Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Làn điệu hát đúm ở xã phục lễ thủy nguyên hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (797.46 KB, 81 trang )

Trường ĐHSP Hà Nội 2

1

Khóa luận tốt nghiệp

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân ca là sản phẩm của lao động, là tiếng nói tình cảm, là sản phẩm tinh
thần, là nguồn nuôi dưỡng tâm hồn của người Việt Nam từ thế hệ này đến thế
hệ khác, nó gắn chặt với đời sống nhân dân lao động và có sức sống mãnh liệt.
Ngày nay, các giá trị cao đẹp của kho tàng dân ca là nguồn cảm hứng
sáng tạo để các nhạc sỹ Việt Nam nghiên cứu, sử dụng vào tác phẩm của mình
góp phần xây dựng nền âm nhạc Việt Nam. Hát dân ca là tìm đến cội nguồn
dân tộc để hiểu rõ hơn về đời sống phong tục tập quán, sinh hoạt văn hoá của
cha ông.
Thủy Nguyên là một huyện nằm ở phía bắc của Hải Phòng bên bờ bắc
dòng sông Cấm gồm 37 xã. Đây là vùng đất được hình thành từ lâu đời và là
một trong những địa bàn xuất hiện con người sớm nhất của vùng Duyên Hải
Bắc Bộ. Trong quá trình tạo dựng vùng đất Thuỷ Nguyên, văn hóa dân gian
dần dần được hình thành và phát triển như: Các hội đua thuyền, võ, vật, chơi
đu, đánh cờ, nhưng tiêu biểu và đặc trưng nhất là Hát Đúm và Tục Mở Mặt ở
Tổng Phục (Thuỷ Nguyên) xưa.
Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu tôi nhận thấy Hát Đúm Thuỷ
Nguyên là một loại hình dân ca giao duyên có giá trị về văn hoá, lịch sử, nghệ
thuật, có vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân Thuỷ
Nguyên. Tuy nhiên, ngày nay với sự biến đổi và phát triển không ngừng của
cơ chế thị trường cùng với quá trình đô thị hoá đã dần làm mất đi những nét
đặc sắc vốn có của hát Đúm, nó chỉ còn tồn tại trong đời sống của một bộ
phận những người cao tuổi.
Xét thấy tầm quan trọng của làn điệu hát Đúm - tiêu biểu cho văn hóa


dân gian Hải Phòng, tôi thiết nghĩ việc tìm hiểu, khôi phục và phát triển Hát
Đúm ở Tổng Phục Lễ - Thuỷ Nguyên là một vấn đề cấp thiết, góp phần không
nhỏ trong đời sống văn hoá tinh thần của người dân nơi đây nói riêng và của
Nguyễn Thị Luyên

Lớp K35 Lịch sử Văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

2

Khóa luận tốt nghiệp

tỉnh Hải Phòng nói chung. Bởi trên hành trình tiến tới văn minh con người
không chỉ khát vọng một tương lai tươi sáng tốt đẹp hơn mà còn luôn trăn trở
muốn biết nhiều, biết đúng, biết sâu hơn về cội nguồn, về quá khứ của cha
ông, của dân tộc mình.
Với những lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài “Làn điệu hát Đúm ở xã
Phục Lễ - Thủy Nguyên - Hải Phòng” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghệ thuật Hát Đúm mang nhiều nét đặc trưng riêng không giống với
bất kỳ loại hình hát giao duyên nào ở đồng bằng Bắc Bộ và một số vùng miền
khác. Trong góc độ tiếp cận về phương diện âm nhạc học thuần túy, hát Đúm
không phức tạp và ở cấp độ cao như hát Quan Họ Bắc Ninh. Thậm chí mới
chỉ ở cấp độ đầu trong tương quan giữa các hình thức sinh hoạt âm nhạc dân
gian Việt Nam. Nhưng nếu nhìn nhận hát Đúm trong cách tiếp cận tổng thể
một hiện tượng văn hóa dân gian lại là vấn đề không đơn giản. Từ khi xuất
hiện đến nay đã có nhiều tác giả nghiên cứu về làn điệu hát Đúm như:
Năm 1987, nhà xuất bản Hải Phòng xuất bản công trình “Hát Đúm Hải

Phòng” của Đinh Tiếp. Trong khi tìm hiểu về loại hình dân ca của vùng biển,
tác giả khái quát chung hát Đúm Hải Phòng bao gồm ba vùng: Vùng thứ nhất
bao gồm địa bàn các đảo Cát Hải, Cát Bà và một số làng ven biển.Vùng thứ
hai là địa bàn huyện Kiến Thụy và Đồ Sơn. Vùng thứ ba gồm địa bàn huyện
Thủy Nguyên và An Hải.
Năm 1994, trong tác phẩm “Dân ca người Việt” (chương III- Những bài
hát giao duyên) PGS Tú Ngọc có bàn đến hát Đúm. Tác phẩm đã khẳng định
hát Đúm là một loại hình của hát giao duyên bên cạnh hát Xoan, hát Quan Họ.
Tác giả khái quát chung về các bước hát của hát Đúm: Hát gặp, hát mừng, hát
đón xuân, hát huê tình…
Năm 2001, nhà xuất bản Hải Phòng xuất bản tác phẩm “Văn hóa văn
nghệ dân gian Hải Phòng” của Hội liên hiệp văn học nghệ thuật thành phố
Nguyễn Thị Luyên

Lớp K35 Lịch sử Văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

3

Khóa luận tốt nghiệp

Hải Phòng có nghiên cứu về Hát Đúm Thủy Nguyên. Sách giới thiệu về hát
Đúm Thủy Nguyên là lối hát giao duyên giữa một bên nam và một bên nữ,
giới thiệu về hình thức, về những nét nổi bật của hát Đúm nhưng không
nghiên cứu sâu về nguồn gốc, nội dung của hát Đúm.
Năm 2003, nhà xuất bản văn hóa thông tin Hà Nội xuất bản ctác phẩm
“Tìm hiểu hội mở mặt Thủy Nguyên - Hội hát Đúm Hải Phòng” của Nhóm tác
giả Giang Thu - Trần Sản - Phạm Thị Huyền. Nhóm tác giả đi sâu vào sưu

tầm những bài hát Đúm cụ thể ở tất cả các bước hát.
Năm 2006, nhà xuất bản Hải Phòng xuất bản tác phẩm “Hát Đúm Phục
Lễ - Thủy Nguyên - Hải Phòng” của tác giả Nguyễn Ngọc Hải, Nguyễn Đỗ
Hiệp. Đây là hai nhạc sĩ nên tác giả quan tâm và nghiên cứu là đi sâu vào đặc
điểm âm nhạc, thanh điệu, nhịp điệu, diễn xướng của hát Đúm.
Các tác phẩm trên mới chỉ đi nghiên cứu một số khía cạnh nhất định chứ
chưa đi sâu vào nghiên cứu hoàn chỉnh một làn điệu hát Đúm. Vì vậy với tinh
thần bảo tồn tinh hoa của cha ông đã bao đời gian khổ tạo nên, với hy vọng
góp phần bổ sung mảng dân ca cổ vào gia tài dân ca của cả nước, trên cơ sở
kế thừa nguồn tài liệu của các tác giả đi trước, tôi đi tìm hiểu một cách hệ
thống về “Làn điệu hát Đúm ở xã Phục Lễ - Thủy Nguyên - Hải Phòng”
trên các khía cạnh về nội dung, hình thức, đặc điểm hát Đúm.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khái quát về hát Đúm ở xã Phục Lễ - Thủy Nguyên - Hải Phòng, từ đó
rút ra đặc điểm, giá trị và những biện pháp bảo tồn, phát huy sản phẩm văn
hóa tinh thần của người dân Thủy Nguyên, góp thêm tài liệu vào hệ thống tài
liệu nghiên cứu hát Đúm.
3.2. Nhiệm vụ
- Trên cơ sở tìm hiểu, trình bày tình hình kinh tế - văn hóa - xã hội xã
Phục Lễ và huyện Thủy Nguyên, rút ra những ảnh hưởng tới làn điệu hát
Đúm.

Nguyễn Thị Luyên

Lớp K35 Lịch sử Văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2


4

Khóa luận tốt nghiệp

- Tìm hiểu nội dung, đặc điểm, giá trị của làn điệu hát Đúm ở xã Phục Lễ
- Thủy Nguyên - Hải Phòng.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian: Từ khi hát Đúm được hình thành đến ngày nay
- Không gian: Ở xã Phục Lễ - Thủy Nguyên - Hải Phòng
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Để thực hiện đề tài này, em đã sử dụng nguồn tư liệu và các sách, báo ở
thư viện huyện Thủy Nguyên và thư viện quốc gia.
- Thư viện huyện Thủy Nguyên:
1. Nguyễn Ngọc Hải, Nguyễn Đỗ Hiệp (2006), Hát Đúm Phục Lễ - Thủy
Nguyên - Hải Phòng, NXB Hải Phòng.
2. Đảng ủy - HĐND - UBND xã Phục Lễ huyện Thủy Nguyên - Hải
Phòng (2005), Lịch sử xã Phục Lễ, NXB Hải Phòng.
- Thư viện Quốc gia:
1. Đinh Tiếp (1987), Hát Đúm Hải Phòng, NXB Hải Phòng.
2. Hội liên hiệp văn học nghệ thuật TP. Hải Phòng (2001), Văn hóa văn
nghệ dân gian Hải phòng, NXB Hải Phòng.
3. Hội văn nghệ dân gian Việt Nam (2003), Tìm hiểu hội mở măt Thủy
Nguyên Hội hát đúm Hải Phòng, NXB văn hóa thông tin Hà Nội.
4. PGS. Tú Ngọc (1994), Dân ca người Việt, NXB Âm nhạc.
Bên cạnh những tài liệu nghiên cứu về hát Đúm ở Thủy Nguyên - Hải
Phòng, tôi còn tham khảo một số tài liệu về các làn điệu dân ca của các vùng
miền khác để khóa luận của mình được hoàn thiện hơn.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập và nghiên cứu tài liệu văn bản.

- Phương pháp phân tích tổng hợp so sánh.
- Phương pháp logic.
- Phương pháp điền dã thực tế.

Nguyễn Thị Luyên

Lớp K35 Lịch sử Văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

5

Khóa luận tốt nghiệp

- Và một số phương pháp khác.
5. Đóng góp của đề tài
Trên cơ sở khái quát về làn điệu hát Đúm ở xã Phục Lễ - Thủy Nguyên Hải Phòng:
- Khóa luận làm sáng tỏ những giá trị văn hóa, những giá trị nghệ thuật
đặc sắc của hát Đúm.
- Góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa của người dân Thủy Nguyên - Hải
Phòng nói riêng và của dân tộc Việt Nam nói chung.
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu khóa
luận gồm 2 chương:
Chương 1: Khái quát chung về xã Phục Lễ - Thủy Nguyên - Hải Phòng
Chương 2: Làn điệu hát Đúm ở xã Phục Lễ - Thủy Nguyên - Hải Phòng

Nguyễn Thị Luyên


Lớp K35 Lịch sử Văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

6

Khóa luận tốt nghiệp

Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ XÃ PHỤC LỄ - THỦY NGUYÊN HẢI PHÒNG
1.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1.1. Vị trí địa lý

Huyện Thủy Đường dưới thời Minh thuộc châu Đông Triều, Phủ Tân
Yên, đời Lê thuộc phủ Kinh Môn (Hải Dương), đời Tây Sơn, Phủ Kinh Môn
thuộc trấn Yên Quảng, đến đời Nguyễn lại chuyển trả về Hải Dương. Năm
1886, do kiêng tên của Đồng Khánh, huyện được đổi về Thủy Nguyên. Năm
1898, Pháp cắt huyện về Phù Liễn. Trong thời kháng chiến chống Pháp
(1946- 1954), huyện nhiều lần bị cắt đi, cắt lại chuyển giữa Kiến An - Quảng
Yên và Hải Phòng. Từ năm 1957 đến nay, huyện Thủy Nguyên mới chính
thức thuộc thành phố Hải Phòng.
Thủy Nguyên là một huyện lớn nằm bên dòng sông Bạch Đằng lịch sử.
Phía bắc, đông bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía tây nam giáp huyện An Dương
và nội thành Hải Phòng, phía đông nam là cửa biển Nam Triệu. Diện tích tự
nhiên là 242 km2, với số dân là 30 vạn người, gồm 35 xã và hai thị trấn.
Chiều dài huyện Thủy Nguyên từ bến Đụn (Phi Liệt) đến bến Rừng
(Tam Hưng) là 31 km. Chiều rộng từ bến Bính đến cầu Đá Bạc là 17 km. Bao
quanh huyện là các con sông lớn: Sông Bạch Đằng, sông Đá Bạc, sông Kinh
Thầy, sông Hàn Mấu và sông Cửa Cấm với hệ thống đê dài 114 km.

Xã Phục Lễ nằm trong một tổng gọi là tổng Phục Lễ - huyện Thủy
Nguyên - Hải Phòng, là một xã ven biển. Theo cuốn “Từ điển Bách Khoa địa
danh Hải Phòng”: Phục Lễ là xã có phía bắc và đông bắc giáp xã Tam Hưng,
nam giáp xã Phả Lễ, tây bắc giáp xã Ngũ Lão, đông giáp sông Bạch Đằng,
bên kia là tỉnh Quảng Ninh. Diện tích đất đai là 587.76 ha, với số dân 5.915
người. Hiện nay, Phục Lễ có các thôn xóm như: Xóm Bắc, xóm Chảo, xóm
Đầm Bé, xóm Đông, xóm Láng, Mức Một, Mức Hai, xóm Nam, Phục Lễ, Sỏ
Một, Sỏ Hai, xóm Trung…
Nguyễn Thị Luyên

Lớp K35 Lịch sử Văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

7

Khóa luận tốt nghiệp

Tổng Phục Lễ là tiêu biểu cho vùng đất ven biển huyện Thủy Nguyên,
nơi đã hình thành “tục bịt mặt” của phụ nữ, một trong những tục lệ cổ hiếm
hoi và nó còn biểu hiện trong nội dung lời ca. Đó chính là cơ sở là nền tảng
quan trọng để khẳng định yếu tố độc đáo, đặc sắc của loại hình dân ca cổ còn
được bảo lưu và phát huy trên vùng đất tổng Phục, huyện Thủy Nguyên,
thành phố Hải Phòng. Mặc dù, hát Đúm có cả ở năm xã Phục Lễ, Phả Lễ, Lập
Lễ, Du Lễ và Tam Hưng nhưng điểm hát Đúm hàng năm được chọn ở chùa
Phục Lễ. Vì vậy Phục Lễ trở thành trung tâm hát Đúm của cả vùng và mang
màu sắc riêng của vùng tổng Phục Hải Phòng xưa.
1.1.2. Điều kiện tự nhiên


Địa hình huyện Thủy Nguyên rất đa dạng: Suốt từ phía bắc đến phía
đông huyện có núi xen kẽ với đồng ruộng. Sông Lạch chia làm hai lớp, lớp
ngoài là núi đá vôi từ Trại Sơn, Doãn Lại đến Minh Tân, Minh Đức. Lớp
trong là núi đất, từ An Sơn - Phù Ninh qua Kỳ Sơn, Chính Mỹ, Kênh Giang
đến Hòa Bình, Thủy Đường, Trung Hà, Ngũ Lão. Nổi lên cao nhất là đỉnh
Sơn Đào nằm ở trung tâm huyện. Phía đông nam kéo dài từ Hợp Thành, Cao
Nhân qua Trịnh Xá, Kiền Bái, Hoàng Hoa, Lâm Động, Tân Dương kéo dài
đến Tam Hưng, Lập Lễ. Địa thế ở đây bằng phẳng, đất đai màu mỡ, thuận lợi
trồng cây lương thực, rau màu, cây ăn quả. Dọc theo triền sông Cấm, sông
Bạch Đằng có nhiều rừng Sú, rừng Chang rậm và những bãi bồi, hàng năm
tiếp nhận lượng phù sa đáng kể do hệ thống sông bồi đắp.
Về cơ bản, địa hình huyện Thủy Nguyên được chia làm 4 dạng:
Thứ nhất là dạng đồi núi ở phía Bắc huyện là địa hình núi đá vôi chạy từ
An Sơn qua các xã Lại Xuân, Liên Khê, Lưu Kiếm, Minh Tân, Gia Minh, Gia
Đức. Xen kẽ giữa địa hình núi đá vôi là vùng đồi núi thấp. Đây là dạng địa hình
bán bình nguyên cổ với các đồi tròn bị bào mòn chạy từ An Sơn, Phù Ninh,
Quảng Thanh, Chính Mỹ, Kênh Giang đến Lưu Kiếm, Minh Tân, Ngũ Lão.
Thứ hai là dạng địa hình đồng bằng trung tâm huyện gồm các xã Kiền
Bái, Mỹ Đồng, Thủy Sơn, Thủy Đường… với phù sa cổ, đất bị bạc màu, đất
có pha cát.

Nguyễn Thị Luyên

Lớp K35 Lịch sử Văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

8


Khóa luận tốt nghiệp

Thứ ba là dạng địa hình ven sông là các xã Hoàng Hoa, Lâm Động, Tân
Dương, Phục Lễ, Phả Lễ, An Lư, Thủy Đường, vùng đồng bằng mới được bồi
tụ, thường ngập nước, đất ở đây còn bị chua mặn.
Thứ tư là địa hình đặc trưng dải ven biển là các cửa sông ven biển. Ở
đây, hình thành các bãi lầy được cấu tạo bằng một lớp phù sa bùn nhão, trên
mặt có màu phớt hồng. Đây là môi trường phát triển thực vật ngập mặn như
sú, vẹt, thuận lợi cho các loài tôm cá vào đẻ trứng và sinh sôi.
Khí hậu: Thủy Nguyên chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa.
Trong đó, từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau là khí hậu có một mùa
đông lạnh và khô, từ tháng 5 đến tháng 10 là khí hậu mùa hè, nồm mát và
mưa nhiều.
Sông ngòi: Sông Bạch Đằng chảy theo hướng Đông Bắc đến thôn Phi
Liệt thì chia dòng về hướng Tây Nam là sông Giá, dòng chính theo hướng cũ,
lòng sông mở rộng dần đến Gia Đức thì đổi hướng Đông Nam, gặp sông Giá
tại núi U Bò, xã Minh Đức. Từ đây, lòng sông càng mở rộng, nằm án ngữ phía
Đông Nam huyện. Một nhánh là sông Chanh, chảy tiếp đến xã Lập Lễ, gặp
sông Ruột Lợn từ sông Cấm chảy ra, cùng hòa đổ ra cửa Nam Triệu. Sông
Hàn ở phía Đông Bắc, phía bên trái là các xã An Sơn, Lại Xuân. Sông Cấm là
đoạn cuối cùng của sông Kinh Môn, là một nhánh của sông Thái Bình bao lấy
huyện ở phía nam và Đông Nam… Ngoài hệ thống sông ngòi, huyện Thủy
Nguyên còn có diện tích hồ, đầm khá lớn như hồ Đà Nẵng, đầm Tám Xã.
Thủy Nguyên có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú: 51 dãy núi đá
vôi có thể khai thác làm nhiều mặt hàng quý, 48 dãy núi đất có thể khai phá
trồng cây lấy gỗ, cây ăn quả, nguyên liệu công nghiệp và hàng xuất khẩu.
Thủy Nguyên có khả năng nông nghiệp lớn, có tiềm năng nuôi thả, đánh bắt
tôm cá lớn.
Với đặc điểm vị trí địa lý, địa hình và nguồn tài nguyên thiên nhiên như
vậy, Thủy Nguyên có đầy đủ điều kiện thuận lợi để phát triển về kinh tế - xã


Nguyễn Thị Luyên

Lớp K35 Lịch sử Văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

9

Khóa luận tốt nghiệp

hội, đặc biệt là có điều kiện quan tâm đến đời sống văn hóa tinh thần của người
dân. Thủy Nguyên là nơi sớm tiếp nhận và phát triển Phật giáo. Từ đời nhà Trần,
Thủy Nguyên cùng với vùng Yên Tử đã là một trung tâm Phật giáo lớn của nước
ta. Ở đây có các công trình được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa, các
di tích nổi tiếng của huyện phải kể đến đình Kiền Bái, đền thờ Trần Quốc Bảo,
chùa Kiến Linh…Phục Lễ là quê hương của nghệ thuật hát Đúm và môn thể
thao bơi lội. Đây là làn điệu hát cổ xưa và môn thể thao đầy tinh thần thượng võ
mà ngày nay vẫn được nhân dân Phục Lễ duy trì và phát triển.
1.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội

Phục Lễ là vùng đất giáp biển, đồng ruộng luôn bị ngập mặn, ngập úng,
khí hậu ở Phục Lễ rất khắc nghiệt, thường có bão biển đe dọa, con người luôn
phải đối mặt với gió biển, với ánh nắng gay gắt vào mùa hè, mùa đông thì gió
lạnh buốt da. Ngày nay, người dân nơi đây đã khắc phục khó khăn, đắp đê và
trồng rừng ngập mặn biến miền đất hoang vu, với các bãi sú vẹt, đầm lầy
thành những cánh đồng màu mỡ, xanh tươi. Trong quá trình tạo dựng và phát
triển vùng đất, người dân Phục Lễ đã vừa đi biển đánh bắt cá, vừa mở mang
đất đai, quai đê, lấn biển, phát triển nghề nông. Sự đan xen giữa nghề biển và

nghề nông đã tạo nên một sắc diện văn hóa riêng cho Phục Lễ và tổng Phục
Lễ - Thủy Nguyên - Hải Phòng.
Cùng với sự hình thành và phát triển của vùng đất Phục Lễ thì huyện
Thủy Nguyên xưa kia là vùng đất bồi, khí hậu khắc nghiệt, cư dân ở nhiều nơi
khác đến đây lập đất định cư và khai khẩn cải tạo thành đồng ruộng. Họ vốn
là dân từ nhiều nơi thuộc Hải Phòng, hay nhiều tỉnh khác đến nhập cư, họ đã
đem đến nhiều nghề khác nhau.
Với vị thế địa lý, tài nguyên thiên nhiên phong phú kết hợp với truyền
thống oanh liệt cùng trí thông minh, cần cù, dũng cảm của người dân Phục Lễ
đã tạo cho nơi đây nhiều tiềm năng phát triển kinh tế như tiềm năng nông
nghiệp, công nghiệp, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và du lịch.

Nguyễn Thị Luyên

Lớp K35 Lịch sử Văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

10

Khóa luận tốt nghiệp

Về nông nghiệp: Ở Phục Lễ đã phát triển ngành nông nghiệp với các cây
trồng chính như trồng lúa, trồng bông, nuôi tằm dệt vải. Ở đây có những cánh
đồng chuyên trồng bông gọi là Đồng Bông.
Về công nghiệp: Phục Lễ là xã ven biển để phục vụ cho việc đi biển của
người dân trong vùng nên nơi đây rất phát triển công nghiệp đóng tàu, phát
triển sản xuất xi măng.
Về ngư nghiệp: Phát triển hình thức kinh tế mới như có các đầm nuôi hải

sản như tôm, cua, cá…bên bờ cửa biển Nam Triệu, kết hợp với làm vườn
trồng các cây ăn quả.
Về du lịch: Là vùng đất hình thành từ lâu nên nơi đây đã sớm hình thành
những tín ngưỡng, phong tục, tập quán. Các lễ hội đã thu hút được rất nhiều
khách du lịch đặc biệt là “Hội mở mặt” - “Hội hát Đúm” vào mỗi dịp xuân
về. Đây vừa là hoạt động văn hóa của xã vừa là của huyện Thủy Nguyên.
Phục Lễ có hệ thống giao thông đường biển rất thuận lợi, một bên là
trung tâm thành phố, bên kia là các xã trong vùng. Vì thế rất thuận lợi cho
phát triển thương mại và lưu thông hàng hóa. Hiện nay thành phố Hải Phòng
có rất nhiều dự án phát triển kinh tế, du lịch văn hóa, đã tạo điều kiện cho sự
phát triển của xã Phục Lễ - Thủy Nguyên. Với sự phát triển kinh tế thì thành
phố cũng rất quan tâm đến đời sống tinh thần, đặc biệt là lĩnh vực văn hóa,
các lễ hội được quan tâm tổ chức mang bản sắc riêng và đậm đà tính dân tộc.
1.2. ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA NGƯỜI PHỤC LỄ - THỦY NGUYÊN HẢI PHÒNG
1.2.1. Di tích văn hóa

Hải Phòng là một trong những nơi phát triển văn hóa sớm của nước ta.
Vùng biển đặc biệt này đã để lại cho kho tàng văn hóa dân tộc những tài sản
vô cùng quý giá. Ngoài hát Đúm còn có nghệ thuật tạc tượng ở xã Đồng
Minh, múa rối nước Nhân Hòa (Vĩnh Bảo) và một số công trình văn nghệ
dân gian khác. Những di chỉ khảo cổ như di chỉ đồ đồng Việt Khê (Thủy
Nguyễn Thị Luyên

Lớp K35 Lịch sử Văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

11


Khóa luận tốt nghiệp

Nguyên), chuông chùa Văn Bản (Đồ Sơn), di chỉ đồ đá, đồ đồng ở Núi Voi
(Kiến An) và đặc biệt công trình khảo sát khu di chỉ Tràng Kênh là những
đóng góp lớn cho ngành khảo cổ cả nước. Trong quá trình xây dựng nền văn
hóa mới của dân tộc, những công trình đó có một vị trí đặc biệt quan trọng.
Trong cuốn “Hát Đúm Hải Phòng” của tác giả Đinh Tiếp có trích câu nói của
đồng chí Trường Chinh: “có khai thác được vốn cũ của hàng nghìn năm lao
động sáng tạo của nhân dân ta, chúng ta mới tạo nên được một nền văn
nghệ mới phong phú hơn nền văn nghệ của tất cả các thời đại từ trước đến
nay trong lịch sử dân tộc”.
Ra đời trên một vùng đất có truyền thống văn hóa lâu đời ấy, hát Đúm ở
xã Phục Lễ có được những ưu điểm như mọi dân ca khác, nó là sản phẩm của
tinh thần. Mặt khác, ra đời ở một mảnh đất “trên bến dưới thuyền”, một nơi
nhiều dòng văn hóa khác nhau, thường xuyên qua lại tranh chấp nên hát Đúm
ở Phục Lễ cũng rất phức tạp. Trên cơ sở tìm hiểu về nguồn gốc và quá trình
phát triển của nó, phân tích cặn kẽ về phương diện từ ngữ, âm thanh, nhạc
điệu cũng như đề tài, chủ đề tư tưởng của mỗi bài ca, đánh giá cho đúng giá
trị nội dung, nghệ thuật và những yếu tố pha tạp, hạn chế của nó, qua đó tìm
hiểu được những nét riêng biệt độc đáo của hát Đúm và phong cách con người
miền biển.
Là một vùng đất cổ có bề dày truyền thống văn hóa, xã Phục Lễ có một
quần thể di tích lịch sử, văn hóa phong phú và giữa chúng có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Trung tâm của quần thể di tích này là đình Phục Lễ (nay
không còn nữa). Trong quá khứ, đình Phục Lễ tức là trung tâm sinh hoạt văn
hóa, tín ngưỡng không chỉ của dân làng Phục Lễ mà còn là của các làng xã
thuộc Tổng phục xưa. Các cụ cao niên kể lại rằng: “Trước kia, cứ vào mồng 2
tháng Chạp hàng năm, các xã Phục Lễ, Đoan Lễ, Phả Lễ, Do lễ, Do Nghi đều
tổ chức rước mã từ đình, miếu của làng mình về đình Phục Lễ, tổ chức lễ tế
Thành hoàng chung” [5, tr.48]. Sau đó, các xã tiến hành nghi lễ rước mã mới


Nguyễn Thị Luyên

Lớp K35 Lịch sử Văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

12

Khóa luận tốt nghiệp

về miếu, đình làng mình thờ phụng năm sau mới hóa mã. Hiện nay, trên địa
bàn xã còn bảo tồn được một số di tích lịch sử văn hóa:
Thứ nhất là đình Phục Lễ
Xưa kia, Phục Lễ có một ngôi đình thờ Thành hoàng của làng. Tương
truyền, đình Phục Lễ thuộc loại nguy nga, đồ sộ nhất vùng chẳng kém gì đình
Tây (Minh Tây), đình Phong Cốc (Quảng Ninh). Đình Phục Lễ được dựng lại
với quy mô lớn vào năm 1892. Đình quay hướng Tây nhìn ra khu đầm Cầu,
bố cục hình chữ Công. Tòa đình ngoài cao rộng 5 gian. Khung đình là sự liên
kết tài tình của gỗ, chỉ có mộng, không cần đến sự tham gia của chút kim loại
nào. Những cột cái, cột quân được làm bằng cột gỗ lim nguyên cây đứng
thẳng trên từng hòn kê bằng đá tảng được gia công cẩn thận. Mái đình xòe
rộng và lan xuống thấp có tác dụng chống nắng chống mưa và bão gió miền
ven biển. Trước đình là khoảng sân rộng. Từ sân lên nền đình là hệ thống bậc
5 cấp được ghép bằng các phiến đá xanh phẳng phiu mở ra phía trước là hồ
bán nguyệt, quanh đình trồng cây cổ thụ. Đình làng Phục Lễ là nơi diễn ra các
hội lớn vào dịp tế Thành hoàng, trong tổng Phục Lễ, lễ vật dâng cúng thường
là mổ trâu, lợn, xôi, rượu, gà luộc, trầu cau, chuối và hoa quả. Ngoài ra, đình
làng còn là nơi hội họp của các nhà chức sắc vào dịp các thành viên cai đám,

khao làng lên lão hay nhận hương chức.
Thứ hai là miếu Phục Lễ
Theo quan niệm dân gian, miếu là nơi “Thánh ngự quanh năm”. Miếu
Phục Lễ nằm ở khu đầm Cầu, tọa lạc trên gò đất cao cây cối xanh tốt quanh
năm, cảnh quan thâm u, huyền bí. Khởi thủy miếu chỉ được làm bằng tranh
tre, nứa lá đơn sơ đến năm Vĩnh Thịnh thứ 7 (1711), dân làng bỏ tiền của,
công sức xây dựng miếu thành một công trình kiến trúc nghệ thuật bề thế. Tòa
chính là kiến trúc năm bít đốc có hậu cung ở giữa tạo thành hình chữ đinh.
Hai phía tả hữu có dãy giải vũ, mỗi dãy ba gian. Miếu nhìn ra đầm Cầu, phía
trước có Hồ Rối hình bán nguyệt. Hồ Rối nay không còn nữa, đằng sau miếu
Nguyễn Thị Luyên

Lớp K35 Lịch sử Văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

13

Khóa luận tốt nghiệp

có hồ đào hình bầu dục, phía Bắc có bến nước rộng rãi được xây nhiều bậc để
cho nhân dân lấy nước sinh hoạt.
Thứ ba là chùa Phục Lễ
Chùa Phục Lễ tên chữ là Kiến Linh tự, tài liệu văn bia và truyền ngôn
địa phương cho biết: Xưa kia, chùa Kiến Linh là một quần thể kiến trúc nghệ
thuật nguy nga với nhiều tòa ngang dãy dọc. Tương truyền, chùa Kiến Linh
được xây dựng lớn vào thời Trần. Một trong những chính sách kinh tế của nhà
Trần là phong cấp thái ấp cho vương hầu quý tộc và những người có công để
bảo vệ chính quyền. Ngày ấy, hai anh em Trần Hộ, Trần Độ đều có phủ riêng

ở Phục Lễ, Phả Lễ. Các ông đã mời các vị cao tăng thuộc dòng thiền Trúc
Lâm huy động phật tử trong vùng dựng chùa Kiến Linh. Chùa Kiến Linh là
cảnh Phật nổi tiếng trong vùng, trong một bài minh bia của chùa có ghi lại sự
kiện vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) về thăm Kiến Linh tự và có bài thơ ca ngợi cảnh
đẹp của chùa nằm giữa hồn linh thiêng, dựa vào Yên Tử sơn, trông lên đỉnh
Tường Long (tháp Tường Long ở Đồ Sơn) vời vợi. Chùa Kiến Linh là một
quần thể văn hóa tâm linh được xây dựng trong khuôn viên rộng 6 sào Bắc
Bộ. Theo bia kí hiện tồn thì chùa đã trải qua nhiều lần sửa chữa trùng tu. Chùa
hiện nay quy mô nhỏ, kiến trúc mới nhưng vẫn bảo lưu được nhiều tượng phật
pháp có giá trị lịch sử bia kí. Đặc biệt chùa Kiến Linh có bia tạo năm Thuần
Phúc 2 (1563), Bính Dần (1566) và đôi sấu đá thời nhà Mạc. Nội dung bia ca
ngợi đất Phục Lễ địa linh nhân kiệt, ghi lại việc nhân dân và sãi vãi trùng tu
cổ tự.
Thứ tư là đền Bạch Đằng hay còn gọi là miếu Bến Đò
Miếu Bến Đò thờ Mai Đình Nghiễm, một danh tướng thời Trần. Miếu
Bến Đò vốn là kiến trúc đơn sơ bằng tranh tre, nứa, lá, mặt quay ra phía Cái
Giá. Vào khoảng năm 1909 - 1910, miếu được xây dựng bằng gạch với ba
gian tiền đường và một gian chuôi vồ, nhìn ra sông Bạch Đằng. Sau miếu có
lăng mộ xây hình long đình, xung quanh lăng có tường bao, phía trước đắp

Nguyễn Thị Luyên

Lớp K35 Lịch sử Văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

14

Khóa luận tốt nghiệp


ngựa bạch phủ phục. Sau hòa bình lập lại miếu không có người trông coi, bị
hư hỏng, xuống cấp, nhân dân địa phương đưa sinh phần và lăng Mai Đình
Nghiễm về khu miếu thờ Thành hoàng. Đến năm 1989 - 1990 các cụ trong xã
tiến hành phục dựng lại miếu Bến Đò tại khu nền xưa. Tương truyền Mai
Đình Nghiễm là một trong những vị tướng chỉ huy nhân dân vùng Phục - Phả
vào rừng ven sông Chanh đẵn gỗ, đẽo cọc để chuẩn bị cho cuộc phục kích
trên sông Bạch Đằng ngày 9 tháng 4 năm 1288.
Thứ năm là Miếu Ngói (còn gọi là miếu Ba Xã)
Miếu Ngòi thờ danh tướng triều Mạc (1527 - 1592) Phạm Tử Nghi. Miếu
do nhân dân ba xã Phục Lễ, Phả Lễ và Lập Lễ xây dựng. Miếu bố trí theo
hình chữ Công quen thuộc gồm ba gian tiền đường và một gian hậu cung.
Miếu tọa lạc trên một gò đất cao ven đầm Ba Xã, mặt quay hướng đông nam.
Cổng miếu mở ra hướng tây nam. Trước miếu là khoảng sân rộng, nơi tổ chức
tế lễ hàng năm. Sau hòa bình lập lại, miếu hư hỏng nặng nên bị dỡ bỏ, bài vị
Phạm Tử Nghi chuyển về miếu Phục Lễ phối thờ. Địa phương còn giữ được 4
đạo sắc phong thời Đồng Khánh (1887), Thành Thái (1889), Duy Tân (1906),
Khải Định (1909).
Thứ sáu là Từ Vũ (tức từ Đồng Chùa)
Từ Vũ được xây dựng vào năm Vĩnh Thịnh thứ 7 (1711) tại Đồng Chùa
nay là trường trung học cơ sở Phục Lễ. Từ Vũ quay hướng tây nam cùng với
hướng chùa, khuôn viên rộng 2 sào Bắc bộ, xung quanh xây tường bao và có
cổng tam quan thanh thoát. Từ Vũ là một kiến trúc ba gian thoáng đãng, bốn
mặt có hệ thống cột đá vuông. Hai vì trung tâm được làm hoàn toàn bằng gỗ
lim, kết cấu theo kiểu thuận chồng ba con, chạm khắc tinh xảo. Giữa sân từ
dựng đài thờ hình Tam Sơ, hai bên có hệ thống bằng đá chạm khắc hoa văn. Từ
Vũ là nơi tôn thờ những bậc tiên hiền có nhiều công lao xây dựng làng, nước.
Thứ bảy là từ Hàng Tổng (Văn Chỉ)
Từ Chỉ (Văn Chỉ) được xây dựng tại thôn Nam rộng hơn sào Bắc bộ, xung
quanh xây dựng tường bao và có tam quan bề thế. Hình thức trang trí bên ngoài

Nguyễn Thị Luyên

Lớp K35 Lịch sử Văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

15

Khóa luận tốt nghiệp

tương tự như Từ Vũ nhưng cầu kì hơn. Từ Chỉ là nơi đặt nhà bia với hàng chục
tấm bia đá lớn nhỏ, khắc ghi những sự kiện lớn đã xảy ra tại làng và hàng tổng.
Những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp Từ Chỉ đã bị phá hủy, bia
đá bị thất lạc gần hết, số còn lại được chuyển về chùa làng.
Đây là những di tích lịch sử văn hóa có mối quan hệ mật thiết với sinh
hoạt văn hóa cổ truyền của người Phục Lễ nói riêng và các địa phương thuộc
Tổng Phục xưa nói chung. Phục Lễ là một trong ít miền quê có được những giá
trị văn hóa truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc. Do tình yêu quê hương đất
nước, yêu đời và trên cơ sở kinh tế xã hội, từ xa xưa người Phục Lễ xây dựng
các công trình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc, sáng tạo ra một lễ hội mùa xuân
mang đậm tính văn hóa và trong lễ hội đã xuất hiện một làn điệu dân ca đặc sắc
đó là hát Đúm. Điều đó thể hiện tính cộng đồng rất cao của các thế hệ người
Phục Lễ. Những giá trị văn hóa ấy đã in sâu vào máu thịt mỗi người, hình
thành nên nếp sinh hoạt học tập và nhận thức đúng giá trị văn hóa quê hương.
1.2.2. Các sinh hoạt văn hóa cộng đồng
Thứ nhất là lễ tế Thành Hoàng

Hội Miếu Phục Lễ được tổ chức từ mồng 1 đến ngày mồng 6 tháng Chạp
âm lịch hàng năm. Theo cổ lệ, ngày mồng 1 tháng Chạp các giáp tổ chức giã

bánh dày tế thánh. Bánh dày được làm thành hai loại, loại nhỏ để dành chia
cho các suất đinh của giáp, mỗi suất một chiếc và loại bánh to làm lễ vật tế
Thành hoàng.
Lễ rước mã được tổ chức vào ngày mồng 2 tháng Chạp và thi cỗ bánh
dày tổ chức vào ngày mồng 5 tháng Chạp mang nét đặc trưng của văn hóa
vùng tổng Phục. Không khí chuẩn bị náo nức và vui như ngày Tết nguyên
đán. Sau khi làm lễ tại đình xong, các xã tổ chức rước mã về đình Phục Lễ tế
Thành hoàng chung, sau đó hóa mã cũ và tiến hành nghi lễ rước mã mới từ
đình Phục Lễ về miếu Thành hoàng của các làng. Mã mới được thờ một năm
mới hóa. Sáng mồng ba tháng Chạp, nhân dân các giáp tề tựu đông đủ về
miếu Phục Lễ tổ chức tế Thành hoàng làng. Ngày mồng 5 tháng Chạp, các
Nguyễn Thị Luyên

Lớp K35 Lịch sử Văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

16

Khóa luận tốt nghiệp

giáp rước bánh dày về miếu Phục Lễ cúng tiến Thành hoàng. Dâng lễ cúng
thánh xong là đến lễ chấm giải làm bánh dày. Ban giám khảo do các vị bô lão,
chức sắc, chức dịch trong làng cử ra. Cỗ bánh của giáp nào đạt giải nhất, làng
thưởng cho mời đoàn chèo, rối nước về phục vụ tại nhà trưởng giáp, có năm
được tổ chức biểu diễn tại hồ Rối của làng. Ngày mồng 7 tháng Chạp ba xã
Phục Lễ - Phả Lễ - Lập Lễ dâng lễ tế ở miếu ba xã. Ngoài ra, Phục Lễ còn có
lễ tế hạ điền vào tháng 6 âm lịch hàng năm.
Thứ hai là hội làng

Hội làng còn gọi là hội xuân Phục Lễ được tổ chức từ mồng 4 đến mồng
10 tháng Giêng âm lịch hàng năm, tại khu vực chùa Kiến Linh. Việc tổ chức
hội xưa chủ yếu là của quan viên trong làng, trong giáp và các cai giáp, với
vai trò quan trọng của cai giáp theo lệ luân phiên. Ngày nay xã bầu ra Ban tổ
chức và Ban khánh tiết gồm đại biểu các ngành, đoàn thể quản lý, điều hành
lễ hội.
Hiện nay, sinh hoạt lễ hội không còn có sự phân biệt ngôi thứ. Tất cả mọi
người từ già trẻ, trai gái, giàu nghèo, dù quê ở Phục Lễ hay ở nơi khác đến
nhập cư đều có quyền tham gia lễ hội. Đặc biệt còn có những đoàn khách từ
nhiều nơi xa và các địa phương lân cận về dự hội, dâng lễ vật lên thần, phật.
Vào ngày hội khắp xóm thôn ồn ào nhộn nhịp từ sáng đến tối. Trong
chùa khói hương nghi ngút, ngoài sân cờ tàn phấp phới, dưới hồ múa rối, trên
bờ thì thi đấu vật, giải cờ người, đu tiên, tổ tôm, hát đúm. Quanh năm vất vả
với công việc đồng áng, chài lưới, nhân ngày hội mở, ai nấy trong vùng đều
nghỉ việc đi dự hội. Trong những ngày này, du khách từ khắp nẻo đường tấp
nập đổ về, áo quần đua sắc, ai nấy đều hồ hởi, vui tươi. Xóm thôn, cảnh vật ở
đây vốn yên tĩnh bỗng trở nên náo nhiệt, nhất là vào ngày cuối. Người vào
chùa, người xem đấu cờ, tổ tôm điếm, đánh đu, đấu vật, người dự hát Đúm,
chen chúc, ngược xuôi. Môn tổ tôm điếm thu hút những nam giới trung và
cao tuổi tham dự, ban tổ chức phải lo chuẩn bị 6 điếm. Mỗi điếm một trống
con để người chơi sử dụng báo hiệu ăn hoặc không ăn bài, bố trí người chia
Nguyễn Thị Luyên

Lớp K35 Lịch sử Văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

17


Khóa luận tốt nghiệp

và xuống bài. Môn tổ tôm điếm thể hiện sự đấu trí cao thấp của người chơi và
nghệ thuật của người xướng bài.
Xưa kia đi dự hội xuân Phục Lễ, các già thường mặc áo dài nâu, đội nón
thúng quai thao, chân mang dép lốp vào chùa tụng kinh niệm phật. Các cụ lão
ông khoác áo lương the, khăn xếp, chân mang guốc mộc, tay cầm ô che,
thưởng lãm cảnh xuân. Các chàng trai đi giầy Gia Định, mặc áo the, quần
trắng, đội mũ cát hay che ô. Các cô thôn nữ đầu chít khăn đen mỏ quạ, mặc
yếm trắng hay khoác áo đồng lầm, mặc quần thâm mới đi chơi hội, trẻ em có
quần áo mới. Hội xuân còn có sinh hoạt văn hóa nổi bật như chơi cờ tướng là
một hoạt động lôi cuốn được nhiều du khách tham gia. Đấu cờ người không
chỉ là cuộc thi tài cao thấp giữa các kỳ phùng địch thủ, mà còn là cuộc trình
diễn sắc đẹp của các cô gái làng trong vai quân xanh, quân đỏ, với đủ tướng,
sĩ, tượng, xe, pháo, mã, tốt.
Hội xuân Phục Lễ còn có đu Tiên trồng ở bãi chợ Phục, cột đu được
chọn những cây tre hóa to cao, ròng rọc đục bằng tre làm ba tầng để đánh
được lên cao.
Hoạt động vui chơi lôi cuốn được đông đảo người tham gia và thưởng
thức nhất trong hội xuân Phục Lễ là hát Đúm. Hát Đúm là hình thức giao
duyên, trao đổi tình cảm nam nữ bằng những làn điệu dân ca đối đáp quen
thuộc. Có lề lối trình tự theo bài văn nhất định với lối gieo vần thể lục bát, lục
bát giảm thất hay lục bát biến thể. Tục truyền hát Đúm ở Phục Lễ nói riêng và
tổng Phục nói chung có từ nghìn năm trước. Hát Đúm Phục Lễ thường là
những câu ví von xa xôi thăm dò ý tứ mà hát những bài, những câu gần gũi
với cuộc sống thực tại hơn. Hát Đúm là loại hình nghệ thuật đặc sắc góp phần
làm phong phú cuộc sống vùng ven biển Thủy Nguyên.
1.2.3. Tín ngưỡng dân gian

Phục Lễ nằm trong không gian sinh tồn của con người thời tiền sử thuộc

di chỉ Tràng Kênh (Minh Đức - Thủy Nguyên), trải qua hàng nghìn năm đấu

Nguyễn Thị Luyên

Lớp K35 Lịch sử Văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

18

Khóa luận tốt nghiệp

tranh với thiên nhiên và giặc ngoại xâm, cộng đồng dân cư Phục Lễ đã xây
dựng được truyền thống văn hóa giàu bản sắc riêng và đậm đà tính dân tộc.
Tôn giáo chủ yếu ở đây là đạo Phật. Từ xưa, người dân trong xã đều có tục lệ
thờ cúng tổ tiên, gắn bó với sinh hoạt cộng đồng. Thờ Phật là tín ngưỡng tự
do, tự nguyện, những người đi lễ chùa trước kia hầu như cả làng, cả xã.
Nhưng hiện nay chủ yếu là các cụ già. Việc tế lễ thường diễn ra vào ngày rằm,
mồng một âm lịch hàng tháng và các dịp Tết nguyên đán. Đồ lễ trong chùa là
cỗ chay, oản, gạo nếp, hoa quả, cau, chè.
Việc thờ cúng tổ tiên của người Phục Lễ rất tôn nghiêm, cẩn trọng nhưng
không cầu kỳ và không nhuộm màu mê tín dị đoan. Nhà nào cũng có bát
hương, thậm chí có gia đình có từ năm đến bảy bát hương. Gia đình nào có
người chết trẻ thì lập bát hương thờ riêng, bên cạnh bàn thờ tổ tiên. Hàng
tháng vào mười tư hôm rằm, ba mươi, mồng một, người ta thắp hương lên bàn
thờ. Ngày giỗ, ngày tết có một đến hai mâm cơm cúng để nhớ ngày mất của
người quá cố. Ngày tết thì cúng cầu may, mong cho mọi người trong gia đình
mạnh khỏe, bình an.
Trước đây, Phục Lễ có tục trọng lão, người già đến 60 tuổi là lên lão,

phải có lễ bàn xôi, con gà, cúng Thành hoàng để trình làng thì được miễn phu
phen, tạp dịch. Lễ mừng thọ 70 tổ chức cỗ bàn chỉ có những gia đình giàu và
người có chức tước. Việc mừng thọ không thành lệ bắt buộc.
Tổng Phục Lễ (Thuỷ Nguyên) xưa là các xã Phục Lễ, Lập Lễ, Du Lễ
(Tam Hưng) Thuỷ Nguyên ngày nay. Về ngữ âm, từ vựng đều thuộc ngữ hệ
Việt Mường, không có phương ngữ riêng. Với các miền đất cổ, theo tập tục
các hội đều được mở vào đầu xuân. Đã có những tổ chức sinh hoạt văn hóa,
văn nghệ dân gian, về hình thức gần giống với hội hát Đúm. Hát Đúm ở Phục
Lễ bắt nguồn từ xa xưa với âm điệu ngữ điệu, nhạc điệu rất đơn giản nguyên
sơ, chỉ khác với nói là có giai điệu biểu cảm nghe như dân tộc Mường (Hòa
Bình) với ngữ điệu hát sắc bùa hay hát ví, còn gọi là “Hát ví đúm”, với hình

Nguyễn Thị Luyên

Lớp K35 Lịch sử Văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

19

Khóa luận tốt nghiệp

thức phô diễn như hát Quan họ (Bắc Ninh), hát Xoan - Ghẹo (Phú Thọ), hát
Khắp dân tộc Thái. Nhưng vì cuộc sống vất vả nơi cuối bãi lại thường xuyên
làm lụng xa nhà chỉ có mùa xuân là “trời yên biển lặng” nhàn rỗi, nên người
dân lấy đó làm mùa tụ họp mở hội. Vui nhất là tuổi trẻ vào hội hát Đúm, dài
rộng không gian, thời gian trai gái gặp gỡ trao tình, thi tài khoe sắc đó cũng là
dịp tìm hiểu xây dựng tổ ấm cả đời. Đa số người xưa đã từ đây nên vợ nên
chồng, khác với hội hát Quan họ không được lấy nhau.

Theo một lời nghệ nhân kể lại thì Hải Phòng có nhiều địa phương có hát
Đúm như Cát Bà, Cát Hải, An Hải, Đồ Sơn, Thủy Nguyên. Hát Đúm được
diễn ra trên bãi biển, trên cánh đồng. Khi anh câu cáy, đào cua, giăng thả lưới
chài, theo trâu, đắp bờ, cuốc cỏ, chị đi mò cá, mò ốc, vui trao duyên tình bằng
những làn điệu dân ca đối đáp với những câu vần, theo thể lục bát, lục bát
biến thể.
Ở mỗi vùng thì hát Đúm lại có những đặc trưng riêng phụ thuộc vào điều
kiện tự nhiên - văn hóa - xã hội của vùng ấy. Song có lẽ hát Đúm Thủy
Nguyên mà cụ thể là hát Đúm ở tổng Phục Lễ xưa (nay là xã Phục Lễ ) có nét
đặc trưng độc đáo hơn cả. Đây không chỉ là quê hương, là cái nôi của hát
Đúm mà làn điệu hát Đúm được bắt nguồn từ “tục bịt mặt” (của phụ nữ tổng
Phục) và “hội Mở mặt” khiến cho hội làng Phục Lễ mang một nét văn hóa
riêng không gì trộn lẫn.
Tổng Phục Lễ, huyện Thủy Nguyên còn nổi tiếng là nơi có con gái xinh
đẹp nhất vùng với tiếng cười trong trẻo, với giọng nói ngọt ngào, đoan trang.
Tổng Phục có con gái đẹp vì tương truyền hướng chùa của cả làng là hướng
“Chùa Tiên”. Với tục lệ độc đáo rất xa xưa của vùng quê này là con gái
thường quanh năm, hầu hết là che kín mặt. Cứ 15 - 16 tuổi trở lên là các cô
thôn nữ lại dùng khăn mùi xoa hay khăn bông bịt kín mặt chỉ để lộ đôi mắt
lúng liếng, đã làm cho các chàng trai gần xa háo hức chờ đón ngày hội xuân
(Hội mở mặt), bởi chỉ có ngày này các cô mới gỡ bỏ khăn che mặt, để thiên
hạ được chiêm ngưỡng tường tận dung nhan.
Nguyễn Thị Luyên

Lớp K35 Lịch sử Văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

20


Khóa luận tốt nghiệp

Có nhiều thuyết từ xưa truyền lại về tục bịt mặt rằng:
Từ trước trận chiến thắng quân Mông - Nguyên trên sông Bạch Đằng
năm Mậu Tý (1288), quân dân ta dưới triều Trần đã thường chặn đánh, tiêu
diệt các đoàn thuyền tiếp vận lương thảo của giặc từ ngoài cửa Bạch Đằng,
xác giặc Mông - Nguyên trôi dạt chất chồng hai bên bờ sông. Với cội nguồn
tín ngưỡng bạch vật sơ khai, cùng lòng thương đồng loại, giữa cuộc sống ven
biển khí hậu thiên nhiên luôn đổi thay, sóng to bão lớn thất thường, sống chết
may rủi luôn xảy ra bất ngờ. Với nhận thức ấu trĩ nguyên sơ, người ta cho
rằng thiên tai bệnh tật, giàu nghèo, sống chết thành bại… đều do những thế
lực thần linh siêu hình, cùng tà ma quỷ quái gây ra. Với tâm thức tín ngưỡng
sùng bái pháp thuật của Đạo Lão Trang, lại gặp cảnh tử khí xông lên gây
nhiều bệnh hoạn và đêm đêm thường lập lòe ma trơi bởi chất lân tinh từ
những xác người trôi dạt, rữa nát trên bến bãi, mà nhân dân ta cho rằng chúng
còn đang trong cơn đói khát, do ta đánh phá chìm đắm hết lương thảo, nên
trước khi chết chúng chưa được bữa ăn nào no. Bởi vậy, dân ta mời thầy phù
thủy lập đàn bên cửa sông Bạch Đằng cúng lễ tống tiễn các vong hồn đói khát
ấy còn đang dật dờ lẩn khuất quấy nhiễu ở khu vực này. Trong buổi lễ các
vong hồn ấy, các cụ cao tuổi ở địa phương tham dự đàn lễ có hỏi “hồn muốn
gì”, qua thanh đồng chúng đáp rằng “Cho gì cũng được”. Các cụ sẵn lòng căm
thù giặc, nóng nảy bực tức quát to đáp lại “cho chúng mày ăn máu… (của đàn
bà)”. Sau đó, các cụ tự thấy lỡ lời và quần chúng vùng này đã xem đó như
một lời nguyền, sợ các vong hồn sẽ theo dõi hút máu phụ nữ, nên đàn bà con
gái ở đây từ đó không dám ra khỏi nhà nếu chưa che kín mặt. Đặc biệt, những
ai khi sinh nở, thường phải hòa một chậu nước có màu đỏ như máu để làm
phép trừ tà ma, đem ra sông đổ. Không chỉ bên này cửa Bạch Đằng địa bàn
Thủy Đường mà đối diện bên kia cửa Bạch Đằng - xã Hà Nam - huyện Yên
Hưng - tỉnh Quảng Ninh, giới phụ nữ cũng đều sợ tà ma này, đã đối phó bằng

cách vá thật dày đũng váy, nhất là những ngày có kinh nguyệt lại càng phải

Nguyễn Thị Luyên

Lớp K35 Lịch sử Văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

21

Khóa luận tốt nghiệp

che giấu kín đáo hơn. Vì thế, vùng này có phương ngữ lưu truyền trong dân
gian: “Phục, Phả bịt má, Hà Nam vá trôn”.
Còn có thuyết khác cho rằng khi Thoát Hoan đem quân sang xâm lược
nước ta, lần thứ hai có đem theo tên hướng đạo (đạo giáo) Nguyễn Nhan, vốn
phạm tội chám quyết, đã tình nguyện lấy công chuộc tội dùng phép phi thủy
giúp quân Mông - Nguyên. Trên trận chiến Bạch Đằng, tiết chế Đại vương
Trần Hưng Đạo chém đầu. Nguyễn Nhan chết nhưng linh hồn hắn vẫn hiện
lên những bóng hình ma quái để trêu ghẹo đàn bà con gái, hễ hồn nó xâm
phạm vào ai thì người ấy chết. Vì vậy nó còn có tên Phạm Nhan.
Sợ hãi vong hồn này, đàn bà con gái vùng cửa sông Bạch Đằng thuộc xã
Phục Lễ, huyện Thủy Nguyên thường phải bịt mặt tránh hồn ma quái ác của
hắn bắt gặp, trêu ghẹo. Chỉ có hội xuân trước của đình, đền, được các thánh
linh là những vị anh hùng đã từng diệt giặc ngoại xâm, cứu dân độ thế chứng
kiến họ mới bỏ khăn bịt mắt ra, do đó trở thành “Hội mở mặt”.
Tục “bịt mặt” như hầu hết các tục khác đều có nguồn gốc sâu xa của nó,
ở đây nguyên phát là do đặc điểm địa lí. Vì môi sinh tự nhiên ở tổng Phục là
nơi bờ sông, ven biển, bãi sú hoang vắng. Qua quá trình nhiều năm sau băng

hà, nước biển lùi dần, được phù sa rửa mòn và từ các dòng chảy đầu nguồn,
qua sông Bạch Đằng trôi về tích tụ, bồi đắp đã trở thành vùng đất rộng, màu
mỡ, phì nhiêu. Sau những trận chiến thắng giặc ngoại xâm đất nước được
thanh bình, nông dân và ngư dân các nơi tiếp tục đến đây cư ngụ, khai hoang,
lấn biển, lập trại trồng tỉa rau, lúa, chài lưới và mò bắt hải sản.
Do phải vật lộn với sóng thần, gió biển, dầm phơi với nắng lửa, hít thở với
mặn sít, nhất là với chị em phụ nữ luôn luôn phải thay nam giới đi buôn bán
trên sông, đi lưới chài trên biển, đi quân dịch nơi xa, đồng bãi quanh năm đều
do chị em lo. Để khắc phục hoàn cảnh khắc nghiệt ấy họ đã nghĩ ra tấm khăn
che mặt, bịt kín cả phần trên đầu và phần dưới mắt. Phần là để bảo vệ làn da
khỏi bị ảnh hưởng của gió biển, phần là để giữ ấm vào mùa đông, đặc biệt là

Nguyễn Thị Luyên

Lớp K35 Lịch sử Văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

22

Khóa luận tốt nghiệp

vào mùa hè để làn da không bị rám nắng. Lúc đầu thì một nhóm nhỏ làm sau
lan ra toàn thể bắt chước kinh nghiệm làm theo dẫn đến nhiều nơi trong vùng
đều làm, lâu dần thế hệ sau tiếp bước thế hệ trước tự nhiên thành lệ tục. Cả khi
ở nhà các cô cũng quấn khăn, họ chỉ kéo xuống cằm để tiện sinh hoạt.
Mỗi địa phương trên đất nước ta đều có những tục lệ, đặc trưng riêng, có
những tục lệ chỉ là thói quen và sẽ mất dần theo thời gian. Nhưng có những
tục lệ được duy trì lâu dài và trở thành một yếu tố văn hóa đặc sắc văn hóa

vùng. “Tục bịt mặt” của các cô gái Phục Lễ cũng đã dần dần trở thành nét văn
hóa tiêu biểu của Thủy Nguyên và được giữ nguyên trong hội làng - hội hát
Đúm. Trong không khí vui tươi náo nhiệt của hội làng mà các cô gái vẫn cứ
bịt kín mặt làm cho các chàng trai rất tò mò. May thay họ có câu hát để làm
quen để giao tiếp, “nói chuyện” và hi vọng các cô sẽ “mở mặt” để các chàng
được ngắm dung nhan xinh đẹp của các cô. Nhưng không phải lúc nào lời đề
nghị của các chàng cũng được chấp thuận, có cô gái trong suốt quá trình hát
hội cứ bịt kín khăn ở mặt làm cho các chàng trai thêm tò mò, háo hức. Các cô
chỉ thực sự “mở mặt” khi các cô được giao tiếp với các chàng mà thấy “tâm
đầu, ý hợp” thấy quyến luyến. Và chính điều này càng làm cho hội hát Đúm
càng thêm hấp dẫn và lôi cuốn.
Tục “bịt mặt” của phụ nữ thuộc tổng Phục Lễ cùng với “hội Mở mặt” và
làn điệu hát Đúm đã gắn kết với nhau tạo nên diện mạo văn hóa riêng, có sức
hút cộng đồng và tạo nên cảm hứng cho mọi người diễn xướng. Phục Lễ là
một xã có địa hình, khí hậu đặc trưng cho miền đất ven biển thuộc huyện
Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Trải qua nhiều thế kỷ đến nay, vùng đất
này đã có những thay đổi nhất định. Nhưng văn hóa dân gian, nghệ thuật dân
gian vẫn được bảo tồn và ngày càng phát huy trong cuộc sống hiện đại. Đặc
biệt hơn, ở xã Phục Lễ, đã từ lâu tồn tại hát Đúm, một loại hình dân ca giao
duyên đặc sắc chứa đựng nét văn hóa riêng mang đậm tính bản địa. Trong 8
huyện ngoại thành thuộc thành phố Hải Phòng và 37 xã của huyện Thuỷ

Nguyễn Thị Luyên

Lớp K35 Lịch sử Văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

23


Khóa luận tốt nghiệp

Nguyên thì xã Phục Lễ là trung tâm bảo lưu và duy trì nghệ thuật hát Đúm cổ
truyền cho tới nay.
Tiểu kết chương 1
Là một vùng đất được hình thành sớm, Thủy Nguyên chứa đựng những
yếu tố văn hóa độc đáo, đặc sắc. Những di chỉ khảo cổ của người Việt ở Tràng
Kênh, Việt Khê, những di tích văn hóa như đình, chùa, miếu… đã khẳng định
vùng huyện Thủy Nguyên là nơi lưu giữ những dấu ấn văn hóa cổ vô cùng
quý giá. Tổng Phục Lễ là tiêu biểu cho vùng địa hình, khí hậu đặc trưng của
miền đất ven biển này nơi đã hình thành “tục bịt mặt” của phụ nữ, một trong
những tục lệ cổ hiếm hoi và chính từ “tục bịt mặt” này đã hình thành nên làn
điệu hát Đúm. Đó chính là cơ sở, là nền tảng quan trọng để khẳng định yếu tố
độc đáo, đặc sắc của loại hình dân ca cổ còn được bảo lưu và phát huy trên
vùng đất tổng Phục Lễ - huyện Thủy Nguyên - thành phố Hải Phòng. Mặc dù,
hát Đúm và tục bịt khăn che mặt có ở cả năm xã Phục Lễ, Phả Lễ, Lập Lễ, Du
Lễ và Tam Hưng nhưng điểm hát Đúm hàng năm được chọn ở chùa Phục Lễ.
Vì vậy, Phục Lễ trở thành trung tâm hát Đúm của cả vùng và mang màu sắc
riêng của vùng tổng Phục Hải Phòng xưa.
Hát Đúm hình thành và phát triển trong xã hội cũ gắn với nền văn hóa
nông nghiệp, nay trong xã hội hiện đại, vai trò của nó trong đời sống văn hóa
tinh thần của người dân Thủy Nguyên không thay đổi. Từ đời này qua đời
khác, hát Đúm cùng với hội chùa làng đã là một nhu cầu không thể thiếu được
về sinh hoạt văn hóa, văn nghệ của nhân dân vùng này.

Nguyễn Thị Luyên

Lớp K35 Lịch sử Văn hóa



Trường ĐHSP Hà Nội 2

24

Khóa luận tốt nghiệp

Chương 2
LÀN ĐIỆU HÁT ĐÚM Ở XÃ PHỤC LỄ - THỦY NGUYÊN HẢI PHÒNG
2.1. KHÁI NIỆM HÁT ĐÚM
Trên phương diện ngữ nghĩa, đại từ điển tiếng Việt giải nghĩa: “Đúm là
sự tập trung nhiều người một chỗ để vui chơi hát hò” [7, tr.27].
Một số nhà nghiên cứu văn hóa xã hội cho rằng Đúm đồng nghĩa với
cụm từ “Đàn Đúm” chỉ sự tập hợp, tập trung đông người vui chơi. Từ điển
tiếng Việt giải nghĩa : “Đàn Đúm là tụ tập nhau lại để chơi bời”
Trong cuốn “Từ điển văn hóa cổ truyền Việt Nam” giải nghĩa: “Hát
Đúm” là lối hát dân gian có nhiều người tham gia.
Trong cuốn “Non nước Đồ Sơn” tác giả Trịnh Cao Tưởng viết: “Đúm
như nguyên nghĩa của nó, là một tập hợp không có số lượng chính xác, ví như
đúm mạ, đàn đúm… “Đúm” có liên hệ gần gũi với các từ như: túm, tụm,
cụm… cho nên người ta cũng có khi gọi hát Đúm là “hát Túm” hay “hát
Đám”. Như vậy, hát đúm có nghĩa là từng đám, từng cụm trai gái tập hợp
nhau lại để hát giao duyên…”
Trong cuốn “Dân ca người Việt”, PGS. TS Tú Ngọc nhận định: “Ở đồng
bằng Bắc Bộ, hầu như địa phương nào cũng có lối hát giao duyên riêng của
mình với những tên gọi nôm na như hát đúm, hát ví. Đây cũng là những lối
hát đối đáp nam nữ dựa trên một làn điệu phổ những phổ thơ dân gian đơn
giản, quen thuộc như thể bốn chữ, thể lục bát” [12, tr.132].
“Bên cạnh hát đúm, chúng ta còn thấy có hát ví. Tại sao cùng một loại hát
giao duyên tương tự mà người ta lại phân là “hát đúm” và “hát ví”? Tìm hiểu

và so sánh những điệu hát của những hình thức dân ca này trong cùng một địa
phương, chúng ta mới chỉ thấy có xuất xứ của từ “ví” là ở phần nội dung văn
học (sự sánh ví, sự ví von); còn từ “đúm” là do chữ “đàn đúm” hoặc “quả
đúm trầu”, trước hoặc trong khi ca hát, trai gái trao mời nhau “quả đúm trầu”
[12, tr.134]. Nhận định của PGS. TS Tú Ngọc đã mở rộng khái niệm hát Đúm
với sự tập trung vào hình thức diễn xướng, đặc tính, thể loại.

Nguyễn Thị Luyên

Lớp K35 Lịch sử Văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

25

Khóa luận tốt nghiệp

Là loại hình dân ca giao duyên, hát Đúm - một sinh hoạt văn hóa nghệ
thuật dân gian được biểu hiện ở những góc độ khác nhau. Lúc nó đứng độc
lập, hát lẻ, hát tự phát trên cánh đồng, lúc bên bến sông trong khi lao động, có
lúc nó được tổ chức thành đội hình theo nhu cầu của cuộc chơi mà ta gọi là
“hát Hội”; “hát Hàng”…
2.2. LÀN ĐIỆU HÁT ĐÚM Ở XÃ PHỤC LỄ - THỦY NGUYÊN HẢI PHÒNG
2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của hát Đúm ở xã Phục Lễ - Thủy
Nguyên - Hải Phòng

Hải Phòng khác với nhiều vùng biển khác, đây là vùng đất lâu đời và
phát triển từ rất sớm. Chính vì là vùng đất phát triển từ rất sớm nên nơi đây
cũng đã hình thành và phát triển nhiều loại hình nghệ thuật dân gian, đặc biệt

phải kể đến hát Đúm. Hát Đúm cũng như nhiều loại hình nghệ thuật dân gian
khác phát triển không đồng đều ở những vùng khác nhau. Những vùng đất
được hình thành sớm thì có đời sống văn hóa tinh thần phong phú và đặc sắc
hơn. Hát Đúm ra đời từ cuộc sống sản xuất chiến đấu và sáng tạo của nhân
dân lao động. Nhưng ở những vùng khác nhau, nó lại có nguồn gốc ra đời và
quá trình phát triển khác nhau. Có nơi hoàn chỉnh, phong phú về đề tài, nội
dung, đa dạng về mặt tiết tấu nhưng lại nghèo về làn điệu. Có nơi phong phú
về làn điệu nhưng lại đơn điệu và nghèo về lời ca. Có nơi lại nghèo cả làn
điệu lẫn lời ca.
Nơi tập trung và tiêu biểu hơn cả của hát Đúm Hải Phòng là huyện Thủy
Nguyên. So với các vùng khác thì vùng này đất đai và con người phát triển sớm
hơn. Tuyệt đại đa số dân chuyên làm nghề nông, chỉ có một số xã như Phả Lễ,
Lập Lễ, Phục Lễ có nghề đánh cá biển, ở đây hát Đúm được sản sinh và tập
trung chủ yếu ở vùng nông nghiệp. Đặc biệt hội làng mùa xuân ở xã Phục Lễ Thủy Nguyên là nơi phát triển cao nhất của hát Đúm, chẳng những giàu về số
lượng bài ca mà đề tài, nội dung tư tưởng cũng rất phong phú, đa dạng.

Nguyễn Thị Luyên

Lớp K35 Lịch sử Văn hóa


×