vụ của khóa
luận là:
Phân tích sự ra đời của chế độ nô lệ và yêu cầu xóa bỏ chế độ nô lệ ở
Mĩ bao gồm việc khái quát tình hình nước Mĩ trong nửa đầu thế kỉ XIX, sự ra
đời của chế độ nô lệ, ảnh hưởng cũng như tác động của chế độ nô lệ đến lịch
sử nước Mĩ và những yêu cầu xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mĩ, trong đó phân tích cả
yêu cầu khách quan và yêu cầu chủ quan, để làm rõ những nguyên nhân dẫn
đến quá trình đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mĩ.
Đi sâu tìm hiểu quá trình giải phóng nô lệ ở Mĩ. Quá trình này có thể
chia ra làm 3 giai đoạn: trước, trong và sau cuộc Nội chiến (1861 – 1865).
Sau đó, phân tích những tác động của quá trình giải phóng nô lệ đến lịch sử
nước Mĩ, đặc biệt là những tác động đến sự phát triển kinh tế nước Mĩ, những
thay đổi về địa vị chính trị, kinh tế của người da đen.
*Về phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về không gian: đề tài tìm hiểu về sự giải phóng chế độ nô lệ ở Hợp
chủng quốc Hoa Kì.
Về thời gian: đề tài tập trung nghiên cứu chủ yếu trong giai đoạn 1861
– 1865.
4. Phương pháp nghiên cứu và phương pháp luận
Phương pháp luận: Để thực hiện đề tài, người viết đã dựa trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng về nghiên cứu khoa học lịch sử. Đó là kim chỉ nam trong quá
trình xử lý, hệ thống, khai thác và sử dụng tư kiệu liên quan đến nội dung
nghiên cứu.
Về phương pháp nghiên cứu, người viết vận dụng phương pháp lịch sử,
phương pháp logic nhằm đảm bảo tính khách quan trong nghiên cứu các sự
9
kiện, hiện tượng lịch sử. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu bổ trợ khác như phân tích, so sánh, tổng hợp, liệt kê…..để rút ra
những nhận xét cần thiết.
5. Đóng góp của đề tài
Về mặt khoa học: Khóa luận là một công trình khoa học, tìm hiểu một
cách có hệ thống về chế độ nô lệ và quá trình giải phóng nô lệ ở Mĩ giai đoạn
1861 – 1865, từ đó cho ta thấy một bức tranh khái quát về xã hội Mĩ trong
thời kì Nội chiến và hiểu sâu sắc hơn về bản chất của chủ nghĩa tư bản Mĩ
dưới lá bài “thế giới tự do”.
Về mặt thực tiễn: Việc nghiên cứu đề tài đáp ứng nhu cầu tìm hiểu toàn
diện về lịch sử nước Mĩ trong thời kì cận đại. Đồng thời công trình có thể là
một nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho sinh viên chuyên ngành lịch sử thế
giới cận đại, cho việc dạy và học lịch sử thế giới giai đoạn này ở chương trình
phổ thông và những ai có nhu cầu đi sâu tìm hiểu về quá trình giải phóng nô
lệ ở Mĩ.
Khóa luận cũng cung cấp một số tư liệu liên quan đến vấn đề nghiên
cứu, đặc biệt là một số tranh ảnh hay một số thông tin về những nhân vật điển
hình trong thời kì Nội chiến Mĩ, đặc biệt là những nhân vật liên quan trực tiếp
đến cuộc đấu tranh giải phóng nô lệ.
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khóa luận được trình bày theo 2 chương:
Chương 1: Chế độ nô lệ và yêu cầu xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mĩ
Chương 2: Quá trình giải phóng chế độ nô lệ ở Mĩ
10
Chương 1
CHẾ ĐỘ NÔ LỆ VÀ YÊU CẦU XÓA BỎ CHẾ ĐỘ NÔ LỆ Ở MĨ
1.1. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ NƯỚC MĨ NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX
Sau khi giành được độc lập, một dân tộc mới – dân tộc Mĩ vừa được
sinh ra trong cách mạng bắt đầu vươn mình, làm nên những biến đổi lớn. Từ
một loạt những khu định cư bên bờ Đại Tây Dương đã mở rộng lãnh thổ của
mình sang tận bờ Thái Bình Dương.
Bằng nhiều thủ đoạn khác nhau, các nhà lãnh đạo của Mĩ đã lần lượt
thôn tính được nhiều vùng đất rộng lớn như mua lại của Pháp, tước đoạt từ
tay Tây Ban Nha, xâm chiếm vùng đất từ tay người bản địa, chiến tranh với
Mexico…nó đã biến những bang Florira, Texas, New Mexico…thành một dải
đất chung của người Mĩ.
Đến giữa thế kỉ thứ XIX nước Mĩ đã trải rộng từ bờ Đại Tây Dương
đến tận bờ Thái Bình Dương, một vùng đất mênh mông tràn đầy nhựa sống.
Mĩ trở thành một tên đế quốc thực dân trẻ tuổi hùng mạnh. Cho tới “1853
diện tích nước Mĩ lên tới 3.062.798 dặm vuông (một dặm bằng 1,6km2)” [5;
44]. Đây là điều mà các bậc tổ phụ của người Mĩ không bao giờ dám mơ ước
khi họ đổ bộ lên Plymouth Rock mấy thế kỉ trước.
Việc mở rộng đất đai đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế của Mĩ. Có thể nói những vùng đất mới mênh mông, giàu tài
nguyên này chính là “kho vàng” để nước Mĩ nhanh chóng vươn lên đuổi kịp
các nước châu Âu và trở thành một siêu cường trên thế giới. Đồng thời, vùng
đất tràn đầy nhựa sống này đã trở thành điểm đến, ước mơ của hàng triệu
người dân trên thế giới.
Vì thế cùng với việc mở rộng lãnh thổ sang phía Tây, kéo theo một
phong trào di dân về phía Tây một cách đại qui mô. Những dòng người nô
nức, những đoàn xe kéo nhau đi thẳng tiến về phía Tây như dòng thác lũ đang
11
chảy cuồn cuộn về phía trước. Từ nhỏ đền già, từ nam đến nữ, từ chủ đến thợ,
tất cả đều đi tìm một cái mới với khát vọng đổi đời. “Từ năm 1787 – 1850 đã
có gần năm triệu người di cư từ châu Âu sang châu Mĩ” [1; 364]. Việc di cư
ồ ạt sang Mĩ là hậu quả của nạn đói vào cuối những năm 1840 ở Aixơlen, của
sự thất bại trong cách mạng 1848 – 1849 ở châu Âu và sự phát hiện ra mỏ
vàng ở California. Dòng người di thực đã tràn vào các vùng đất thực dân mới
xác lập của Mĩ đã làm cho dân số tăng nhanh. “Dân số tăng từ 7,22 triệu
người lên tới 23 triệu người từ năm 1812 – 1852. Đất đai có sẵn cho việc
định cư tăng gần bằng diện tích châu Âu từ 4,4 triệu lên tới 7,8 triệu km2”
[11; 166].
Cùng với công cuộc bành trướng đất đai và di dân sang phía Tây.
Những nhà tư sản trẻ tuổi Mĩ đã mưu toan mở rộng sự thống trị của mình đối
với các nước Mĩ La tinh mới giành được độc lập. Mở đầu cho âm mưu đó là
học thuyết Mơnrô được Tổng thống Mơnrô tuyên bố tháng 12 năm 1823 “Lục
địa châu Mĩ đã chọn và duy trì được độc lập, tương lai của nó không thể bị
một cường quốc châu Âu nào đô hộ nữa” [18; 554] với khẩu hiệu: châu Mĩ
của người châu Mĩ
Học thuyết Mơnrô được đưa ra khi các nước Mĩ La tinh vừa mời giành
được độc lập, do đó nó cũng có những tiến bộ nhất định. Nhưng đó chỉ là thủ
đoạn, sự thật vẫn không gì che giấu nổi. Thực chất, đế quốc Mĩ muốn độc
chiếm toàn bộ thị trường châu Mĩ, trước khi muốn vươn tới nhiều khu vực
khác trên trái đất. Vì thế chỉ hai năm sau khi học thuyết Mơnrô ra đời, Mĩ đã
cho quân chiếm đảo Puectorico thuộc địa của Tây Ban Nha. Đúng như
Uyliam Phosto đã viết: không còn nghi ngờ gì nữa, ngay từ đầu chủ nghĩa
Monro đã mang sẵn ý đồ muốn thiết lập bá quyền của Mĩ ở khắp Tây bán cầu.
Năm 1853, Mĩ uy hiếp Nhật Bản mở cửa, năm 1854 tham gia can thiệp vào
chiến tranh thuốc phiện lần hai ở Trung Quốc. Như vậy, từ giữa thế kỉ XIX
12
nước Mĩ tư bản đã trở thành một tên đế quốc đầy tham vọng muốn chiếm
nhiều đất đai.
Cùng với việc bành trướng lãnh thổ, nền kinh tế tư bản chủ ngĩa Mĩ do
được thừa hưởng rất nhiều thành tựu cách mạng kĩ thuật của châu Âu, đặc biệt
là cách mạng công nghiệp Anh nên nó cũng phát triển một cách mạnh mẽ.
Từ cuối thế kỉ thứ XVIII, nước Mĩ đã bắt đầu với cuộc cách mạng công
nghiệp, ngành công nghiệp phát triển sớm nhất là ngành dệt sợi bông vải.
Trong nửa đầu thế kỉ XIX, công nghiệp dệt đã có nhiều tiến bộ nhanh chóng.
Chỉ trong 25 năm (1815 – 1840) số lượng sợi bông sử dụng tăng gấp 5 lần
“đồng thời vào đầu thế kỉ thứ XIX công nghiệp len dạ cũng được xúc tiến xây
dựng. Năm 1840 có 24 nhà máy. Từ 1830 người ta bắt đầu xây dựng nhiều
nhà máy qui mô lớn. Trong thời gian từ 1840 – 1860 số xí nghiệp được xây
dựng tăng từ 1420 lên 1909. Giá trị sản phẩm thặng dư tăng 2,6 triệu lên
68,8 USD”. [5;45]
Từ năm 1814 trở đi hầu hết các ngành công nghiệp Mĩ đều đã sử dụng
máy móc. Chế độ sản xuất trên cơ sở công xưởng đã thay thế chế độ sản xuất
trên cơ sở thủ công. “Đến thập niên 40, ở Mĩ đã bắt đầu dùng máy móc chế
tạo máy móc. Điều đó đã dánh dấu cách mạng công nghiệp ở Mĩ đã bước vào
một giai đoạn càng cao hơn. Kết quả của cuộc cách mạng công nghiệp ở Mĩ,
hiệu suất lao động được nâng cao một cách rõ rệt, sản lượng tăng. Sản lượng
than đá năm 1840 là 2 triệu tấn dến năm 1860 lên hơn 100 triệu tấn. Sản
lượng ga năm 1840 là 320 nghìn tấn đến năm 1860 tăng lên 920 nghìn
tấn”.[20; 12]
Sự phát triển công nghiệp đòi hỏi các vùng trao đổi nhiều hơn. Do đó
vấn đề vận chuyển, giao thông được đặt ra cấp bách. Chính phủ bắt tay vào
xây dựng hệ thống đướng xá, cầu cống một cách cấp tốc. Nhất là công nghiệp
đướng sắt phát triển nhanh chóng. “Năm 1850 Mĩ đã xây dựng được 15 nghìn
13
km, đứng hàng đầu thế giới. Đến năm 1860 đã dài tới 49 287 km. Những hệ
thống đường xe lửa lớn tại miền bờ biển Đại Tây Dương, những trung tâm
New York, Pelxinvania… được nối với miền Tây rộng lớn. Việc cung cấp
lương thực, nguyên liệu cho các trung tâm công nghiệp được giải quyết kịp
thời nhờ sự phát triển của đường sắt. Năm 1860 đã có tới 460 đầu máy xe lửa
chế tạo tại Mĩ” [18; 184]
Nhìn chung cách mạng công nghiệp phát triển với tốc độ khá nhanh.
“Năm 1850 giá trị sản lượng công nghiệp đã vượt quá giá trị sản lượng nông
nghiệp” [5; 45]. Nhiều thành phố, thị trấn công nghiệp mọc lên như rừng dọc
theo bờ biển Đại Tây Dương. “Điều đáng chú ý là công nghiệp chế tạo máy
đã trở thành một ngành công nghiệp quan trọng. Đến giữa thế kỉ XIX, sản
xuất công nghiệp Mĩ đứng hàng thứ tư trên thế giới” [18; 185]. Tuy nhiên, sự
phát triển này chưa đều trên toàn liên bang, chủ yếu nó chỉ tập trung ở phía
Bắc.
Đằng sau sự phát triển của chủ nghĩa tư bản không thể không nói đến
lực lượng lao động đông đảo – công nhân. Cũng như bất cứ nước nào, công
nhân Mĩ cũng bị bóc lột kiệt sức và đói khổ, thất nghiệp, chết chóc luôn đe
dọa họ. Đó là lí do họ đứng lên đấu tranh. “Từ 1833 – 1837 ở Mĩ có tới 168
cuộc bãi công đại qui mô thành phố” [18; 186].
Công nghiệp chế tạo máy không chỉ hạn chế trong phục vụ công nghiệp
mà còn mở rộng chế tạo ra các máy phục vị cho nông nghiệp. Việc sử dụng
máy móc trong nông nghiệp đã làm tăng năng suất và ngược lại nông nghiệp
phát triển đáp ứng kịp thời nhu cầu nguyên liệu và lương thực cho công
nghiệp. Vì thế, công nghiệp và nông nghiệp sớm gắn bó với nhau.
Tuy nhiên, sự phát triển của nông nghiệp nước Mĩ lại có sự đối lập giữa
hai miền Nam – Bắc trong một liên bang thống nhất. Cụ thể đây là sự khác
biệt giữa hai khuynh hướng phát triển của chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp.
14
Trong khi miền Bắc nông nghiệp phát triển mạnh theo con đường trang trại tư
bản chủ nghĩa và hầu hết những trang trại tư bản chủ nghĩa hiên đại đều áp
dụng máy móc, kĩ thuật tiên tiến như máy xới, máy gieo hạt, máy thu hoạch
lúa, máy cày bằng động cơ hơi nước…. Việc sử dụng máy móc cho phép con
người mở rộng diện tích canh tác và tăng vụ, nên sản lượng nông nghiệp tăng.
“Từ 1840 – 1860 chỉ trong vòng 20 năm việc sản xuất lương thực ở các bang
Tây Bắc tăng gấp ba lần” [18; 186], đến giữa thế kỉ XIX thành phố Chicago
trở thành vựa lúa thế giới.
Còn miền Nam, chế độ nô lệ đồn điền vẫn còn ngự trị trong nông
nghiệp. Những đồn điền ở đây kinh doanh theo con đường kinh tế nô lệ, chủ
yếu trồng bông, mía, thuốc lá. Cùng với nhu cầu của bông vải của thị trường
miền Bắc, diện tích trồng bông cũng được mở rộng. Việc mở rộng sản xuất
của họ là dựa vào sự bóc lột tàn nhẫn đối với nô lệ. Những đồng tiền trong túi
của chủ nô đều từ giọt máu, giọt mồ hôi của người nô lệ làm nên. Họ phải làm
việc dưới làn roi vọt trong tầm kiểm soát của chủ như những tên tù khổ sai.
Vì thế ta có thể ví chế độ nô lệ ở Mĩ như chế độ nô lệ thời cổ đại ở Hi Lạp.
Song cái khác của nó là chế độ nô lệ ở Mĩ là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản,
được giai cấp tư bản sử dụng để phục vụ cho họ. Vì sử dụng chủ yếu là lao
động đồn điền nên ở các đồn điền phía Nam ít sử dụng máy móc, kĩ thuật,
năng suất thấp. Các chủ đồn điền ở đây luôn muốn tìm những vùng đất mới
để thay thế các vùng đất bạc màu phía Nam.
Bởi đặc điểm của nền kinh tế Mĩ như vậy nên thúc đẩy chế độ nô lệ đồn
điền phát triển, mạnh nhất là các đồn điền phía Nam lãnh thổ Hoa Kì.
Trong quá trình phát triển và tồn tại của hai hệ thống nông nghiệp Nam
– Bắc một vấn đề có tính chất thời sự đặt ra là cả hai hệ thống này cùng muốn
vươn sang phía Tây.
15
Giai cấp tư sản ở miền Bắc nước Mĩ muốn biến vùng đất phía Tây trở
thành hậu phương nông nghiệp tư bản chủ nghĩa chuyên cung cấp nguyên liệu,
lương thực cho nó. Cũng như muốn biến nó thành thị trường tiêu thụ sản
phẩm công nghiệp của mình. Với họ chỉ có việc đẩy mạnh cho kinh tế nông
nghiệp phát triển thì mới đạt được mục đích đó. Vì thế họ chủ trương chống
lại việc mở rộng chế độ nô lệ sang phía tây và chủ trương thành lập những
tiểu bang tự do.
Còn chủ nô miền Nam cũng muốn nhảy vào vùng đất này với mục đích
thay thế vùng đất bạc màu ở miền Nam. Hơn nữa sau khi Eli Whitney phát
minh ra máy tuốt hạt bông cho phép cơ giới hóa việc kéo sợi đã làm cho việc
trông bông phát triển mạnh mẽ ở miền Nam. Cộng thêm nhu cầu về bông vải
của châu Âu sau chiến tranh Napoleon. Để đáp ứng tất yếu phải mở rộng việc
trồng bông, mà việc trồng bông chỉ có lợi khi sử dụng lao động nô lệ. Vì thế,
các chủ đồn điền miền Nam muốn mở rộng chế độ nô lệ sang phía Tây.
Vì mục đích riêng của mình hai bên chủ nô và tư sản giành giật, tranh
chấp nhau từng tấc đất ở miền Tây. Mâu thuẫn ngày càng gay gắt, những nhà
tư bản miền Bắc tập trung quyền lực ở trung ương để thống nhất điều khiển
kinh tế, đòi hỏi phải đánh thuế cao các hàng công nghiệp nhập vào. Còn chủ
nô muốn thuế quan thấp để mua hàng rẻ của châu Âu.
Mâu thuẫn trong đường lối phát triển kinh tế ngày càng gay gắt và đã
trở thành một vấn đề cần bàn trong Quốc hội. Quốc hội liên tiếp đối mặt với
sức ép của cả hai thế lực.
Sự tồn tại của chế độ nô lệ vừa ảnh hưởng tới sự phát triển nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa mà còn duy trì tình trạng tồi tệ, bất công trong xã hội Mĩ.
Nhất là các nước Mĩ La tinh xung quanh đã vứt bỏ chế độ nô lệ mà riêng
nước Mĩ vẫn còn duy trì chế độ này.
16
Mâu thuẫn giữa hai miền Nam – Bắc ngày càng trở nên gay gắt, đăc
biệt đến giữa thế kỉ XIX mâu thuẫn này đã lên tới đỉnh điểm mà biểu hiện của
nó là cuộc Nội chiến đẫm máu nhất trong lịch sử nước Mĩ, người ta thường
gọi đó là cuộc chiến tranh ly khai.
1.2. SỰ RA ĐỜI CỦA CHẾ ĐỘ NÔ LỆ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA CHẾ
ĐỘ NÔ LỆ ĐẾN LỊCH SỬ NƯỚC MĨ
1.2.1. Sự ra đời của chế độ nô lệ ở Mĩ
Chế độ nô lệ xuất hiện từ thời tiền sử và nó được thể chế hóa khi xã hội
loài người đạt đến những tiến bộ nhất định về trình độ sản xuất - xã hội chiếm
hữu nô lệ. Chế độ nô lệ (slavery) là chế độ kinh tế xã hội dựa trên sự bóc lột
sức lao động của người nô lệ. Hay nói cách khác, nó dựa trên sự thống trị và
sự qui phục bằng cách một người có quyền sở hữu người khác và có quyền
yêu cầu người đó phục vụ mình.
Chế độ chiếm hữu nô lệ là một hình thái kinh tế xã hội ra đời và tồn tại
từ khoảng thế kỉ VIII – VII TCN đến thế kỉ V. Trong thời gian đó ở các nước
có chế độ chiếm nô điển hình, nô lệ là lực lượng lao động chủ yếu sản xuất ra
của cải vật chất và nuôi sống xã hội. Cũng trong thời gian đó nô lệ là món
hàng để trao đổi, mua bán. Ngoài những nô lệ bị bắt làm tù binh trong các
cuộc chiến tranh, người ta còn mua nô lệ từ các nơi khác về. Các chợ chuyên
buôn bán nô lệ như: Chois, Rhodef và Delos phát triển từ rất sớm và mạnh
trong suốt thời đại hoàng kim của Hy Lạp. Ephesus là chợ buôn bán nô lệ lớn
nhất ở Địa Trung Hải trong vòng hàng trăm năm. Ở Roma, buôn bán nô lệ trở
thành ngành kinh doanh đầy lời lãi. Lúc này, người châu Phi (đặc biệt người
Ethiopia) cũng đã bị bắt làm nô lệ.
Những tưởng chế độ nô lệ và buôn bán nô lệ đã chấm dứt vào thế kỉ V,
khi những bộ tộc người Giecman chiếm đoạt ngôi báu của hoàng đế Tây La
Mã và xây dựng vương quốc của mình. Nhưng đến thời kì tư bản chủ nghĩa,
17
1000 năm sau chế độ này lại được khôi phục lại ở châu Mĩ. Phải chăng đó là
một bước lùi của lịch sử, khi Marx đã khẳng định xã hội loài người phát triển
từ thấp đến cao và lần lượt trải qua các hình thái kinh tế xã hội từ cộng sản
nguyên thủy – chiếm hữu nô lệ - chế độ phong kiến – chủ nghĩa tư bản – cộng
sản nguyên thủy (giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội).
Chế độ nô lệ ở châu Mĩ thời cận đại cũng là chế độ người bóc lột người,
cưỡng bức lao động của các chủ đồn điền đối với người da đen từ châu Phi bị
bán làm nô lệ ở châu Mĩ. Tuy nhiên, chế độ này phát sinh và tồn tại trên cơ sở
của sự phát triển tư bản chủ nghĩa, mang lại sự giàu có và sự phồn vinh cho
các ông chủ tư bản Tây Âu. Do đó, chế độ nô lệ ở châu Mĩ không hoàn toàn
giống chế độ nô lệ ở thời cổ đại.
Để chế độ nô lệ ở châu Mĩ có thể tồn tại được, trong khi việc cưỡng
bức lao động đối với người Indian không mấy hiệu quả và sự giảm sút đáng
kể đã dẫn tới sự tuyệt diệt người da đỏ ở một số nơi đã khiến các nhà tư bản
phải quay sang một hướng khác: Mua sức lao động từ nơi khác về để đáp ứng
nhu cầu về nhân công lao động đang trở nên ngày càng cấp bách. Từ đó buôn
bán người da đen từ châu Phi sang làm nô lệ ở châu Mĩ ngày càng trở thành
nguồn lợi nhuận lớn và qui mô ngày càng được mở rộng trong các thế kỉ XVI
– XVIII.
Chúng ta có thể nói rằng, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Bắc Mĩ
là nguồn gốc đẻ ra chế độ nô lệ. Bởi vì ngay trong lòng xã hội Mĩ tư bản chủ
nghĩa đã phát triển đúng với qui luật của nó là tồn tại trên sự cướp đoạt của
con người. Những tên thực dân ở Bắc Mĩ đã lợi dụng những thành tựu của
người Indian. Chúng đã sớm khởi hành việc cướp bóc người Indian. Những
tên thực dân chủ mưu trong việc này là bọn thực dân Tây Ban Nha từ thời
Columbus. Sau này bọn thực dân các nước khác cũng chỉ bắt trước chúng mà
thôi. Bắt đầu vào thế kỉ XVI, Anh cũng tiến hành các cuộc khẩn thực và âm
18
mưu thành lập vùng cư trú của người Anh ở Bắc Mĩ. Người Nga cũng tham
gia vào công cuộc khẩn thực, nhưng công cuộc khẩn thực của người Nga
không phát triển được. Ngoài ra còn có người Hà Lan, nhưng chủ yếu vẫn là
người Tây Ban Nha. Người Tây Ban Nha đã trở thành lãnh chúa ở Bắc Mĩ.
Chúng đã thi hành những chính sách rất tàn bạo: thủ tiêu hầu như toàn bộ nền
văn minh trước đây của người Indian, lập nên những thuộc địa bao la rộng lớn.
Dưới những chính sách bóc lột, người Indian đã bị biến làm nô lệ bởi cơn
khát vàng của chúng. Vì vậy, lịch sử Bắc Mĩ cận đại là lịch sử đầy máu và
nước mắt. Lao động cưỡng bức trở thành số phận của những thổ dân bị đẩy
xuống địa vị những người nô lệ. Người Tây Ban Nha thực hành rộng rãi việc
biến người Indian thành nô lệ. Những người Indian bị bọn mạo hiểm bắt được
sau đó bị đem bán cho chủ đồn điền như một món hời và việc buôn bán nô lệ
thực sự xuất hiện. Chế độ nô lệ được củng cố vững chắc ở phần châu Mỹ
thuộc Tây Ban Nha. Người Tây Ban Nha sử dụng lao động cưỡng bức của
người Indian vào mục đích phát triển những ngành sản xuất cung cấp sản
phẩm quý để xuất khẩu sang châu Âu. Ngay từ thời Columbus những đồn
điền trồng mía ngày càng được mở rộng trên lãnh thổ Bắc Mĩ. Tuy nhiên, do
sự bóc lột tàn nhẫn lao động khổ sai tới mức hủy hoại cơ thể người Indian. Họ
chịu không nổi nên bị chết hàng loạt. Nhưng, những kẻ chinh phục Tây Ban
Nha đã tìm ra giải pháp căn bản cho vấn đề sức lao động bằng việc sử dụng
người da đen châu Phi vì họ có sức chịu đựng tốt hơn người Indian, dân di
thực từ châu Âu sang và việc buôn bán nô lệ da đen ở châu Phi xuất hiện.
Từ khi chế độ nô lệ được xác lập thì nó ngày càng phát triển và được
củng cố. Đặc biệt là việc tăng cường bóc lột của bọn thống trị và việc buôn
bán nô lệ da đen ngày càng làm cho chế độ nô lệ phát triển.
Chế độ nô lệ được xác lập chủ yếu dưới hình thức nô lệ đồn điền mà
tồn tại nhiều ở miền Nam nước Mĩ bởi điều kiện phát triển của nó. Chế độ nô
19
lệ đồn điền có ý nghĩa tiên quyết cho sự tồn tại của hình thức sở hữu ruộng
đất ở miền Nam nước Mĩ. Sử dụng nô lệ trong các đồn điền ở miền Nam là
đặc trưng của nền kinh tế bắc Mĩ. Những người nô lệ, ngoài những con nợ
không trả được nợ, những kẻ lang thang không nhà cửa từ châu Âu sang thì
chủ yếu là nhưng người da đen bị cưỡng bức từ châu Phi. Người ta tính rằng,
hằng năm vào đầu thế kỉ XVIII, các thuyền buôn Anh đã trở từ châu Phi sang
tân thế giới khoảng 20.000 nô lệ. Con đường đi của họ là những câu chuyện
dài và kinh khủng gồm 30% những hàng sống này đã chết dọc đường. Khi
mắc bệnh tật họ bị vứt ra khỏi tàu như những con vật bị đói khát, bệnh truyền
nhiễm là những bạn đường của họ. Trường hợp thiếu nước, gặp cướp biển chủ
tàu ra lệnh vứt bỏ bớt cho cá mập.
Chế độ nô lệ trong chừng mực nào đó nó góp phần phá sản nền kinh tế
trang trại nhỏ. Càng tiến sâu vào thế kỉ XIX, chế độ nô lệ đồn điền càng có xu
hướng lấn áp nền kinh tế trang trại, hòng phủ trùm bóng đen của chế độ nô lệ
không chỉ ở miền Nam mà còn cả miền Bắc, thậm chí cả miền Tây nữa.
Chế độ nô lệ đồn điền tồn tại dai dẳng trong gần một thế kỉ. Trong khi
ở miền Bắc và miền Tây chế độ trang trại phát triển mạnh mẽ và giành được
phần thắng thì trái lại ở miền Nam chế độ nô lệ đồn điền không những được
bảo tồn mà còn được phát triển lên đến đỉnh cao của nó. Đặc biệt sau phát
minh máy cán bông năm 1793 và phát triển sản xuất đường mía năm 1795,
chế độ nô lệ đồn điền đã lan rộng nhanh chóng ở miền Nam.
Chế độ nô lệ là con đẻ của chủ nghĩa thực dân. Khi chế độ nô lệ ra đời,
thì từ thế kỉ XVII – XVIII nó đã phát triển rộng rãi trên các đất của thực dân
Anh ở bắc Mĩ và sau này là hợp chủng quốc Hoa Kì đã thừa hưởng. Có thể
nói “lịch sử Hợp chủng quốc bắt đầu từ chế độ nô lệ chứ không phải sự tự
do” [9;125]. Chế độ nô lệ là điểm xuất phát của sự phát triển kinh tế Hợp
chủng quốc, của sự làm giàu giai cấp tư sản Mĩ. Lịch sử đẫm máu của chế độ
20
nô lệ đồn điền đã vạch rõ bản chất mị dân trong các thần tượng “nền tự do
Mĩ”.
Với chế độ nô lệ đồn điền, một lực lượng nô lệ lớn gồm đủ các hạng
người (nhiều màu da), nhưng chủ yếu là nô lệ da đen. Thổ dân người Indian
sống ở những nơi núi cao rừng rậm, thung lũng hẹp, họ không có quyền lợi –
kinh tế - chính trị gì cả và luôn đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt. Người da đen
gốc Phi mà bọn chủ đồn điền mua của bọn lái buôn nô lệ châu Âu đưa từ châu
Phi sang đều bị đối xử một cách tàn tệ nhất. Một số nô lệ là người da trắng,
quyền lợi của họ có hơn nô lệ da đen nhưng họ cũng không có quyền tham gia
chính quyền các tỉnh và trung ương.
Ở đây, vật hi sinh của chủ nghĩa thực dân không phải chỉ là người da
đen. Suốt trong hai thế kỉ ròng, ngay những người di dân châu Âu cũng đã lại
bị nô dịch. Người da trắng nói chung cũng không thoát khỏi chế độ nô lệ Mĩ.
Mà ngược lại nô lệ da trắng rất nhiều. Một số nô lệ loại này vốn là những
người bị các điều luật ác liệt của Anh cưỡng bức đưa sang Mĩ để mở rộng
công cuộc khẩn thực ở Bắc Mĩ, nước Anh vào các thế kỉ XVII – XVIII đã đẩy
sang đây 50.000 người bị kết án. Tất nhiên những người này bị rơi vào địa vị
lệ thuộc. Trong những năm 40 của thế kỉ XIII người ta bán sang nước Mĩ một
số tù binh để làm tôi tớ. Những người phạm tội được đưa nhiều nhất sang
Vocginia. Các chủ đồn điền tự nguyện mua những loại này chừng nào mà họ
chịu làm việc trong một thời gian rất dài cho chúng. Những con nợ không trả
được nợ, những kẻ lang thang… đã trở thành nô lệ ở tân thế giới. Việc bóc lột
nô lệ đã mang lại những món lãi kếch xù cho bọn chủ đồn điền.
Sự thực từ năm 1807, việc “du nhập” nô lệ đã bị cấm nhưng nó lại xuất
hiện dưới hình thức buôn lậu. Ở đây, thương nghiệp hóa nền nông nghiệp Mỹ
đã kích thích và bảo tồn chế độ nô lệ. Sự suy kiệt của các đồn điền thuốc lá đã
làm cho việc bóc lột nô lệ trở nên kém sinh lời hơn. Nhưng nghề trồng bông
21
với đầy đủ khả năng và đặc điểm của nó đã giữ chân chế độ nô lệ và đẩy nó lên
quy mô rộng lớn hơn. Đúng như K. Mac đã viết: “Sự phát triển mạnh mẽ của
nghề kéo sợi bông, không chỉ đẩy mạnh nghề trồng bông ở Hợp chủng quốc mà
cả nghề làm nô lệ ở châu Phi” [9; 463]. Quy mô của đồn điền ngày càng rộng
lớn, việc sử dụng lao động nô lệ ngày càng nhiều. Số lượng nô lệ tăng lên
nhanh chóng, đặc biệt bằng hình thức buôn bán nô lệ. Nô lệ do buôn bán từ
châu Phi và nô lệ chính quốc ngày càng tăng lên mạnh mẽ. Theo K. Mac: kể từ
đợt đăng ký nô lệ đầu tiên ở Hợp chủng quốc, số lượng nô lệ là 697.000 nhưng
70 năm sau (năm 1861) con số là gần 4 triệu, tức là gấp 6 lần [9; 460]. Năm
1860, trong các bang chiếm hữu nô lệ của Hợp chủng quốc có 384.000 chủ nô
và 75% nô lệ trực tiếp làm nông nghiệp. Trong số này thì 1733 chủ đồn điền đã
có từ 100 nô lệ trở lên [9; 461]. Cũng có những đồn điền có vào khoảng 20 nô
lệ và gần 700 - 800 ê-cơ đất. Song ở Louisiana, có những đồn điền rộng lớn với
diện tích từ 200.000 – 400.000 ê-cơ đất và có trên 500 nô lệ.
Như vậy, sau gần hai thế kỉ rưỡi qua đi kể từ ngày 20 người nam và nữ
da đen đầu tiên được tàu Hà Lan đưa đến bang Virginia. Từ những hạt giống bé
xíu này đã nảy sinh những chùm quả độc của hiện tượng nô lệ trên các đồn điền.
Chế độ nô lệ ở Mĩ là một chế độ người bóc lột người tàn, ngăn cản sự phát triển
của xã hội, nhưng ở mặt nào đó nó cũng giúp cho nền kinh tế Mĩ đạt được những
thành tựu đáng kể.
1.2.2. Ảnh hưởng của chế độ nô lệ đến lịch sử nước Mĩ
Cho đến khi các nước Tây Âu xâm nhập vào Bắc Mĩ, cư dân ở đây hầu
hết vẫn sống trong thời kì công xã nguyên thủy, một số bộ lạc bước vào thời kì
tan rã của công xã thị tộc, nhưng đạt đến trình độ phát triển nhất là người Azotec,
người Maya và người Inca. Họ đã xây dựng được nhà nước và có trình độ văn
minh cao, có nhiều công trình kiến trúc đồ sộ và vĩ đại. Tuy nhiên, nhược điểm
của họ là sự thiếu thống nhất, có trình độ kĩ thuật thấp. Họ quá sợ hãi và thần
22
thánh hóa những vũ khí của bọn thực dân. Chính điều này mà họ bị bọn thực dân
lợi dụng, chúng không từ một thủ đoạn nào để vơ vét thật nhiều của cải tài
nguyên của Tân lục địa, đi đầu là người Tây Ban Nha. Sau đó các tên thực dân
khác cũng lao vào xâu xé bóc lột châu Mĩ. Nhưng sự bóc lột đến cùng cực đã
làm hủy diệt hàng loạt người dân da đỏ - nguồn cung cấp công nhân tại chỗ bị sa
sút, thậm chí ngưng trệ, còn các hầm mỏ và đồn điền ngày càng đem lại lợi
nhuận khổng lồ, nhu cầu lao động càng trở nên cấp thiết. Xuất phát từ nhu cầu
này, trên thị trường thương mại thế giới Âu – Phi – Tân lục địa đã xuất hiện một
nghề kinh doanh mới được tổ chức với qui mô ngày càng lớn và có hệ thống, đó
là nghề săn bắt người châu Phi bán sang châu Mĩ làm nô lệ.
Người ta giao việc hàng ngày cho nô lệ, hay dùng họ làm người trông
nom nhịp độ lao động của đội người da đen. Bạo lực trực tiếp là một yếu tố của
sản xuất. Người da đen sống trong những túp lều lụp xụp, mặc quần áo vải thô
và hầu như ăn toàn ngô, tiền nuôi một nô lệ vào khoảng 20 USD/năm. Trong lúc
đó, anh ta làm được từ 5 - 10 ê - cơ bông. Những người được gọi là “nô lệ trồng
bông” bị đối xử như một con vật. Ngay từ giữa thế kỷ XIX, ở các bang ở Mĩ bắt
đầu thông qua các luật lệ, vẫn được biết đến dưới tên gọi chung "Đạo luật nô lệ"
(Slave Codes) với nội dung nghiêm cấm nô lệ da đen được sở hữu vũ khí, đi học,
không được tổ chức hội họp hoặc di chuyển nếu như không được phép của chủ
nô... Nô lệ da đen bị hành hạ và đối xử thô bạo.
Bằng việc vắt kiệt sức lao động của nô lệ trong các đồn điền, cũng
như trong các nhà máy, xí nghiệp, giai cấp chủ nô và tư sản Mĩ giàu lên nhanh
chóng. Chế độ nô lệ đã trở thành một động lực quan trọng trong sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản Bắc Mĩ thời kỳ lập quốc.
Trước hết, có thể khẳng định rằng chế độ nô lệ là một sản phẩm hoàn
toàn hợp quy luật trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Mĩ, nó “không phải
là một hiện tượng tuyệt đối xa lạ với chủ nghĩa tư bản, khi mà sự phát triển
23
của công nghiệp tư bản chủ nghĩa đã đẻ ra và đẩy mạnh sự bành trướng của
chế độ nô lệ”. [9; 469]. Ngay từ đầu, chế độ nô lệ đóng một vai trò quan trọng
trong đời sống kinh tế, xã hội Mĩ. Ở đây, cũng như máy móc, tín dụng… chế
độ nô lệ trực tiếp là cơ sở của nền công nghiệp tư sản. Không có chế độ nô lệ
thì không có bông; không có bông thì công nghiệp hiện đại trở nên vô nghĩa.
Chế độ nô lệ đã đem lại giá trị cho các thuộc địa; các thuộc địa tạo nên nền
thương nghiệp quốc tế; nền thương nghiệp quốc tế lại là điều kiện cần thiết
của đại công nghiệp.
Trên thực tế, không chỉ có nghề trồng bông mới thúc đẩy sự tồn tại và
phát triển của chế độ nô lệ mà ngược lại chính chế độ nô lệ đồn điền đã góp
phần không nhỏ vào sự phát triển của nghề trồng bông nói riêng và nông
nghiệp miền Nam nói chung. Những sản phẩm xuất khẩu của miền Nam do
bàn tay lao động của nô lệ làm ra như bông, thuốc lá, mía… chỉ có lãi trong
trường hợp các sản phẩm đó được sản xuất bởi những tập đoàn rất đông nô lệ
trên quy mô lớn và trên diện tích bao la của những mảnh đất phì nhiêu và chỉ
đòi hỏi lao động thô sơ mà thôi. Còn những cây trồng thâm canh phụ thuộc
không chỉ vào độ phì nhiêu của đất đai, mà còn phụ thuộc nhiều hơn vào vốn
đầu tư, vào hiểu biết và tính sáng tạo của người lao động, sẽ mâu thuẫn với
chính ngay bản chất của chế độ nô lệ. Nhờ khai thác triệt để sức lao động của
nô lệ nên ngành sản xuất bông không ngừng phát triển. Các ruộng đất mới ở
miền Tây sau năm 1812 mở rộng việc trồng bông. Nghề trồng bông đã chuyển
dịch nhanh chóng từ các bang miền nước thủy triều sang bờ biển miền Đông
qua miền Nam trũng thấp hơn tới vùng đồng bằng châu thổ sông Mississippi
và cuối cùng là Texas. Tổng sản lượng từ 4.000 kiện năm 1790 đã tăng lên
175.000 kiện năm 1810 và 4.000.000 kiện năm 1860. Nghề trồng bông phát
triển lại kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp dệt và thương mại.
Theo tác giả F. Ia. Pôlianxki trong cuốn Lịch sử kinh tế các nước (ngoài Liên
24
Xô) – thời kỳ tư bản chủ nghĩa thì ngay từ đầu thế kỷ XIX, ngành công nghiệp
dệt của Mỹ đã phát triển hết sức mạnh mẽ. Nếu như năm 1805, trong các nhà
máy dệt vải bông của Mỹ chỉ có 4.500 guồng sợi thì năm 1815, đã có đến
130.000. Việc tiêu thụ bông từ năm 1790 – 1827 đã tăng từ 11.000 kíp lên
149.000 kíp, dẫu rằng cho đến năm 1815, công việc chế biến bằng máy mới
hoàn toàn thay thế cho việc kéo sợi bằng tay. Năm 1815, chỉ có 90.000 kíp
bông được máy kéo thành sợi ở các nhà máy. Đến năm 1825, số guồng sợi đạt
800.000 chiếc. Từ năm 1820 - 1830, con số đó tăng lên gấp 4 lần. Về sau,
công nghiệp dệt phát triển với một nhịp độ nhanh chóng. Từ năm 1840 đến
năm 1860, số nhà máy dệt giảm xuống (từ 1369 xuống còn 1091 nhà máy),
trong lúc đó, số guồng sợi lại tăng lên từ 2,2 triệu lên 5,2 triệu. Việc tiêu thụ
bông cũng tăng từ 237.000 kíp lên 1.056.726 kíp [9; 476].
Sự nhập cư nô lệ châu Phi đã tiếp sức cho hệ thống thương mại của
các thuộc địa trong thời kỳ trước cách mạng và đem lại món lợi lớn cho các
chủ nô tại các bang duy trì nô lệ trước khi Nội chiến xảy ra. “Chế độ điền
trang và nô lệ của Mĩ là một trong những đặc trưng của nước Mĩ thời bấy giờ.
Giai cấp tư sản Mĩ làm giàu chính nhờ sự bóc lột nô lệ tại các điền trang của
họ” [10; 256].
Bên cạnh ấy, sự xuất hiện của nô lệ da đen châu Phi có ảnh hưởng
khá lớn đến xã hội của người da trắng, liên quan đến các giá trị văn hóa cũng
như sự phát triển của nền kinh tế. Ví dụ: người Mĩ vùng Chesapeake, dần dần
tiếp nhận cách nhìn nhận của người châu Phi về thời gian cũng như công việc.
Nói chung, người châu Phi chịu được cuộc sống ở vùng nóng tốt hơn người
châu Âu nhập cư. Và người da trắng đã nhanh chóng học được cách sử dụng
thời gian của người châu Phi – đó là làm việc vào buổi sáng sớm và chiều
muộn, nghỉ dài vào thời gian giữa ngày. Họ từng bước hấp thụ cách suy nghĩ
của người châu Phi đối với công việc, nói chung, có phần đơn giản hơn so với
25
người dân ở vùng New England. Trong khi đó, người dân ở khu vực North
Carolina học được cách dệt lưới câu cá của người Phi, thực tế cho thấy có
hiệu quả hơn loại lưới có nguồn gốc từ Anh. Người Phi cũng áp dụng kỹ thuật
truyền thống về chăn nuôi gia súc vào hoàn cảnh vùng đất mới. Xuất khẩu gia
súc vốn là nguồn thu nhập chính của North Carolina và nô lệ da đen đóng góp
không nhỏ vào sự thịnh vượng của nền kinh tế Mĩ. Người châu Phi sang Bắc
Mĩ mang theo vốn văn hóa bản địa giàu tính dân gian, làm giàu thêm văn hóa
Mĩ. Những điệu múa, khúc nhạc sôi nổi, nhiệt tình của họ hòa nhập với môi
trường sống của họ tạo nên những sản phẩm văn hóa tinh thần mang đặc
trưng “Mĩ”, tồn tại cho đến thời kỳ đương đại.
Sự có mặt của người da đen ở Tân lục địa đã góp phần làm phong phú
thêm cho nền văn hóa các dân tộc châu Mĩ nói chung và Hoa Kì nói riêng. Sự
pha trộn giữa ba nền văn hóa: văn hóa của người da trắng, văn hóa của người
da đen và nền văn hóa bản địa đã đưa đến một nền văn hóa đa màu sắc như
văn hóa nước Mĩ hiện nay.
Ngoài ra nó còn tạo nên sự pha trộn chủng tộc giữa người châu Âu,
châu Phi và người Indian. Trong khi số người da đen được đưa đến châu Mĩ
trong các thế kỉ XV - XIX là hơn 10 triệu người, còn người da đỏ bị tuyệt diệt.
Điều đó lí giải vì sao ở châu Mĩ nói chung và ở Hoa Kì nói riêng, số người da
đen và người lai da đen lại chiếm tỷ lệ trong dân cư và nền văn hóa các dân
tộc châu Mĩ lại mang đậm nét văn hóa của người châu Phi như vậy.
Nhưng bên cạnh những đóng góp cho sự phát triển của nước Mĩ thời
kỳ lập quốc, chế độ nô lệ vẫn mang nhiều hạn chế. Sang đầu thế kỷ XIX,
những hạn chế đó càng bộc lộ rõ và trở thành vật cản cho sự phát triển kinh tế
xã hội: Trong khi sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa ngày càng mạnh
mẽ đang đòi hỏi một lực lượng lao động tự do to lớn thì chế độ nô lệ đang
kìm hãm nó. Chế độ tư bản chủ nghĩa Mĩ mới ra đời với những tuyên ngôn