MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Vấn đề ngoại giao là rất quan trọng với một quốc gia, thể hiện sự phát
triển toàn diện về mọi mặt kinh tế - chính trị - quân sự trong mối tương quan
so sánh với các quốc gia khác. Chính sách ngoại giao nhằm thực hiện ba mục
tiêu cơ bản là an ninh, phát triển và phát huy ảnh hưởng của quốc gia trên thế
giới. Ba mục tiêu này có quan hệ chặt chẽ với nhau và thứ bậc ưu tiên của mỗi
mục tiêu trong hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại quốc gia phụ
thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của từng nước, trong từng giai đoạn nhất
định. Chẳng hạn trong thời kỳ chiến tranh thì rõ ràng mục tiêu về an ninh
quốc gia phải được đặt lên hàng đầu, tuy nhiên vẫn phải chú trọng đúng mức
phát triển và phát huy ảnh hưởng vì tiềm lực kinh tế mạnh là cơ sở xây dựng
lực lượng quốc phòng mạnh. Chính sách đối ngoại của Mỹ cũng theo đuổi ba
mục tiêu trên. Việc sử dụng lá bài ngoại giao linh hoạt và khôn khéo đã đem
lại nhiều lợi ích to lớn cho Mỹ và là thước đo sức mạnh quốc gia Mỹ ở bên
ngoài lãnh thổ.
Những học giả nghiên cứu lịch sử thế giới cận - hiện đại đều phải công
nhận Mỹ là nước tư bản phát triển bậc nhất thế giới với những chính sách
kinh tế, chính trị nổi bật. Trong vòng hơn 200 năm, kể từ khi lập quốc đến
nay, với tiềm năng kinh tế, quân sự, Mỹ luôn tìm mọi cách xác lập ảnh hưởng
và vị trí của mình tại các khu vực khác nhau trên thế giới. Mà cụ thể là các
khu vực giàu có tài nguyên nhằm bành trướng đất đai và lợi ích kinh tế. Điều
này đã tác động rất lớn đến chính sách ngoại giao của Mỹ trong mọi thời kỳ.
Có lẽ, một trong những giai đoạn phát triển quan trọng nhất của lịch sử
Hoa Kỳ chính là giai đoạn những thập niên cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX
được coi là thời kỳ có tính chất bước ngoặt trong chính sách đối ngoại Mỹ.
1
Trong giai đoạn này, chủ nghĩa tư bản Hoa Kỳ chuyển từ giai đoạn tự do cạnh
tranh sang giai đoạn độc quyền đã giúp các nhà tư bản Mỹ tích lũy được một
số tư bản thừa kếch sù. Cũng từ giai đoạn này, trong lịch sử thế giới cận đại,
sự tương quan giữa các lực lượng đế quốc trên thế giới bắt đầu có sự thay đổi
to lớn: “chứng kiến những đổi thay đánh dấu sự mở đầu của chính sách đối
ngoại Mỹ hiện đại. Trong những năm này, Hoa Kỳ đã buộc người Anh phải
công nhận rằng hiện tại Hoa Kỳ là cường quốc lớn nhất ở Tây bán cầu. Cũng
chính trong những năm này, lần đầu tiên các tổ hợp công nghiệp và ngân
hàng đầy quyền lực mới hình thành đã đóng vai trò chủ đạo trong việc hình
thành nên chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Thay vì bận tâm tìm kiến những
thị trường bên ngoài cho xuất khẩu bông thô và lúa mì, như họ đã từng làm
trong suốt thế kỷ qua, các nhà xuất khẩu Hoa Kỳ giờ đây…đang tìm kiếm
khách hàng cho các sản phẩm hàng công nghiệp và ngành tài chính ngân
hàng” [16;595]. Sự chuyển biến này biểu hiện khá rõ nét trong chính sách
đối ngoại của Mỹ, đặc biệt trong thời Tổng thống William Howard Taft cầm
quyền.
Trước hết, việc lựa chọn nghiên cứu đề tài “Chính sách “ngoại giao
đô – la” của Tổng thống William Howard Taft (1909 – 1913)” xuất phát
từ những lí do khoa học và thực tiễn sau:
Thực tế nghiên cứu đã cho thấy, vấn đề mà tôi khai thác trong khóa
luận này chưa được sự quan tâm thỏa đáng của các học giả cũng như các nhà
nghiên cứu. Do vậy, việc giải quyết vấn đề này sẽ cung cấp thêm những thông
tin, kiến thức khoa học cần thiết, có giá trị về chính sách ngoại giao của Mỹ
trong giai đoạn 1909 – 1913, giúp chúng ta làm rõ hơn một giai đoạn quan
trọng trong lịch sử nước Mỹ nói riêng, cũng như lịch sử quan hệ quốc tế nói
chung. Từ đây, chúng ta sẽ có cơ sở vững chắc để lí giải hợp lí các sự kiện
tiếp theo trong lịch sử quan hệ giữa các nước cũng như trong quan hệ quốc tế.
2
Thêm vào đó, việc nghiên cứu đề tài này còn nhằm đáp ứng được nhu
cầu thực tiễn hiện nay là muốn tìm hiểu tình hình chính sách ngoại giao của
Mỹ thời cận đại. Tuy nhiên, nguồn tài liệu về vấn đề này còn rất ít mà chủ yếu
tập trung vào nghiên cứu các vấn đề quốc tế hiện đại. Nước Mỹ là cường quốc
hàng đầu thế giới về kinh tế với chính sách ngoại giao sắc bén và khôn khéo,
nhưng các công trình nghiên cứu về ngoại giao Mỹ thời kỳ này ở Việt Nam
còn rất khiêm tốn. Trong chương trình giảng dạy ở Đại học, các giáo trình
lịch sử thế giới cận đại do hạn chế về thời lượng chương trình nên không khai
thác sâu vào chính sách ngoại giao đô - la. Vì thế, chọn đề tài nghiên cứu này,
tác giả hy vọng sẽ cung cấp được một nguồn tư liệu có giá trị trong việc học
tập và giảng dạy lịch sử quan hệ quốc tế trong thế kỷ XX.
Đối với Việt Nam, trong bối cảnh toàn cầu hóa, để thực hiện thành
công chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ đối ngoại, việc
tìm hiểu cẩn thận, sâu sắc về các đối tác, trong đó có Mỹ là hết sức quan
trọng. Theo đó, vấn đề mà khóa luận này giải quyết có ý nghĩa to lớn trong
việc phát triển mối quan hệ giữa Việt Nam với Mỹ.
Vậy vấn đề đặt ra là: “ngoại giao đô – la” là gì? Quá trình thực hiện
“ngoại giao đô - la” diễn ra như thế nào? Tác động của chính sách “ngoại
giao đô – la” của Tổng thống William Howard Taft đối với nước Mỹ và đối
với các quốc gia chịu ảnh hưởng ra sao? Bài học kinh nghiệm cho giai đoạn
sau?...
Xuất phát từ những lý do trên, tôi quyết định nghiên cứu đề tài:
“Chính sách “ngoại giao đô - la” của Tổng thống William Howard Taft
(1909 – 1913)” làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Với vai trò là một nước lớn, có nền kinh tế phát triển và ảnh hưởng
chính trị sâu rộng, Mỹ từ lâu đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của rất nhiều
thế hệ sử gia.
3
2.1. Ở Việt Nam
Việc nghiên cứu về các nước châu Mỹ và quan hệ quốc tế diễn ra
tương đối rầm rộ nhất là những năm gần đây. Tuy nhiên, việc nghiên cứu đó
chủ yếu tập trung ở thời kì hiện đại. Các công trình nghiên cứu chuyên biệt
về chính sách đối ngoại Mỹ giai đoạn đầu thế kỷ XX thì vẫn còn vô cùng
ít ỏi.
Trong cuốn “Lịch sử thế giới cận đại”, do Vũ Dương Ninh, Nguyễn
Văn Hồng biên soạn (NXB Giáo dục, Hà Nội, 2009) đã giành phần F để trình
bày về: “Đế quốc Mỹ (1870-1914)”. Tuy số lượng không nhiều (10 trang)
song các tác giả đã giúp người đọc hình dung được tình hình nước Mỹ: sự
phát triển kinh tế, sự xuất hiện các Tơ - rớt cũng như chế độ chính trị và chính
sách bành trướng của Mỹ trong giai đoạn này. Tuy phần nội dung còn khá sơ
lược nhưng cũng đã góp phần định hướng cho người viết.
Trong cuốn “Lịch sử quan hệ quốc tế” tập 1 (NXB Giáo dục, Hà Nội,
2005, do Vũ Dương Ninh chủ biên), ở chương IV : “Quan hệ quốc tế trong
quá trình xâm lược và tranh giành thuộc địa của các nước phương Tây”, tác
giả đã chỉ ra sự bành trướng của Mỹ ở khu vực Mỹ Latinh thông qua học
thuyết Monroe và sự thành lập liên minh toàn châu Mỹ. Đây là khu vực mà
chính sách ngoại giao đô - la đạt được nhiều thành công nhất. Đặc biệt
mục 3: “Chính sách cái gậy lớn và ngoại giao đô - la của Mỹ” tác giả đã
chỉ ra tác động của hai chính sách ngoại giao này đã giúp cho đế quốc Mỹ
từng bước loại dần ảnh hưởng của các nước tư bản châu Âu ra khỏi khu vực
Mỹ Latinh để xác lập địa vị thống trị của mình tại khu vực này cũng như tạo
điều kiện thuận lợi để cho Mỹ mở rộng ảnh hưởng ra các khu vực khác trên
thế giới.
Ngoài ra, trong các tác phẩm như: “Lịch sử nước Mỹ”, do Vương Kính
Chi biên soạn (NXB Tp. Hồ Chí Minh, 2000), “Lịch sử châu Mỹ và châu đại
4
dương giản yếu” của Đỗ Đức Thịnh, Kiều Mạnh Thạc (NXB Thế giới, 2009)
đã trình bày một cách đại cương lịch sử nước Mỹ, trong đó có đề cập đến
chính sách ngoại giao qua từng thời kỳ. Tuy nhiên, vì là các tác phẩm thông
sử nên chính sách ngoại giao chỉ được điểm qua.
Một số bài báo, công trình nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Mỹ
cũng đã cung cấp cho chúng ta những tư liệu quý giá. Các công trình đáng
chú ý nhất là Luận án: “Chính sách đối ngoại của Mỹ từ 1898 đến 1918” của
thạc sĩ Nguyễn Kế Thân, (khoa Lịch Sử, ĐH sư phạm Hà Nội, 1979). Luận án
đã nêu rõ chính sách đối ngoại của Mỹ với từng khu vực trên thế giới từ sau
chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất, đặc biệt
là khu vực Mỹ Latinh – luôn được coi là “sân sau” của Mỹ. Ở đây Mỹ đã
thực hiện những cuộc đảo chính, chiến tranh hoặc thúc đẩy xu hướng ly khai.
Biện pháp kinh tế được Mỹ áp dụng ngày một tăng cường hơn với chính sách
ngoại giao đô - la. Tuy nhiên, vì Luận án nghiên cứu chính sách đối ngoại của
Mỹ qua nhiều đời tổng thống kế nhiệm nên chính sách ngoại giao đô - la của
Tổng thống William Howard Taft (1909-1913) chưa được chú trọng nhiều.
Các bài viết đăng trên tạp chí: “Chính sách của Mỹ đối với khu vực Mỹ
Latinh” (Trần Đình Vượng, tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 3/2002); “Chính
sách đối ngoại của Mỹ đối với Philippin nửa cuối thế kỷ XIX”, (Trần Thiện
Thanh,Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 11/2011); “Các luận điểm và
biểu hiện của học thuyết “Sứ mệnh bành trướng” trong chính sách đối ngoại
của Hoa Kỳ”, (Nguyễn Lan Hương,Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 11/2008) ;
“Xu hướng chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong lịch sử”, (Lê Thu Hằng,
Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 5/1999)… cung cấp cho chúng ta những tư liệu
quý giá.
Ngoài ra, còn có một số các công trình đã được dịch ra tiếng Việt, trước
hết ta phải nhắc tới tác giả Howard Cincotta một nhà Sử học nổi tiếng trong
5
cuốn “Khái quát về lịch sử nước Mỹ” đã có những nghiên cứu khá chi tiết về
tình hình nước Mỹ nói chung.Tác giả F.Ia. Poolianxki với cuốn “Lịch sử
kinh tế các nước ( ngoài Liên Xô )- thời kỳ đế quốc chủ nghĩa (những năm
1870 - 1917)”, NXB Khoa học xã hội, trong đó tác giả đã giành chương III
với gần 48 trang tư liệu quý báu cung cấp cho người đọc bức tranh về tình
hình ngoại giao của nước Mỹ đầu thế kỷ XX. Cuốn sách đã cung cấp cho tác
giả những tư liệu quý báu để hoàn thành khóa luận này.
Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ dịch thuật và
xuất bản, chúng ta có cơ hội tiếp xúc với nhiều tác phẩm của các tác giả nước
ngoài đề cập đến tình hình nước Mỹ thời cận đại như: “Lịch sử chủ nghĩa tư
bản từ 1500 đến 2000” (Michel Beaud, NXB Thế giới, Hà Nội, 2002 );
“Chính sách đối ngoại Hoa Kỳ động cơ của sự lựa chọn trong thế kỷ 21”,
(Bruce w.Jentleson, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004). Đây chính là
những nguồn tư liệu tham khảo quan trọng cho quá trình thực hiện khóa luận.
2.2. Trên thế giới
Ngoại giao của Mỹ là nội dung chủ đạo trong quan hệ ngoại giao đầu
thế kỷ XX, vì thế vấn đề này đã được nhiều học giả thế giới quan tâm nghiên
cứu.
Trong quá trình tìm kiếm tài liệu, người viết cũng đã tiếp xúc với một
số công trình nghiên cứu bằng tiếng Anh đề cập đến vấn đề mà khóa luận
nghiên cứu. Trong đó đáng chú ý nhất là cuốn: “American diplomacy 1900 –
1950” của George F. Kennan, xuất bản 1951, nhà xuất bản The University of
Chicago Press. Đây là tác phẩm nghiên cứu một cách sâu sắc về ngoại giao
Mỹ nửa đầu thế kỷ XX. Tác giả cho rằng học thuyết ngoại giao được xây
dựng trên quyền lợi của dân tộc Mỹ. Vai trò và tầm ảnh hưởng của Mỹ ở châu
Á và châu Âu được phân tích rất rõ, tuy nhiên chính sách ngoại giao đô - la
chỉ được nói hết sức ngắn gọn, sơ lược.
6
Cuốn “A world safe for capitalism dollar diplomacy and America’s
pise to Global power” của Cyrus Veeser nhà xuất bản Columbia unversity
press New york. Cuốn sách này tập trung tìm hiểu về ngoại giao đô - la và
quyền lực toàn cầu của Mỹ. Ngoài ra, tác phẩm “Financial Missionaries to
the world: The Politics and Culture of dollar Diplomacy, 1900 – 1930”, của
Emily S.Rosenberg, xuất bản năm 1999 đã cung cấp nguồn tư liệu về quan
trọng cho tác giả hoàn thành công trình này.
Nhìn chung, qua việc điểm lại tất cả các công trình tiếng Anh cũng như
các công trình tiếng Việt có liên quan đến đề tài, ta thấy được cũng có rất
nhiều tác giả quan tâm đến vấn đề này. Mỗi tác giả lại có cách tiếp cận vấn đề
khác nhau. Nhưng đa phần các tác phẩm đều đề cập trong một thời gian dài,
qua nhiều đời tổng thống mà thiếu đi một công trình chuyên biệt nghiên cứu
một cách hệ thống về chính sách ngoại giao đô – la của riêng đời Tổng thống
Willam Howard Taft (1909 – 1913). Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu
có liên quan của các tác giả trong và ngoài nước đã đề cập ở trên chính là
những tư liệu tham khảo quý giá giúp cho tác giả thực hiện đề tài này.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: nhằm làm rõ chính sách ngoại giao đô - la của
Tổng thống Willam Howard Taft (1909 – 1913). Để đạt được mục đích trên,
khóa luận tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau:
Tìm hiểu cơ sở hình thành chính sách ngoại giao đô - la của Tổng thống
Willam Howard Taft (1909 – 1913).
Nêu bật được nội dung, mục tiêu và quá trình thực hiện chính sách
ngoại giao đô - la của Tổng thống Willam Howard Taft (1909 – 1913).
Rút ra những nhận xét, tác động của chính sách ngoại giao đô - la đối
với Mỹ cũng như đối với các nước chịu ảnh hưởng.
Đối tượng nghiên cứu: là chính sách ngoại giao đô - la của Tổng thống
Willam Howard Taft đối với một số nước, khu vực như: Trung Quốc, Đông
Nam Á, đặc biệt là Mỹ Latinh...
7
Phạm vi không gian: chủ yếu phân tích quan hệ của nước Mỹ đối với
các nước, khu vực như: Trung Quốc, Đông Nam Á, đặc biệt là khu vực Mỹ
Latinh...
Phạm vi thời gian: chủ yếu từ đầu thế kỷ XX tức là năm 1909 – 1913
thời kỳ Tổng thống Willam Howard Taft lên cầm quyền hết một nhiệm kỳ.
Ngay sau đó là chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ khiến cho đường lối
ngoại giao đô - la phải thay đổi. Ngoài ra, để làm rõ hơn nội dung của khóa
luận, ở một số phần của khóa luận, tác giả còn mở rộng thêm phạm vi thời
gian về phía trước hoặc phía tiếp sau phạm vi thời gian chủ yếu trên.
4. Các nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài nghiên cứu này, tác giả tập trung khai thác các
nguồn tư liệu chủ yếu sau:
Các công trình chuyên khảo về lịch sử thế giới và lịch sử đối ngoại Hoa
Kỳ nói chung; tài liệu viết về lịch sử nước Mỹ và các nước có liên quan trên
nhiều phương diện.
Các bài nghiên cứu có nội dung liên quan đến đề tài đã được công bố
trên các báo, tạp chí và Website.
Một số sách giáo trình, thông sử viết về nước Mỹ.
Trong khóa luận này, tác giả sử dụng chủ yếu các phương pháp sau:
phương pháp lịch sử, phương pháp logic và phương pháp nghiên cứu quốc tế.
Bên cạnh việc sử dụng phối hợp nhuần nhuyễn tất cả các phương pháp này
xuyên suốt khóa luận, ở những phần, đoạn cụ thể, tác giả đều lựa chọn một
phương pháp chủ đạo nhằm đạt tới hiệu quả nghiên cứu một cách tối đa.
5. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận có thể coi là một trong những công trình bằng tiếng Việt hiếm
hoi lựa chọn hướng nghiên cứu chuyên sâu về quan hệ ngoại giao của Mỹ trong
giai đoạn cận đại. Đồng thời cũng làm rõ hơn thực trạng bành trướng thuộc địa
8
của các nước lớn đã trở thành nội dung quan trọng trong quan hệ quốc tế giai
đoạn này và đó là nguồn gốc của cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất.
Khóa luận đưa ra những nhận xét, đánh giá về vai trò, tác động của
chính sách ngoại giao đô - la đối với nước Mỹ cũng như với các nước chịu
ảnh hưởng trên thế giới. Đây chính là cơ sở giúp chúng ta hiểu được logic của
những biến cố tiếp theo trong lịch sử thế giới.
Khóa luận mong muốn khái quát và tổng hợp hóa vấn đề theo quan
điểm cá nhân của mình. Tất nhiên là cũng có sự ảnh hưởng rất lớn từ những
quan điểm trước.
Khóa luận đã đề xuất một hệ thống tư liệu nghiên cứu các vấn đề liên
quan đến đề tài. Đây có thể là tư liệu học tập, nghiên cứu đối với chuyên
ngành lịch sử nói chung, lịch sử quan hệ quốc tế thời cận đại nói riêng, đồng
thời cũng là tư liệu bổ ích cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
6. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và tư liệu tham khảo, nội
dung khóa luận được trình bày theo hai chương:
Chương 1: Cơ sở hình thành chính sách ngoại giao đô - la của Tổng
thống Willam Howard Taft
Chương 2: Quá trình thực hiện chính sách ngoại giao đô - la của Tổng
thống William Howard Taft (1909 – 1913)
9
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ HÌNH THÀNH CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO ĐÔ - LA
CỦA TỔNG THỐNG WILLIAM HOWARD TAFT
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Tư tưởng “Sứ mệnh bành trướng” (Manifest Destiny)
Để biện hộ cho hành động bành trướng của mình là đúng, chủ nghĩa đế
quốc Mỹ đã đưa ra quan điểm được gọi là “Vận mệnh hiển nhiên” hay còn gọi
là tư tưởng “Sứ mệnh bành trướng” (Manifest Destiny). Theo tác giả
N.I.Nodemxep cho rằng: “Học thuyết này được truyền bá sâu rộng làm cho
người ta tin rằng việc Mỹ bành trướng trên toàn lục địa của Bắc Mỹ bằng
đường lối hòa bình hoặc bằng thủ đoạn dùng thực lực hoặc dùng những
nguyên tắc cai trị theo kiểu cộng hòa là sự tiền định rõ ràng của một nước
cộng hòa” [55;14]. Đây là niềm tin về một sứ mệnh của người Mỹ là làm
thăng tiến và bảo vệ nền dân chủ khắp thế giới.
Thuyết Vận mệnh hiển nhiên (Manifest Destiny) là một niềm tin rằng
Hoa Kỳ có vận mệnh mở rộng lãnh thổ từ duyên hải Đại Tây Dương đến Thái
Bình Dương. Khái niệm này cũng được sử dụng để hô hào và biện hộ cho
việc thu phục các lãnh thổ khác. Những người cổ vũ cho khái niệm “Vận
mệnh hiển nhiên” tin rằng mở rộng lãnh thổ không chỉ tốt đẹp mà còn là “hiển
nhiên” và là “vận mệnh”. John O’Sullivan một phóng viên báo chí lần đầu
tiên đã sử dụng thuật ngữ này vào ngày 27/12/1845 với sự khẳng định rằng:
“…Đây là sự phù hợp với các ý định của trời, ngay từ những ngày thiết lập
nước Mỹ đã được trao cho sứ mệnh đặc biệt trong thế giới mới cũng như
trong sự hòa hợp giữa các quốc gia và để trở thành ngọn hải đăng thắp
sáng vũ trụ” [1;46].
10
Họ quả quyết rằng: “Bất cứ một sự bành trướng nào của chúng tôi (tức
Mỹ) về lãnh thổ đều là hoàn toàn phù hợp với những quy luật phát triển là
những quy luật không thể khắc phục được” [70;27]. Họ chứng minh tính đúng
đắn của chủ nghĩa đế quốc dựa trên lập luận rằng những thể chế chính trị
không phù hợp phải bị thống trị bởi những thể chế chính trị hùng mạnh có
năng lực vì lợi ích của toàn nhân loại. Họ không ngừng đưa ra những dẫn
chứng cụ thể cho thuyết “Sứ mệnh bành trướng” của mình. Bằng việc vẽ bức
tranh nàng Columbia - một hình tượng được nhân cách hóa như là Hoa Kỳ,
dẫn dắt nền văn minh đi về phía Tây cùng với những người định cư Mỹ, tay
căng đường dây điện báo khi nàng du hành; nàng cũng có ôm một quyển sách
học trò. Các hoạt động kinh tế khác nhau của những người đi tiên phong được
tô rõ nét và đặc biệt là những hình thức giao thông đang biến đổi …[79]. Theo
đó, nước Mỹ tự cho rằng mình sinh ra là để thực hiện sứ mệnh do Thiên Chúa
ban cho là “văn minh hóa thế giới” [1;46].
Đây là một yếu tố tư tưởng có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hoạch
định chính sách ngoại giao của Mỹ. Vì người Mỹ luôn có đức tin vào Chúa.
Họ luôn tin rằng Chúa che chở, bảo vệ và ưu ái với người Mỹ, cho người Mỹ
cái quyền hiển nhiên mà các quốc gia khác không có được. Do đó những lập
luận, chủ thuyết theo kiểu “bành trướng do định mệnh” hay “định mệnh hiển
nhiên” luôn được Mỹ sử dụng triệt để.
Sau này, “Manifest Destiny” đã trở thành thuật ngữ chuẩn lịch sử,
thường được dùng đồng nghĩa với việc mở rộng lãnh thổ của Hoa Kỳ ra khắp
lục địa Bắc Mỹ. Đã có sự chứng minh Học thuyết Monroe và Vận mệnh hiển
nhiên là những ý tưởng có liên hệ gần gũi. Sử gia Walter McDougall gọi Vận
mệnh hiển nhiên là một “hệ luận” của Học thuyết Monroe vì trong lúc Học
thuyết Monroe đã không nêu chi tiết về sự bành trướng nhưng sự bành trướng
thì rất cần thiết để làm vững mạnh học thuyết. Và thực tế đã chứng minh, Mỹ
11
đã áp dụng thuyết “Vận mệnh hiển nhiên” trên toàn khu vực Mỹ Latinh và sau
này mở rộng ra là châu Á – Thái Bình Dương.
1.1.2. Học thuyết Darwin xã hội (Social – Darwinist Ideology)
Học thuyết Darwin xã hội là lý thuyết cho rằng xã hội loài người tiến
hóa thông qua quá trình đấu tranh sinh tồn, trong đó chủng tộc nào thông
minh hơn, khỏe mạnh hơn, thích nghi với môi trường tốt hơn sẽ là chủng tộc
có quyền tồn tại; chủng tộc nào dốt nát, ốm yếu, kém thích nghi với môi
trường sẽ bị đào thải.
Có thể nói tư duy hoạch định chính sách ngoại giao Mỹ đã chịu ảnh
hưởng không nhỏ từ tư duy của học thuyết Darwin xã hội. Spencer – người
giải thích học thuyết Darwin, rồi đi đến thuyết Darwin xã hội đưa ra luận
điểm cho rằng: “con người sống trong xã hội cũng theo quy luật đào thải tự
nhiên. Hơn một xã hội nào khác, xã hội Mỹ luôn chạy đua để thích nghi, để
giành thắng lợi” [65;49]. Họ đưa ra giả thiết về thế giới sinh học nói về sự
cạnh tranh tàn bạo mà trong đó sinh vật nào mạnh nhất, có khả năng thích
nghi tốt nhất sẽ tồn tại đã ăn sâu vào tư tưởng người Mỹ và được áp dụng để
làm tiền đề cho việc hoạch định chính sách đối ngoại của Mỹ.
Những người theo chủ nghĩa Darwin xã hội lập luận rằng trong thế giới
tàn bạo của các quan hệ quốc tế “chỉ những quốc gia thích nghi được mình
với điều kiện mới và được chuẩn bị để đấu tranh thì quốc gia đó mới tồn tại
được” [65;39]. Nhiều người trong số họ dễ đi đến thừa nhận chủ nghĩa bành
trướng và cho rằng đó là phần thưởng chính đáng cho người thắng cuộc. Năm
1885, John Fiske một trong những người truyền bá học thuyết Darwin xã hội
mạnh mẽ nhất ở Mỹ, cho rằng: “mọi vùng đất trên thế giới không phải là chỗ
cho một nền văn minh xưa cũ mà sẽ trở thành chỗ dựa của dân tộc Anh về
mặt ngôn ngữ tôn giáo và các tập quán chính trị” [65;41]. Bằng việc đưa ra
những luận thuyết, lập luận, người Mỹ đã khẳng định quyền bành trướng hiển
12
nhiên của họ, khẳng định chính sách đối ngoại của nước này là hiển nhiên và
thực thi.
Như vậy, học thuyết Darwin xã hội cổ súy cho hành động “cá lớn nuốt
cá bé”. Nước Mỹ hiển nhiên tự coi mình là kẻ mạnh để rồi bào chữa cho
những hành động bành trướng của mình.
1.1.3. Học thuyết Monroe
Sau cuộc chiến tranh với Anh năm 1812, Mỹ chính thức chấm dứt phụ
thuộc kinh tế vào các quốc gia châu Âu. Kinh tế công – nông nghiệp dần phát
triển, đặc biệt là công nghiệp do động lực lấp khoảng trống trong thương mại
với châu Âu vì chiến tranh. Cùng với đó là tư tưởng bành trướng cố hữu lại
xuất hiện nhằm tìm kiếm thị trường, phát triển và củng cố thêm ngành kinh tế.
Ngoài tập trung phát triển kinh tế đất nước, người dân Mỹ còn dõi theo các
cuộc cách mạng ở Mỹ Latinh. Các cuộc cách mạng này đã củng cố niềm tin
của người Mỹ về quyền tự trị của họ. Do đó, năm 1822, trước áp lực của dư
luận, tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là Jame Monroe đã công nhận nền độc lập
thực sự, hoàn toàn tách khỏi mọi ràng buộc với các đế quốc châu Âu của các
quốc gia Trung và Nam Mỹ, đồng thời trao đổi công sứ với các quốc gia này.
Hơn thế nữa, Tổng thống Monroe còn đưa ra học thuyết Monroe với ý
nghĩa bề nổi là tôn trọng và bảo vệ tự do của người châu Mỹ, khẳng định
“châu Mỹ là của người châu Mỹ”.
Vào tháng 12 năm 1823, nhân dịp gửi thông điệp hàng năm tới quốc
hội, Tổng thống Jame Monroe đã đưa ra học thuyết Monroe với ba nội dung
chính như sau:
Thứ nhất: Mỹ phải quan tâm đến các cuộc tranh chấp ở khu vực Mỹ
Latinh.
Thứ hai: vì lý do an ninh của mình, Mỹ sẽ có những hành động can
thiệp vào các cuộc xung đột hoặc chiến tranh giữa các nước Mỹ Latinh với
13
nhau hoặc giữa những nước này với các nước ngoài châu Mỹ. Mỹ cũng sẽ
tham gia vào các cuộc tranh chấp chính trị, kinh tế ở châu Mỹ.
Thứ ba: Mỹ tự cho rằng phải có trách nhiệm bảo vệ an ninh của cả châu
lục khỏi sự nhòm ngó bên ngoài [65;49].
Tuyên bố trên đi cùng với khẩu hiệu nổi tiếng “châu Mỹ là của người
châu Mỹ” mà thực chất là “châu Mỹ là của người Mỹ”.
Thời điểm học thuyết Monroe mới công bố, học thuyết này đã nhận
được nhiều sự ủng hộ, phần lớn từ các nước Mỹ Latinh. Các quốc gia này đều
hướng tới mục tiêu chung là giành độc lập, tự do cho dân tộc, thoát khỏi ảnh
hưởng của các cường quốc châu Âu. Học thuyết này được xem như đã thể
hiện tình đoàn kết của các quốc gia châu Mỹ qua sự khẳng định “châu Mỹ là
của người châu Mỹ”.
Không chỉ vậy, học thuyết Monroe còn là lời cảnh báo tới các cường
quốc châu Âu tránh xa châu Mỹ nói chung, khu vực Mỹ Latinh nói riêng. Thực
chất đây là một học thuyết phân chia khu vực ảnh hưởng, với nỗ lực kiềm chế
sự khôi phục và giành thêm thuộc địa mới, ngăn chặn sự ảnh hưởng sâu rộng
của hệ thống chính trị các quốc gia châu Âu ở lục địa này và cuối cùng là loại
bỏ sự ảnh hưởng của châu Âu ra khỏi châu Mỹ. Sự ra đời của học thuyết này
được coi là mốc đánh dấu sự chuyển đổi trong chính sách đối ngoại của Mỹ,
chuyển từ chủ nghĩa trung lập sang chủ nghĩa bành trướng mà mục tiêu bành
trướng ở đây trước hết là Mỹ Latinh. Mỹ muốn biến Mỹ Latinh thành “sân
sau” của mình, tăng cường sự ảnh hưởng cả về kinh tế và chính trị của Mỹ ở
vùng này, và có thể nói, ẩn sau việc tuyên bố học thuyết Monroe là một nỗ lực
bành trướng trên toàn bộ lục địa này nhưng bằng phương pháp hòa bình, mang
tính chất nhân đạo, bảo vệ quyền tự do, bảo vệ công lý cho con người.
Một lãnh tụ của Đảng Cộng sản Mỹ cũng đưa ra nhận xét rằng: “Không
còn nghi ngờ gì nữa, ngay từ đầu chủ nghĩa Monroe đã mang sẵn ý đồ muốn
14
thiết lập bá quyền của Mỹ ở khắp Tây bán cầu” [70;23]. Bởi đối với bọn tư
bản Bắc Mỹ, khẩu hiệu “châu Mỹ là của người châu Mỹ” chỉ là lá bài che
chắn cho tư tưởng bá quyền “toàn châu Mỹ lệ thuộc Hoa Kỳ” [70;23]. Đúng
như V.Lênin đã nhận định chính sách bành trướng của đế quốc Mỹ trong thời
kỳ này là sự kết hợp giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa Monroe. Và đây sẽ
là ngọn cờ tư tưởng cho những chính sách đối ngoại sau này của Mỹ.
Theo dõi xuyên suốt chiều dài lịch sử đối ngoại Mỹ, ta còn thấy được
học thuyết Monroe còn là nền tảng cho việc hoạch định chính sách đối ngoại
của Mỹ sau này, chỉ đạo một xu hướng đối ngoại của Mỹ suốt thế kỉ XIX đầu
thế kỉ XX, tiêu biểu là sự ra đời của hệ luận Roosevelt, chính sách ngoại giao
đô - la, chính sách mở cửa.
Ngoài ra, theo một số quan điểm, học thuyết Monroe còn là một động
lực thực sự để thiết lập một chính sách an ninh quốc gia nhằm bảo vệ Mỹ.
Theo như lời cựu thẩm phán tòa án tối cao và ứng cử viên Tổng thống
Woodrow Wilson vào năm 1916 thì học thuyết Monroe là một chính sách
phòng thủ quốc gia… là một sự xác nhận nguyên lý của an ninh quốc gia.
Việc Mỹ công nhận nền độc lập của những hàng xóm lân cận mình, đưa ra
học thuyết tránh cho những nước này bị ảnh hưởng từ các quốc gia châu Âu
cũng chính là bảo vệ an ninh và lãnh thổ của Mỹ.
Thực chất, Học thuyết Monroe không phải là một thứ chủ nghĩa biệt lập
thuần tuý mà là luận thuyết phân chia khu vực ảnh hưởng, phân chia thị
trường. Trong thông điệp liên bang năm 1823, Tổng thống Monroe nhấn
mạnh: Lục địa châu Mỹ, với điều kiện tự do và độc lập đã giành và giữ được,
không thể bị coi là đối tượng của việc thực dân hoá trong tương lai bởi bất kỳ
các cường quốc châu Âu nào, và Mỹ coi bất kỳ cố gắng nào nhằm mở rộng hệ
thống của họ tới bất kỳ nơi nào của bán cầu này là nguy hiểm đối với hoà
bình và an ninh của Mỹ.
15
Từ đây có thể thấy là không phải Mỹ muốn biệt lập, không có tham
vọng dính líu gì tới bên ngoài mà thực chất Mỹ muốn ngăn cản các cường
quốc châu Âu, không cho họ bành trướng ảnh hưởng và buôn bán ở lục địa
châu Mỹ vì Mỹ coi đây là “sân sau” tự nhiên, là khu vực ảnh hưởng của riêng
mình. Mặt khác, tuy chưa đủ sức tiến vào châu Âu, nhưng sau khi đã xác lập
được vị thế khá vững vàng ở lục địa châu Mỹ, Mỹ cũng đã bắt đầu bành
trướng sang khu vực Đông Á – Thái Bình Dương theo phương thức “thương
mại đi trước, cờ Mỹ đi sau”.
1.1.4. Hệ luận Roosevelt
Thời điểm cuối thế kỉ XIX, Mỹ đã thành công trong việc bành trướng
về phía Tây, tăng ảnh hưởng của mình ở nhiều nước Mỹ Latinh. Do đó khi
Tổng thống Roservelt lên nắm quyền giai đoạn 1901 - 1909, Roservelt đã tiếp
tục đẩy mạnh bành trướng ra bên ngoài và coi đây là mục tiêu xuyên suốt
trong chính sách đối ngoại của Mỹ.
Tại Mỹ Latinh, Mỹ tiếp tục cố gắng làm cho khẩu hiệu lý thuyết “châu
Mỹ là của người châu Mỹ” thành hiện thực. Do đó, năm 1904, Mỹ tuyên bố
về chính sách “ngoại giao cây gậy lớn” với ý nghĩa đảm bảo quyền lợi của
Mỹ ở Tây bán cầu thông qua chủ trương can thiệp quân sự.
Trong thông điệp thường niên gửi Quốc hội vào ngày 06/12/1904, Tổng
thống T. Roosevelt tuyên bố việc xét lại học thuyết Monroe và lấy tên là hệ
luận Roosevelt. Kèm theo đó là chiến lược “cây gậy lớn” mang đậm màu sắc
quân sự. Chiến lược “cây gậy lớn” chính là phương thức của Mỹ khi thực thi
Hệ luận Roosevelt. Đây là chính sách dùng hình thức can thiệp quân sự, gây
những cuộc đảo chính, tiến hành những hoạt động quân sự để chiếm đoạt các
vùng đất, đặc biệt là ở khu vực Mỹ Latinh. Trong đó, vấn đề kênh đào
Panama trở nên hết sức nóng bỏng.
Chính sách “cây gậy lớn” khẳng định Mỹ sẵn sàng can thiệp trực tiếp
vào bất cứ quốc gia nào của Mỹ Latinh nhằm mục đích duy trì sự ổn định của
16
khu vực. Tuy nhiên, Mỹ chỉ can thiệp trong trường hợp đó là phương sách
cuối cùng nếu lợi ích của Mỹ bị xâm phạm, trong khi các nước Mỹ Latinh
không có khả năng hành động theo công lý, có thể gây phương hại đến quyền
lợi của Mỹ. Đồng thời Mỹ cũng cảnh báo với các nước châu Âu rằng sẽ sử
dụng sức mạnh để giám sát ở bán cầu Tây, sẽ không ngồi yên khi châu Âu
can thiệp vào khu vực này.
Về cơ bản, ngoại giao “cây gậy lớn” của Mỹ vẫn là một chính sách
nhằm thực hiện ý đồ bành trướng của quốc gia này ở khu vực Mỹ Latinh,
ngăn chặn ảnh hưởng của các nước phương Tây đến khu vực Mỹ Latinh, khu
vực mà Mỹ coi như “sân sau” của mình. Đây thực chất là sự tiếp tục của học
thuyết Monroe. Với việc thực hiện chính sách “cây gậy lớn”, Mỹ đã tiến thêm
một bước mới trong việc củng cố và tăng cường ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực
Mỹ Latinh. Đồng thời bằng việc sử dụng sức mạnh, sự lãnh đạo của Mỹ ở
Tây bán cầu làm các quốc gia khác phải e ngại trước sự lớn mạnh của Mỹ.
Tuy hệ luận Roosevelt đã đem lại những tác động tích cực cho ngoại
giao Mỹ. Nhưng trên thực tế, việc thực hiện “cây gậy lớn” – sử dụng sức
mạnh quân sự thực thi ở khu vực Mỹ Latinh và vùng Viễn Đông quá khắc
nghiệt.
Khi nhân dân Philippin nhìn rõ những âm mưu thâm độc của đế quốc
Mỹ và kiên quyết bảo vệ nền độc lập của mình thì ngay lập tức đế quốc Mỹ
đã phát động một cuộc chiến tranh xâm lược đẫm máu nhằm tiêu diệt nước
cộng hòa vừa mới ra đời. Mỹ đưa hạm đội cùng 12,5 vạn quân đến để đàn áp
một cách dã man. Một tên tướng Mỹ khát máu đã tuyên bố: “Tôi không cần tù
binh, tôi cần các anh giết người, đốt nhà, các anh càng giết bao nhiêu thì tôi
càng vui bấy nhiêu” [17;111]. Một phóng viên nhà báo lúc đó đã tường thuật
rằng: “Theo mệnh lệnh của các sĩ quan quân đội Mỹ, dưới sự giám sát của
các thầy thuốc, binh sĩ đổ nước muối hoặc nước xà phòng vào bụng những
17
người Philippin yêu hòa bình, do đó cơ thể của họ chương lên gấp đôi lúc
thường, sau đó bọn quân lính đem bắn chết những người bất hạnh đó. Bọn
chúng giết cả phụ nữ và trẻ em”. Hành động dã man này đã gây nên sự phẫn
nộ trong dư luận thế giới, Lênin viết rằng: “Nhân dân Mỹ, một nhân dân đã
từng nêu cao cho thế giới một tấm gương về cuộc chiến tranh cách mạng
chống lại sự nô dịch phong kiến rốt cục lại rơi vào địa vị của những tên đao
phủ” [70;50].
Đối với khu vực Mỹ Latinh, sự thống trị của các tập đoàn tư bản độc
quyền Mỹ trong nền kinh tế và chính trị đã khiến cho mâu thuẫn dân tộc giữa
nhân dân các nước Mỹ Latinh với Mỹ bùng phát. Các phong trào chống Mỹ
và tay sai bùng lên mạnh mẽ. Điển hình phải kể đến cách mạng ở Mexico nổ
ra vào năm 1901 đấu tranh chống lại sự thao túng của các tư bản độc quyền
Mỹ trong hoạt động của nền kinh tế Mexico. Đã vậy, “đổ thêm dầu vào lửa”,
Mỹ còn giơ cao “cây gậy lớn” của mình bằng cách đưa quân đội vào chiếm
đóng và giúp đỡ các chính phủ thân Mỹ. Khiến cho mâu thuẫn dân tộc ngày
càng sâu sắc, sự căm phẫn chế độ độc tài tăng lên mạnh mẽ trong giới vô sản,
trí thức, địa chủ và tư sản tự do.
Điều này càng chứng tỏ ngoại giao “cây gậy lớn” sắp hết thời và nếu
không thay đổi nhanh thì mũi rìu dư luận sẽ đổ dồn về phía Mỹ, các nước
hứng chịu “cây gậy” sẽ vùng lên đấu tranh, giới tư bản Mỹ sẽ chẳng thu được
lợi lộc gì…Đặt ra yêu cầu đến đầu thế kỷ XX Mỹ phải điều chỉnh sang chính
sách ngoại giao mềm dẻo hơn, đó là chính sách “ngoại giao đô – la”.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1. Khái quát chính sách ngoại giao của Mỹ trước năm 1909
Chính sách đối ngoại của một quốc gia nói chung là những hoạt động
được đưa ra bởi chính phủ quốc gia đó nhằm thực hiện các mục tiêu trong
quan hệ với các quốc gia khác. Nói cách khác, chính sách đối ngoại của một
18
quốc gia phản ánh mối quan hệ toàn diện của một quốc gia với các quốc gia
khác trên thế giới, là công cụ để đảm bảo lợi ích của các quốc gia, góp phần
vào sự phát triển của nước đó.
Với Mỹ: Chính sách ngoại giao có vai trò rất quan trọng trong tiến trình
phát triển của đất nước này, góp phần lớn đưa Hoa Kỳ trở thành một cường
quốc số một trên thế giới như hiện nay. Xuyên suốt quá trình phát triển của
nước Mỹ, các chính sách đối ngoại của nước này chủ yếu được quyết định và
mang dấu ấn của các tổng thống. Tuy nhiên, các yếu tố, bối cảnh trong nước,
quốc tế, hệ tư tưởng và một số yếu tố khác cũng đóng vai trò không kém quan
trọng trong việc hoạch định chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ.
Ngay từ buổi đầu lập quốc, Mỹ đã theo đuổi “chính sách ngoại giao
trung lập”, không liên minh với các cường quốc, chủ trương hành động đơn
phương nhằm tránh xa những gì liên quan đến châu Âu, nơi “chôn rau cắt
rốn” của mình. Vì theo thời gian, họ bắt đầu nhận ra mình chỉ là “con tốt trên
bàn cờ chính trị của châu Âu”. Do họ phải tham gia các cuộc chiến tranh như
Chiến tranh Thừa kế Tây Ba Nha (1701 – 1714), Chiến tranh Bảy năm
(1756 – 1763) mà cuối cùng chẳng được quyền lợi gì nên tốt nhất là
tránh xa châu Âu. Quan điểm trung lập đã được đúc kết trong bài diễn
văn từ nhiệm nổi tiếng của Tổng thống G. Washinhton trước lúc rời khỏi
chức vụ.
Đây không phải là “chính sách phòng ngự” tiêu cực. Mà thực tế, nước
Mỹ thực hiện chính sách trung lập để bù đắp cho thực lực còn non yếu của
mình, giữ vững độc lập dân tộc và phát triển đất nước trước các cường quốc
châu Âu. Có thể xem chính sách trung lập như là một “lá chắn” để cản trở các
nước châu Âu ở ngoài đại dương mênh mông khiến cho Mỹ có một không
gian rộng lớn ở Tây bán cầu. Hơn nữa, sẽ tránh cho hoa Kỳ bị vướng vào các
cuộc phân tranh quyền lực ở bên kia Đại Tây Dương. Điều này là rất cần thiết
19
cho nước Mỹ trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Chính sách này không những đem
lại hiệu quả cao trong việc duy trì, bảo vệ thành quả độc lập của nước Mỹ mà
trong một thời gian dài sau đó nó đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
của đất nước, giúp Mỹ không phải chịu sự ràng buộc bởi bất cứ điều khoản
nào với các cường quốc châu Âu. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho giới
cầm quyền Mỹ thực hiện thành công việc loại bỏ ảnh hưởng của các nước châu
Âu, giành quyền bá chủ ở khu vực Bắc Mỹ và sau đó là toàn bộ châu Mỹ.
Đến đầu thế kỷ XIX, khi kinh tế Mỹ phát triển, quá trình nhập cư ồ ạt
khiến cho dân cư ngày càng đông đúc. Nhu cầu về nguyên liệu và thị trường
ngày càng tăng cao đòi hỏi phải có một không gian sinh tồn rộng lớn hơn. Do
đó, Mỹ bắt đầu triển khai chính sách “ngoại giao điền thổ”.
Lợi dụng tình thế khó khăn của Pháp, Mỹ đã nhanh chóng mở rộng
lãnh thổ bằng “ngoại giao điền thổ”. Tháng 5 – 1803, với 15 triệu USD và với
giá 3 xen (1 xen=1/100 USD)/một mẫu đất, chính quyền của ông Jefferson đã
mua toàn bộ vùng Louisiana từ tay Pháp vì lúc đó Napoleon rất cần tiền để
chuẩn bị cho cuộc chiến tranh với Anh. Cuộc mua bán ngoạn mục này đã làm
cho diện tích của Hoa Kỳ tăng lên gấp đôi. Tiếp theo là các vụ mua bán khác,
gây chiến tranh, sáp nhập nhằm mở rộng lãnh thổ như: mua lại Florida từ Tây
Ban Nha (1819), sáp nhập Texas (1845).
Năm 1846 Mỹ tuyên bố chiến tranh với Mexico và sáp nhập bang
California và New Mexico vào Mỹ. Năm 1848 sau khi ký hiệp ước hoà bình
Mỹ - Mêxico chấm dứt chiến tranh giữa hai nước, Mexico buộc phải từ bỏ
chủ quyền đối với Texas, California, Arizona, New Mexico, Utah, Nevada
(1/2 lãnh thổ Mexico); Mỹ và Anh ký hiệp ước phân định đường biên của
Oregon dọc vĩ tuyến 49. Năm 1853 Mỹ và Mexico ký hiệp định Gadsdeh và
Mỹ chiếm thêm 140.000 km2 lãnh thổ của Mexico. Năm 1867, tranh thủ cơ
hội khi Nga đang gặp khó khăn về tài chính, Mỹ cũng đã nhanh chóng mua lại
20
toàn bộ vùng Alaska rộng lớn từ Nga với cái giá rẻ khó tưởng tượng - 7,2
triệu USD. Vùng đất này có vị trí hết sức quan trọng trong việc bố trí chiến
lược toàn cầu của Mỹ thời kỳ Chiến tranh lạnh và cả hiện nay.
Trước thời nội chiến, những người miền Nam rất muốn sát nhập Cuba
vốn thuộc quyền kiểm soát của Tây Ba Nha vào nước Mỹ. Và năm 1854,
Tổng thống Pierce đã mua lại của Tây Ba Nha với giá 130 triệu USD phần đất
này. Cùng thập kỷ đó, các nhà đầu cơ và lính đánh thuê Mỹ đã kích động
những cuộc nổi loạn ở vùng Trung Mỹ nhằm mục đích thôn tính các lãnh thổ
cho nước Mỹ. Ở vùng Viễn Đông, nước Mỹ vẫn tiếp tục chính sách khuyến
khích thương mại cho người Mỹ đã đạt đến đỉnh cao vào năm 1853 – 1854.
Như vậy, có thể thấy chỉ trong hơn nửa đầu thế kỷ XIX, bằng “ngoại
giao điền thổ” và chiến tranh thôn tính, các chính quyền kế tiếp nhau của Mỹ
đã nhanh chóng mở rộng lãnh thổ, tạo cho Mỹ một vị thế địa - chiến lược mới
trên bản đồ địa - chính trị quốc tế so với nước Mỹ thuở lập quốc. Chính
“ngoại giao điền thổ” làm cho giới cầm quyền Mỹ thấy rằng họ có thể sử
dụng tiền như một hình thức xâm chiếm lãnh thổ ở các khu vực khác bên cạnh
cách gây chiến tranh hoặc đàm phán.
Đến cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa đã phát triển đến giai đoạn tột cùng của nó – giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa. Từ đó trở đi, những hành động xâm lược của Mỹ ngày càng được tiến
hành mạnh mẽ hơn vì thị trường trong nước không còn dung nạp nổi những
sản phẩm công nghiệp ngày một nhiều. Do vậy giai cấp tư sản Mỹ hết sức nôn
nóng muốn mở rộng thị trường ra bên ngoài.
Đến thời nắm quyền của Tổng thống T. Roosevelt từ năm 1901 đến
1909, nước Mỹ thực hiện chủ trương bành trướng ra bên ngoài bằng sức mạnh
vũ lực của mình. T. Roosevelt đặt tên cho chính sách của mình là “Chính
sách cây gậy lớn” hay còn có cái tên là “Ngoại giao pháo hạm”. Ông ra sức
21
ủng hộ cho những phần tử ly khai Panama chống lại Columbia để bảo toàn
quyền xây dựng và kiểm soát kênh đào Panama tiến tới lập nên nước cộng
hòa Panama tách khỏi lãnh thổ Columbia. Ngay sau đó Mỹ ký một hiệp ước
với Panama về vấn đề kênh đào mà trước đó từng thất bại với Columbia. Theo
bản hiệp ước này Panama sẽ cho phép Mỹ được quyền sử dụng vĩnh viễn một
vùng kênh đào chiều ngang rộng tới 16 km. Điều đó có nghĩa là Mỹ đã rút
ngắn đường hàng hải từ New York đến San Francisco 12.800 km và biến khả
năng phối hợp giữa lực lượng hải quân Mỹ ở Đại Tây Dương và Thái Bình
Dương thành hiện thực. Tiếp theo, trong thông điệp thường niên gửi Quốc hội
tháng 12/1904, Tổng thống T. Roosevelt tuyên bố rằng phải chứng tỏ tính
hiệu lực của học thuyết Monroe và sẵn sàng can thiệp trực tiếp vào bất cứ
quốc gia nào ở Mỹ Latinh nhằm mục đích duy trì sự ổn định của khu vực.
Đồng thời cảnh báo các cường quốc châu Âu rằng Mỹ sẽ sử dụng sức mạnh
giám sát quốc tế ở Tây bán cầu. Chính sách “cây gậy lớn” được coi là cơ sở
thực tiễn cho Hệ luận Roosevelt. Vị tổng thống mạnh mẽ này còn đưa ra
nhiều quyết sách nhằm ép các nước Mỹ Latinh phải nhanh chóng thanh toán
các khoản nợ và phải thực hiện những yêu sách của bọn tư bản lũng đoạn Mỹ.
Tổng thống T. Roosevelt tiết lộ ông rất tâm đắc với câu tục ngữ Tây Phi:
“Nếu anh biết nói bùi tai lại mang trong tay chiếc gậy lớn thì anh sẽ đi được
rất xa”.
Thực vậy, chính sách “cây gậy lớn” đã đưa Mỹ tiến rất xa trong việc
can thiệp vào Mỹ Latinh. Song chính sách này cũng vấp phải sự chống đối
mạnh mẽ của nhân dân Mỹ Latinh. Nhiều các cuộc hội thảo của quan chức
Mỹ đã tranh luận về lợi ích của việc dùng “cây gậy lớn” để xâm chiếm đất
đai, chiếm lĩnh thị trường là lợi bất cập hại. Vì trên thực tế, các đối tượng mà
chính sách “cây gậy” hướng đến dần có thái độ đề phòng, không có lợi cho
việc đầu tư của các nhà tư bản tài phiệt Mỹ. Vì vậy, đã đến lúc cần có sự thay
22
đổi cho mềm dẻo hơn, khôn ngoan hơn đối với tham vọng thâu tóm Mỹ
Latinh.
Hoàn cảnh lịch sử đã đặt ra cho giới cầm quyền Mỹ lúc này nhiệm vụ
phải thay đổi chính sách ngoại giao trước đây, nhưng không được phép thay
đổi các nguyên tắc ngoại giao cơ bản đã có, đó là đem lại quyền lợi cho giới
tư bản tài phiệt Mỹ.
1.2.2. Yêu cầu của sự phát triển của kinh tế Mỹ
Nói về cơ sở hoạch định chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trước hết
phải nói đến cơ sở về kinh tế. Chính sách đối ngoại của Mỹ có được sức mạnh
đáng kể nhờ kinh tế mạnh. Với lợi thế vị trí địa lý thuận lợi, điều kiện tự
nhiên phong phú, đất đai rộng, nguồn nhân công dồi dào, cùng với sự ảnh
hưởng và áp dụng tích cực những thành tựu từ cuộc cách mạng công nghiệp
Anh, cách mạng công nghiệp Mỹ (1865 – 1914) và tinh thần sáng tạo của
người Mỹ, nước Mỹ đã nhanh chóng phát triển kinh tế. Đặc biệt là sau nội
chiến (1861 – 1865), với sự xóa bỏ chế độ nô lệ, dường như mọi rào cản đối
với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở cả hai miền đều được san bằng tạo
điều kiện thuận lợi để phát triển nền sản xuất công nghiệp lớn.
Kinh tế phát triển đã thúc đẩy việc tìm kiếm thị trường bên ngoài, do
đó hình thành nên chính sách bành trướng của Mỹ. Ban đầu là sự xâm chiếm
lãnh thổ bằng nhiều cách như chiếm, sát nhập, mua lại… đất của người da đỏ,
vùng lãnh thổ của các đế quốc châu Âu gần Mỹ, sau này là sự can thiệp, xâm
nhập, tạo ảnh hưởng tới thị trường các quốc gia khác. Để làm được những
điều này thì thực lực kinh tế của Mỹ phải thực sự hùng mạnh.
Trong những năm cuối thế kỉ XIX, nền kinh tế Mỹ có những bước biến
đổi vượt bậc. Đến đầu thế kỷ XX, Mỹ đã vươn lên vượt xa các nước tư bản
khác về sức mạnh kinh tế, dần dần chiếm địa vị bá chủ thế giới.
23
Về công nghiệp:
Đến năm 1900, Mỹ cơ bản là một cường quốc công nghiệp với nền tảng
là gang, thép, than và các tuyến đường sắt. Trong đó, sản xuất công nghiệp
không ngừng tăng. Từ năm 1860 – 1900 sản lượng gang thép đã tăng khoảng
7 đến 8 lần, chiều dài đường sắt tăng gần 650%. Ngành công nghiệp đường
sắt phát triển hết sức mạnh mẽ đã kích thích các ngành công nghiệp khác phát
triển theo tạo nên sự thúc đẩy không ngừng đối với nền kinh tế Mỹ. Chỉ trong
vòng 30 năm cuối của thế kỉ XIX, trên khắp nước Mỹ đã xây dựng được 4
tuyến đường sắt chính: đường liên hiệp Thái Bình Dương hoàn thành năm
1881, đường Bắc Thái Bình Dương năm 1882, đường Đại Bắc Dương năm
1893 và đường Chicago – Saint Paul. Điều này giúp cho các chủ trang trại của
các bang miền Tây có thể với tới thị trường thuộc các thành thị miền Đông.
Dòng sản phẩm công nghiệp được chuyển từ Đông sang Tây. Đường sắt đã
đưa lại cho nước Mỹ một sự thống nhất về kinh tế chứ không đơn thuần là sự
phát triển kinh tế mà thôi. Sự khác biệt về kết cấu kinh tế giữa miền Đông,
miền Tây và miền Nam giảm bớt đi. Công nghiệp lan xuống miền Nam và lan
san miền Tây. Điều đó đưa lại cho nước Mỹ những nguồn dự trữ kinh tế lớn
lao: “Lịch sử việc xây dựng đường sắt của Mỹ cho ta một ví dụ rõ rệt về sự
cướp bóc tư bản chủ nghĩa, về một sự ăn cướp thực sự, một tình trạng vô
chính phủ và cưỡng đoạt. Nhưng khi được xây dựng lên rồi, đường sắt đã có
ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển kinh tế của nước Mỹ, đã đẩy nhanh một
cách phi thường nhịp độ của sự phát triển ấy” [2;75].
Chỉ tính riêng sản lượng thép ta thấy từ năm 1880 đến 1900, tỉ lệ tăng
của Anh là 377% còn của Mỹ là 803%. Công nghiệp khai khoáng Mỹ phát
triển với những con số hết sức nổi bật. Năm 1860, Mỹ mới chỉ khai thác được
500 nghìn thùng dầu nhưng đến 1900, con số này đã là 63 triệu thùng. Đầu
thập niên 90, sản xuất gang thép, máy móc đã chiếm hàng đầu thế giới
[41;256].
24
Bảng 1: Sản lượng gang, thép, than và chiều dài đường sắt
của Mỹ từ 1860 đến 1900
Đơn vị tính: gang, thép, than: triệu tấn
Chiều dài đường sắt: km
Sản lượng
Năm
Gang
1860
Thép
Than
0,013
Chiều dài
đường sắt
49 001,6
1870
1,711278
0,077
33,310905
84 675,2
1880
2,741853
1,397
70,478426
149 219,2
1890
7,603642
4,779
140,882729
266 646,4
1900
13,620703
11,227
240,788238
310 934,4
[Nguồn: Dẫn theo Trần Thiện Thanh, (2007), Chính sách đối ngoại của Mỹ giai
đoạn 1865-1904, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 4 (109), tr.34]
Từ một nền kinh tế phụ thuộc và châu Âu, Mỹ đã nhanh chóng trở
thành một quốc gia công nghiệp hành đầu thế giới. Năm 1870 sản lượng công
nghiệp Mỹ chỉ đạt 23% đứng thứ hai trong thế giới tư bản sau Anh thì đến
đầu thế kỉ XX, Mỹ đã vượt qua Anh về tỉ trọng sản xuất công nghiệp và đứng
hàng đầu thế giới. Không chỉ vậy tốc độ tăng trưởng cũng tăng vọt. Năm
1980, sản lượng công nghiệp Mỹ tăng gấp 6 lần so với 1860. Cũng năm
này, giá trị sản lượng công nghiệp Mỹ đạt 9498 triệu USD, trong khi đó,
Anh mới chỉ đạt gần 4263 triệu USD (bằng khoảng 50% của Mỹ), Đức đạt
3357 triệu USD (bằng khoảng 40% của Mỹ) và Pháp đạt 2900 triệu USD
(bằng khoảng 35% của Mỹ) [41;257].
25