Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Phật giáo tiểu thừa trong đời sống văn hóa miến điện thời kỳ pagan (thế kỷ XI XIII)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 86 trang )

LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất tới thạc sĩ Nguyễn Văn Vinh người thầy đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Em xin bày tỏ lời cảm ơn đến các thầy, các cô trong Trường Đại Học Sư
Phạm Hà Nội 2; đặc biệt là các thầy, các cô Khoa Lịch Sử đã giảng dạy em trong
suốt thời gian qua.
Em cũng xin bày tỏ lời cảm ơn tới gia đình, cũng như bạn bè đã tạo điều kiện
và giúp em hoàn thành khóa luận.
Với điều kiện hạn chế về thời gian cũng như kiến thức của bản thân, nên
khóa luận khó tránh khỏi những thiếu sót, kính mong sự chỉ bảo của các thầy, cô
cũng như của các bạn sinh viên.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 05 năm 2013
TÁC GIẢ KHÓA LUẬN

Phan Thị Duyên


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của thạc sĩ
Nguyễn Văn Vinh. Tôi xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu riêng của tôi.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, tháng 05 năm 2013
Sinh viên

Phan Thị Duyên


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1


Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHẬT GIÁO TIỂU THỪA VÀ
TÌNH HÌNH PHẬT GIÁO TIỂU THỪA Ở MIẾN ĐIỆN THỜI KỲ
PAGAN (THẾ KỶ XI - XIII) ................................................................................ 6
1.1. Khái quát chung về Phật giáo Tiểu thừa............................................................ 6
1.2. Phật giáo Tiểu thừa ở Miến Điện thời kỳ Pagan (thế kỷ XI - XIII) .................. 15
Tiểu kết chương 1. ................................................................................................. 26
Chương 2. PHẬT GIÁO TIỂU THỪA TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
MIẾN ĐIỆN THỜI KỲ PAGAN (THẾ KỶ XI - XIII) ..........................................
2.1. Phật giáo Tiểu thừa với chữ viết – ngôn ngữ ................................................... 28
2.2. Phật giáo Tiểu thừa với văn học ...................................................................... 29
2.3. Phật giáo Tiểu thừa với nghệ thuật.................................................................. 35
2.4. Phật giáo Tiểu Thừa với đạo đức, lối sống ...................................................... 50
2.5. Phật giáo Tiểu Thừa với các phong tục, lễ hội ................................................ 57
2.6. Nhận xét ........................................................................................................ 63
Tiểu kết chương 2 .................................................................................................. 67
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 72
PHỤ LỤC ............................................................................................................. 74


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phật giáo trên con đường truyền bá của mình đã du nhập vào Miến Điện từ
khá sớm, lúc đó ở Miến Điện chưa hình thành quốc gia, tổ chức xã hội hết sức sơ
khai với hạt nhân là các bản, các bản Miến Điện đã đón nhận tư tưởng từ bi của đức
Phật vào xứ sở của mình. Từ thế kỷ III trước Công Nguyên đến thế kỷ IX sau Công
Nguyên, trên mảnh đất Miến Điện là sự phát triển và bành trướng của Phật giáo Đại
thừa và Mật tông bên cạnh những tín ngưỡng bản địa của cư dân. Đến thế kỷ XI, lần
đầu tiên trong lịch sử, đất nước Miến Điện được thống nhất, sự phát triển của lịch
sử đi kèm với sự thay đổi của hệ tư tưởng chính thống trong xã hội. Được sự phù

trợ, bảo trì của chính quyền, Phật giáo Tiểu thừa phát triển và nhanh chóng trở
thành tôn giáo quốc gia, giữ vai trò quan trọng trong đời sống chính trị cũng như
đời sống văn hóa - xã hội Miến Điện.
Giữa thế kỷ XI, vua Anoratha (1044 - 1077) đã đưa quân tiến chiếm Thaton,
đem theo kinh sách và chư tăng về Pagan. Đây là sự kiện quan trọng trong lịch sử
Phật giáo Miến Điện, để từ đây, chính quyền đã xác lập về pháp lý vị trí vững vàng
của Phật giáo Tiểu thừa từ Trung ương đến Địa phương. Để tăng cường sức mạnh
của vương quốc, để tạo dây đoàn kết trong dân chúng, giai cấp cầm quyền nỗ lực
phát triển kinh tế và dùng Phật giáo là công cụ chấn hưng đất nước, củng cố địa vị
của giai cấp cầm quyền, sự vững chắc của nền thống nhất.
Thời kỳ Pagan (thế kỷ XI - XIII) không chỉ được biết đến như một vương
quốc, một đế chế hùng mạnh mà trong thời kỳ này vị trí trung tâm của Miến Điện
cũng được khẳng định. Miến Điện nhanh chóng trở thành trung tâm Phật giáo Tiểu
thừa của toàn khu vực.
Việc nghiên cứu Phật giáo Tiểu thừa Miến Điện trong giai đoạn này giúp
chúng ta thấy được ảnh hưởng một cách toàn diện của nó tới mọi mặt đời sống văn
hóa - xã hội Miến Điện, tới thượng tầng kiến trúc xã hội và vai trò của nó đối với
quốc gia thống nhất, cũng như sự đóng góp của Phật giáo để đưa vương quốc phát

1


triển cực thịnh dưới thời Pagan. Thời kỳ Pagan được coi là cội nguồn của người
Myanmar là khởi đầu của sự sống, sự sáng tạo vô tận của con đường đi đến chốn
vĩnh hằng.
Nghiên cứu Phật giáo Tiểu thừa thời kỳ Pagan (thế kỷ XI - XIII) trong quá
khứ còn để hiểu thêm về vai trò của Phật giáo trong đời sống hiện đại của con người
Miến Điện hôm nay. Với tư cách là một quốc giáo tồn tại lâu dài và có những đóng
góp quan trọng trong suốt quá trình lịch sử của Miến Điện, ngày nay, Phật giáo Tiểu
thừa vẫn khẳng định sức sống lâu bền của mình trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ

Quốc, vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc củng cố tình đoàn kết của nhân dân, đấu
tranh chống lại những cái xấu, cái ác trong xã hội, góp phần vào cuộc cách mạng tư
tưởng và văn hóa cộng đồng.
Trong suốt chiều dài lịch sử giữ vai trò trung tâm Phật giáo Tiểu thừa của
khu vực Đông Nam Á lục địa - Phật giáo Tiểu thừa Miến Điện là một đề tài từng
hấp dẫn các học giả nước ngoài cũng như các học giả trong nước và đã có nhiều
đóng góp quan trọng. Để góp phần là một viên gạch nhỏ trong công trình nghiên
cứu Phật giáo Đông Nam Á nói chung và văn hóa Phật giáo Pagan nói riêng, tôi
chọn đề tài “Phật giáo Tiểu thừa trong đời sống văn hóa Miến Điện thời kỳ
Pagan (thế kỷ XI - XIII)” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Do tầm quan trọng và sức hấp dẫn của Phật giáo nên có rất nhiều nhà nghiên
cứu đi sâu tìm hiểu vai trò của Phật giáo đối với đời sống văn hóa của con người.
Nhiều công trình nghiên cứu Phật giáo đã khai thác ở những lĩnh vực khác nhau như:
Nguồn gốc ra đời và phát triển của Phật giáo, những vấn đề cơ bản của giáo lý Phật
giáo, thế giới quan, nhân sinh quan Phật giáo, các tông phái của Phật giáo... Mỗi công
trình nghiên cứu lại mở rộng và đi sâu hơn về nhiều mặt, nhiều vấn đề của Phật giáo.
Đó là những tài liệu vô cùng quý giá giúp tôi hoàn thành khóa luận này.
Với vai trò là trung tâm Phật giáo Tiểu thừa ở khu vực Đông Nam Á lục địa,
Myanmar thu hút sự tìm tòi của các nhà nghiên cứu văn hóa tôn giáo. Điều đáng
chú ý là hướng đi sâu nghiên cứu chuyên đề cụ thể: Phật giáo Tiểu thừa trong đời

2


sống văn hóa Miến Điện thời kỳ Pagan (thế kỷ XI - XIII) thì vẫn còn rất ít công
trình. Nhưng rõ ràng đó là những vấn đề nghiên cứu rất cơ bản, rất quan trọng khi
tìm hiểu Phật giáo Tiểu thừa ở khu vực Đông Nam Á. Qua tìm hiểu tình hình
nghiên cứu vấn đề này, tôi thấy có các công trình tiêu biểu như sau:
Viện Đông Nam Á xuất bản cuốn Ở xứ chùa Vàng: Tìm hiểu về văn hóa

Miến Điện, Nxb Văn hóa Hà Nội năm 1988 đã cho chúng ta hiểu rõ về văn hóa
Miến Điện thông qua con người, Phật giáo, văn học và nghệ thuật Miến Điện.
Trong Nghệ thuật truyền thống Đông Nam Á của Nguyễn Phan Thọ (1999),
Nxb Chính trị đã khái luận về một nền nghệ thuật truyền thống đậm đà bản sắc dân
tộc của các nước Đông Nam Á. Văn hóa và sự hình thành các nền nghệ thuật, các
loại hình nghệ thuật truyền thống ở các nước Đông Nam Á, trong đó nền nghệ thuật
thời kỳ Pagan được tác giả rất quan tâm.
Năm 2004, Thích Hạnh Bình biên soạn cuốn Tìm hiểu Phật giáo Nguyên
thủy nêu lên nội dung căn bản của Phật giáo nguyên thủy, cũng như các quan điểm
trong Phật giáo nguyên thủy.
Đỗ Đình Lãng, Đinh Trung Kiên (2005) trong Những nền văn minh rực rỡ
cổ xưa, Nxb Quân đội nhân dân, trình bày những thành tựu của văn minh Đông
Nam Á trong các lĩnh vực đời sống, tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội, phong tục, tập
quán, kiến trúc, điêu khắc, hội họa. Đặc biệt giới thiệu về các công trình kiến trúc,
điêu khắc của vương triều Pagan nói riêng và của các nước Đông Nam Á nói chung.
Năm 2007, Trương Sỹ Hùng viết cuốn Tôn giáo và văn hóa, Nxb Khoa học xã
hội đã giới thiệu quá trình hội nhập và phương pháp tồn tại của bốn tôn giáo lớn ở
Đông Nam Á. Vai trò của tôn giáo trong một số lĩnh vực đời sống văn hoá Đông
Nam Á cũng như một số trọng điểm chung quanh tôn giáo và văn hoá Đông Nam Á.
Năm 2008, Trần Quang Thuận có viết cuốn Phật giáo Nam tông tại Đông
Nam Á, trình bày lịch sử giáo phái Phật giáo Nam tông, Phật giáo Ấn Độ truyền
thừa – phát triển – suy thoái. Phật giáo Nam tông tại Xrilanca và các nước Đông
Nam Á . quan hệ tôn giáo và văn hóa giữa Xrilanca và Miến Điện. Và cuốn Phật
giáo Miến Điện, tác giả trình bày khái quát bối cảnh lịch sử, văn hóa, địa lý Miến

3


Điện trong vùng Đông Nam Á cũng như sự truyền thừa và phát triển của Phật giáo
Tiểu Thừa, hệ thống tu viện, tổ chức tăng già... của Miến Điện.

Và rất nhiều các công trình trên tạp chí nghiên cứu Tôn giáo đã đưa lại cách
nhìn đầy đủ và chân thực về văn hóa Miến Điện nói chung, diện mạo Phật giáo
trong văn hóa nói riêng.
Các công trình này đã đem lại cái nhìn khái quát về những nội dung đặc sắc
của Phật giáo Tiểu thừa Miến Điện và thừa nhận những ảnh hưởng của Phật giáo
đến đời sống văn hóa Miến Điện. Tuy nhiên do yêu cầu của thời đại nên việc tiếp
tục có những nghiên cứu ở lĩnh vực này là cần thiết và có ý nghĩa.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích
Khái quát một số đặc điểm cơ bản của Phật giáo Tiểu thừa, tình hình Phật
giáo Tiểu thừa trong xã hội Miến Điện từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIII, và ảnh hưởng
của nó đến đời sống văn hóa của Miến Điện.
3.2. Nhiệm vụ
Khóa luận có ba nhiệm vụ chính:
+ Khái quát tình hình Phật giáo Tiểu thừa ở Miến Điện từ thế kỷ XI đến thế
kỷ XIII.
+ Làm sáng tỏ một số ảnh hưởng cơ bản của Phật giáo Tiểu thừa đến đời
sống văn hóa ở Miến Điện từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIII.
+ Rút ra nhận xét từ việc nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận đề cập chủ yếu đến phương diện lịch sử của Phật giáo Tiểu thừa
thời kỳ Pagan và phân tích những ảnh hưởng cơ bản của Phật giáo Tiểu thừa đến
đời sống văn hóa ở Miến Điện thời Pagan trên các phương diện như: Văn học, giáo
dục, nghệ thuật, đạo đức, phong tục, lối sống...

4


4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng hai phương pháp chủ yếu là phương pháp lịch sử và

phương pháp lôgic. Ngoài ra khóa luận còn sử dụng một số phương pháp khác như:
So sánh, phân tích, tổng hợp, chọn lọc, xử lý tài liệu.
5. Đóng góp mới của khóa luận
- Khóa luận bước đầu khái quát một số đặc điểm cơ bản của tình hình Phật
giáo Tiểu thừa Miến Điện thời kỳ Pagan.
- Góp phần đánh giá vai trò của Phật giáo Tiểu thừa vào kho tàng văn hóa
của Miến Điện.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Đề tài góp phần gợi mở một số vấn đề giúp các nhà quản lý xã hội suy nghĩ
về việc khuyến khích những đóng góp của Phật giáo Tiểu thừa vào nền văn học dân
tộc và vận dụng nó trong xã hội Việt Nam.
- Kết quả của khóa luận có thể sử dụng vào quá trình nghiên cứu và giảng
dạy môn khoa học về tôn giáo.
7. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm
2 chương.
Chương 1. Khái quát chung về Phật giáo Tiểu thừa và tình hình Phật
giáo Tiểu thừa ở Miến Điện thời kỳ Pagan (thế kỷ XI - XIII)
Chương 2. Phật giáo Tiểu thừa trong đời sống văn hóa Miến Điện thời kỳ
Pagan (thế kỷ XI - XIII)

5


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHẬT GIÁO TIỂU THỪA
VÀ TÌNH HÌNH PHẬT GIÁO TIỂU THỪA Ở MIẾN ĐIỆN
THỜI KỲ PAGAN (THẾ KỶ XI - XIII)
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHẬT GIÁO TIỂU THỪA
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời của phật giáo Tiểu Thừa

Phật giáo ra đời ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ VI trước Công Nguyên, trong
một xã hội phân chia đẳng cấp rất khắc nghiệt. Sự ra đời của Phật giáo là kết quả
của cuộc đấu tranh phản đối thuyết bốn đẳng cấp của đạo Bà La Môn, phủ nhận thế
giới quan của đạo này, xác định thế giới quan của những người nghèo khổ. Mặt
khác, Phật giáo ra đời bắt nguồn từ những suy tư, khát vọng, cảm hứng của người
Ấn Độ cổ được tập hợp trong kinh Vê đa.
Người sáng lập ra đạo Phật là Thái tử Tất Đạt Đa sinh năm 563 trước Công
Nguyên, con vua Tĩnh Phạm nước Cà Tỳ La Vệ ở chân núi Hymalaya miền đất bao
gồm phần nam Nêpan và một phần Ấn Độ ngày nay.
Ngay từ nhỏ, Thái tử Tất Đạt Đa đã được sống trong cảnh nhung lụa, không
tiếp xúc với xã hội bên ngoài, không thấy và không hề biết rằng trong cuộc đời lại
có những đói khát, bệnh tật, già yếu, chết chóc.
Năm 17 tuổi, Thái tử mới được tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Mỗi lần xuất
cung người đều gặp những cảnh khổ đau như người già tàn tật đi ăn xin, chết chóc,
bệnh tật... đã tác động tới tình cảm của Người.
Năm 29 tuổi, Ngài quyết định rời bỏ ngôi cao quyền lực, rời bỏ cuộc sống
nhung lụa xa hoa, để dấn thân vào con đường tu hành khổ hạnh, mong tìm được sự
giải thoát cho chúng sinh đau khổ.
Sau 6 năm tu hành khổ hạnh mà không thấy được chân lý, Ngài nhận ra là cả
cuộc sống tràn đầy vật chất, thỏa mãn dục vọng lẫn cuộc sống khổ hạnh đều không
giúp tìm được con đường giải thoát, chỉ có con đường Trung đạo là đúng đắn nhất.

6


Do đó, Ngài tự mình đào sâu suy nghĩ để nhận thức chân lý và từ bỏ lối sống khổ
hạnh, đi sâu vào tư duy trí tuệ.
Sau 49 ngày thiền định dưới gốc cây Bồ đề, chìm đắm trong tư duy sâu thẳm.
Ngài tuyên bố đã đến được với chân lý, hiểu được bản chất tồn tại, nguồn gốc khổ
đau và con đường cứu vớt. Ngài tự xưng là Phật (Buddha). Người đời gọi người là

Thích Ca Mâu Ni.
Từ đó Phật đi truyền bá đức tin, thành lập các đoàn truyền giáo. Đạo Phật ra
đời trên thực tế là phủ nhận chế độ đẳng cấp Bà La Môn. Giáo lý của đạo Phật sâu
sắc, hấp dẫn, đề cao bình đẳng, hướng tới sự tự giải thoát, lễ nghi đơn giản không
tốn kém nên nhanh chóng thu hút được đông đảo tín đồ. Năm 483 TCN, lúc 80 tuổi
Phật tịch.
Phật giáo tồn tại và phát triển cực thịnh ở Ấn Độ trong khoảng thế VI trước
Công Nguyên đến thế kỷ V sau Công Nguyên. Khi Phật giáo suy yếu, Ấn Độ giáo,
đạo Ixlam phát triển. Tuy nhiên Phật giáo đã nhanh chóng lan ra các nước Châu Á.
Sau khi Phật tịch những đệ tử của Ngài đã tiến hành bốn Đại hội Tăng đoàn.
Đại hội Tăng đoàn lần thứ nhất được triệu tập vào thế kỷ V trước Công Nguyên,
Đại hội này kinh điển Phật giáo được biên soạn bao gồm hai nội dung chính là Pháp
và Luật. Pháp là những lời thuyết giáo của Phật được ghi chép lại theo ký ức của
các đệ tử. Luật là những quy chế của Đại hội thảo ra. Một trăm năm sau, Đại hội lần
thứ hai được triệu tập. Số đông tín đồ đòi chữa lại Luật, họ bị Đại hội trục xuất và
thành lập một phái riêng là phái Đại Chúng Bộ (chính phái này tiền thân của phái
Đại thừa sau này). Đến thế kỷ III trước Công Nguyên, Đại hội tăng đoàn lần thứ ba
được triệu tập để chấn chỉnh tổ chức và giáo lý của mình. Thời kỳ này là thời kỳ
phát triển nhất của Phật giáo tại Ấn Độ. Đến thế kỷ I trước Công Nguyên, Đại hội
Phật giáo lần thứ tư được triệu tập, Đại hội thông qua giáo lý của Phật giáo cải cách
và được gọi là Đại Thừa để phân biệt với phái Tiểu thừa, Phật giáo Tiểu thừa chính
thức được xác lập.
Khi Phật giáo Đại thừa chưa ra đời thì danh từ Phật giáo Tiểu thừa cũng chưa
có, mà chỉ gọi là “Nguyên thủy Phật giáo” và “Bộ phái Phật giáo”. Nhưng sau khi

7


Phật giáo Đại thừa hưng thịnh, các nhà học giả của Phật giáo Đại thừa có mục đích
phân biệt sự cao thấp về mặt tư tưởng giáo lý, nên gọi giáo lý của Bộ phái Phật giáo

và Nguyên thủy Phật giáo là “Phật giáo Tiểu thừa”. Vì lý do đó nên Phật giáo Tiểu
thừa được thành lập sau thời đại Phật giáo Đại thừa ra đời. Trong khi Đại thừa Phật
giáo hưng thịnh, thì Tiểu thừa Phật giáo cũng chịu sự ảnh hưởng kích thích, nên
cũng trở nên phát triển.
Phật giáo Tiểu thừa chủ trương tuân theo kinh Phật và làm đúng những điều
Phật dạy. Giáo lý, giáo luật của Phật giáo Tiểu thừa gần gũi với nguyên thủy Phật
giáo.
Như vậy, có thể nói ngay từ Đại hội Phật giáo lần thứ hai được triệu tập thì
sự phân chia phái bộ trong lòng Phật giáo đã được định hình và sự phân liệt này
ngày càng biểu hiện rõ hơn sau Đại hội kết tập lần thứ tư (thế kỷ I) và trên con
đường truyền bá ra các khu vực xung quanh, Phật giáo tiếp tục kết hợp với những
tín ngưỡng bản địa để hình thành nên các phái bộ khác nhau.
1.1.2. Giáo lý, giáo luật cơ bản của Phật giáo Tiểu thừa
Do sự đối lập về tư tưởng, vì không thu dụng lẫn nhau, phát sinh ra nhiều tư
tưởng mới, dẫn đến sự phân tán của Phật giáo thành hai phái Đại thừa và Tiểu thừa.
Tuy nhiên cả hai phái đều rất tôn trọng những tư tưởng cơ bản của Phật Thích Ca,
nhất là những tư tưởng về nhân sinh quan và thế giới quan.
Phật giáo nhìn Thế giới tự nhiên cũng như nhân sinh bằng sự phân tích nhân
quả. Theo Phật giáo, nhân quả là một chuỗi liên tục không gián đoạn, không hỗn
loạn, có nghĩa là nhân nào quả ấy. Mối quan hệ nhân quả này, Phật giáo thường gọi
là nhân duyên với ý nghĩa là một kết quả của nguyên nhân nào đó sẽ là nguyên nhân
của một kết quả khác.
Về giới tự nhiên, bằng sự phân tích nhân quả, Phật giáo cho rằng không thể
tìm ra nguyên nhân đầu tiên cho vũ trụ, có nghĩa là không có một đấng Brahaman
nào sáng tạo ra vũ trụ. Phật giáo nêu lên quan điểm “vô ngã”, “vô thường” nghĩa là
vạn vật biến đổi theo chu trình bất tận sinh - trụ - dị - diệt.

8



Về nhân sinh quan, Phật giáo đặt vấn đề tìm kiếm mục tiêu nhân sinh ở sự
“giải thoát” (Moksa) khỏi vòng luân hồi nghiệp báo để đạt tới trạng thái tồn tại Niết
bàn (Nirvarra). Nội dung triết học nhân sinh tập trung trong thuyết “Tứ đế” nghĩa là
bốn chân lý cũng có nghĩa là “Tứ diệu đế” với ý nghĩa là bốn chân lý tuyệt vời: Khổ
đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.
Đại thừa và Tiểu thừa theo phương diện lý luận Phật giáo và thực tiễn tu trì
đều có sự khác nhau quan trọng. Về phương diện lý luận, Tiểu thừa chủ trương
“Ngã không pháp hữu” (Ta không, pháp có), Đại thừa chủ trương “Ngã pháp lưỡng
không” (Ta và pháp cả hai đều không ). Về phương diện thực tiễn, các bộ phái Tiểu
thừa hoặc nhiều hoặc ít đều cho rằng Phật là một nhân vật lịch sử còn Đại thừa thì
đem Phật tô điểm thành một đối tượng là hóa thân của chân lý tuyệt đối, được loài
người sùng bái vô hạn.
Về con đường giữ gìn tu luyện và mục đích cuối cùng thì Tiểu thừa chủ
trương cầm lấy quả Alahán, tức là cần đạt tới tự mình giải thoát. Vì vậy theo nội
dung, phương pháp tu trì, Tiểu thừa chủ yếu tu theo Giới, Định, Tuệ.
Phật giáo Tiểu thừa cho rằng chỉ có người tu hành mới giải thoát mình khỏi
đau khổ “tự độ tự tha”. Phái Tiểu thừa tuân theo kinh Phật, làm đúng lời Phật, thực
hành theo thuyết hữu luận mà Phật đề ra trong các giáo lý, giáo luật nguyên thủy.
1.1.2.1 Giáo lý cơ bản
Giáo lý Phật giáo Tiểu thừa được thể hiện trong Tam tạng kinh điển ghi bằng
chữ Pali là Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng. Kinh tạng và Luật tạng có từ khi Phật
Thích Ca còn tại thế, còn Luận tạng ra đời khi mà Phật giáo đã bị chia thành hai
phái Đại thừa và Tiểu thừa.
Giáo lý của Phật giáo Tiểu thừa gần gũi với giáo lý nguyên thủy Phật giáo và
có một nguyên tắc căn bản là do đức Phật chứng ngộ. “Bát Chính Đạo” (tám con
đường đúng đắn) là giáo lý quan trọng của nhà Phật giúp con người loại trừ ham
muốn hoặc xa lánh những cám dỗ trần tục. Và về phương diện nhận thức giáo lý
nhà Phật gồm ba chủ thuyết là Vô thường, Vô ngã và Niết bàn tịch tịnh.

9



“Niết bàn” phiên âm chữ Phạn là “Nirvana” có nghĩa là tuyệt diệu, là vắng
lặng, tức tâm trạng được giải thoát.
Tiểu thừa phủ nhận hiện hữu vì hiện hữu là đau khổ, là vô thường là chuyển
động không ngừng. Cho nên, Tiểu thừa tìm ra mà chấm dứt nguyên nhân gây ra khổ
đau cho con người, nguyên nhân của nó chính là “Nghiệp”. Muốn chấm dứt đau khổ
do vô minh thì phải đoạn trừ lòng tham ái, ta phải chứng thực được Niết bàn. Muốn
được như vậy, Tiểu thừa chủ trương chấm dứt mọi dục vọng, chỉ có như vậy con
người mới bước được vào cảnh giới vắng lặng của Niết bàn. Như thế, Niết bàn là
nơi cư trú của con người khi đang sống và sau khi chết lúc chấm dứt được khổ đau,
dục vọng, kiếp luân hồi.
Giáo lý của Phật giáo Tiểu thừa còn chứa đựng trong đạo lý “Duyên sinh”,
đạo lý mà đức Phật cho rằng chi phối vũ trụ và nhân sinh.
“Duyên sinh” là do nhân duyên sinh ra. Các hiện tượng vũ trụ và nhân sinh
đều do nhiều mối quan hệ kết hợp với nhau mà sinh ra. Hiện tượng này liên quan
đến hiện tượng khác, tức là nhân duyên. Một sự vật xuất hiện là do nhân duyên hội
tụ. Sự vật tiêu vong là do nhân duyên li tán. Như vậy gọi là duyên sinh, duyên diệt.
Chính vì vạn vật trong vũ trụ đều có duyên sinh, duyên diệt, đều biến hóa vô thường
cho nên tất cả mọi hiện tượng đều là tạm bợ, không phải vĩnh hằng.
“Nghiệp” là một trong những giáo lý căn bản của Phật giáo Tiểu thừa. Nói
đến nghiệp là nói đến đạo lý mối quan hệ nhân - quả. Thuyết “Nghiệp báo” của đạo
Phật là học thuyết xây dựng đời sống có hạnh phúc và an lạc cho con người, nó
cũng là một học thuyết xây dựng một xã hội lành mạnh, đạo đức.
Do đó khi giảng lý, Phật giáo Tiểu thừa chú trọng mặt phân tích bản chất mà
nói, để cảm tỉnh con người đang sống trong cõi hư vong, đừng có bị danh lợi vật
dục làm cho mê hoặc, biến thành vật hi sinh của danh lợi, dục vọng.
1.1.2.2. Giáo luật cơ bản
Mục đích cuối cùng của Phật giáo là đạt tới giác ngộ, tới giải thoát. Để đạt
được điều này phải dùng “tuệ” (trí tuệ). Muốn có “tuệ” phải tĩnh tâm giữ giới, phải

tập trung tư tưởng, thân tâm trong sạch. Vì thế, Phật giáo cho rằng điều đầu tiên
phải giữ “giới”, “giới” gắn liền với đạo đức.

10


Giới luật căn bản của Phật giáo là “Ngũ giới” và “Thập thiện” và các giới luật
của người xuất gia, giới Tỳ Kheo... nhưng tất cả đều lấy “Ngũ giới” làm nền tảng.
“Giới” có nghĩa là đề phòng và không làm điều ác, điều trái, làm mọi điều
thiện có ích cho mình, cho người. Vì thế, học giới hay giữ giới cũng là học luân lý
đạo đức.
Theo đức Phật: “Giới luật còn là Phật pháp còn”, “giới là gốc phúc”. Như
vậy, giới có tầm rất quan trọng với Phật pháp [34, tr.23].
Trong hệ thống giới luật của Phật giáo nói chung, “Ngũ giới” có vị trí hết sức
quan trọng, là cơ sở cho các giới khác. Năm điều thánh giới bao gồm: Không sát
sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.
Như thế, “Ngũ giới” có vai trò hết sức quan trọng trong việc hoàn thiện nhân
cách con người. Điều này không chỉ có ý nghĩa nuôi dưỡng, khơi dậy lòng từ bi,
nhân đạo của mỗi người mà còn có ý nghĩa lớn về mặt xã hội.
Ngũ giới là giai đoạn đầu tiên dẫn người tu hành đến với đạo. Giới còn là
phương tiện để con người vượt qua bể khổ luân hồi, đến với hạnh phúc, an lạc. Điều
quan trọng nhất đối với người tu hành là phải giữ cho thân tâm luôn trong sạch.
Gần với “Ngũ giới” có “Thập thiện” (10 điều lành) gồm: Không sát sinh,
không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói ác, không nói hai lưỡi,
không nói thêu dệt, không tham dục, không nóng giận, không tà kiến.
“Ngũ giới”, “Thập thiện” được coi là hạt nhân của đạo đức Phật giáo, nó
không chỉ cần thiết cho chư tăng mà nó cần thiết cho tất cả tín đồ Phật tử.
Nói tóm lại, yêu cầu của Phật giáo Tiểu thừa về mặt giới luật là tránh điều
ác, làm điều lành, tất cả những việc gì có hại đối với thân tâm, gia đình, xã hội và
nhân loại, cho đến tất cả mọi loại hữu hình đều nằm trong phạm vi cấm đoán của

năm giới, mười thiện. Phật dạy nếu không có hại mà có lợi thì ra sức làm, làm điều
ác là phạm giới và không làm điều thiện cũng là phạm giới.
Phật giáo đặt ra vấn đề tìm kiếm mục tiêu ở sự “giải thoát” khỏi vòng luân
hồi, nghiệp báo để tạo trạng thái Niết bàn, để con người thoát khỏi mọi khổ đau,
phiền não và có cuộc sống hạnh phúc, an lạc. Phật giáo lấy con người làm trung
tâm, quan tâm đến con người và chủ trương giải thoát con người.

11


Theo Phật giáo Tiểu thừa con người phải tự mình đạt được giác ngộ không
nương tựa vào thần thánh hay bất kỳ thế lực nào bên trên mình (đấng siêu nhiên).
Phật dạy: Mỗi người hãy tự thắp đuốc lên mà đi, trong đại dương luân hồi mỗi
người hãy là hải đảo của chính mình.
Tu sĩ chính là hình tượng lý tưởng cho mọi người tôn kính và tin theo. Tu sĩ
là những người cạo tóc, mặc y vàng, bưng bình bát đi khất thực, tìm con đường giải
thoát khỏi cuộc sống thông qua thiền định và từ bỏ mình [19, tr.227].
Khất thực là một hình thức sinh hoạt chung của các tu sĩ theo Phật giáo Tiểu
thừa để tu trì theo con đường “Trung đạo”. Phật dạy: “Này các tỳ kheo, đó là Trung
Đạo mà Như Lai đã được soi sáng, con đường đưa đến minh kiến và tri kiến, dẫn
đến tịch tịnh, đến tri kiến cao hơn giác ngộ Niết bàn” [19, tr.22].
Muốn đạt đến Niết bàn, tu sĩ phải thực hiện nghiêm chỉnh tất cả những giáo
lý, giáo luật, tuân theo con đường Trung Đạo do đức Phật răn dạy. Thoát khỏi vòng
sinh tử luân hồi, tu sĩ sẽ đạt đến Niết bàn. “Những người không có của cải, sống
bằng thức ăn bố thí đã cảm nhận được hư vô và tự do vô điều kiện [Niết Bàn Nirvana], con đường của họ khó hiểu được, cũng như con đường của loài chim trên
không trung” [19, tr.227].
Với phật tử Tiểu thừa nếu không gia nhập vào Tăng già để trở thành tu sĩ, thì
người ấy phải bằng lòng sống cuộc đời cư sĩ, hỗ trợ cho nhu cầu của chư tăng. Phật
tử hỗ trợ chư tăng bằng cách cúng dường những vật phẩm cần thiết cho cuộc sống
hằng ngày của một chư tăng. Cúng dường là một hình thức để phật tử sẽ có một vị

thế, một cuộc sống tốt hơn trong kiếp sống khác để trở thành vị thánh để thoát khỏi
vòng sinh tử luân hồi. Theo truyền thống Tiểu thừa, đàn ông thanh niên đều phải trở
thành tu sĩ trong thời gian quá độ từ tuổi thanh niên sang tuổi trưởng thành. Tu sĩ đó
có quyền tự do rời bỏ khỏi nhà chùa bất cứ lúc nào. Thời gian tạm thời “đắp y”
vàng, chính là sự kiện đánh dấu những giai đoạn quan trọng trong cuộc đời của mỗi
con người.
Phật giáo Tiểu thừa chủ trương giữ hình tượng Phật ban đầu. Coi Phật là mẫu
mực đã tu đắc đạo và truyền bá đạo. Tiểu thừa lấy từ bi làm phương tiện, noi gương

12


Phật tu và hành động để tự giải phóng mình. Con người chỉ có thể tự “giải thoát”
cho mình bằng sự nỗ lực của chính mình.
1.1.3. Sự lan truyền của Phật giáo Tiểu thừa
Sau khi Phật tạ thế, các đệ tử trực truyền của Ngài đã đem đạo Phật mở rộng
tới hạ lưu sông Hằng về phía đông, phía nam, tới bờ sông Caodave, phía tây tới biển
Arập, phía bắc tới khu vực Thaiysio.
Ở thời kỳ thống trị của vua Asoka thuộc vương triều Maurya, đạo Phật bắt đầu
phát triển tới các vùng biển của đại lục, phía đông tới Myanmar, phía nam tới Xilanca,
phía tây tới Xyri Ai Cập và nhanh chóng trở thành tôn giáo mang tính thế giới.
Đạo Phật truyền bá theo hai hướng nam truyền và bắc truyền. Hướng bắc
chính là sự lan truyền của Phật giáo Đại thừa và hướng nam là sự lan tỏa của Phật
giáo Tiểu thừa.
Phật giáo Tiểu thừa đầu tiên được truyền vào Xrilanca, từ Xrilanca truyền
vào các nước Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào... rồi qua con đường Miến
Điện truyền vào các khu vực dân tộc thiểu số như Thái, Bố Lăng, Bố Long... thuộc
tỉnh Vân Nam Trung Quốc. Xrilanca nơi tiếp nhận Phật giáo Tiểu thừa sớm nhất,
trở thành trung tâm Phật giáo và đến thế kỷ XI, trung tâm Phật giáo Tiểu thừa đã
chuyển từ Xrilanca sang Miến Điện. Đạo Phật Tiểu thừa ghi chép kinh Phật bằng

tiếng Pali, do đó được gọi là đạo Phật ngữ hệ Pali.
Xrilanca: Đạo Phật truyền vào Xrilanca khoảng thời kỳ Asoca thế kỷ III
TCN. Vua Xrilanca hoan nghênh tiếp đón đạo Phật, dùng văn tự ghi chép kinh điển
Phật giáo khẩu truyền. Đến nửa đầu thế kỷ V, tăng nhân Ấn Độ tới Xrilanca, chú
thích Tam tạng Phật giáo Tiểu thừa, viết thành văn Pali và có chú thích rõ ràng trình
bày giáo lý cơ bản của đạo Phật, khiến cho Phật giáo Tiểu thừa bắt đầu được hệ
thống hóa. Xrilanca nhanh chóng trở thành trung tâm Phật giáo Tiểu thừa của khu
vực. Trải qua những bước thăng trầm của lịch sử, Phật giáo khi thịnh khi suy nhưng
cho đến nay Phật giáo Tiểu thừa vẫn phát triển và Xrilanca vẫn giữ vị trí trung tâm
bên cạnh Miến Điến. Hiện nay Xrilanca vẫn có tới khoảng 94% số dân là tín đồ
Phật giáo.

13


Myanmar: Thế kỷ V, Phật giáo Tiểu thừa và Phật giáo Đại thừa đều rất thịnh
hành ở Miến Điện. Thế kỷ VIII đến thế kỷ IX, Phật giáo Đại thừa với Mật giáo Ấn
Độ đặc biệt được sùng bái. Đến giữa thế kỷ XI, sau khi vua Anoratha thuộc vương
triều Pagan thống nhất Myanmar, Phật giáo Tiểu thừa từ Xrilanca truyền vào dùng
Miến văn viết nên Tam tạng kinh vốn bằng tiếng Pali, bài xích Mật giáo, Phật giáo
Đại thừa khiến Miến Điện trở thành quốc gia Phật giáo thuần Tiểu thừa. Các vị vua
thuộc vương triều Pagan nhiệt tâm phù trì Phật giáo, xây dựng lên hàng loạt chùa
Phật, tháp Phật, do đó được gọi là “Vương triều xây chùa”. Phật giáo phát triển,
Miến Điện trở thành trung tâm văn hóa Phật giáo Tiểu thừa của khu vực Đông Nam
Á lục địa. Phật giáo Tiểu thừa tham gia sáng tạo và bảo tồn các giá trị văn hóa bản
địa, tạo nét phong phú đặc sắc của văn hóa Phật giáo Miến Điện.
Thái Lan, Lào, Campuchia, Indonexia... cũng nhanh chóng tiếp thu Kinh
điển Phật giáo Tiểu thừa từ Miến Điện và Xrilanca để hình thành nên nét đặc sắc
của nền văn hóa dân tộc, làm nên sự đa dạng phong phú của văn hóa Phật giáo
Đông Nam Á và cho đến nay, nền văn hóa ấy vẫn là điểm quan trọng, chi phối đến

nhiều nét văn hóa của khu vực.
Như thế, qua nghiên cứu sự lan truyền của Phật giáo Tiểu thừa, ta thấy Phật
giáo Tiểu thừa có ảnh hưởng sâu sắc đến các nước Đông Nam Á lục địa, góp phần
tạo nên tính thống nhất trong đa dạng của văn hóa Đông Nam Á trong suốt chiều dài
lịch sử.
Tóm lại, Phật giáo Tiểu thừa góp phần rất lớn trong việc cải thiện đời sống
văn hóa khu vực Đông Nam Á lục địa. Trong quá trình truyền bá đạo của mình,
Phật giáo Tiểu thừa đã kết hợp với tín ngưỡng, văn hóa, phong tục dân gian địa
phương để hình thành nhiều tông phái và học phái, có tác động vô cùng quan trọng
với đời sống văn hóa và xã hội của nhiều quốc gia. Nhìn qua lịch sử phát triển Phật
giáo Tiểu thừa trong các quốc gia có thể nói rằng: Phật giáo Tiểu thừa là một tôn
giáo giàu tình thương và ít tham vọng giữ vị trí thần quyền trong xã hội. Giáo thuyết
và lễ nghi của Phật giáo Tiểu thừa phù hợp với giới bình dân. Gần gũi với tín

14


ngưỡng dân gian, không xóa bỏ các tín ngưỡng thờ thần, thờ tổ tiên nên được quần
chúng nhân dân đón nhận và dễ dàng tin theo.
1.2. PHẬT GIÁO TIỂU THỪA Ở MIẾN ĐIỆN THỜI KỲ PAGAN (THẾ KỶ
XI - XIII)
1.2.1. Vài nét về vương triều Pagan (thế kỷ XI - XIII)
Triều đại Pagan khởi đầu từ một địa phương của người Miến Điện ở Pagan.
Người Miến đã từ Nam Chiếu (ở Vân Nam ngày nay) đến định cư ở trung tâm vùng
đồng bằng Iraoady. Lịch sử triều Pagan chính thức bắt đầu vào khoảng năm 849 khi
một vị vua người Miến cho xây thành bao ở đây. Trong hai trăm năm kế tiếp, vương
quốc Pagan dần dần lớn mạnh và thâu tóm các khu vực lân cận. Lịch sử thành văn
chỉ thực sự ghi chép từ thế kỷ XI khi Pagan bước vào thời kỳ vàng son.
Năm 1057, vua Anoratha, một ông vua “văn võ song toàn” chinh phục
vương quốc Thaton của người Môn ở Hạ Miến. Những vị vua Pagan tiếp theo đã

mở rộng ảnh hưởng của họ xa hơn nữa về phía nam tới phần phía bắc bán đảo Mã
Lai, về phía đông tới tận sông Thanlwin và có thể xa hơn thế, về phía bắc tới tận
gần biên giới Myanmar - Trung Quốc hiện nay, và phía tây tới tận vùng đất của
người Arakan và người Chin. Các sử ký của Myanmar thậm chí còn ghi rằng các
vua triều Pagan đã vươn thế lực tới toàn bộ đồng bằng sông Chao Phraya và tới tận
eo biển Malacca. Có thể nói, vào giữa thế kỷ XII, phần lớn lục địa Đông Nam Á
nằm dưới sự kiểm soát ở những mức độ nào đó hoặc của Đế quốc Khơmer hoặc của
Pagan.
Các vua Pagan đã bước đầu tổ chức bộ máy cai quản lãnh thổ, gồm các cấp
bậc quan lại ở triều đình và ở địa phương. Các thượng quan được gọi với các chức
danh là Amát.
Đã có một thời, Pagan là vương quốc hùng mạnh bậc nhất Đông Nam Á thời
đó, Pagan có một vị trí quan trọng trên con đường bộ buôn bán giữa Ấn Độ - Trung
Hoa. Đó là vào thế kỷ XI - XIII, khoảng thời gian hoàng kim của lịch sử Miến Điện.
Phải chăng vì thế và cũng vì sùng tín mà vương triều Pagan dốc lòng theo
Phật giáo đồng thời xây dựng nhiều chùa, tháp? Nói tới Pagan là hình dung tới một
vương quốc thống nhất, mạnh, một vương triều có nhiều công tích nổi bật, nhưng

15


nổi bật hơn cả là nghệ thuật kiến trúc chùa, tháp. Có thể nói rằng trên thế giới không
có một nơi nào có số chùa tháp nhiều đến như thế, dày đặc như thế [30, tr.103].
Ngôn ngữ và văn hóa Miến dần dần thống trị ở miền bắc đồng bằng Iraoady;
và vào khoảng cuối thế kỷ XII, đã lấn át cả ngôn ngữ và văn hóa Pyu, Môn và Pali.
Phật giáo Tiểu thừa bắt đầu lan rộng đến các thôn xóm mặc dù Phật giáo Đại thừa,
Mật tông, Bà la môn, và Bái vật giáo vẫn còn bám chắc ở tất cả các tầng lớp xã hội.
Trong thời gian từ giữa thế kỷ XI đến thế kỷ XIII, các vua Pagan đã cho xây dựng
gần 5.000 ngôi chùa trong vùng kinh đô. Khoảng 2.300 trong số đó vẫn còn cho tới
ngày nay. Các phú hộ cũng rất tích cực cúng dường bằng đất đai. Đất đai của nhà

chùa lại không bị đánh thuế.
Vương quốc Pagan bắt đầu suy thoái từ thế kỷ XIII. Một trong những nguyên
nhân quan trọng là việc dồn quá nhiều nguồn lực cho xây dựng các công trình tôn
giáo. Vào những năm 1280, có tới hai phần ba số đất canh tác miễn thuế ở Thượng
Miến đã bị chuyển cho tôn giáo, vì thế làm giảm bổng lộc của quan lại và giới quân
sự, cũng có nghĩa là làm giảm lòng trung thành của họ đối với hoàng tộc. Điều này
tạo nên những vòng xoáy bất lợi gồm những rối loạn bên trong và các thách thức
bên ngoài từ người Môn, Nguyên Mông và Shan.
Bắt đầu từ đầu thế kỷ XIII, người Shan bắt đầu bao vây vương quốc Pagan
từ phía bắc và phía đông. Người Mông Cổ, sau khi chinh phục Nam Chiếu, quê
hương cũ của người Miến, vào năm 1253, bắt đầu xâm lược Myanma vào các năm
1277 và năm 1287, triệt phá kinh đô Pagan, kết thúc 250 năm cai trị của triều
Pagan ở đồng bằng Iraoady và xung quanh. Myanma sau đó rơi vào tình trạng chia
cắt suốt 250 năm.
Trong xã hội Pagan, phụ nữ đóng vai trò quan trọng. Họ làm người đứng đầu
các thôn xóm, quan lại triều đình, thợ thủ công, người cho vay, học giả và tu sĩ Phật
giáo. Hoàng hậu PwaSaw, vợ vua Uzana, được xem là người có công lớn trong việc
điều hành đất nước suốt 40 năm trời vào thời kỳ đầy khó khăn của Pagan khi phải
đối mặt với nạn ngoại xâm và rối loạn chính trị bên trong.
Pagan không chết. Nó vẫn sống trong tâm linh của các thế hệ người Miến.

16


1.2.2. Sự liên hệ chặt chẽ giữa Phật giáo Xrilanca và Phật giáo Miến Điện
Ngay từ thế kỷ III TCN, vua Asoka (Ấn Độ) đã phái con trai ông là Masidha
đi Xrilanca truyền đạo, và nhận được sự hoan nghênh của quốc vương Xrilanca là
Đê sa. Đê sa sáng lập nên phái Đại tự ở thủ đô Atudaperu và dùng văn tự nơi đó để
ghi chép. Từ thế kỷ V, Tam tạng Phật giáo Tiểu thừa viết thành văn Pali lại biên
soạn “Thanh tịnh đạo luận” trình bày giáo lý cơ bản của đạo Phật khiến Phật giáo

Tiểu thừa bắt đầu được hệ thống hóa.
Thế kỷ VIII, đạo Phật bị đàn áp. Nhưng đến giữa thế kỷ X, vua Duysadabahu
lên ngôi đã sai sứ đi Miến Điện nghêng tiếp cao tăng tới Xrilanca xây dựng lại Phật
giáo Tiểu thừa. Phật giáo Xrilanca có nhiều thăng trầm và đến thế kỷ XIII - XIV,
vua Xrilanca phái người đi Miến Điện và Xiêm nghênh thỉnh Phật pháp, khiến Phật
giáo Tiểu thừa sống lại.
Ngay sau khi Phật giáo Tiểu thừa được truyền vào Xrilanca, những cư sĩ,
những tăng già Xrilaca đã truyền thừa Phật giáo tới Miến Điện, dùng Miến văn viết
nên Tam Tạng điển tịch vốn bằng Pali, bài xích Mật giáo, Miến Điện trở thành
quốc gia Phật giáo Tiểu thừa và các vị vua vương triều Pagan đều ủng hộ Phật giáo
Tiểu thừa.
Phật giáo Miến Điện liên hệ đặc biệt với Phật giáo Xrilanca vào giữa thế kỷ
XI. Sự liên hệ này liên quan đến hai lĩnh vực là chính trị và văn hóa.
Thế kỷ XI là thời điểm quan trọng trong lịch sử Xrilanca và Miến Điện. Vào
cuối thế kỷ thứ X, đầu thế kỷ XI, Xrilanca bị quân Chola xâm chiếm, đặt nền đô hộ.
Vua Xrilanca gửi sứ thần và tặng phẩm đến vua Miến Điện yêu cầu giúp đỡ
Xrilanca chống lại quân xâm lăng Chola. Vua Miến Điện gửi nhiều thuyền chở đầy
tặng vật cho Xrilanca.
Trước khi tiến chiếm Thaton, đem Phật giáo Nam tông ở Thaton - Hạ Miến
truyền đến Pagan - Thượng Miến, Đại thừa Phật giáo thịnh hành tại Hạ Miến. Theo
sử liệu Miến Điện tại quốc đô Pagan, dân chúng hành trì Phật giáo theo truyền
thống Đại thừa cộng tín ngưỡng nhân dân thờ cúng Long thần (Nà ga). Giáo phái
Iris, giáo phái Mật giáo song hành phát triển. Theo quan điểm của một số học giả Á

17


Đông Học, giáo phái Iris là một hình thức của Phật giáo Đại thừa hòa nhập với tín
ngưỡng Long thần, thờ Siva.
Khi mà Phật giáo Tiểu thừa bắt đầu suy thoái tại Ấn Độ. Đại thừa Phật giáo

cùng Mật giáo chiếm vị trí quan trọng trong lịch sử tôn giáo Ấn Độ vào thời điểm
này. Trong thời gian này, Phật giáo Tiểu thừa thịnh hành tại Hạ Miến nhờ sự hoằng
hóa của đại sư Arhano, thuộc Thượng tọa bộ. Theo lời khuyên của đại sư Arhano,
vua xứ Pagan gửi tặng phẩm cho quốc vương Thaton với yêu cầu được thỉnh xá lợi
và kinh sách Phật giáo Tiểu thừa, nhưng vua Thaton từ chối khiến vua xứ Pagan bất
bình đem quân chiếm Thaton, mang xá lợi, Tam tạng kinh điển và chư tăng Phật
giáo Thượng tọa bộ về Pagan.
Việc tiến chiếm Thaton (Hạ Miến) vào giữa thế kỷ XI là một biến cố quan
trọng không những cho lịch sử Phật giáo Miến Điện mà còn lịch sử chính trị văn
hóa xã hội Miến. Với sự giúp đỡ của đại sư Arhano, vua đem Phật giáo Tiểu thừa và
chữ Pali từ Thaton, Hạ Miến đến Pagan, Thượng Miến, lấy Phật giáo Tiểu thừa làm
quốc giáo. Từ đó về sau, Pagan trở thành trung tâm Phật giáo Tiểu thừa, văn học,
nghệ thuật Phật giáo phát triển mạnh.
Chiến thắng Thaton khiến cho Miến Điện và Xrilanca xích lại gần nhau hơn.
Dưới triều Anoratha, dân Miến Điện an hưởng thái bình, Pagan huy hoàng rạng rỡ,
Phật giáoTiểu thừa hưng thịnh, phổ cập.
Trong khi Phật giáo Miến Điện hưng thịnh thì Phật giáo Xrilanca bước vào
cơn nguy khốn. Sau thời gian dưới quyền cai trị ngoại bang. Vua Xrilanca chủ
trương chấn chỉnh thiền môn, phục hồi vị thế tăng già. Trong sử liệu Xrilanca có
viết: Vào thời ấy chư tăng Xrilanca quá ít, không đủ số cần thiết để tổ chức Đại giới
đàn, vua bèn gửi một phái bộ đến Miến Điện yêu cầu vua Anoratha gửi kinh sách,
tăng sĩ đạo hạnh tinh thông Tam tạng đến Xrilanca hoằng hóa. Vua xứ Pagan đồng
ý, đồng thời yêu cầu vua Xrilanca cho thỉnh xá lợi răng Phật, cho bốn đại sư Miến
Điện đến Xrilanca sao chép Tam tạng Phật giáo đem về so sánh và hoàn chỉnh Tam
tạng Miến Điện. Nhờ sự giúp đỡ của vua Anoratha mà Phật giáo Xrilanca được
phục hồi và hưng thịnh. “Giữa hai nước Xrilanca và Miến Điện từ xưa đến giờ
không có hiềm khích vì dân của hai nước đều tin vào giáo lý Phật. Quốc vương hai

18



nước đều là đệ tử Phật, đều có thiện cảm với nhau, thường gửi tặng phẩm cho
nhau, duy trì tình thân hữu truyền thống” [31, tr.115].
Cuối thế kỷ XII, đầu thế kỷ XIII, giữa hai nước Xrilanca và Miến Điện có
xảy ra chiến tranh, tuy nhiên Tăng già Miến Điện và Xrilanca vẫn tiếp tục giao lưu.
“Chính nhờ sự can thiệp, hòa giải của chư tăng Tích Lan mà chiến tranh được chấm
dứt”. Dân Miến Điện gửi người và thư đến chư tăng Xrilanca yêu cầu giúp đỡ, giải
quyết tranh chấp. Chư tăng Xrilanca khuyên vua hòa đàm với Miến Điện, tái lập
ngoại giao thân hữu. Dự kiện trên cho thấy dù bất đồng về chính kiến, dù quyền lợi
chiến tranh nhưng có dây liên hệ văn hóa tôn giáo sâu đậm, không những duy trì
được tinh thần thân hữu mà còn giải quyết được những vấn đề chính trị quân sự
trọng đại giữa hai nước một cách thanh thỏa hơn.
Cuối thế kỷ XIII, Pagan suy thoái, tình hình chính trị Miến Điện căng thẳng
nhưng cả tiểu vương Hạ Miến cũng như Thượng Miến đều yểm trợ Phật giáo Tiểu
thừa theo kiểu Xrilanca.
1.2.3. Phật giáo Tiểu thừa - tôn giáo quốc gia dưới thời Pagan
Anoratha (1044 - 1077) là người đầu tiên thống nhất Miến Điện về chính trị
và tạo dựng nên sự nghiệp vĩ đại của Pagan. Ông đã để lại nhiều thành tựu và dấu
ấn lâu bền đối với đất nước và nhân dân. Sau khi lên ngôi ông đã lần lượt chinh
phục các vùng cát cứ. Myanmar được thống nhất bắt đầu mở ra một trang sử mới.
Ông sống ẩn cư bốn năm cuối trong chùa Phật, được các sư cung phụng hầu hạ rất
đầy đủ.
Anoratha là vị vua rất sùng kính đạo Phật, nên ngay sau khi thống nhất đất
nước, ông đã rất chú trọng đến việc phát triển Phật giáo Tiểu thừa. Do nhân duyên
từ thời tuổi trẻ phải theo cha ẩn cư trong chùa. Ở đây, Anoratha bắt đầu tiếp thu tư
tưởng Phật giáo dưới sự dẫn dắt của cao tăng Arhano, pháp danh Dhammadassi.
Cao tăng Arhano, Ngài có pháp danh là Pali Dhammadassi và Phạn văn là
Dharmadarsi. Trưởng lão Arhano vốn tinh thông Tam tạng, ở vùng Thaton. Vì
muốn đến hoằng dương Phật pháp ở Thượng Miến nên ngài phải rời tới sống ở khu
rừng gần thành Pagan. Sau đó nhờ người dẫn đến yết kiến nhà vua vì biết giải thích


19


rõ ràng, sáng sủa về giáo lý, ngài được nhà vua tôn kính và nhiệt tình bảo hộ Phật
pháp. Vốn có sự hiểu biết và thiện cảm với Phật giáo Tiểu thừa nên vua Anoratha
đã chọn tư tưởng Phật giáo này làm quốc giáo và đưa nó trở thành hệ tư tưởng phổ
biến trong dân chúng.
Ít lâu sau, vua ra lệnh lấy tôn trưởng lão làm quốc sư. Khi trưởng lão đến
Pagan chưa dám mang theo ba tạng kinh vì sợ mất và phạm vào luật cấm. Sau khi
vua Anoratha quyết định lấy Phật giáo làm quốc giáo, do nhu cầu muốn phổ biến
rộng rãi Phật giáo trong dân gian, nên Tam tạng Pali trở thành nhu cầu cấp thiết.
Arhano bèn đề nghị nhà vua phái sứ giả tới Thaton, yết kiến vua Thaton để xin được
ban tặng Tam tạng và xá lị Phật. Quốc vương Thaton chẳng những không cho mà
còn lăng nhục sứ giả. Vua Anoratha tức giận phái quân tới đánh Thaton. Sau ba
tháng chiến tranh quyết liệt, cuối cùng thành Thaton bị phá vỡ. Cuộc chiến kết thúc,
nhà vua cho thu thập Tam tạng, cùng các loại kinh sách, văn vật ở hơn 30 địa điểm
thuộc Thaton, dùng 32 con voi chở chiến lợi phẩm về Pagan. 500 nhà sư giới luật
trang nghiêm, cùng các nhà nghệ thuật, thợ thủ công... và cả vua Thaton bị bắt làm
tù binh cũng được mang về Pagan. Đó là một sự kiện lớn trong lịch sử Miến Điện
và lịch sử Phật giáo Miến Điện xảy ra vào năm 1057.
Các tăng đoàn tôn giáo Pagan vốn tuân thủ giới luật không nghiêm, nhất là
các nhà sư phái Ali, nên nhà vua bắt họ phải hoàn tục làm dân, hoặc tuân theo giới
luật Phật giáo do trưởng lão Arhano lãnh đạo. Một số nhà sư ngoan cố bị bắt đi đày.
Kết quả là, Phật giáo Miến Điện có một bộ mặt mới mẻ và hứa hẹn tiền đồ sáng sủa.
Cũng từ đó Phật giáo Tiểu thừa giữ vị trí độc tôn thịnh hành khắp toàn quốc. Mật
giáo và Balamon giáo dần bị đào thải và tiêu diệt. “Tuy nhiên ta phải hiểu rằng, đạo
Phật được đưa từ Thaton đến Pagan, tuyệt nhiên không phải là dòng sữa nguyên
chất của đạo Phật Tiểu thừa. Bằng chính văn khắc và khảo cổ cho thấy đạo Phật
Pagan theo lời Luce là sự pha trộn với Phật giáo Đại thừa và đến cuối triều đại, nó

đã được pha trộn ít ra là với đạo Tantric. Và chắc chắn nó dựa trên nền tảng sâu
sắc của sự tôn thờ Nàga và thần Nat” [9, tr.236].
Vua Anoratha thông hiếu với Xrilanca. Nghe theo trưởng lão Arhano, nhà
vua bèn cử tăng đoàn Xrilanca để thỉnh Tam tạng hoàn chỉnh của Phật giáo

20


Xrilanca, rồi đem so sánh, hiệu đính với bộ Tam tạng Pali thu được ở Thaton. Song,
nội dung kinh văn của hai bộ đó hoàn toàn giống nhau.
Vua lại đối chiếu hai bản để sao thêm một bộ Tam tạng mới; ông rất trân
trọng các bộ thánh điển này, liền cho xây một tòa lầu rất nghiêm trang, lộng lẫy để
cất giữ.
Tại Pagan, Anoratha cho xây dựng một thư viện đặc biệt dành cho Tam tạng
quý giá. Dưới sự cổ vũ và bảo trợ nhiệt thành của nhà vua, được đại sư Arhano
hướng đạo, các nhà sư tỏa về các làng quê xa xôi tuyên truyền tôn giáo mới. Những
người dân theo Bái vật giáo dễ dàng chấp nhận Phật giáo, vì giữa hai tôn giáo này
không có sự khác biệt, xung đột nào. Phật giáo nhanh chóng cắm rễ sâu trong lòng
quần chúng đông đảo, từ bỏ số phận của một tôn giáo thành thị, lãnh sứ mạng cao
cả liên kết tâm hồn - không phân biệt đẳng cấp sang, hèn, giàu, nghèo, chủng tộc vào một sợi dây tư tưởng thiêng liêng.
Trở thành quốc giáo Phật giáo Tiểu thừa lớn nhất Đông Nam Á, Miến Điện
cũng đồng thời là thành trì vững chắc cho thế giới Phật giáo Tiểu thừa. Vào thế kỷ
XI, vua Miến Điện phái các nhà sư mang theo kinh Phật tới Xrilanca để tổ chức lễ
thụ phong có hiệu quả ở đây và gửi tặng vua Xrilanca một con voi trắng. Vua
Xrilanca tặng lại vua Miến Điện chiếc bản sao răng Phật. Răng này được đón long
trọng, được đặt trong cái hộp nạm ngọc để thờ tại chùa Shwezigori.
Nhiều chùa, tháp, tượng Phật được xây dựng khắp đất nước. Tháp Phật
Shwezigori là ngọn tháp nổi tiếng nhất ở Pagan. Ngôi tháp hình chiếc chuông vàng.
Trong tháp cất giữ thánh vật là chiếc xương bả vai trước và chiếc răng Phật.
Vua Anoratha sau chiến thắng Thaton, ít lâu sau lại chinh phục vương quốc

của bộ tộc Akyab ở phía tây. Phía bắc dùng chính sách hòa hiếu. Vua cho đào sông
phát triển nông nghiệp, tạo cho văn hóa nhất là Phật giáo có những bước tiến to lớn.
Trên cơ sở chữ Môn và chữ Phyus, người Miến đã sáng tạo ra kiểu chữ riêng
của mình. Hiện còn tấm bia bằng chữ Miến cổ được khắc vào năm 1058. Nhà vua
rất nhiệt tình ủng hộ trưởng lão Arhano cải cách Phật giáo, giúp cho Phật giáo Tiểu
thừa phát triển, chữ Pali thay thế chữ Phạn.

21


Xrilanca là trung tâm Phật giáo Tiểu thừa, về sau thường bị người Madras và
người Chola từ Ấn Độ xâm lấn. Thời gian loạn lạc và ngoại xâm đó, Phật giáo cũng
bị suy vi. Số lượng tăng nhân toàn quốc giảm tới mức thấp nhất, kinh văn bị thất
tán. Vì thế vua Xrilanca phải cho người đến Miến Điện thỉnh cầu Anoratha ban cho
Tam tạng, cử tăng đoàn sang Xrilanca truyền thừa giới pháp. Từ đó trải qua hơn 200
năm, vương triều Pagan đã trở thành trung tâm văn hóa Phật giáo Tiểu thừa. Vì
những cống hiến đó đối với đất nước, vua Anoratha được coi là vị anh hùng thứ
nhất trong “ba vị anh hùng dân tộc”.
Vua Anoratha trị vì 34 năm. Sau khi ông mất, thái tử Xolu nối ngôi. Năm
1084, Pegu phản biến, ông bị bắt làm tù binh và bị giết chết.
Vị vương tử anh minh dũng cảm của Anoratha là Kyanditha lên ngôi. Khi
vua cha còn sống, ông là một vị danh tướng, đã từng giúp vua cha mở mang cơ
nghiệp. Khi trong nước xảy ra phản loạn, ông đã tập hợp dân chúng đứng lên chống
kẻ thù và giành chiến thắng. Ông lên ngôi vua (1084 - 1112), khôi phục sự thống
nhất đất nước, trung hưng triều Pagan.
Kyanditha là một vị vua anh minh và cũng là một tín đồ Phật giáo nhiệt
thành giống như cha. Năm 1091, Miến Điện tưng bừng cử hành lễ khánh thành chùa
tháp Ananda nổi tiếng. Vua Kyanditha tự mình chủ trì buổi lễ. Tín đồ Phật giáo ở
khắp nơi đổ về thành Pagan. Có vị sư từ Ấn Độ xa xôi cũng tới tham dự. Cảnh
tượng ngày lễ long trọng chưa từng có. Bức tường ngoài của ngôi chùa đã có 750

bức họa mô phỏng kinh Bổn Sinh. Mỗi bản đều có thuyết minh bằng tiếng Pali và
chữ Môn. Trong tháp có đến 80 tòa khám Phật đặt những pho tượng Phật bằng đá.
Hành lang phía tây có khối tượng Phật lớn gồm tượng Phật và tượng quốc sư
Arhano đang quỳ cùng vua Kyanditha. Chùa thấp, diện tích rộng tháp cao 168
thước, vĩnh cửu bảo trì, ngoại quan trong sáng.
Trong “ Lịch sử Đông Nam Á” của D.G.E. Hall có ghi Vua Kyanditha
“Đóng góp chủ yếu cho lịch sử đất nước là việc thu thập và tẩy uế bộ kinh Phật
Tripitaka. Các bản kinh chính thống được đưa tới Pagan từ năm 1075 trở đi.

22


×