Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Khoa cử việt nam dưới triều vua minh mạng (1820 1840)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.16 MB, 111 trang )

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thi cử là một khâu trọng yếu trong quá trình giáo dục, đóng vai trò quan
trọng trong sự phát triển của đất nước. Đó là cách thức để đánh giá nền giáo
dục cũng như tuyển chọn nhân tài của mỗi quốc gia.
Trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, khoa cử có thể coi là thành
tựu quan trọng. Các triều đại tổ chức khoa cử là để chọn người hiền tài đảm
nhiệm các chức vụ quan lại trong bộ máy nhà nước. Đối với nhân dân, khoa cử
là con đường tiến thân lập nghiệp. Văn bia Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất năm 1442
đã ghi rõ: “… Hiền tài là nguyên khí của nhà nước, nguyên khí vững thì thế
nước mạnh và thịnh, nguyên khí kém thì thế nước yếu và suy, cho nên các đấng
thánh đế minh vương không ai không chăm lo việc gây dựng nhân tài, bồi đắp
nguyên khí…” [26, tr.33 - 34]. Khoa cử dưới chế độ phong kiến trở thành đòn
bẩy thúc đẩy tinh thần học tập và truyền thống hiếu học của nhân dân.
Dưới triều Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử dân
tộc, khoa cử rất được chú trọng. Vua Gia Long sau khi thống nhất đất nước,
mặc dù biết rõ võ bị là việc trọng yếu, nhưng cũng nhấn mạnh muốn xây dựng
đất nước không thể không chú trọng đến việc học hành khoa cử. Ngay khi
mới lên ngôi, vua Gia Long đã nói với các đình thần: “Học hiệu là nơi chứa
nhân tài, trẫm muốn bắt chước người xưa, đặt nhà học để nuôi học trò ngõ
hầu văn phong dấy lên, hiền tài đều nổi để cho Nhà nước dùng” và xuống
chiếu: “Quốc gia cầu nhân tất do khoa mục. Ngã tiên triều khoa cử chi chế,
đại hữu cử hành. Hằng nhân Tây Ngụy thiết lộng, cựu điển họa phế, sĩ phong
nhân uất. Kim thiên hạ hướng bình, nam bắc đồng quỹ, khôi trương chính
giáo, đản duy kỳ thần…”. (“Nước nhà muốn tìm người tài tất phải do khoa
cử. Khoa cử trong các đời trước, đời nào cũng có tổ chức. Trước đây vì Ngụy
Tây trộm nước gây rối nên phép vua bị phế bỏ, sĩ khí đều mất. Nay thiên hạ



Trần Thị Liên

1

Lớp K35 Lịch sử văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

đã yên, Nam Bắc thống nhất, đúng là lúc khôi phục mở mang chính trị giáo
hóa…”) [6, tr.56].
Minh Mạng là vị hoàng đế thứ hai và được coi là vị vua anh minh nhất
của vương triều nhà Nguyễn. Ngay sau khi lên ngôi, Minh Mạng đã thực hiện
một loạt cải cách từ nội trị đến ngoại giao. Những cải cách này đã thúc đẩy sự
phát triển của đất nước. Khoa cử cũng là lĩnh vực được vua đặc biệt chú
trọng. Minh Mạng đã từng khẳng định: “Đạo trị nước phải lấy việc gây dựng
nhân tài làm ưu tiên” [10, tr.195]. Do đó, nghiên cứu khoa cử trong lịch sử
Việt Nam nói chung và khoa cử dưới thời Minh Mạng nói riêng để từ đó rút
ra những bài học thiết thực cho thi cử thời hiện đại là một điều cần thiết, một
vấn đề có ý nghĩa thực tiến sâu sắc.
Từ những lý do trên, chúng tôi quyết định chọn vấn đề “Khoa cử Việt
Nam dưới triều vua Minh Mạng (1820 - 1840) làm đề tài nghiên cứu khóa
luận tốt nghiệp của mình.
2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Khoa cử là một lĩnh vực quan trọng không những đối với nền giáo dục
mà còn đối với sự phát triển của các triều đại phong kiến Việt Nam. Do đó
vấn đề khoa cử được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Có thể kể đến một số

công trình nghiên cứu như:
Thứ nhất, các bộ thông sử:
+ “Đại Việt sử kí toàn thư” do Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê biên
soạn, là tài liệu biên niên các sự kiện lịch sử của nước ta có những ghi chép về
các vấn đề giáo dục, khoa cử, các chính sách giáo dục, khoa cử ở nước ta từ
khởi nguồn tới thời kỳ nhà Lê.
+ “Đại Nam thực lục” do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, cung
cấp các ghi chép về giáo dục và khoa cử nước ta dưới Triều Nguyễn.
+ “Đại cương lịch sử Việt Nam” do Trương Hữu Quýnh chủ biên, là tài
liệu ghi chép khái quát các vấn đề giáo dục, khoa cử trong lịch sử Việt Nam.

Trần Thị Liên

2

Lớp K35 Lịch sử văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Thứ hai, sách chuyên khảo về vấn đề khoa cử :
+ Tác giả Phạm Đức Thành Dũng trong cuốn “Khoa cử và các nhà khoa
bảng triều Nguyễn” (2000) đã đề cập những nét khái quát về các kì thi dưới
thời Minh Mạng bao gồm: thi Hương, thi Hội, thi Đình với các các nội dung
như : Địa điểm thi, thời gian thi, đối tượng tham gia dự thi, cách chấm thi.
+ Tác giả Phan Trọng Báu trong cuốn “Giáo dục Việt Nam thời cận
đại” (1992) đã đề cập những nét khái quát nhất về vấn đề giáo dục Việt Nam
dưới triều Nguyễn.

+ Tác giả Lê Thị Thanh Hòa trong cuốn “Việc đào tạo và sử dụng quan
lại của triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1884” (1998) đã khái quát việc
đào tạo và sử dụng quan lại triều Nguyễn từ hệ thống giáo dục, nội dung học
tập đến việc thi cử, tuyển chọn quan lại.
+ Tác giả Trần Hồng Đức trong cuốn “Các vị trạng nguyên, bảng
nhãn, thám hoa qua các triều đại phong kiến Việt Nam” (1999) đã liệt kê
danh sách, quê quán các vị trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa qua các triều
đại phong kiến ở Việt Nam.
Đặc biệt là tập tài liệu “Văn sách thi Đình triều Nguyễn” gồm 3 tập. Tổ
tư liệu trường Đại Học Sư Pham Hà Nội 1. Văn sách thi Đình triều Nguyễn đã
đề cập cụ thể việc ra đề thi, cách làm bài thi trong các kì thi đình triều Nguyễn.
Thứ ba, tạp chí:
+ Tạp chí dạy và học ngày nay, số 5 năm 2008. Tác giả Phạm Thị Kim
Anh có bài viết “Những luật lệ thi cử thời xưa dành cho thí sinh”. Bài viết đã
nêu lên luật lệ thi cử dưới thời phong kiến rất nghiêm ngặt.
+Tác giả Đỗ Văn Ninh, “Bia đề tên tiến sĩ triều Nguyễn”, tạp chí
nghiên cứu lịch sử số 5, 1995, đã khái quát về văn bia triều Nguyễn ghi lại tên
tuổi các vị trạng nguyên và các khoa thi được tổ chức dưới triều Nguyễn.
Ngoài ra còn có một số tạp chí khác như: tạp chí nghiên cứu lịch sử, tạp
chí Hán Nôm.

Trần Thị Liên

3

Lớp K35 Lịch sử văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2


Khóa luận tốt nghiệp

Thứ tư khóa luận, luận văn:
+ Tác giả Lê Thị Thanh Hòa trong luận án “Việc đào tạo và sử dụng
quan lại của triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1884” (1998) đã khái quát
việc đào tạo và sử dụng quan lại triều Nguyễn từ hệ thống giáo dục, nội dung
học tập đến việc thi cử, tuyển chọn quan lại.
+ Tác giả Nguyễn Thị Anh với khóa luận tốt nghiệp “Tìm hiểu hệ thống
giáo dục Việt Nam dưới thời Lê Sơ (1428 - 1527)” (2009) đã khái quát hệ
thống giáo dục Việt Nam dưới thời Lê Sơ.
+ Tác giả Đào Thị Trang với khóa luận tốt nghiệp “Giáo dục và khoa
cử thời Tự Đức (1848 - 1883)” (2009) đã khái quát về vấn đề giáo dục và
khoa cử dưới thời vua Tự Đức.
Vì nhiều lý do khác nhau, mà các tác giả chưa tập trung nghiên cứu một
cách hệ thống và toàn diện về nội dung khoa cử dưới thời Minh Mạng. Nhưng
các tư liệu trên là nguồn tài liệu quý giá, giúp chúng tôi hoàn thành tốt khóa luận.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu nội dung khoa cử trong cái nhìn đối sánh với các
thời kì trước, chúng tôi tập trung nghiên cứu nội dung khoa cử thời Minh
Mạng từ thời gian, địa điểm… cho đến cách ra đề thi, nội dung và phép thi,
cách thức chấm thi… để thấy được những nét nổi bật, khác biệt của khoa cử
thời Minh Mạng so với các thời kì trước và rút ra những bài học thiết thực cho
thi cử thời hiện đại.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, khóa luận cần thực hiện
những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Tìm hiểu nội dung khoa cử trước thời Nguyễn.
- Bối cảnh lịch sử về chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục thời Minh Mạng.
- Nội dung khoa cử dưới thời Minh Mạng.


Trần Thị Liên

4

Lớp K35 Lịch sử văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

3.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài lấy mốc thời gian nghiên cứu là trong thời kỳ trị vì của vua Minh
Mạng (1820 - 1840).
Nội dung nghiên cứu là khoa cử dưới thời Minh Mạng bao gồm thời,
gian, địa điểm, điều kiện dự thi, nội dung và phép thi, cách thức tổ chức thi,
cách ra đề thi, cách chấm thi… của các kỳ thi: thi Hương, thi Hội, thi Đình.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Khóa luận được thưc hiện dựa trên những nguồn tư liệu sau:
- Tư liệu thông sử: “Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Nam thực lục chính
biên, Đại cương lịch sử Việt Nam…”
- Các công trình nghiên cứu, các sách chuyên khảo như: “Giáo dục Việt
Nam thời cận đại, Khoa cử và các nhà khoa bảng triều Nguyễn, Việc đào tạo
và sử dụng quan lại triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1884…”
- Các ấn phẩm của các nhà nghiên cứu gồm: sách, báo, tạp chí, các luận
án Tiến sĩ về vấn đề có liên quan đến nội dung đề tài nghiên cứu.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: nhằm tập hợp những tài liệu có liên

quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê: nhằm thống kê, xử lý các nguồn tài liệu thu
thập được để phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
- Phương pháp lịch sử và phương pháp logic: nhằm xử lý các nguồn tư
liệu thành văn, phân tích, so sánh, tổng hợp và nhận xét vấn đề.
5. Đóng góp của khóa luận
Thực hiện tốt những nhiệm vụ đề ra khóa luận góp phần:
- Khái quát nội dung khoa cử dưới thời Minh Mạng bao gồm cách thức
thi cử, nội dung thi, phép thi, thời gian, địa điểm, điều kiện dự thi, cách ra đề,
cách chấm thi… của các kỳ thi: thi Hương, thi Hội, thi Đình.

Trần Thị Liên

5

Lớp K35 Lịch sử văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

- Tập trung làm rõ tình hình khoa cử dưới thời Minh Mạng: các chính
sách về khoa cử, các khoa thi, ân điển đối với người đỗ đạt…
- Đánh giá những tích cực và hạn chế của khoa cử dưới thời Minh Mạng.
Với những đóng góp trên, chúng tôi mong muốn khoa luận sẽ trở thành
nguồn tài liệu tham khảo cho các bạn sinh viên khoa lịch sử, đồng thời là
nguồn tư liệu góp phần vào phục vụ việc học tập và giảng dạy phần lịch sử
Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX, góp phần làm rõ hơn về vấn đề giáo dục và thi
cử Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX.

6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, nội dung
của khóa luận bao gồm hai chương:
Chương 1: Cơ sở cho sự phát triển khoa cử thời Minh Mạng (1820
- 1840)
Chương 2: Khoa cử dưới triều vua Minh Mạng (1820 - 1840)

Trần Thị Liên

6

Lớp K35 Lịch sử văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Chương 1
CƠ SỞ CHO SỰ PHÁT TRIỂN KHOA CỬ THỜI MINH MẠNG
(1820 - 1840)
1.1. HOẠT ĐỘNG KHOA CỬ TRƯỚC TRIỀU VUA MINH MẠNG
Xã hội ta xưa chia làm hai hạng người: quan và dân. Quan là người
giúp vua điều khiển guồng máy chính trị để đem lại trật tự, an ninh cho dân.
Quan trường do Nho phái xuất thân và cách kén chọn người ra làm quan gọi
là Khoa cử.
Khoa cử bao gồm nghĩa của hai từ khoa và cử: “khoa” nghĩa là phân
chia ra nhiều loại khoa khác nhau: “cử” là tuyển cử. Như vậy, khoa cử nghĩa
là phân khoa tuyển chọn sỹ tử (nhân tài) làm quan bằng cách thi - khảo thí.
Toàn bộ thể chế của khoa cử như hệ thống khoa thi, cách tổ chức thi, hệ thống

bài thi, xếp hạng người đỗ... đều là chế độ khoa cử.
Khoa cử xuất hiện ở nước ta từ thế kỷ XI, đời Lý Nhân Tông, nhưng
nguồn gốc khoa cử là ở Trung quốc.
Trước thời Bắc thuộc: Thời các vua Hùng, nước Văn Lang theo chế độ
Lạc hầu, Lạc tướng, cha truyền con nối nhưng việc học việc thi thì không thấy
sử chép.
Thời Bắc thuộc (111 tr TL - 938) : Ngay từ đầu thời Bắc thuộc đã có
người Nam học chữ Hán nhưng Tích Quang, Nhâm Diên và Sĩ Nhiếp mới
được coi là những người có công mở trường dậy học, tuy chỉ dậy ở trình độ
thấp kém, đào tạo từng lớp quan lại hạ cấp để sai khiến, ai muốn học cao phải
sang tận Trung quốc.
Các triều Ngô, Đinh, Tiền Lê: không thấy sử chép việc học có lẽ vì là
thời khai quốc, vua còn lo phòng thủ, giữ nước, việc dùng người chỉ tùy tiện.
Nhà Lý (1010 - 1225) : Thời nhà Lý, do phải học kinh sách, tăng lữ là
tầng lớp trí thức nên những người đi học thường đến chùa học. Chính Lý Thái

Trần Thị Liên

7

Lớp K35 Lịch sử văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Tổ cũng là học trò nhà sư Lý Khánh Vân, sau khi lên ngôi đã giúp đỡ các
chùa khuếch trương sự học. Lúc đầu, cách dùng người đều do các nhà sư có
địa vị lựa chọn, cất nhắc những người thông minh, nhanh nhẹn, sau mới mở

các khoa thi. Suốt thời Lý chỉ mở có 7 khoa:
Năm 1075 mở khoa thi đầu tiên ở nước ta, thi Nho học ba trường, gọi là
thi Tam trường, kén người Minh kinh bác học.
Năm 1086 kén người sung vào Hàn lâm viện.
Năm 1152 thi Ðình.
Năm 1165 thi Thái học sinh hỏi cách trị dân, người đỗ bổ làm quan
các trấn.
Năm 1185 và 1193 kén người vào Thị học (hầu vua học).
Năm 1195 thi Tam giáo hỏi về các đạo Nho, Phật, Lão, cho đỗ xuất
thân.
Vì Nho học mới bắt đầu thịnh, khoa cử mới bắt đầu xây nền móng nên
các điều mục đại cương tuy đầy đủ nhưng cách thức, niên hạn chưa rõ ràng.
Chương trình, thể lệ, sử không chép rõ, chỉ biết khi nào cần người mới mở
khoa thi.
Nhà Trần (1225 - 1400): việc tổ chức giáo dục và thi cử đã tường tận.
Ở Kinh sư có Quốc học viện; các lộ, châu, phủ, có nhà Học, nhà Hiệu, do các
Ðốc học và Giáo thụ coi. Lại định rõ phép thi 4 trường và phép bổ dụng, phân
biệt thi Hội, thi Ðình.
Năm 1232 thi Thái học sinh, người đỗ chia ra Tam giáp, theo thứ tự từ
cao đến thấp: nhất giáp, nhị giáp và tam giáp.
Năm 1239 định lệ 7 năm mở một khoa, sau mới đổi ra 3 năm một khoa.
Năm 1247 lấy ba người đỗ đầu nhất giáp, gọi là Tam khôi, theo thứ tự
từ cao đến thấp: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa.
Năm 1256 thi Thái học sinh chia ra người Kinh (Kinh Bắc, Sơn Nam,
Sơn Tây, Hải Dương), người Trại (Thanh, Nghệ), lấy riêng ngạch đỗ, đều có

Trần Thị Liên

8


Lớp K35 Lịch sử văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Tam khôi (buổi đầu chia ra Thượng Trại, Hạ Trại), để khuyến khích kẻ sĩ ở
xa, giáo dục chưa thấm nhuần. Ðời Trần Thánh Tông (1258 - 1282) hợp Kinh,
Trại thi chung.
Năm 1370 mới bắt đầu mở khoa thi Hương, người đỗ gọi là Cử nhân,
có đỗ mới được thi Hội.
Năm 1396 định phép thi 4 trường theo nhà Nguyên, năm trước thi
Hương, năm sau thi Hội, đỗ Hội mới thi Ðình. Vua ra đề văn sách, định thứ tự.
Nhà Hồ (1400-1407) : Khi Hồ Quý Ly chưa lên ngôi, năm 1387 đã có ý
định bỏ lối kén nhân tài bằng Khoa cử mà dùng phép Tuyển cử, chọn lựa
người tài giỏi mỗi năm tiến kinh.
Năm 1404, Hán Thương định rõ phép thi Hương ba năm một khoa, lại
bắt thi thêm hai môn viết và toán, cộng là 5 trường.
Nhà Hậu Lê (1428-1527): Nhà Hồ mất, nước ta bị nhà Minh đô hộ một
thời gian ngắn tuy có mở khoa thi nhưng sĩ dân trốn tránh không chịu thi.
Lê Thái Tổ khởi nghĩa đánh đuổi quân Minh, giành lại chủ quyền. Lúc
mới phục quốc, công việc trị an bề bộn nên phép thi giản lược, chưa tinh vi
bằng các đời Trần, Hồ.
Năm 1429 thi sĩ dân và các quan văn võ từ tứ phẩm trở xuống, tinh
thông kinh sử, ở Ðông đô. Thi kinh nghĩa hoặc luận, phú hay văn sách. Tùy
tài bổ dụng, không kể thứ tự. Chưa có thi Hương, thi Hội.
Năm 1433 định lệ 6 năm một khoa, năm trước thi Hương, năm sau
thi Hội.
Thời Hồng Đức (1460 - 1497, Lê Thánh Tông) được coi là thời cực

thịnh của Khoa cử nước ta: cách lấy đỗ rộng rãi, công bằng, ra đề thi hỏi đại
thể chứ không tìm những câu hiểm hóc nên kẻ sĩ có tài không bị bỏ sót.
Lại đặt ra lệ Bảo kết thi Hương, chỉ những người đức hạnh mới được
dự thi, và định rõ nhật kỳ các trường, ngày yết bảng. Người đỗ Cử nhân đổi ra
gọi là Hương cống, đỗ Tú tài gọi là Sinh đồ.

Trần Thị Liên

9

Lớp K35 Lịch sử văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Thi Tiến sĩ phân ra Chính bảng là Tiến sĩ Cập đệ và Tiến sĩ Xuất thân;
Phụ bảng là Ðồng Tiến sĩ Xuất thân.
Ðặt ra lệ dựng bia Tiến sĩ, ban mũ áo, cho ăn yến...
Nhà Mạc (1527 - 1592): Nhà Mạc rất trọng Khoa cử, mở nhiều khoa thi
theo lệ nhà Lê ba năm một khoa, kén được nhiều nhân tài nên mới chống chọi
được với nhà Lê trong 60 năm. Khoa cử thời Mạc có hai điều đáng chú ý:
- Năm 1565, kỳ đệ tứ khoa Tiến sĩ, bài phú phải làm bằng chữ Nôm.
Ðây là một sự kiện chưa từng có trong khoa cử nước ta.
- Khoảng đầu thế kỷ 17, ở Cao Bằng, đời Mạc Kính Cung có Nguyễn
Thị Du cải nam trang thi đỗ Trạng nguyên. Bà là người phụ nữ Việt Nam duy
nhất đã đi thi và đỗ Trạng.
Nhà Lê Trung Hưng (1528 - 1769) : Khi nhà Mạc cướp ngôi, vì chiến
tranh, nhà Lê đứt quãng 6 năm không thi, lui về Thanh Hoa.

Năm 1554 mới bắt đầu mở các Chế khoa song song với những khoa
Tiến sĩ của nhà Mạc ở Thăng Long.
Năm 1580 phục lại khoa thi Hội, chia ra hai giáp nhưng chưa có thi
Ðình.
Năm 1595 sau khi diệt xong nhà Mạc, vua Lê Hội thí các Cống sĩ ở bờ
sông, rồi Ðình thí.
Năm 1750, Ðỗ Thế Giai, vì ngân quỹ thiếu hụt, cho phép ai nộp ba
quan tiền thì được thi Hương không phải qua kỳ thi Hạch, gọi là "tiền Thông
Kinh". Chỉ cần chữ tốt và thông văn lý là đỗ Sinh đồ nhưng ba năm sau mới
được thi trường bốn. Những người đi buôn không biết chữ cũng đua nhau nộp
tiền rồi thuê người vào thi hộ, có những đứa trẻ 10 tuổi đỗ Sinh đồ, người ta
gọi giễu là "Sinh đồ ba quan". Chúa Trịnh thấy loạn phép, mấy lần (1751,
1774...) bắt những người đỗ phải thi lại, lúc thì ở Bến cỏ (bến Thảo Tân) bên
sông Nhị, khi ở Lầu Ngũ long, cạnh hồ Hoàn Kiếm.

Trần Thị Liên

10

Lớp K35 Lịch sử văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Năm 1777 Phạm Ngô Cầu xin mở trường thi ở Thuận Hóa, sai khảo
hạch trước. Niêm giấy yết thị nhiều ngày chưa có một người nào nộp quyển
thi vì học nghiệp bỏ bê do binh hỏa.
Khoa cử đến thời Lê Trung Hưng bắt đầu xuống dốc. Ðầu thời Hậu Lê,

lúc mới phục quốc thì văn gọn mà ý sâu, đến Trung Hưng thì văn rườm rà mà
ý cạn.
Nhà Tây Sơn (1789-1802): các vua Tây Sơn xuất thân là võ tướng
nhưng cũng tỏ ra trọng việc học và quý các nho sĩ.
Vua Quang Trung không những rất trọng dụng Ngô Thì Nhậm, Phan
Huy Ích, đều là những người do Khoa mục xuất thân, mà năm 1789 còn mở
khoa thi Tuấn tài ở Nghệ An, chỉ thi hai kỳ: chế nghĩa và văn sách, đỗ gọi là
Tuấn sĩ, dùng La Sơn Phu Tử làm Ðề điệu (chủ khảo). Ðó là khoa thi thuần
tiếng Nôm đầu tiên và duy nhất ở nước ta, song đề mục vẫn bằng chữ Hán.
Nhà Nguyễn: Các chúa Nguyễn Ðàng Trong (1558 - 1775): Trong khi
ở Ðàng Ngoài chúa Trịnh tổ chức thi cử theo lề lối cũ thì ở Ðàng Trong chúa
Nguyễn cũng mở các khoa thi kén nhân tài, tuy chưa có quy củ bằng Ðàng
Ngoài.
Nhà Nguyễn từ vua Gia Long (1802 - 1945): Khi mới thống nhất đất
nước, Gia Long dự tính ba năm một lần mở các khoa thi Hương, thi Hội, song
vì công việc trị an bề bộn, mãi đến 1807 mới mở khoa thi Hương đầu tiên, sau
đó 6 năm một khoa, còn thi Hội thì chưa tổ chức được.
Ðến thời Minh Mạng, chuyển sang văn trị, việc học được chỉnh đốn, có
quy củ. Người đỗ thi Hương là Hương cống nay đổi ra gọi là Cử nhân, Sinh
đồ gọi là Tú tài. Năm 1822, mở khoa thi Hội đầu tiên. Các đời sau sửa đổi ít
nhiều như lúc thì chấm lối quán quyển, khi thì theo nhà Lê, mỗi kỳ một lần
duyệt, tức là có đỗ trường một mới được vào thi trường hai. Năm 1884, lại
định rõ lệ “nhất Cử tam Tú”, nghĩa là cứ lấy một người đỗ Cử nhân thì cho ba
người đỗ Tú tài.

Trần Thị Liên

11

Lớp K35 Lịch sử văn hóa



Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Năm 1909, khoa cải cách đầu tiên, ngoài chữ Hán sĩ tử phải thi cả chữ
quốc ngữ cùng các môn thi mới khác như địa dư, cách trí, tính đố. Chữ Pháp
còn là môn thi tình nguyện.
Khoa 1915 là khoa thi Hương cuối cùng ở miền Bắc. Chữ Pháp trở
thành môn thi bắt buộc.
Năm 1818 là khoa thi Hương cuối cùng được tổ chức ở miền Trung.
Năm 1919 là khoa thi Hội và thi Ðình cuối cùng của toàn quốc.
Khoa cử nước ta được bắt đầu từ năm 1075, dưới triều Lý Nhân Tông
trải qua 845 năm dưới nhiều triều đại, mỗi triều đại lại có những đặc điểm
khác nhau được thể hiện như sau:
1.1.1. Hình thức thi
Thời Lý: đã tổ chức 7 khoa thi, trung bình 30 năm một khoa. Các khoa
thi như:
Khoa thi “Minh kinh bác học”: khoa đầu tiên mở vào tháng 2 năm Ất
Mão (1075), lấy đỗ 10 người. Minh kinh là thông hiểu kinh điển Nho giáo
riêng ở thời Đường có thi cả sách Lão Tử. Minh kinh bác học là chức quan
trong nhà Quốc Tử Giám.
Khoa thi “văn học”: tổ chức vào tháng 8 năm Bính Dần (1086). Khoa thi
này nhằm chọn người có tài văn học trong nước để đưa vào Viện Hàn Lâm.
Khoa thi điện: tổ chức vào tháng 10 năm Nhâm Thân (1152).
Khoa “thiên hạ sĩ nhân” (thi kẻ sĩ trong nước), chưa rõ tên khoa thi này
hay chỉ là ghi chép về việc tổ chức thi. Triều Lý tổ chức ba khoa thi loại này
vào các năm 1165, 1185.
Khoa thi “Tam giáo” nguyên văn là “Thí tam giáo tử”: thi người trong

ba giáo Nho, Phật, Đạo. Khoa thi này được tổ chức vào đời vua Lý Cao Tông
năm Ất Mão (1195). Khoa thi “Tam giáo” đến đời Trần vẫn được tổ chức.
Thời Trần: chú trọng giáo dục khoa cử. Năm 1226, mở rộng nhà Quốc
học tại kinh đô gọi là Quốc học viện. Năm 1281, lập thêm nhà Quốc học,

Trần Thị Liên

12

Lớp K35 Lịch sử văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

ngoài con em quý tộc quan lại còn cho con em dân thường phải là loại tuấn tú
đến học. Từ năm 1337, đã đặt học quan tại các Lộ, Phủ. Với hệ thống học
hiệu này, nhà Trần đã tổ chức được một nền giáo dục và khoa cử quy mô. Kể
từ khoa thi đầu tiên tổ chức vào năm 1227 đến khoa thi cuối cùng vào năm
1396, triều Trần đã tổ chức được 11 khoa thi trong đó có một khoa thi “Tam
giáo” và 10 khoa thi Thái học sinh.
Khoa “Tam giáo”: năm Đinh Hợi (1227) tổ chức khoa đầu tiên. Sách
Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú ghi “thi tam giáo tử” là tổ
chức thi để chọn nhân tài trong Tam giáo: Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo như
thời Lý. Đây là khoa thi “Tam giáo” cuối cùng trong mạch thi Tam giáo từ
thời nhà Lý.
Khoa thi “Thái học sinh”: tổ chúc khoa đầu tiên vào năm Nhâm Thìn
(1232). Sau khoa thi này triều Trần tiếp tục tổ chức 9 khoa thi Thái học sinh.
Khoa thi Thái học sinh đời Trần thực hiện những định chế giống khoa thi Tiến

sĩ, chia Tam giáp (nhất giáp, nhị giáp, tam giáp) ngay từ khoa thi đầu tiên. Xếp
Tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa) từ khoa thi năm 1247. Bên
cạnh Kinh Trạng nguyên (trạng nguyên ở vùng kinh lộ) và Trại Trạng Nguyên
(Trạng nguyên của vùng trại, kể từ Thanh Hóa trở vào) thực hiện định chế này
được hai khoa nhằm khuyến khích việc học ở vùng xa kinh thành.
Sau Tam khôi lấy Hoàng Giáp, từ khoa thi năm 1304. Bài thi của khoa
thi Thái học sinh cũng được ghi rõ trong khoa thi 1304: Trường một: Thi
Kinh nghi (những chỗ còn nghi ngờ trong kinh) và Kinh nghĩa (giải nghĩa
kinh). Trường hai: thi thơ, phú. Trường ba: thi chế, chiếu, biểu. Trường bốn:
thi văn sách (một đạo). Trước khi vào trường, có kỳ phụ thí thi ám tả hai thiên
Y quốc và Thiên tử truyện trong sách cổ Trung Hoa để loại người kém.
Thi Đại tỷ: còn gọi là Đại tỷ thủ sĩ được tổ chức cho năm loại đối
tượng: thuộc quan ở Tam quán (cho con cái của các quan được lấy vào vừa

Trần Thị Liên

13

Lớp K35 Lịch sử văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

làm việc vừa học tập ở ba “quán”: Sùng văn quán, Nho lâm quán, Tú lâm cục);
Thái học sinh; Thị thần học sinh (con cái các quan được lấy vào vừa làm việc
vừa học tập ở sáu cục Ngự tiền cận thị chi hậu, ở Trung thư giám); Tướng phủ
học sinh (con cái của các thân vương, thân công, hoàng tử, công chúa, các
tướng công hầu bá thuộc họ hàng thân thích của nhà vua được nhà nước củ học

quan đến dạy tại phủ đệ của mình); Người làm quan có tước phẩm.
Thời Hồ: Từ khi chưa giành ngôi vua, Hồ Quý Ly đã viết sách Minh
Đạo dâng vua Trần Nghệ Tông. Khi ở ngôi, Hồ Quý Ly đẩy mạnh giáo dục
Nho giáo khuyến khích Nho sĩ. Giáo dục và khoa cử thời Hồ, ngoài kinh điển
Nho giáo có chú ý đến cách học thiết thực. Các triều chỉ thi toán trong kỳ thi
tuyển lại viên, riêng triều Hồ đưa toán thư pháp vào kỳ đại khoa. Hồ Quý Ly
chú ý đến việc phổ biến chữ Nôm, nhà vua đã dịch thiên Vô dật trong Kinh
thư ra chữ Nôm. Trong bảy năm, nhà Hồ tổ chức được hai khoa thi:
Khoa thi Thái học sinh mở năm Canh Thìn (1400), đời Hồ Quý Lý, lấy
đỗ 20 vị Thái học sinh và Khoa thi năm Ất Dậu (1405) đời Hồ Hán Thương.
Thời Lê Sơ: Đây là thời kỳ chế độ phong kiến đạt đến thịnh trị, giáo dục
khoa cử cũng trở thành khuôn mẫu cho giáo dục khoa cử ở các triều đại sau.
Triều Lê tổ chức các Chế khoa, bắt đầu từ năm 1442, bắt đầu tổ chức
khoa thi Tiến sĩ.
Khoa Minh kinh: tổ chức tháng 5 năm Kỷ Dậu (1429) tại sản đường
Đông Kinh (Hà Nội ngày nay). Sử sách ghi được bảy người đỗ.
Khoa Hoành từ: mở vào năm Tân Hợi (1431), phép thi cũng như khoa
Minh kinh lấy “chân Nho chính trực” bài thi dùng Minh kinh, luận, phú hoặc
văn sách.
Sau khoa Hoành từ, triều Lê Sơ còn tổ chức hai chế quan vào năm Quý
Sửu (1433) và Ất Mão (1435) do vua đích thân ra văn sách.
Khoa thi Tiến sĩ đầu tiên của thời Lê sơ cũng là khoa thi tiến sĩ đầu tiên
trong lịch sử khoa cử Việt Nam tổ chức vào tháng 3 năm Nhâm Tuất (1442).

Trần Thị Liên

14

Lớp K35 Lịch sử văn hóa



Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Khoa thi Tiến sĩ đầu tiên có 450 người dự thi, lấy đỗ 33 vị tiến sĩ. Xếp hạng
thành “tam giáp” (nhất giáp, nhị giáp, tam giáp), ba giáp cũng gọi là ba bảng
nhưng chỉ có bảng một và hai được gọi là chính bảng. Sau khoa tiến sĩ đầu
tiên, các vua triều Lê sơ còn tổ chức 15 khoa thi tiến sĩ nữa.
Triều Mạc: Sự nghiệp giáo dục và khoa cử liên quan đến việc tuyển
chọn trí thức cho toàn bộ Vương nghiệp. Buổi đầu, nhà Mạc dựa vào số Nho
sĩ ít ỏi trong vương tộc và của triều Lê để góp phần phục hưng đất nước.
Sau hai năm cầm quyền, nhà Mạc đã tổ chức khoa thi Tiến sĩ năm Kỷ
Sửu (1529). Từ khoa thi đầu tiên này đến khoa thi cuối cùng năm Nhâm Thìn
(1592), nhà Mạc đã tổ chức đều đặn ba năm một kỳ thi Tiến sĩ, bất chấp chiến
tranh, phải rời khỏi Thăng Long lên Cao Bằng cố thủ, thể hiện quyết tâm cao
của nhà Mạc trong việc tuyển chọn nhân tài và tinh thần hiếu học trong nhân
dân ta.
Khoa Tiến sĩ đầu tiên mở vào năm Kỷ Sửu (1529), thu được kết quả: Đệ nhất giáp ban ba Tiến sĩ cập đệ - Đệ nhị giáp ban tám Tiến sĩ xuất thân. Đệ
tam giáp ban 15 Tiến sĩ đồng xuất thân. Bia tiến sĩ đề danh dựng ngay năm thi.
Sau khoa thi Tiến sĩ đầu tiên, nhà Mạc đã cho tổ chức ba năm một khoa
thi, tổng cộng là 22 khoa, lấy đỗ 485 vị tiến sĩ, trong đó có 11 vị Trạng
nguyên.
Thời Lê Trung Hưng (Lê - Trịnh): Lấy vùng núi Thanh Hóa làm căn cứ,
triều Lê Trung Hưng đã mạnh dần lên, việc tổ chức khoa cử thu hút nhân tài
được đặt ra. Ở thời kỳ đầu, triều Lê Trung Hưng cũng chỉ tổ chức Chế khoa,
tiếp sau đó mới mở khoa Tiến sĩ, các khoa ấy được cử hành tại hành cung Văn
Lại (Thanh Hóa).
Từ năm 1595, các khoa thi Tiến sĩ lại được tiếp tục tổ chức ở kinh đô
Thăng Long, tuy ít nhưng Chế khoa và khoa Đông các cũng cử hành. Từ khoa

thi đầu tiên năm Ất Mùi (1595) đến khoa thi cuối cùng năm Đinh Mùi (1787)

Trần Thị Liên

15

Lớp K35 Lịch sử văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

triều Lê Trung Hưng đã tổ chức được 73 khoa thi Tiến sĩ và Chế khoa, kéo
dài lịch sử thi cử của thời này tới 233 năm.
Chế khoa mở đầu lịch sử khoa cử thời Lê Trung Hưng năm Giáp Dần
(1554), lấy đỗ 13 Tiến sĩ, các tiến sĩ chia làm hai giáp: Đệ nhất giáp Chế khoa
xuất thân (gồm 5 vị) và Đệ nhất giáp đồng Chế khoa xuất thân (8 vị). Năm Ất
Sửu (1565), tổ chức chế khoa lần hai, lấy được 10 Tiến sĩ Chế khoa, vẫn chia
làm hai giáp. Các Chế khoa này được tổ chức tại hành cung ở Vạn Lại; sau
này triều Lê Trung Hưng tuy dựng bia tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội
vào năm 1653 cùng với 22 Tiến sĩ khác, tổng cộng là 25 bia. Đây là đợt dụng
bia lớn nhất trong lịch sử dựng bia Tiến sĩ. Chế khoa cuối cùng thời Lê Trung
Hưng tổ chức vào năm Đinh Mùi (1787), lấy được một vị Đồng Chế khoa
xuất thân.
Khoa Tiến sĩ: mở từ năm Canh Thìn (1580), lấy đỗ 6 vị. Tuy chưa tổ
chức Điện thí, nhưng xếp hạng theo Tam giáo chưa có người đỗ Nhất giáp
còn Nhị giáp tiến sĩ xuất thân 4 vị, Đệ tam giáp Tiến sĩ xuất thân 2 vị. Khoa
này và các khoa Tiến sĩ tiếp sau: Quý Mùi (1583), Quý Sửu (1589), Nhâm
Thìn (1502) đều được tổ chức ở thành cung Vạn Lại. Từ khoa Kỷ Sửu (1589)

đã có thi Đình. Từ khoa thi Tiến sĩ Ất Mùi (1595) bắt đầu tổ chức tại kinh đô
Thăng Long và định lệ ba năm một khoa đều đặn, thỉnh thoảng mới có kỳ bốn
năm hoặc năm năm. Các định chế chuẩn mực thời Lê Sơ lại được thực hiện,
nhưng số người đỗ mỗi khoa không nhiều, suốt thời Trung Hưng chỉ có một
khoa đỗ nhiều nhất là được 22 người, điều đó cũng phản ánh một thực tế của
lịch sử: đó là những năm tháng chiến tranh kéo dài, đã phá hoại nặng nề đất
nước, cản trở sự phát triển của văn hóa giáo dục, sự khắc phục là khó khăn và
lâu dài, chế độ khoa cử và chế độ phong kiến suy yếu, bế tắc.
Các triều chúa Nguyễn: các chúa Đàng Trong tổ chức khoa cử có nhiều
nét khác với các triều phong kiến Việt Nam trước đó, kể cả khoa cử Trung

Trần Thị Liên

16

Lớp K35 Lịch sử văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Quốc. Khoa cử thời chúa Nguyễn cũng thiên về thơ, phú, loại văn khoa cử
điển hình như Kinh nghĩa hầu như không dùng.
Khoa Hoa văn và Chính đồ: mở đầu tiên vào năm 1646, đời chúa
Nguyễn Phúc Lan.
Khoa Chính đồ chia làm ba kỳ, kỳ đệ nhất thi văn Tứ lục, kỳ đệ nhị thi
thơ và phú. Kỳ đệ tam thi văn sách. Các quan Tri phủ, Tri huyện làm sơ khảo.
Các quan Cai bạ, Ký lục, Vệ úy làm giám khảo. Các quan Nội tả, Nội hữu,
Ngoại hữu là giám thị. Những người trúng tuyển chia làm ba hạng, hạng nhất

là Giám sinh, hạng nhì và hạng ba gọi là Sinh đồ.
Khoa Hoa văn: là một loại Chế khoa văn học, thi trong ba ngày mỗi
ngày một bài thơ. Người thi khoa Hoa văn chia làm ba hạng bổ vào ba ty: Xá
sai, Lệnh sử và Tướng thần.
Khoa Thám phỏng: là loại khoa thi đặc biệt mở vào thời chúa Nguyễn
Phúc Tần. Đề thi khoa này nhằm thăm dò các sĩ tử với thời cuộc như dân tình
Đàng Trong và vua Lê Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Người trúng tuyển cũng bổ
vào ty Xá sai.
Ngoài ba loại khoa thi trên, các chúa Nguyễn còn tổ chức các khoa thi
Văn chức: dành cho quan văn. Bài thi như khoa Chính đồ. Thi Tam Ty hỏi về
binh lính, tiền lương, án ngục, lúa gạo xuất nhập. Ty Tướng thần và Sử lệnh,
hai loại khoa thi này cũng nhằm kiểm tra quan chức.
Thời Tây Sơn: Đây là vương triều đầu tiên chủ trương mở trường công
tới tận thôn làng, những “Sinh đồ mua” trong khoa cử thời suy yếu được sàng
lọc, các bậc khoa bảng có tài của triều trước được trọng dụng. Nội dung học
tập ở triều Tây Sơn vẫn nằm trong khuôn khổ Thánh kinh, Hiền truyện; Chính
học mà triều Tây Sơn nêu cao thực chất là Nho học. Chữ Nôm được vua
Quang Trung sử dụng sáng tác, trao đổi, trong văn bản hành chính. Triều Tây
Sơn mới tổ chức được khoa thi Hương, chưa tổ chức được khoa thi Tiến sĩ,

Trần Thị Liên

17

Lớp K35 Lịch sử văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp


nhưng nhiều vị đại khoa được sử dụng như: Nguyễn Thiếp, Phan Huy Ích,
Nguyễn Huy Lượng, Ngô Thì Nhậm…
Triều Nguyễn: Khoa cử triều Nguyễn đã đạt được những thành tựu đặc
sắc bên cạnh những hạn chế, bởi nguyên nhân trọng yếu: Chế độ giáo dục
khoa cử với những ưu việt ở thời Trung đại đã và đang trở thành lạc hậu trong
xu thế lịch sử từ trung đại chuyển sang Cận đại.
Nhà Nguyễn xây dựng nhà Quốc học tại kinh đô Huế, tổ chức học hiệu
ở phủ huyện. Về sách giáo khoa ngoài Tứ Thư, Ngũ Kinh có Bắc sử, Nam sử
cũng được biên soạn cùng với các loại thư: Hội điển - Địa Lý - Lịch sử và trở
thành hệ thống giáo khoa thư. Chế độ khoa cử luôn được rồi sửa đổi, nhằm
thu được hiệu quả. Mọi định chế về khoa cử luôn lấy khuôn mẫu khoa cử thời
Lê Sơ, nhưng cũng có những khác biệt. Bên cạnh khoa thi Tiến sĩ còn tổ chức
nhiều Chế khoa, ân khoa.
Khoa thi Hương: được triều Nguyễn tổ chức từ năm Đinh Mão (1807).
Đây là kỳ thi độc lập, vì thời này triều Nguyễn chưa tổ chức được khoa thi
Tiến sĩ. Khoa thi Hương này là một ân khoa. Kỳ thi Hương này mới có sáu
trường: Sơn Nam, Hải Dương, Sơn Tây, Kinh Bắc, Thanh Hoa và Nghệ An.
Sau này khoa Tiến sĩ được tổ chức thì thi Hương là cấp thi đầu tiên trong ba
cấp thi: Hương (cấp địa phương), Hội (cấp trung ương do Bộ Lễ chủ trì),
Đình hay Điện (cấp trung ương do Hoàng đế chủ trì). Học vị thi Hương có hai
bậc, bậc cao là Cử nhân (Hương cống thời Lê) được tham dự thi Hội; Tú tài
(Sinh đồ thời Lê) không được dự thi Hội. Dân gian gọi các ông đỗ Tú tài hai
khoa là Tú kép, ba khoa là Tú mền, bốn khoa là Tú đụp. Từ khoa thi Hương
đầu tiên đến khoa thi Hương cuối cùng năm 1918 triều Nguyễn đã tổ chức 47
khoa, lấy đỗ khoảng 5000 Cử nhân.
Khoa thi Tiến sĩ: khoa đầu tiên mở vào năm Nhâm Ngọ (1822), lấy đỗ
ba Tiến sĩ, một Đệ nhất giáp Tiến sĩ xuất thân và bảy Đệ tam giáp Tiến sĩ

Trần Thị Liên


18

Lớp K35 Lịch sử văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

đồng xuất thân. Khoa thi Tiến sĩ cũng được cố định về thời gian thi là ba năm:
Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, thi Hương tổ chức vào các năm: Tý, Ngọ, Mão, Dậu.
Từ đời Tự Đức có thêm các Chế khoa.
Chế khoa và Ân khoa: Ngoài khoa thi Tiến sĩ, triều Nguyễn cũng tổ
chức Chế khoa bất định kỳ, trong đó ân khoa là loại Chế khoa tổ chức vào các
dịp lễ lớn (đại khánh) như lễ đăng quang, thượng thọ, sinh nhật Hoàng tử,
Hoàng Thái Hậu…
Chế khoa Cát sĩ: tổ chức vào năm Tân Hợi (1851), bao gồm: Giám sinh
đang theo học và chưa dự thi, Cử nhân đang học thêm để chờ thi sau tại Quốc
Tử Giám, các học quan Giáo thụ Huấn đạo; các Tiến sĩ, Phó bảng chưa làm
quan, kể cả Tú tài (nhưng phải qua một kỳ sơ khảo). Đỗ Chế khoa cũng được
phân: Đệ nhất giáp cát sĩ cập đệ, cũng như khoa thi Tiến sĩ, bảng này chỉ có
Đệ nhị và Đệ tam danh tương đương với Bảng Nhãn, Thám Hoa không lấy đệ
nhất danh tương đương với Trạng nguyên. Tiếp sau là hai bảng Đệ nhị giáp
cát sĩ xuất thân tương đương Hoàng giáp. Đệ tam giáp cát sĩ đồng xuất thân
tương đương Đồng Tiến sĩ. Các ân điển tương đương với khoa Tiến sĩ.
Chế khoa Nhã sĩ: khoa Nhã sĩ tổ chức năm Ất Sửu (1865), Chế khoa
này có được khắc bia đá, nhưng ân điển không được bằng khoa Tiến sĩ.
Về Ân khoa triều Nguyễn tổ chức cả Ân khoa thi Hương như khoa năm
Tân Tỵ (1821) và cả ân khoa thi Hội như khoa Giáp Tuất (1848).

Có thể thấy khoa cử là phương thức phổ biến nhất để các triều đại
phong kiến tìm kiếm nhân tài giúp nước. Triều đình tổ chức nhiều kỳ thi khác
nhau nhưng loại hình thi văn là ra đời sớm nhất, từ năm 1075 sau này gọi là
thi Hội, sau đó xuất hiện thi Đình, thi Tiến sĩ.
Trong quá trình tổ chức và chỉ đạo các kỳ thi, các nhà quản lý, các triều
đại thời phong kiến thấy rằng cần phải quy định điều kiện dự thi, quy chế dự
thi cho những thí sinh tham dự các kỳ thi để đảm bảo sự công bằng trong mỗi
kỳ thi cũng tìm ra được những người tài giỏi thực sự giúp ích cho ngước nhà.

Trần Thị Liên

19

Lớp K35 Lịch sử văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

1.1.2. Quy chế thi
Quy chế thi được đặt ra nhằm đảm bảo sự công bằng, minh bạch trong
các kỳ thi. Tất cả những người tham gia thi và những người tổ chức, giám sát,
chấm thi… đều phải tuân thủ theo quy chế đã đặt ra như:
Một người muốn dự thi Hương phải qua hai điều kiện cơ bản (gọi là
Khảo hạch):
1. Phải có đạo đức tốt và lý lịch trong sạch. Bản khai lý lịch này phải
được xã trưởng và quan địa phương xác nhận.
2. Phải có trình độ học lực: trình độ học lực lúc đầu được kiểm tra bằng
một kỳ thi liền với kỳ thi Hương nhưng không tính vào nội dung thi Hương 4

kỳ trên. Đây là kỳ thi ám tả cổ văn; ai đỗ kỳ này mới được và thi Hương. Vì
đây là kỳ thi sát hạch, không phải là kỳ thi chính, nên đỗ kỳ ti này không có
học vị gì, cả tỉnh cùng dự thi, tuy nhiên ai đỗ kỳ thi này cũng đã rất vinh dự,
nhất là người đỗ đầu. Người đỗ đầu cả xứ được gọi là “đầu xứ”.
Trường thi phải chọn địa thế rộng rãi, sai quân lĩnh các vệ, các sở làm
bốn vi, rào hai lần phên kín, một lần phên thưa và đắp tường xẻ hào, cài
chông xung quanh, cốt cho kín vững. Bên trong thì làm cửa thí viện và cửa
tỏa viện; bên ngoài làm cửa trước và bốn cửa Giáp, Ất, Bính, Đinh. Ở giữa và
bốn mặt đều rào phên thưa, làm chòi canh và một nhà tất đường ba gian, một
nhà thu quyển ba gian. Quan quân năm phủ, ba ty phải làm theo đúng như thế.
Khảo thí viện ở một nơi, đồng khảo viện ở một nơi, giám khảo viện ở
một nơi và nhà công đường cùng các nhà ở hai bên tả hữu, đều theo lệ năm
trước, do quân năm phủ phải làm và phải rào hai lần phên kín, ngăn cách
trong ngoài rất kín vững, đúng như quy thức.
Lều thi và thẻ tre (biên tên) do lễ bộ tính số sĩ nhân bao nhiêu tư sang
quan tổng cán sai quân lính năm phủ ba ty làm, mỗi cái đều cao ba thước,
rộng bốn thước, thẻ mỗi cái cao ba thước, trước kỳ hai ngày đem nộp, đến
sáng sớm hôm thi, đóng mỗi lều cách nhau như lệ cũ.

Trần Thị Liên

20

Lớp K35 Lịch sử văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp


Các đồ vật: phên nứa, giường gỗ, chiếu cói, bàn viết, cây đèn, đĩa đèn,
dao bàn, dao thái thịt, dao chẻ củi, nồi đất, bát đĩa, đều phải do năm phủ ba ty
mua sắm đem nộp đủ lệ; việc gánh nước hàng ngày thì do kỳ quân vệ Hiệu
lực gánh nộp như lệ.
Đóng ấn quyển thì dùng ấn của Thượng bảo tự. Các quan giám khảo,
giám sát, Hàn lâm viện, Giám sát ngự sử… phải công bằng, sáng suốt, ngay
thẳng, tháo vát.
Ngày sĩ nhân vào trường, những viên tuần xước củ sát nào dám đem
lòng thù riêng mà đánh sĩ nhân, dám lấy văn bài của nguời nọ cho người kia,
thì cho phép sĩ nhân tố cáo lên bọn quan đề điệu xét hỏi trị tội.
Mỗi trường, trước một ngày, các quan đề điệu tâu xin đề thi, đến ngày
thi thấy ngự đề vua ban xuống phải, quan thí trường phải theo phép nhận rõ
ấn nhà vua và chỗ niêm phong.
Sĩ nhân vào trường thi chỉ được mặc hai chiếc áo đơn, không được mặc
áo kép, làm trái phải đuổi ra. Sĩ nhân làm văn xong, nộp quyển cho quan thu
quyển. Quyển thi hoặc có quyển nào có vết tích trùng nhau và văn nghĩa sai
lầm không hợp cách mà khảo quan lấy nhầm thì các quan đề điệu và giám
khảo đều được phép đánh hỏng…
Trình tự thi: Khoảng 20 ngày trước khi thi, thí sinh phải nộp ba tập giấy
bản mới: trang đầu ghi lý lịch, địa chỉ, nghề nghiệp của bản thân và thế hệ
trước cho Hội đồng thi (còn gọi là nộp quyển). Hai ngày trước khi thi thí sinh
đến trường xem số báo danh để biết vị trí ngồi và cửa vào. Từ nửa đêm hôm
trước ngày thi mỗi thí sinh vác một bộ lều chõng, cổ đeo ống quyển, dầu (để
thắp đèn), nước, vai mang cháp đựng thức ăn, thức uống, đồ dùng trực sẵn ở
cửa trường thi. Sau ba hồi trống, các quan vào vị trí đã định, lại phòng (giám
thị) xướng danh nhận quyển cho thí sinh vào trường. Thí sinh tìm chỗ chọn
phần đất rồi tự đóng lều, dựng chõng, mài mực đợi đề thi. Khi trời sáng rõ thì

Trần Thị Liên


21

Lớp K35 Lịch sử văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

đầu bài được phát, đến trưa họ nộp quyển vào nhà Thập đạo lấy dấu nhật
trung và đến tối nộp lại quyển cho lại phòng đóng dấu của Hội đồng thi. Làm
bài xong thí sinh ra ngoài trường thi bằng cửa trước.
Lệ vinh quy: Từ triều Lê Thánh Tông năm 1481 đã đặt ra lệ xướng
danh và vinh quy cho các tân khoa Hương cống. Tân khoa ra nhận áo, mũ, và
giầy vân hài của nhà vua ban rồi tên thì đem yết ở bảng bằng gỗ vẽ hình hổ.
Sau đó họ lần lượt ra lễ tạ vua cùng các quan hàng tỉnh và quan trường. Các vị
Sinh đồ (Tú tài) thì không có áo mũ, cũng không có xướng danh. Tên thì yết ở
tấm thẻ tre nhưng vẫn là một vinh dự lớn. Phần lễ nghi xong thì các vị tân
khoa sửa soạn về quê quán nhưng có sắc về phủ, huyện, xã để sửa soạn đón
rước gọi là đám rước “vinh quy bái tổ”. Sinh đồ thì hàng xã đón. Hương cống
thì hàng tổng trở lên phải cung phụng linh đình, xem như một vinh dự chung
của cả làng.
Thời Lý, Trần, Hồ quy chế thi còn đơn giản.Tuy nhiên đến thời Trần
thì đã quy củ hơn. Thời Lê Sơ, các vua đầu triều Lê rất coi trọng giáo dục,
khoa cử để tuyển chọn hiền tài cho nên quy chế thi cũng bắt đầu được kiện
toàn, được đặt ra một cách quy củ, rõ ràng, rành mạch, buộc các sĩ tử phải
nghiêm túc tuân theo.
1.2.3. Thời gian, địa điểm thi
Từ đời Lê Thánh Tông thi Hương được tổ chức vào các năm Tý, Ngọ,
Mão, Dậu và thi Hội vào năm sau Sửu, Mùi, Thìn, Tuất (dựa theo quy định thi

cử của Trung Quốc). Sau khi thí sinh đỗ kỳ thi Hương thì năm sau mới được
dự thi kỳ thi Hội. Thi đỗ khóa thi Hội rồi mới được phép dự thi Đình. Những
người đỗ thi Đình được bổ dụng quan chức trong triều đình.
Khoa thi Hương đầu tiên ở nước ta có lẽ được tiến hành vào năm 1373
để chuẩn bị cho khoa thi Đại tỉ năm 1374. Từ năm 1404 Hồ Hán Thương quy
định tất cả thi Hương, thi Hội, thi Đình đều thi vào tháng 8 âm lịch hàng năm.

Trần Thị Liên

22

Lớp K35 Lịch sử văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Năm nay thi Hương, sang năm thi Lễ bộ cử nhân, sang năm nữa thi Hội, cứ
thế quay lại vòng thi sau.
Khi nhà Lê nắm chính quyền, tháng 4 năm 1434 quy định thể lệ thi
Hương, thi Hội thì chỉ có thể thi vào mùa thu. Trên thực tế thi Hội vào mùa
xuân từ tháng giêng đến tháng ba, có khi vào tháng tư, thi Đình vào tháng tư,
tháng năm, tháng sáu, có khi tháng bảy. Cho nên thi Hội cũng được gọi là
xuân thí. Thi Hương, thi Hội được tổ chức ở địa phương, có quan giám sát,
những người đỗ thi Hội sẽ được vào sân Điện Kính Thiên để dự kì thi Đình
đối và làm bài ở lều thi, có khoa thi Đình được Chúa tổ chức ngay tại phủ của
mình là khoa Vĩnh Hựu 2 (1736) và Cảnh Hưng 40 (1779).
1.2.4. Nội dung thi
Trước năm 1304 nội dung thi thế nào, chia là mấy kì không rõ. Bắt đầu

từ khoa thi tiến sĩ năm 1304, sử chép: “Về phép thi: Trước hết thi ám tả Thiên
y quốc và truyện Mục Thiên tử để loại bớt. Thứ đến Kinh nghi, Kinh nghĩa, đề
thơ (tức thể cổ thi ngũ ngôn trường thiên) hỏi về “vương độ khoan mãnh”
theo luật “tài nan xạ trĩ”, về phú thì dùng tám vần “đế đức hiếu sinh hiệp vụ
dân tâm”. Kì thứ ba thi chế, chiếu, biểu, kì thứ tư thi đối sách” [4, tr.163].
Như vậy, nội dung thi có 4 kì: ám tả; kinh nghĩa, thơ, phú; chế, chiếu,
biểu; đối sách (còn gọi là văn sách, sách vấn). Ai đỗ kì thứ nhất vào kì thứ
hai, tiếp tục đến kì thứ tư. Kì thứ tư thi đối sách cũng là thi Đình. Kì thứ tư có
tác dụng để phân loại tiến sĩ và thi ở điện đình nó cũng gắn với thi Hội, chưa
tách ra thành một kì thi riêng.
Đại Việt sử kí toàn thư chép: Năm 1396 “xuống chiếu quy định cách
thức chọn nhân tài, dùng thể văn 4 kì bãi bỏ phép ám tả cổ văn. Kì thứ nhất
thi một bài kinh nghĩa có các phần phú để tiếp ngữ, tiểu giảng, nguyên đề, đại
giảng, kết luận, từ 500 chữ trở lên. Kì thứ hai thi một bài thơ Đường luật, một
bài phú cổ thể hay thể Li Tao, thể Văn Tuyển cũng từ 500 chữ trở lên. Kì thứ

Trần Thị Liên

23

Lớp K35 Lịch sử văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

ba thi một bài chiếu theo thể Hán, một bài chế, một bài biểu theo thể Tứ lục
đời Đường. Kì thứ tư một bài văn sách, ra đề theo kinh, sử hay thời sự, mỗi
bài phải 1000 chữ trở lên. Cứ năm trước thi Hương, năm sau thi Hội, nguời

đỗ thì vua cho thi một bài văn sách để xếp bậc” [19, tr.88]
Thời Lý, nội dung thi cử còn chưa rõ ràng. Đến thời Trần, quy trình và
nội dung khoa cử đã theo 4 kỳ là: ám tả cổ văn, kinh nghĩa và thơ phú, chiếu
chế biểu và đối sách (văn sách). Năm 1397, Hồ Quý Ly cải cách thi cử, nội
dung của 4 kỳ thi bỏ ám tả cổ văn và được sắp xếp lại: kinh nghĩa, thơ phú,
chiếu chế biểu và văn sách. Thời Lê Sơ nội dung thi cùng bao gồm 4 trường
là: kinh nghĩa, chiếu chế biểu, thơ phú, văn sách. Đến thời Mạc, giáo dục
khoa cử bộc lộ nhiều yếu kém, nội dung thi cử khuôn sáo, hiện tượng gian
dối, hối lộ tràn lan. Ở Đàng Trong, nội dung thi cử đơn giản hơn Đàng Ngoài.
Tóm lại, theo quy định từ năm 1434, thi Hương tương tự như thi Hội
cũng có bốn kỳ hay gọi là bốn trường.
Kỳ I: thi kinh nghĩa, thư nghĩa: giải thích ý nghĩa trong câu lấy từ Tứ
thư, Ngũ kinh. Bài thi phải viết theo lối biền văn - tức là có đối mà không vần,
phần thi này nhằm kiểm tra khả năng hiểu biết kinh truyện của sĩ tử.
Kỳ II: thi chiếu, chế, biểu: chiếu - lời vua nói, chế - vua ban thưởng cho
công thần, biểu - bài văn thần dân tạ ơn vua hoặc chúc mừng vua nhân dịp
ngày lễ. Sĩ tử phải biết lựa từng hoàn cảnh, từng đối tượng mà dùng giọng văn
cho thích hợp. Đây là bài thi kiểm tra khả năng soạn văn bản làm quan sau này.
Kỳ III: thi thơ phú: các bài thi được làm theo thể thất ngôn, phần thi
này kiểm tra khả năng làm thơ của sĩ tử bởi đây là một trong những sinh hoạt
quan trọng của tầng lớp trí thức.
Kỳ IV: thi văn sách: là bài văn trả lời câu hỏi về một vấn đề của đề bài.
Phần thi này nhằm kiểm tra khả năng biện bác, bàn luận vấn đề lịch sử và
hiện tại của sĩ tử.
Tùy từng triều đại mà nội dung thi có thể được quy định và sắp xếp thứ
tự khác nhau.

Trần Thị Liên

24


Lớp K35 Lịch sử văn hóa


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Sự phát triển của khoa cử và giáo dục ở các triều đại trước chính là cơ
sở cho sự phát triển khoa cử của triều Nguyễn nói chung và triều vua Minh
Mạng nói riêng.
1.2. TÌNH HÌNH KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, VĂN HÓA, XÃ HỘI THỜI
VUA MINH MẠNG (1820 - 1840)
Minh Mạng là một vị vua được lịch sử đánh giá là một ông vua tài giỏi.
Dưới thời trị vì của mình ông đã có nhiều chính sách cải cách về kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội nhằm canh tân đất nước.
1.2.1. Kinh tế
Nông nghiệp: Dưới thời Minh Mạng, việc khẩn hoang rất được khuyến
khích. Ông cho tổ chức khai hoang dưới hình thức doanh điền. Nhà vua cho
quan lại mộ dân lập những ấp mới ở trong Nam cũng như ngoài Bắc, khiến
cho việc phân phối ruộng đất được hợp lý. Ngoài ra, ông còn hoàn chỉnh hệ
thống đê điều ở Bắc Bộ, đặt quan khuyến nông, khai hoang ven biển Bắc Bộ,
lập các huyện Kim Sơn và Tiền Hải. Ở Nam Bộ, công cuộc khai hoang và
thuỷ lợi cũng được đẩy mạnh. Minh Mạng còn thử nghiệm giải pháp bỏ đê
phía nam Hà Nội, đào sông thoát lũ Cửu An (Hưng Yên).
Minh Mạng kiên quyết áp dụng chính sách quân điền. Quy định:
“những ruộng đất bấy lâu nay do toàn thôn luân phiên cày cấy và ruộng đất
bỏ hoang bất luận là của ai cũng đều bị sung làm công điền” [16, tr.193].
Về đinh điền và thuế má: Thuế đinh và thuế điền thì đại khái cũng theo
như đời vua Thế Tổ (Gia Long) đã định. Chỉ có năm bính thân (1836) là năm

Minh Mệnh thứ 17, đất Nam kỳ đạc điền xong, tính ra được hơn 630.075 mẫu
và định lại các thứ thuế điền thổ ở miền ấy. Còn như số dân đinh và điền thổ
trong nước, thì cứ theo sổ bộ tổng cộng lại được 970.516 suất đinh và
4.063.892 mẫu ruộng và đất.
Những dân Tàu sang thành lập hương ấp ở nước Nam ta gọi là Minh
Hương, thì có lệnh mỗi người đồng niên phải nộp hai lạng bạc và được trừ

Trần Thị Liên

25

Lớp K35 Lịch sử văn hóa


×