Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Đất gia định thời nguyễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.08 MB, 81 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA LỊCH SỬ


BÀI TIỂU LUẬN CUỐI KÌ
CHUYÊN ĐỀ ĐỊA LÝ HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM
ĐỀ TÀI:
ĐẤT GIA ĐỊNH THỜI NGUYỄN
(1802 – 1859)

GVHD: PGS.TS. TRẦN THỊ MAI
SVTH: PHẠM NGUYỄN NAM HOÀI
MSSV: 1256040124
LỚP: LỊCH SỬ VIỆT NAM
KHÓA: 2012-2016

TPHCM THÁNG 1 NĂM 2015

1


Lời nói đầu
Ngược lại dòng lịch sử gần 317 năm về trước, một sự kiện quan trọng đã xảy
ra, đánh dấu một bước ngoặt lớn lao trong lịch sử mở mang bờ cõi của dân tộc Việt
Nam. Nguyễn Hữu Cảnh, người con của vùng đất Quảng Bình xa xôi đã đặt dấu chân
của mình vào mảnh đất Nam Bộ, thiết lập những đơn vị hành chính đầu điên của
chính quyền chúa Nguyễn, tại một nơi hoàn toàn mới mẻ, để rồi từ đó những lớp di
dân người Việt có nhiều điều kiện thuận lợi tiếp tục công cuộc khai phá, tạo nên vùng
Nam Bộ trù mật và giàu có, mang đậm dấu ấn của những nông dân người Việt xưa.
Trong những đơn vị hành chính được thiết lập vào năm 1698, Gia Định xuất


hiện như một cái tên để lại nhiều ấn tượng nhất trong dòng lịch sử dân tộc, và cho đến
ngày nay nó vẫn còn được thường xuyên nhắc đến, trở thành đối tượng tìm hiểu của
nhiều nhà nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có địa lý học lịch sử.
Chúng tôi, những sinh viên ngành lịch sử Việt Nam, sau khi được trang bị
những kĩ năng, phương pháp cần thiết cho việc tiếp cận một đối tượng nằm trong lĩnh
vực địa lý học lịch sử, đã quyết định chọn địa danh Gia Định để tiến hành khảo sát,
nghiên cứu nhằm làm rõ một số vấn đề liên quan đến vùng đất này. Đây là một vùng
đất khá trẻ so với bề dày của lịch sử dân tộc ta, nhiều nhà nghiên cứu đã tiếp cận và
cho ra những kết quả quan trọng và có giá trị to lớn. Trên cơ sở kế thừa những kết quả
đó, đồng thời dựa trên những quan điểm riêng của bản thân, chúng tôi đã cố gắng làm
mới nhiều điểm trong việc nghiên cứu vùng đất Gia Định này.
Trong khuôn khổ của đề tài “Đất Gia Định thời Nguyễn (1802 - 1859)”, chúng
tôi xin trình bày các nội dung về đặc điểm địa lý cũng như lịch sử đất Gia Định, đồng
thời nhấn mạnh đến sự thay đổi trong cương vực, tên gọi, địa lý hành chính của nó
trong khoảng thời gian từ 1802 đến 1859 dưới thời trị vì của vương triều Nguyễn. Hơn
nữa trong bài nghiên cứu này, chúng tôi cũng xin khái quát đến vai trò của vùng đất
Gia Định trong sự phát triển của Việt Nam giai đoạn 1802-1859, và cuối cùng là tìm
hiểu về những tỉnh thành ngày nay thuộc đất Gia Định xưa (1836).
Đây là một bài nghiên cứu đầu tiên của chúng tôi liên quan đến lĩnh vực địa lý
học lịch sử, chính vì thế không tránh khỏi nhiều thiếu sót do hạn chế về mặt kĩ năng,
phương pháp, tài liệu, thời gian thực hiện,…, chính vì vậy chúng tôi rất mong nhận

2


được sự thông cảm và những đóng góp, để chúng tôi có thể hoàn thiện bài nghiên cứu
một cách tốt nhất. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!

3



Mục lục
Lời nói đầu ...................................................................................................................... 1
Chương 1: Điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị - xã hội của vùng đất Gia Định trước
năm 1802 ........................................................................................................................ 6
1.1. Đất Gia Định từ trước năm 1698 ...................................................................... 8
1.2. Đất Gia Định từ năm 1698 đến trước năm 1802............................................. 15
Chương 2: Lịch sử khai khẩn và sát nhập vùng đất Gia Định của người Việt và chính
quyền chúa Nguyễn từ thế kỉ XVII đến thể kỉ XVIII ................................................... 23
2.1. Giai đoạn từ giữa thế kỉ XVI đến 1698 ........................................................... 23
2.2. Giai đoạn từ 1698 đến 1757 ............................................................................ 29
Chương 3: Tên gọi, cương vực, địa lý hành chính của vùng đất Gia Định thời Nguyễn
1802 – 1859 .................................................................................................................. 35
3.1. Gia Định từ 1802 đến trước 1832 ................................................................... 35
3.2. Gia Định từ 1832 đến 1859 ............................................................................. 43
Chương 4: Vai trò của vùng đất Gia Định đối với sự phát triển của Việt Nam thời
Nguyễn (1802 – 1859) .................................................................................................. 50
4.1. Đất Gia Định đóng một vai trò cực kì quan trọng đối với việc thống nhất đất
nước, đặc biệt là dưới thời Gia Long. ....................................................................... 50
4.2. Về kinh tế, Gia Định chính là nơi sản xuất nông nghiệp lớn nhất nước, đồng
thời cũng là một trung tâm thủ công nghiệp và thương nghiệp. .............................. 51
4.3. Gia Định có vai trò đặc biệt quan trọng trong mối quan hệ giữa nước ta với
Chân Lạp và Xiêm La. .............................................................................................. 53
4.4. Gia Định là nơi tiếp nhận và dung hợp nhiều thành dân cư với những nét văn
hóa riêng, góp phần tạo nên tính đa dạng và đặc sắc trong văn hóa của vùng đất này.
......................................................................................................................... 55
Chương 5: Đất Gia Định ngày nay ............................................................................... 56
5.1. Thành phố Hồ Chí Minh ................................................................................. 57
5.2. Tỉnh Tây Ninh ................................................................................................. 59
5.3. Tỉnh Long An .................................................................................................. 60

5.4. Tỉnh Tiền Giang .............................................................................................. 62
Kết luận......................................................................................................................... 64
4


Tài liệu tham khảo ........................................................................................................ 66
Phụ lục .......................................................................................................................... 69

5


Chương 1: Điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị - xã hội của vùng đất Gia Định
trước năm 1802
Trước khi đi vào tìm hiểu về điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị - xã hội của
vùng đất Gia Định xưa, chúng tôi xin dẫn ra đây những ghi chép trong Gia Định thành
thông chí của Trịnh Hoài Đức, đây có lẽ là một trong những bộ sách đầu tiên của nhà
Nguyễn ghi chép về địa lý - lịch sử của đất Gia Định. Bên cạnh đó chúng tôi cũng xin
dẫn theo sách Đại Nam nhất thống chí – bộ sách ghi chép về địa lý – lịch sử của Việt
Nam do Quốc sử quán biên soạn dưới thời vua Tự Đức, để từ đó chúng tôi có đủ
những cơ sở để phân chia các gian đoạn một cách hợp lý và đảm bảo tính khoa học
nhất.
Theo Trịnh Hoài Đức: “Gia Định xưa nguyên đất của Thủy Chân Lạp (tức nay
là nước Cao Miên, có biệt danh là Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp), đất ruộng phì
nhiêu có địa lợi sông biển cả muối và lúa đậu rất nhiều. Các Tiên hoàng đế triều ta
(tức triều Nguyễn) chưa rảnh mưu tính việc ở xa nên phải tạm để đất ấy cho Cao
Miên ở, nối đời làm phiên thuộc ở miền Nam, cống hiến luôn luôn”1. Sau khi xảy ra
hàng loạt những biến cố liên quan đến mối quan hệ giữa chúa Nguyên và những vị
vua của Chân Lạp mà chúng tôi sẽ trình bày ở phần sau, đến “mùa xuân năm Mậu
Dần (1698) đời vua Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế sai Thống suất Chưởng cơ Lễ
Thành hầu Nguyễn Hữu Kính2 sang kinh lược Cao Miên, lấy đất Nông Nại đặt làm

Gia Định phủ, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lập xứ
Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn…”3.
Trong mục “Dựng đặt và diên cách” Quốc sử quán triều Nguyễn có chép về
vùng đất Gia Định như sau: “Xưa là nước Phù Nam, sau là Giản Phố Trại4. Bản triều
năm Kỷ Mùi (1679) đời Thái Tông Hiếu Triết Hoàng Đế mới sai tướng mở đất dựng
đồn dinh ở địa phận lân Tân Mỹ. Năm Mậu Dần (1698) đời Hiển Tông Hiếu Minh
Hoàng Đế lại sai Thống suất chưởng cơ Nguyễn Hữu Kính kinh lược đất ấy, đặt phủ
Gia Định, lấy xứ Sài Gòn đặt làm huyện Tân Bình dựng dinh Phiên Trấn (…) Năm

1

Trịnh Hoài Đức (1972), Gia Định thành thông chí, tập Trung, quyển III, Tu trai Nguyễn Tạo dịch, Nha Văn
hóa, phủ Quốc khanh đặc trách văn hóa xuất bản, Tr. 6.
2
Cũng được ghi chép với tên Nguyễn Hữu Cảnh.
3
Trịnh Hoài Đức (1972), Sđd, Tr.12
4
Tức Campuchia

6


Bính Thân bị Tây Sơn chiếm cứ. Năm Đinh Dậu, Thế Tổ Cao Hoàng Đế dấy quân ở
Long Xuyên, thu phục Sài Gòn, năm Kỷ Hợi (1779) định địa đồ, định địa giới dinh
Phiên Trấn…”5 và từ sau năm 1788, Nguyễn Ánh hoàn toàn làm chủ Sài Gòn cho đến
khi thống nhất đất nước và lập ra vương triều Nguyễn, sau đó vùng đất này đã có
nhiều sự thay đổi về cương vực cũng như tên gọi.
Như vậy, căn cứ vào Gia Định thành thông chí và Đại Nam nhất thống chí,
chúng ta có thể xác định được năm 1698 là năm xuất hiện của tên gọi Gia Định, “danh

xưng Gia Định ra đời từ lúc đó, và từ lúc đó mới có phủ Gia Định, có huyện Tân Bình
thuộc phủ Gia Định”6. Hay theo cách giải thích của Giáo sư Đào Duy Anh: “Nguyễn
Hữu Kính lấy đất của phó vương bị phế7 mà đặt phủ Gia Định8 gồm các huyện Phúc
Long (sau là tỉnh Biên Hòa) và Tân Bình (sau là tỉnh Gia Định), lại lập hai dinh Trấn
Biên và Phiên Trấn để đóng binh trấn thủ”. Tổng kết lại chúng ta nhận định được
rằng, tên gọi phủ Gia Định xưa bao gồm cả huyện Tân Bình và huyện Phước Long
(Phúc Long) thuộc hai dinh khác nhau, về mặt cương vực đất Nông Nại mà Trịnh
Hoài Đức chi chép có thể bao gồm cả Đông Nam Bộ, Đồng Nai chỉ rộng độ phân nửa
Nông Nại, và Sài Gòn cũng chiếm một nửa đất Nông Nại trải dài kể từ Mỹ Tho qua
sông Vàm Cỏ tới hữu ngạn sông Sài Gòn (tức phần lớn Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh
Tây Ninh, tỉnh Long An, tỉnh Tiền Giang và tỉnh Đồng Tháp ngày nay)9. Rất có thể
hai huyện mới lập này vẫn là những vùng đất rộng lớn và dân cư còn khá thưa thớt, lẻ
tẻ.
Nếu lấy cột mốc 1698 là năm xuất hiện của tên gọi Gia Định, chúng ta có thể
phân chia lịch sử của vùng đất này đến trước năm 1802 thành hai giai đoạn sau. Giai
đoạn thứ nhất là từ trước năm 1698, trong khuôn khổ của bài nghiên cứu này, chúng
tôi xin được phép giới hạn phạm vi tìm hiểu của mình trong thời gian Gia Định là
5

Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam nhất thống chí, tập 5, Nxb, Thuận Hóa, Huế, Tr. 234.
Nguyễn Thanh Liêm, “Lịch sử Gia Định”, nguồn: namkyluctinh.org, Tr. 1
7
Theo tác giả Nguyễn Đức Hiệp trong bài viết “Sài Gòn – Chợ Lớn từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19”, Phó vương của
nước Chân Lạp là Nặc Ông Nộn đóng quân tại vùng đất Sài Gòn xưa trong khoảng thời gian từ năm 1674 –
1688.
8
Tác giả Nguyễn Đình Đầu trong Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập 1, Phần 3, trang 222, giải thích
rõ như sau: “Theo tổ chức hành chính thời đó, dinh (hay doanh) là đơn vị quân quản hành chính (như tỉnh nay),
dinh chia ra nhiều phủ, phủ chia ra nhiều huyện, huyện chia ra nhiều tổng, tổng chia ra nhiều xã hay thôn. Là
đất mới lập, dân còn ít, nên dinh Phiên Trấn chỉ bao gồm có một huyện Tân Bình, cũng như dinh Trấn Biên chỉ

có một huyện Phước Long. Trên hai huyện đó, tức trong cả hai dinh mới có một phủ Gia Định”
9
Trần Văn Giàu – Trần Bạch Đằng (đồng chủ biển) (1998), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập 1, Tr.
222.
6

7


vùng đất thuộc vương Phù Nam (ra đời khoảng năm 50 sau Công nguyên), rồi Thủy
Chân Lạp, kéo dài đến trước năm 1698. Giai đoạn thứ hai từ năm 1698 đến trước năm
1802, đây là giai đoạn các chúa Nguyễn dần thiết lập các đơn vị hành chính trên vùng
đất này và từng bước sát nhập đất Nam Bộ vào lãnh thổ của Đại Việt bấy giờ. Với hai
giai đoạn trên, chúng tôi sẽ nghiên cứu và đưa ra những đặc điểm mang tính khái quát
nhất về điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị - xã hội của vùng đất Gia Định xưa. Từ
đó làm cơ sở cho việc khảo sát những thay đổi trong tên gọi, cương vực của vùng đất
này thời Nguyễn (1802-1859), đồng thời cũng phân tích được vai trò của vùng đất này
đối với sự phát triển của Việt Nam thời đó.
1.1. Đất Gia Định từ trước năm 1698
Như đã trình bày ở trên, năm 1698 đánh dấu sự ra đời của địa danh Gia Định,
đây là một phủ khá rộng lớn bao gồm toàn bộ những vùng đất mà lưu dân Việt đã khai
khẩn được và lập nghiệp. Về sau khi lần lượt các vùng đất ở Nam Bộ được sát nhập
vào lãnh thổ nước ta, tên gọi Gia Định được chỉ chung cho toàn vùng đất này, bắt đầu
là phủ, rồi đến trấn và thành. Mãi cho đến khi vua Minh Mạng thực hiện cuộc cải cách
hành chính thì đất Gia Định xưa bắt đầu có những thay đổi lớn về cương vực.
Theo kết quả nghiên cứu dựa trên các văn bản cổ sử, bia ký và khảo cổ di chỉ,
nhiều thông tin quan trọng về vùng đất Nam Bộ xưa đã được làm rõ, về đại để chúng
ta có thể hiểu được rằng: “Vào thể kỉ I của Công Nguyên , khi nước Phù Nam xuất
hiện, thì các bộ tộc giống người Anhđônêdiêng đã cư trú ở khắp ven biển miền Nam
Đông Dương. Phù Nam được coi như một đế quốc mà lãnh thổ bao trùm hết nước

Campuchia, miền Nam Thái Lan, một phần nước Lào, hết Nam Bộ và lên tới đèo Cả
hiện nay (Varella) (…) Nước rộng lớn và cai trị thì lỏng lẻo, gồm nhiều tộc khác
nhau, có lẽ ở mức tự trị cao (…) Đến thế kỷ III thì miền Nam Đèo Cả (có lẽ tới gần Bà
Rịa nay) thành ra nước Chiêm Thành. Đến thể kỷ thứ VI thì nhà vua và dân tộc
Khơme nổi lên lập thành Chân Lạp rồi thu tóm đất đai còn lại ở hạ lưu Cửu Long”10.
Cũng với vấn đề này TS. Phan Văn Hoàng đã giải thích khá cặn kẽ như sau: “Năm
514, vua Jayavarman chết. Hoàng thái tử Gunavarman – con của hoàng hậu
Kulaprabhavati – bị người em cùng cha khác mẹ Rudravarman (con của một cung
phi) giết để cướp ngôi. Lòng người không phục nhiều nơi nổi dậy chống Rudravarman
10

Trần Văn Giàu – Trần Bạch Đằng, sđd, Tr. 206-207.

8


khiến Phù Nam chia rẽ và suy yếu. Lợi dụng thời cơ ấy, Bhavavarman, vua nước
Chân Lạp – một trong những tiểu quốc chư hầu của Phù Nam, ở vùng trung lưu sông
MêKông (nay là vùng hạ Lào) – xua quân tấn công Phù Nam, chiếm kinh đô
Vyâdhapura. Vua Phù Nam chạy xuống phía Nam, đóng đô tại Naravaranagara (Na
Phất Na), tồn tại đến năm 627 mới bị tiêu diệt”11. Đất Nam Bộ xưa, mà cụ thể là vùng
Tây Nam Bộ, mặc dù từng là lãnh thổ của vương quốc Phù Nam, sau đó lại thuộc về
Chân Lạp, nhưng dựa vào những kết quả của nghiên cứu về địa chất và sự vận động
của nước biển trong vùng này, chúng ta có thể kết luận rằng trong khoảng thời gian từ
thế kỉ IV đến thể kỉ XII, đất Nam Bộ dưới tác động của đợt biển tiến cuối cùng thời kỳ
toàn tân đã hoàn toàn chìm trong biển nước, con người không thể sinh sống tại nơi
này được. Vùng đất này vẫn là một vùng hoang vu sau khi biển thoái, nó trở thành
một đồng bằng mênh mông với nhiều vùng sình lầy, khí hậu ẩm thấp, cây dại và cỏ
hoang phát triển mạnh, đồng thời các loài động vật ăn thịt như cọp, cá sấu,…cùng rắn,
rết, đĩa, muỗi mòng sinh sôi nảy nở rất nhiều.

Đối với vùng đất phía trên, tức vùng Đông Nam Bộ, theo nhận định của nhà
nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu đây là đất “thuộc nước Bà Lịa (hay Bà Lỵ), nước Chu
Nại, tiểu quốc Mạ và tiểu quốc Xương Tinh (tức Stiêng) (…) Bà Lỵ và Xương Tinh
cùng tiểu quốc Mạ khi bị Chiêm Thành, lúc bị Cao Miên khống chế, song vẫn tồn tại
yếu ớt làm trái độn giữa hai nước lớn Chiêm Thành và Chân Lạp, mãi tới khi người
Việt đến khai khẩn đất hoang. Nước Bà Lỵ (cũng đọc là Bà Lợi hay Bà Lịa) sau có lẽ
là vùng Bà Rịa (Mô Xoài, Vũng Tàu). Thổ dân Bà Lỵ là người Ch’ro, Rơ Glai và dân
tộc Mạ hiện nay vẫn còn sinh sống hòa hợp với dân tộc Việt Nam và dân tộc Xương
Tinh (Stiêng) cũng thế”12. Tuy thuộc về các tiểu quốc, nhưng nhìn chung vùng đất
phía Đông của Nam Bộ chịu một sự quản lý lỏng lẻo, đồng thời tổ chức về hành chính
của những tiểu quốc này vẫn còn mang tính sơ khai. Chính vì thế khi lưu dân người
Việt tiến vào đây, một bộ phận cư dân thuộc các tiểu quốc lần lượt di chuyển lên phía
Bắc và người Việt hoàn toàn làm chủ trong việc khai thác và phát triển kinh tế, từ đó

11

TS. Phan Văn Hoàng (2009), “Vấn đề chủ quyền của Việt Nam đối với Nam Bộ nhìn từ góc độ lịch sử và
pháp luật quốc tế”, Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối thế kỉ XIX: Kỷ yếu Hội thảo khoa học
Thành phố Hồ Chí Minh ngày 4 và 5/4/2006, Nxb. Thế giới, Hà Nội, Tr. 365.
12
Nguyễn Đình Đầu, Chế độ công điều công thổ trong lịch sử khai hoang lập ấp ở Nam Kỳ lục tỉnh, Nxb. Trẻ,
TpHCM. Tr. 27-28.

9


hình thành nên những khu vực sầm uất, đông đúc sau này. Nhờ vào sự dễ dàng đó mà
có nhiều nhà nghiên cứu đã kết luận rằng khi lưu dân Việt Nam bắt đầu tới khẩn
hoang lập ấp thì đất Sài Gòn vẫn là đất tự do của các dân tộc mà hầu như là vô chủ, là
đất đai hoang nhàn cả về kinh tế lẫn chủ quyền từ xưa.

Quay trở lại với vùng đất phía Tây, một trong những ghi chép có thể được cho
là sớm nhất của một sứ thần nhà Nguyên được cử sang Chân Lạp trong khoảng thời
gian từ năm 1296-1297, đã mở ra cho chúng ta một cái nhìn sơ bộ về khung cảnh của
vùng đấy này. Trong Chân Lạp phong thổ ký, sứ thần Chu Đạt quan có viết: “…Từ Ôn
Châu đi ra biển theo hướng kim đinh vị (hướng Nam – Tây Nam) đi qua những cửa
biển các châu bờ biển Mân, Quảng, qua biển Thất Châu, đi qua biển Giao Chỉ, đến
Chiêm Thành, rồi từ Chiêm Thành xuôi gió chừng nửa tháng đến Chân Bồ (bờ biển
Bà Rịa), đó là biên giới của nước ấy. Lại từ Chân Bồ đi theo hướng kim khôn thân,
qua biển Côn Lôn vào cảng. Có đến mười cảng nhưng chỉ có cảng thứ tư là có thể vào
được, tất cả các cảng khác đều bị cát làm cạn nên thuyền lớn không vào được. Nhưng
đứng xa mà trông đều thấy mây leo, cây già, cát vàng, lau trắng, thảng thốt nhìn qua
thật không dễ phân biệt, vì thế người chèo thuyền cho việc tìm cảng là việc khó (…)
Từ chỗ Chân Bồ trở đi, phần lớn là rừng thấp cây rậm. Sông dài cảng rộng, kéo dài
mấy trăm dặm cổ thụ rậm rạp, mây leo um tùm, tiếng chim muông chen lẫn nhau ở
đó. Đến nửa cảng mới thấy ruộng đồng rộng rãi, tuyệt không có một tấc cây. Nhìn xa
chỉ thấy cây lúa rờn rờn mà thôi. Trâu rừng họp thành từng đàn trăm ngàn con, tụ tập
ở đấy. Lại có giồng đất đầy tre dài dằng dặc mấy trăm dặm…”13. Qua cái nhìn của
Chu Đạt Quan, Nam Bộ xưa là một vùng đất còn hoang vu với nhiều cây cối rậm rạp,
cũng có những vùng hoàn toàn là đồng bằng thấp mênh mông, rộng lớn. Hơn nữa
chúng ta không hề thấy sự xuất hiện của một tụ điểm dân cư nào trên vùng đất này mà
chỉ thấy “trâu rừng hợp thành từng đán trăm ngàn con”, từ đó chúng ta dễ dàng suy
luận được rằng, cho đến thế kỉ XIII đây vẫn còn là một vùng chưa được khai khẩn, có
lẽ những cư dân Châp Lạp chỉ tập trung ở những vùng đất phía Tây xung quanh khu
vực biển Hồ. Đồng thời, như đã phân tích ở trên, sự vận động của nước biển đã làm
cho vùng này ngập trong biển nước qua một thời gian khá dài, sau đó trở thành đồng
bằng mênh mông, nên cư dân các vùng xung quanh cũng chưa thể đến khai hoang
13

Châu Đạt Quan (2006), Chân Lạp phong thổ ký, Hà Văn Tấn dịch, Nxb. Thế giới, Hà Nội, Tr. 23, 45-46.


10


được. Cho đến khoảng đầu thể kỉ XVI, nhà truyền giáo Alexandre de Rhodes cho biết
“vùng đất này vẫn còn quạnh hiu, hoang mạc và không có vật gì thuộc về sự sống”14,
đồng thời dựa vào những câu ca dao được truyền lại của cư dân Việt khi tiến vào khai
khẩn khoảng cuối thế kỉ XVI đầu thế kỉ XVII chúng ta cũng phải kinh ngạc về điều
kiện tự nhiên của vùng này:
-

Đồng Nai xứ sở lạ lùng

Dưới sông sấu lội, trên giồng cọp đua
-

U Minh khốn khổ quá chừng

Xuống sông sấu bắt, lên rừng cọp tha
-

Chèo ghe sợ sấu cắn chân

Xuống bưng sợ đĩa, lên rừng sợ ma
Xoanh vấn đề cư dân Việt đã đến khai khẩn vùng đất này từ khi nào, hiện nay
vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, song đa số ý kiến cho rằng những lưu dân Việt Nam
đã đặt chân đến đây từ rất sớm, bắt đầu “từ đời các“tiên hoàng đế” tức Nguyễn
Hoàng (1558 – 1613), Nguyễn Phước Nguyên (1613 – 1635), Nguyễn Phước Lan
(1635 – 1648) chớ không phải họ theo sau đạo quân của Nguyễn Phước Yến vào Mô
Xoài năm 1658 rồi ở lại khai mở ruộng nương như một số tác giả phỏng đoán sai
lầm”15. Tác giả Nguyễn Thanh Liêm cũng đồng tình với quan điểm trên và cũng cho

rằng: “Theo các sử sách sau này thì chắc chắc họ đã vào vùng Đồng Nai khai khẩn
sinh sống từ rất sớm, ngay từ lúc Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa (…) Mô
Xoài là nơi mà người Việt đã đến khai phá định cư sớm nhất. Mô Xoài tức là Bà Rịa
bây giờ”16. Điều này cũng được khẳng định rõ khi chúng ta nghiên cứu những sự kiện
quan trọng xảy ra trong khoảng thời gian đến trước năm 1698 tại vùng đất Gia Định
xưa.
Trước hết chính là cuộc hôn nhân nhân giữa vua Cao Miên là Chey Chetta II và
công nương Ngọc Vạn. Theo tác giả Trần Thuận, sau khi lên ngôi vua vào năm 1619
và “để tìm một chỗ dựa chính trị - quân sự cho sự tồn tại của vương triều, tránh được
sự quấy rối của Xiêm, năm 1620, Chey Chetta II xin cưới công nữ Ngọc Vạn, con gái
chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên. Đây là cuộc hôn nhân đánh dấu một bước phát triển
14

TS. Phan Văn Hoàng, sđd, Tr. 366.
Trần Văn Giàu – Trần Bạch Đằng, sđd, Tr. 211-212.
16
Nguyễn Thanh Liêm, sđd, Tr. 2.
15

11


trong quan hệ giữa hai nước Việt – Chân Lạp”17. Mặc dù sự kiện này không được
chính sử ghi chép lại, nhưng dựa vào nguồn sử liệu về Cao Miên do các tác giả nước
ngoài viết, chúng ta có thể khẳng định cuộc hôn nhân giữa một vị vua Chân Lạp và
một cô gái người Việt đã diễn ra. Và từ cơ sở này, những cư dân người Việt tiếp tục
theo chân công nương Ngọc Vạn tiến vào vùng đất phía Nam sinh sống và lập nghiệp
tại đây.
Tiếp theo sau sự kiện năm 1620, ba năm sau tức năm 1623, một phái bộ của
chúa Nguyễn đến Oudong, kinh đô của Cao Miên, yêu cầu được lập một sở thu thuế ở

Prey Nokor, tức là Sài Gòn ngày nay và đặt ở đấy một sở thu thuế hàng hóa. Vua
Chey Chetta chấp thuận và triều đình chúa Nguyễn khuyến khích người Việt di cư vào
phía Nam làm ăn. Đây có lẽ là sự kiện đánh dấu một bước phát triển mới trong cuộc
Nam tiến thời các chúa Nguyễn. Đồng thời cũng qua sự kiện này, chúng ta thấy được
rằng, tại vùng đất phía Nam, những nơi cư dân Việt sinh sống, nền kinh tế khá phát
triển, đặc biệt là Sài Gòn xưa với vị trí của một trung tâm thương mại lớn, là điểm
trung chuyển hàng hóa từ các nơi về (chính vì thế mà chúa Nguyễn xin lập đồn thu
thuế tại đấy). Có lẽ ngoài công việc chính là sản xuất lúa gạo tại những đồng bằng mới
khai khẩn được, người Việt còn tập trung vào việc buôn bán nhờ vào các sản phẩm
nông nghiệp. Sự màu mỡ của đất đai, ưu đãi của khí hậu đã làm cho năng suất ngày
càng tăng từ đó thúc đẩy thương mại phát triển.
Kể từ năm 1623, vùng đất phía Nam từng bước được mở rộng và phát triển lên
những nấc thang mới. Nhiều sự kiện quan trọng đã xảy ra tại vùng đất này, và ở đây
chúng tôi xin được tóm tắt những sự kiện chính, để qua đó góp phần đánh giá được
tầm quan trọng của vùng đất Gia Định xưa cho đến trước năm 1698.
Năm 1658 xảy ra vụ mà sử Việt Nam gọi là sự kiện Mô Xoài, vua chân Lạp là
Nặc Ông Chân gây rối ở biên cảnh, chúa Nguyễn phái quân đến đánh lui. Cụ thể,
“…đời vua Thái Tông Hiếu Triết Hoàng đế năm thứ 11 Mậu Tuất (1658) tháng 9 (…),
vua nước Cao Miên là Nặc Ông Chân phạm biên cảnh (…) Tham mưu Minh Lộc Hầu
và Tiên phong Cai đội Xuân Thắng Hầu đem 3 ngàn binh đi 2 tuần đến thành Mỗi
Xuy (hay Mô Xoài) nước Cao Miên, đánh phá kinh thành và bắt được vua nước ấy là

17

Trần Thuận (2014), “Cuộc nhân duyên giữa công nữ Ngọc Vạn và quốc vương Chân Lạp . Đôi điều suy
nghĩ”, Tạp chí xưa và nay (447), Tr. 24.

12



Nặc Ông Chân giải về hành dinh tại dinh Quảng Bình. Vua dụ cho tha tội và phong
Nặc Ông Chân làm Cao Miên quốc vương, cho được giữ đạo phiên thần của Việt
Nam, lo bề cống hiến, không được xâm nhiễu dân sự ở ngoài biên cương, và khiến
quan binh hộ tống về nước”18.
Sang năm 1674, vua Chân Lạp là Nặc Ông Nộn bị người trong hoàng tộc là
Nặc Ông Đài nổi lên đánh đuổi. Ông Nộn sang cầu cứu chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn
sai Nguyễn Dương Lân đem quân đánh phá vỡ ba lũy Sài Gòn, Gò Bích và Nam
Vang. Ông Đài thua và tử trận, Chúa Nguyễn phong cho Nặc Ông Nộn làm phó
vương ngự trị ở Sài Gòn trong khoảng từ năm 1674 đến 1688. Ông Nộn nhiều lần đem
quân đối đầu với chánh vương Chân Lạp là Nặc Ông Thu (đóng đô tại Oudong) nhưng
không thành.
Năm 1679, chúa Nguyễn lập đồn dinh Tân Mỹ, đồn dinh này không có nhiệm
vụ về kinh tế, nhưng “mang tính chất quân sự, chính trị, cai quản; có giám quân, cai
bộ và ký lục với dinh thự của bộ sậu ấy, có trại lính để sai phái và để bảo vệ phó
vương Chân Lạp, bảo vệ Việt kiều. Đồn dinh cũng có nhiệm vụ lập làng chia xóm, tổ
chức phố chợ”19. Đây thực chất là một chính quyền bán chính thức của chúa Nguyễn
được thiết lập tại Sài Gòn nhằm đảm bảo đảm sự ổn định của khu vực thường xuyên
xảy ra tranh chấp giữa các vua Chân Lạp. Đồng thời các chúa Nguyễn cũng nhân cơ
hội đó tiến dần ảnh hưởng của chính quyền xuống phía Nam.
Cũng trong năm 1679, “bề tôi vong mệnh của nước Đại Minh là Long Môn
tướng quân Dương Ngạn Địch đem hơn 50 chiến thuyền và hơn 3000 quân đến đóng
ở ngoài cửa Tư Dung và Đà Nẵng, sợ quân Thuận Hóa mạnh giỏi không dám vào.
Thủ tướng của Tư Dung cho người ra hỏi. Ngạn Địch dựng cờ trắng hàng. Phúc Tần
khiến đến ở đất Cao Miên, bảo vua Cao Miên chia đất, cho Dương Ngạn Địch ở cửa
biển Mỹ Tho, kết làm anh em, khiến hằng năm cống hiến”20. Cùng với phái đoàn của
Dương Ngạn địch mà Lê Quý Đôn ghi chép lại, còn có phái đoàn của Trần Thượng
Xuyên cũng đến xin thần phục chúa Nguyễn, chúa Nguyễn cũng đồng ý và cho Trần
Thượng Xuyên vào vùng Biên Hòa khai khẩn đất đai, lập phố xá buôn bán. Những
18


Trịnh Hoài Đức (1972), Gia Định thành thông chí, tập Trung, quyển III, Tu trai Nguyễn Tạo dịch, Nha Văn
hóa, phủ Quốc khanh đặc trách văn hóa xuất bản, Tr. 6-7.
19
Trần Văn Giàu – Trần Bạch Đằng, sđd, Tr. 301.
20
Lê Quý Đôn (2007), Phủ biên tạp lục, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, Tr. 77

13


người Hoa này đã góp phần rất lớn vào việc khai khẩn đất hoang ở những vùng này và
thúc đẩy sự phát triển của kinh tế Đàng Trong, đặc biệt là sự phát triển của thương
mại.
Năm 1688, phó tướng của Dương Ngạn Địch là Hoàng Tấn (cũng viết là Hoàng
Tiến) làm phản, giết Dương Ngạn Địch và mưu đồ bá chiếm, nhân đó Hoàng Tấn
cũng chống nhau với Nặc Ông Thu. “Chúa Nguyễn (Phúc Trăn 1687 – 1691), 4 tháng
sau, đổ quân vào, dưới sự chỉ huy của Mai Vạn Long, đã lập kế hạ được Hoàng Tiến.
Từ đó tiến đánh Nặc Thu. Thu thua, trá hàng rồi phản bội. Mai Vạn Long bị cách vì
không thắng được giặc”21. Năm sau (1689), Nguyễn Hữu Hào được chúa Nguyễn
phái xuống tấn công Cao Miên, bắt được Nặc Ông Thu về Sài Gòn, sau khi khi
thương thuyết với chúa Nguyễn thành công, Nặc Ông Thu trở lại kinh thành Oudong
làm vua Chân Lạp, tiếp tục thần phục chúa Nguyễn. “Năm 1697, con của Nặc Ông
Nộn là Nặc Ông Yêm từ Sài Gòn về Oudong được Nặc Ông Thu gả con gái để sau này
Yêm nối ngôi Thu làm vua Chân Lạp. Từ nay Sài Gòn không còn có phó vương”22.
Có thể thấy, cho đến trước năm 1698, vùng đất Gia Định xưa đã diễn ra rất
nhiều những sự kiện lịch sử quan trọng. Trước hết đó là sự xuất hiện của những dòng
người Việt di cư từ phía Bắc xuống để khai khẩn ruộng đất, theo sau đó là hàng loạt
sự can thiệp bước đầu của chính quyền các chúa Nguyễn, mà chủ yếu thông qua mối
quan hệ với những vị vua Chân Lạp. Những cuộc xung đột quân sự đã diễn ra liên tục
trên mảnh đất này, và chính nhờ những xung đột đó mà chúa Nguyễn đã có cơ hội mở

rộng ảnh hưởng của mình hơn, làm bệ đỡ cho việc mở mang đất xuống vùng Nam Bộ.
Như vậy, đất Nam Bộ đã trở thành một vị trí chiến lược trong những lần đụng độ giữa
các vua Chân Lạp, đồng thời đây cũng nơi đụng độ của những thế lực sau lưng các vị
vua ấy là Xiêm và chính quyền các chúa Nguyễn.
Xét về mặt đời sống kinh tế, rất có thể những lưu dân người Việt, với việc
thành thạo nghề trồng lúa nước, đã gặp được một mảnh đất tốt với khí hậu ẩm lại càng
thích hợp cho việc canh tác. Ngoài ra họ cũng đã trồng trọt nhiều loại cây lương thực
và cây ăn quả khác. Việt chúa Nguyễn thiết lập các đồn thu thuế đã phần nào chứng tỏ
sự phát triển của thương nghiệp tại vùng đất này. Có nhiều ý kiến cho rằng, sự gia

21
22

Nguyễn Văn Hầu (1970), “Sự thôn thuộc và khai thác đất Tầm Phong Long”, Tập san Sử địa (19-20), Tr. 7.
Trần Văn Giàu – Trần Bạch Đằng, sđd, Tr. 301.

14


tăng của các loại sản phẩm nông nghiệp, đặc biết là lúa, cộng với vị trí đắc địa của Sài
Gòn, đã thúc đẩy hoạt động thương nghiệp phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh đó chúng ta
cũng không thể phủ nhận công lao của những người Hoa trong việc khai khẩn và phát
triển kinh tế tại khu vực này.
1.2. Đất Gia Định từ năm 1698 đến trước năm 1802
Năm 1698, đánh dấu sự ra đời của cái tên Gia Định, kể từ đây nơi này đặt dưới
sự quản lý chính thức của chính quyền chúa Nguyễn và thống thuộc vào lãnh thổ của
Việt Nam từ đó về sau.
Theo những ghi chép của Trịnh Hoài Đức, vùng đất Gia Định trong thời gian
Nguyễn Hữu Cảnh kinh lược là một vùng “đất đai mở rộng 1000 dặm, dân số hơn
40.000 hộ, chiêu mộ những lưu dân ở Bố Chánh châu trở vô đến ở khắp nơi”23. Hay

trong Phủ biên tạp lục mà Lê Quý Đôn đã ghi chép trước đó thích rõ hơn về nơi này:
“Phủ Gia Định, đất Đồng Nai, từ các cửa biển Cần Giờ, Soài Rạp, Cửa Đại, cửa
Tiểu, toàn là rừng rậm, hàng mấy nghìn dặm, họ Nguyễn trước đánh nhau với Cao
Miên mà lấy được, mới chiêu mộ những dân có vật lực ở xứ Quảng Nam, các phủ
Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn cho dời tới đây, phát chặt mở mang, hết thảy thành
bằng phẳng, đất nước màu mỡ, cho dân tự chiếm, trồng cau và làm nhà ở”24. Phủ Gia
Định khi ấy đã có hơn 40.000 hộ, nếu chúng ta lấy trung bình mỗi hộ có năm thành
viên thì số dân khi ấy khoảng 200.000 người, số lượng này khá lớn, nhưng nếu đem so
với diện tích mênh mông của vùng đất này thì vẫn chưa là gì. Chính vì thế sự phân bố
dân cư vẫn còn thưa thớt và diện tịch đất hoang còn rất nhiều, đúng như nhận xét của
Lê Quý Đôn, vùng đất này vẫn “toàn là rừng rậm, hàng mấy nghìn dặm”. Tuy nhiên
sự ưu đãi của điều kiện tự nhiên đã thúc đẩy những lưu dân tiến hành khai khẩn và
trồng trọt trên những vùng đất “màu mỡ”. Trịnh Hoài Đức cũng ghi chép khá cụ thể
về khí hậu của vùng đất mới: “Khí hậu Gia Định thường ấm, cứ vào quí xuân (tháng
3) mới bắt đầu mưa, mùa hạ là mùa mưa chính, mùa thu thì mưa rào, mỗi khi mưa to
chẳng khác nghiêng vò mà đổ, nhưng chỉ trong một hai giờ rồi tạnh nắng. Cũng có
đôi khi mưa dầm dề một, hai ngày, nhưng không có khi nào khổ vì mưa cả tuần cả
tháng. Tuy bốn mùa đều có mưa nhưng chỉ tiết đông chí mới hơi lạnh. Khí hậu không
23

Trịnh Hoài Đức (1972), Gia Định thành thông chí, tập Trung, quyển III, Tu trai Nguyễn Tạo dịch, Nha Văn
hóa, phủ Quốc khanh đặc trách văn hóa xuất bản, Tr. 12.
24
Lê Quý Đôn, sđd, Tr. 442-443.

15


thường nên bốn mùa hoa đều đua nở tỏa ngát hương thơm, khi trời mát trăng trong
tức là trung thu, không cần phải lấy tháng ngày mà xét đoán”25.

Đời sống xã hội của cư dân Việt Nam tại một xứ sở xa lạ phía Nam từ đây
chính thức bước sang một trang mới. “Trước đây, dân chúng được tự do trưng chiếm
(ruộng đất) chia lập làng xóm phố chợ, nhưng khi Nguyễn Hữu Cảnh vào thì ông thiết
lập xã thôn phương ấp, chia cắt địa phận, qui định lại khai khẩn ruộng đất, chuẩn
định thuế đinh, thuế điền và lập sở bộ đinh điền. Nghĩa là thời lưu dân tự phát tự quản
chấm dứt, từ nay bị khép vào luật pháp, đinh hay điền phải ghi vào sổ bộ, dinh hay
điền đều phải đóng thuế theo qui định, xã thôn phường ấp phải chia ra địa phận có
ranh giới rõ ràng, có bằng cấp, con triện và sổ bộ riêng”26. Tuy chính quyền chúa
Nguyễn đã can thiệp vào việc tổ chức các bộ phận cư dân đi khai khẩn ruộng đất,
nhưng nhìn chung ở giai đoạn đầu này, sự can thiệp ấy chỉ ở mức tương đối, đời sống
và công cuộc khai hoang vẫn được tiến hành một cách khá độc lập. Điều này xuất phát
từ dụng ý của chính quyền muốn dựa vào người dân để góp phần mở mang thêm
ruộng đất.
Cụ thể về kinh tế, các chúa Nguyễn đều chủ trương khuyến khích phát triển sản
xuất nông nghiệp nên có chính sách quản lý dễ dãi, thuế má nhẹ nhàng nhằm đẩy
mạnh việc khai khẩn đất hoang. Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ chép “Buổi
quốc sơ đất Gia Định còn là nơi nhiều rừng rú đầm lầy, mộ dân tới ở, cho tùy tiện lập
ấp vỡ hoang (có nơi ở Phiên Trấn mà đánh thuế làm đất Trấn Biên, cũng có nơi ở về
Trấn Biên mà đánh thuế làm đất Phiên Trấn), các thửa ruộng đất chỉ ước tính số
lượng đại khái, không chia ra hạng tốt hạng xấu”27. Ngoài ra các hoạt động thương
nghiệp, giao lưu buôn bán trong và ngoài nước đều được các chúa Nguyễn khuyến
khích phát triển. Gia Định với trung tâm là Sài Gòn đã trở thành một trong những
điểm buôn bán tấp nập nhất trong khu vực thời đó và nơi đây đã trở thành thành phố
với đầy đủ ý nghĩa của nó. Lúa gạo đã trở thành hàng hóa quan trọng số một, người
Gia Định đem gạo ra bán ở Phú Xuân và người ở các nơi trong nước cũng đến Gia

25

Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Quyển I, bản dịch của Lý Việt Dũng, nguồn vanhoahoc.edu.vn, Tr.
2.

26
Trần Văn Giàu – Trần Bạch Đằng, sđd, Tr. 222-223.
27
Dẫn theo Cao Tự Thanh (2007), Lịch sử Gia Định – Sài Gòn trước 1802, Nxb. Tổng hợp TpHCM – Nxb. Văn
hóa Sài Gòn, TpHCM, Tr. 28.

16


Định mua gạo. Sự phát triển của sản xuất nông nghiệp đã đẩy đến nhu cầu đem lúa
gạo cùng các mặt hàng khác để buôn bán, trao đổi với những vùng lân cận và những
thương nhân từ các nơi đến. Cũng chính từ việc lúa gạo trở thành hàng hóa trong
thương nghiệp, mà hệ thống tiền tệ có điều kiện phát triển, vấn đề thanh toán tiền tệ
được đặt ra một cách gay gắt. Thương nghiệp phát triển đã dẫn đến sự ra đời của hàng
loạt các tụ điểm buôn bán sầm uất, các trung tâm thương mại và giao dịch quốc tế nổi
tiếng như: Nông Nại Đại phố, Thương cảng Bãi Xàu, Phố chợ Mỹ Tho, Đại cảng Hà
Tiên,…Chúng tôi xin dẫn ra đây những ghi chép của Lê Quý Đôn để thấy được sự
phát triển sung túc, trù phú của vùng Gia Định xưa: “Người giàu ở các địa phương
hoặc 40, 50 nhà, hoặc 20, 30 nhà, mỗi nhà điền nô hoặc đến 50, 60 người, trâu bò
hoặc đến 300, 400 con, cày bừa cấy gặt, rộn ràng không rỗi, hàng năm đến tháng 11,
tháng 12, thường giã thành gạo, bán lấy tiền để ăn tết chạp. Từ sau tháng giêng trở đi
là không làm công việc xay giã (…) Đất ấy nhiều ngòi lạch, đường nước như mắc cửi,
không tiện đi bộ. Người buôn có chở thuyền lớn thì tất đèo theo xuồng nhỏ để thông đi
các kênh. Từ cửa biển đến đầu nguồn đi 6, 7 ngày, hết thảy là đồng ruộng, nhìn bát
ngát, ruộng phẳng như thế đất rất hợp trồng lúa, lúa nếp tẻ, gạo đều trắng dẻo (…)
Gia Định rất nhiều cau. Ngạn ngữ nói: “Gia Định nhất thóc nhì cau”, dân địa
phương thường bỏ không thu, cau già lấy hột bán cho người Tàu”28. Căn cứ theo
những gì mà Lê Quý Đôn đưa ra, mặc dù có những con số hơi phóng đại, nhưng
chúng ta có thể phỏng đoán được rằng, ở Gia Định trong khoảng thời gian đó có khá
nhiều những đại địa chủ sở hữu diện tịch ruộng đất khá lớn, lúa gạo và cau là hai mặt

hàng chiếm tỷ trọng cao, và sự xuất hiện của những thương nhân người Tàu cũng thúc
đẩy một phần cho thương mại phát triển. Nhiều thương nhân nước ngoài cũng đã lui
tới Gia Định và không khỏi ngạc nhiên trước sự nhộn nhịp của hoạt động buôn bán và
sự phong phú của các loại hàng hóa như John Barrow, R.Purefoy,…Về sau do nhiều
biến cố xảy ra, đặc biệt là cuộc chiến giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh đã ảnh hưởng
không nhỏ đến sự phát triển kinh tế của Gia Định, nhưng nhìn chung nền kinh tế đó
không hề bị phá hủy mà lại tiếp tục phát triển sau khi Nguyễn Ánh làm chủ hoàn toàn
đất Gia Định và Gia Định trải qua một thời gian dài trong hòa bình, yên ổn.

28

Lê Quý Đôn, sđd, Tr. 443.

17


Về mặt văn hóa xã hội, Gia Định là một vùng đất mới được những cư dân
người Việt khai khẩn từ khoảng thế kỉ XVI, và từ trước đó sự tồn tại của một số dân
tộc khác nhau đã tạo nên những nét văn hóa đặc trưng của vùng này. Theo tác giả
Trần Thị Mai: “vùng Nam Bộ là vùng tụ cư của dân “tứ chiếng” từ nhiều địa phương
trên cả nước (…) quá trình hòa hợp dân tộc, hỗn dung văn hóa tộc người đã sớm diễn
ra, tạo nên sự chung sống thuận hòa giữa các lớp cư dân tại đây (…) Xuất phát từ sự
đa dạng tộc người (đó), từ đặc tính mở của vùng về cả tự nhiên và xã hội, cộng với
những thách thức từ điều kiện tự nhiên, xã hội trong thời kì khai phá vùng đất mới,
người dân Nam Bộ có truyền thống dung hóa tôn giáo, dễ tiếp nhận những luồng từ
tưởng, tôn giáo từ bên ngoài cùng những khả năng sáng tạo những tín ngưỡng riêng
trên cơ sở chọn lọc tinh hòa từ các tôn giáo đã có từ trước”29. Sự đa dạng của thành
phần dân cư cộng với nhiều yếu tố về tự nhiên, xã hội khác đã tạo cho bức tranh văn
hóa xã hội ở Gia Định những sắc màu riêng. Trong những khối màu đó, Phật giáo
đóng một vài trò chủ đạo trong đời sống tâm linh của cư dân Việt. Những lưu dân đã

quyết định từ bỏ nơi “chôn nhau cắt rốn”, nơi “quê cha đất tổ” để thực hiện những
chuyến đi mạo hiểm xuống phía Nam xa xôi và đầy rẫy những hiểm nguy. Những
ngôi am, ngôi chùa, cùng sự nhiệt tâm của các vị sư đã đem lại sức sống tinh thần cho
những con người nhỏ bé trước sự tàn độc, mênh mông, rộng lớn của thiên nhiên. Họ
đã tìm được chỗ dựa vững chắc trong tình thần, để từ đó tạo điều kiện cho Phật giáo
phát triển rực rỡ tại vùng đất này. Bên cạnh đó sự du nhập của Thiên Chúa giáo cũng
đã bắt đầu được mở rộng xuống vùng đất phía Nam, nhiều người đã tin và “chịu phép
rửa” để trở thành các tín đồ Thiên Chúa giáo, tuy nhiên dưới chính sách cấm cách của
các chúa Nguyễn, Thiên Chúa giáo cũng không có điều kiện phát triển mạnh mẽ như
Phật giáo. “Vùng đất Sài Gòn – Gia Định vào giữa thế kỉ 18 đã có người Chăm, lưu
dân Việt, Hoa và người Khmer cư ngụ cùng với những người bản xứ, chủ nhân cũ của
miền Sài Gòn, Biên Hòa, Gia Định, Bà Rịa và Cần Giờ: người Mạ và người Stiêng”30,
sự chung sống hòa bình giữa các tộc người cũng đã tạo nên nhiều màu sắc cho không
gian văn hóa Nam Bộ xưa và cho đến cả hôm nay nữa.
29

Trần Thị Mai (2009), “Một số đặc điểm kinh tế xã hội ở vùng đất Nam Bộ trước khi thực dân Pháp xâm
lược”, Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ thời kỳ cận đại, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Cần Thơ ngày
4/3/2008, Nxb. Thế giới, Hà Nội, Tr. 77.
30
Nguyễn Đức Hiệp, sđd.

18


Cũng giống như ở giai đoạn trước, trong giai đoạn này vùng đất Gia Định vẫn
là nơi xảy nhiều biến cố quan trọng liên quan đến mối quan hệ giữa chính quyền các
chúa Nguyễn, chính quyền Chân Lạp, chính quyền Xiêm và đặc biệt là cuộc giao
tranh giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn đã diễn ra tại đây trong suốt một khoảng thời gian
dài từ 1776 đến 1788. Chúng tôi xin được phép đưa ra những sự kiện chính trị quan

trọng diễn ra trong phạm vi từ sau năm 1698 đến trước năm 1802, những sự kiện liên
quan đến việc mở rộng và sát nhập toàn bộ vùng đất Nam Bộ vào lãnh thổ của các
chúa Nguyễn chúng tôi sẽ đề cập rõ ràng hơn trong chương hai.
Căn cứ vào Gia Định thành thông chí, chúng ta có thể tóm tắt những sự kiện
quan trọng sau. Năm 1714, chúa Nguyễn phong cho Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà
Tiên. Năm 1732, thành lập châu Định Viễn, dựng dinh Long Hồ thuộc phủ Gia Định.
Năm 1736, sau khi Mạc Cửu chết, Mạc Thiên Tứ - con của Mạc Cửu - được kế lập
cha giữ Đô đốc Tôn Đức Hầu trấn Hà Tiên. Năm 1753 Nguyễn Cư Trinh được cử đi
kinh lược đất Cao Miên, lập dinh trại gọi là Đồn Dinh huấn luyện quân đội , chuẩn bị
lương thực và lập kế khai thác đất đai. Năm 1754 - 1756, chúa Nguyễn cho quân tiến
đánh Nặc Ông Nguyên, sau đó Nặc Ông Nguyên thua trận phải nhờ vả Mạc Thiên Tứ
cầu xin chúa Nguyễn và cắt một số đất để chuộc tội. Từ sau năm 1757, tình hình Cao
Miên có nhiều biến động phải nhờ chúa Nguyễn can thiệp để giải quyết tình hình, sau
đó những vị vua Châp Lạp tiếp tục nhượng một số vùng đất cho chính quyền chúa
Nguyễn.
Năm 1771, quân Xiêm tấn công và chiếm giữ vùng đất Hà Tiên và Cao Miên,
với ý định tiến quân lên tấn công Gia Định. Tháng 6 năm 1772, Nguyễn Cửu Đàm
chia quân đi đánh đuổi đạo binh của quân Xiêm, quân Xiêm hoàn toàn bị tiêu diệt, Hà
Tiên và nước Cao Miên trở lại như cũ. Nguyễn Cửu Đàm sau chiến công đó, quay trở
về Gia Định và đắp lũy Bán Bích để tăng thế phòng thủ.
Tiếp theo các sự kiện xảy ra giữa chính quyền các chúa Nguyễn với chính
quyền Cao Miên và Xiêm, cuộc đụng độ giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn mà nơi diễn ra
chủ yếu là đât Gia Định đã ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình bấy giờ.
Năm 1776, chúa Nguyễn vừa bị Tây Sơn ở Đàng Trong đánh ra, vừa bị quân
của chúa Trịnh ở Đàng Ngoài đánh vào, trước tình thế nguy cấp đó, chúa Nguyễn
Phúc Thuần buộc phải vượt biển trốn vào Gia Định. Sau đó, quân Tây Sơn do Nguyễn
19


Lữ cầm đầu tấn công vào Gia Định và chiếm được vùng này, chúa Nguyễn phải trốn

về về miệt vườn Đồng bằng sông Cửu Long. “Chưa được ba tháng, quân chúa
Nguyễn phản công, quân Tây Sơn của Nguyễn Lữ thua chạy, đem theo trên 200 thuyền
lúa về Qui Nhơn”31. Sau mười tháng làm chủ Gia Định, đến tháng 3 năm Đinh Dậu
(1777), Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ đem quân đánh vào Gia Định, chúa Nguyễn phải
rút quân lui về Vĩnh Long, Cà Mau. Đến khoảng tháng 10 năm 1777 Nguyễn Lữ và
Nguyễn Huệ rút khỏi Gia Định, để đô đốc Châu ở lại trấn thủ, Tây Sơn làm chủ Gia
Định trong vòng 8 tháng. Khi nghe tin Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ đã quay trở lại Qui
Nhơn, Nguyễn Ánh liền cho quân tấn công và chiếm được Gia Định một lần nữa
(khoảng tháng 12 năm 1777). Năm 1778, Nguyễn Ánh được tôn làm Đại nguyên soái
Nhiếp chính quốc, tại Gia Định, Nguyễn Ánh đã cho đóng nhiều chiến thuyền, đắp lũy
phòng giữ, dựng nhà tông miếu, đặt công đường ở các dinh, tích chứa lương thực…32.
Năm Kỷ Hợi (1779), Nguyễn Ánh cho tổ chức lại việc cai trị đất Gia Định, chia đặt
địa giới 3 dinh Trấn Biên (vùng Biên Hòa), Phiên Trấn (Gia Định và Định Tường) và
Long Hồ (Vĩnh Long và An Giang), rồi nâng đạo Trường Đồn (đất Mỹ Tho) thành
dinh. Đây là việc phân thiết hành chính quan trọng nhất kể từ khi lập phủ huyện ở đất
Nam Bộ từ năm 1698. Năm 1780, Nguyễn Ánh xưng vương tại Sài Gòn, và làm chủ
Gia Định trong một khoảng thời gian khá dài suốt 4 năm 4 tháng. Đến tháng 3 năm
Nhâm Dần (1782), một lần nữa quân Tây Sơn tiến vào Gia Định, Nguyễn Ánh phải bỏ
thành chạy về Ba Giồng rồi lánh ra Phú Quốc, Tây Sơn làm chủ Gia Định trong vòng
5 tháng. Sau đó lần lượt Nguyễn Ánh chiếm lại và làm chủ đất Gia Định trong 6
tháng, quân Tây Sơn tấn công quân Nguyễn, làm chủ Gia Định 5 năm 6 tháng, đây có
lẽ là lần chiếm đóng Gia Định lâu nhất của quân Tây Sơn. Năm 1785, Nguyễn Huệ đã
ngăn chặn được quân Xiêm ở Rạch Gầm, Xoài Mút bảo vệ được lãnh thổ của đất
nước. Trong khoảng thời gian chiếm giữ Gia Định rất có thể chính quyền Tây Sơn đã
cho thi hành nhiều chính sách trên các lĩnh vực khác nhau, nhưng do sự hạn chế về
mặt tư liệu nên chúng ta không nắm bắt được đầy đủ về khía cạnh này. Sau quá trình
bôn ba, cầu cứu nhiều thế lực khác nhau, đến tháng 8 năm Mậu Thân (1788), “Nguyễn
Ánh lấy lại thành Gia Định, chấm dứt chủ quyền Tây Sơn trên phần đất dành cho

31

32

Trần Văn Giàu – Trần Bạch Đằng, sđd, Tr. 238
Sđd, Tr. 240.

20


Nguyễn Lữ”33. Từ đây Nguyễn Ánh hoàn toàn làm chủ và thi hành nhiều chính sách
cũng như cho xây dựng những công trình mới tại vùng đất Gia Định. Trong khoảng
thời gian suốt 12 năm, đất Gia Định đã trở thành “chiến trường” của hai lực lượng Tây
Sơn và Nguyễn Ánh. Chúng ta có thể thấy rằng, lực lượng nào làm chủ Gia Định thì
coi như làm chủ thế trận, bởi lẽ Gia Định có một vị trí chiến lược ở phía Nam, là đầu
ngõ quan trọng trong việc liên lạc giữa các nước, đặc biệt với vị trí gần Chân Lạp,
Xiêm La,…
Sau khi làm chủ được đất Gia Định, tức là làm chủ hoàn toàn đất Nam Bộ,
Nguyễn Ánh đã bắt tay ngay vào việc xây dựng vùng đất này thành một bàn đạp kiên
cố để lấy thế tấn công tiêu diệt quân Tây Sơn. Cùng với việc khuyến khích phục hồi
nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp,…, Nguyễn Ánh đã cho bãi bỏ hoàn
toàn những tàn dư và quân đội Tây Sơn để lại. Năm 1790, Nguyễn Ánh cho đặt thành
Gia Định ở làng Tân Khai, công việc đắp thành này đã huy động tới 30.000 dân phu
thầy thợ, điều này gây ra nhiều bất mãn trong dân chúng, đồng thời ở phía Bắc lực
lượng Tây Sơn suy yếu do sự qua đời của vua Quang Trung, chính vì vậy Nguyễn
Ánh đã cho giảm lượng nhân công xây thành và tập trung vào việc chuẩn bị lực lược
tiến đánh ra Bắc. Thành Bát Quái mà Nguyễn Ánh cho xây dựng vẫn chỉ là một công
trình “tạm xong” chứ chưa bao giờ được hoàn thành đúng với ý đồ bản thế kế ban đầu
cả.
Vào năm 1800, Nguyễn Ánh cho đổi phủ Gia Định thành trấn Gia Định, đây là
lần thay đổi cuối cùng của Nguyễn Ánh đối với đất Gia Định trước khi xưng vương và
thiết lập nên vương triều Nguyễn. Trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức

chép: “Năm Canh Thân (180034) triều Thế tổ năm 21 đổi Gia Định phủ làm Gia Định
trấn”35.
Như vậy, đất Gia Định từ khi được định hình cho đến khi hoàn toàn là một bộ
phận của lãnh thổ Việt Nam, đã trải quan nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử. Có thể
thấy Gia Định là một vùng đất quy tụ đầy đủ các điều kiện thuận lợi về việc phát triển
kinh tế - nông nghiệp và thương mại. Đồng thời Gia Định còn là một đầu mối giao
33

Trần Văn Giàu – Trần Bạch Đằng, sđd , Tr, 245.
Theo Đại Nam thực lục, năm Nhâm Tuất tức năm 1802, vua Gia Long cho đổi Gia Định phủ thành Gia Định
trấn.
35
Trịnh Hoài Đức (1972), Gia Định thành thông chí, tập Trung, quyển III, Tu trai Nguyễn Tạo dịch, Nha Văn
hóa, phủ Quốc khanh đặc trách văn hóa xuất bản, Tr. 17.
34

21


thông quan trọng giữa các nước trong khu vực, có vị trí chiến lược trong quân sự, là
nơi trở thành tâm điểm tranh giành ảnh hưởng giữa các thế lực phong kiến khác nhau.
Và xét trên mặt văn hóa – xã hội, đất Gia Định là nơi giao thoa của nhiều yếu tố văn
hóa đến từ các tộc người khác nhau, tạo nên những nét đặc sắc riêng cho vùng đất này.

22


Chương 2: Lịch sử khai khẩn và sát nhập vùng đất Gia Định của người Việt và
chính quyền chúa Nguyễn từ thế kỉ XVII đến thể kỉ XVIII
Nếu chúng ta tính từ năm 1698, khi Nguyễn Hữu Cảnh tiến hành kinh lí vùng

đất phía Nam, thiết lập các đơn vị hành chính trực thuộc chính quyền chúa Nguyễn ở
Đàng Trong, thì vùng đất Gia Định (tức phủ Gia Định) được chính thức thành lập và
bắt đầu mở rộng dần về mặt lãnh thổ. Quá trình khai khẩn vùng đất Gia Định cũng
chính là quá trình khai khẩn vùng đất Nam Bộ, để khi vương triều Nguyễn được thành
lập, vùng đất Nam Bộ hoàn toàn nằm dưới sự thống lĩnh của trấn Gia Định rồi đến
thành Gia Định (thời Gia Long). Dựa vào một số nguồn tư liệu thu thập được, chúng
tôi xin chia lịch sử khai khẩn vùng đất Gia Định thành hai giai đoạn chính: từ giữa thế
kỉ XVI đến năm 1698 và từ năm 1698 đến năm 1757, khi vùng đất Nam Bộ ngày nay
hoàn toàn thuộc về chính quyền Đàng Trong.
2.1. Giai đoạn từ giữa thế kỉ XVI đến 1698
Như đã trình bày ở trên, có nhiều quan điểm khác nhau trong việc tranh luận về
vấn đề người Việt đã đến khai khẩn vùng đất Nam Bộ từ bao giờ, trong đó có quan
điểm cho rằng ngay từ những năm giữa thế kỉ XVI, những lưu dân người Việt đã có
mặt và khai khẩn một số nơi tại Nam Bộ, để bảo vệ cho quan điểm đó, tác giả đã đưa
ra các dẫn chứng cho thấy rằng, những người Việt ngay từ giữa thế kỉ XVI, đã đến
sinh sống tại vùng duyên hải và trên bờ sông Mê Kông từ khá sớm, cụ thể tác giả có
viết như sau: “Trong nửa đầu thế kỉ XVI, nhà thám hiểm Fernand Mendez Pinto,
người Bồ Đào Nha từng tham quan vùng Đông Nam Á nhiều lần, sau khi về nước, ông
viết kí sự tả lại phong cảnh và người dân của nước “Cauchenchina” (Giao Chỉ gần
Tân). Phụ tá của Pinto là Faria cũng thăm vùng này năm 1535. Thời đó, nhân danh
địa danh chưa định rõ, nhưng đọc kỹ chi tiết thì đúng là tác giả đã gặp người Việt
Nam tới sinh sống làm ăn tại miền duyên hải và trên bờ sông “Camboia”
(Campuchia, tức Mê Kông). Miền này nằm xa ở phía Nam con sông Tinaoreu mà
người phương Tây đương gọi là Varella”36. Với đoạn dẫn chứng mà tác giả đó đưa ra,
chúng ta có thể suy luận rằng, ở những vùng xa xôi bên Cao Miên, dọc theo con sông
Mê Kông, vào giữa thế kỉ XVI đã có người Việt sinh sống, làm ăn như thế thì rất có

36

Nguyễn Đình Đầu, Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở Nam Kỳ lục tỉnh, Nxb. Trẻ,

Thành phố Hồ Chí Minh, Tr. 31.

23


khả năng tại những vùng đất thuộc Nam Bộ chắc hẳn cũng đã xuất hiện các cư dân
người Việt rồi. Những cư dân người Việt ưa mạo hiểm, cần cù, chịu khó có lẽ đã tiến
xuống tận phía Nam để khai khẩn đất đai. Đây là một vấn đề cần được nghiên cứu
thấu đáo hơn, với nhiều tư liệu hơn để có thể đưa ra những kết luận chính xác nhất.
Năm 1620, sự kiện vua Cao Miên Chey II Chetta kết hôn cùng một công nữ
người Việt đã tạo điều kiện hơn nữa cho những cư dân Việt Nam tiến xuống vùng đất
mới Nam Bộ. Theo tác giả Trần Thuận, sự kiện này “sử ta không ghi chép, nhưng
theo sách sử Cao Miên do các nhà học giả Pháp biên soạn, mà họ lấy từ sử liệu Cao
Miên để biên soạn, thì quả Chey Chetta II năm 1620 có cưới một công nữ con chúa
Nguyễn. Giáo sĩ Borri, ở Đàng Trong trong thời gian ấy cũng có nói đến cuộc hôn
nhân này”37. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu cũng đưa ra một dẫn chứng liên quan
đến cuộc hôn nhân này như sau: “Năm 1618, biên niên sử Campuchia chép:
“Preachey – Chessda lên ngôi…Khi đó vua nước An Nam gả một người con gái cho
nhà vua. Công chúa này rất đẹp, được nhà vua sủng ái và đưa lên ngôi hoàng hậu với
tước hiệu “Somdach – prea – peaccac – vodey – prea - voreac – khsattey”38. Có
nhiều ý kiến cho rằng, vị hoàng hậu đó là Ngọc Vạn, con gái thứ hai của chúa Sãi
Nguyễn Phúc Nguyên, nhưng bên cạnh đó cũng có một số nhà nghiên cứu cho rằng đó
là con gái của một lưu dân người Việt sinh sống tại Cao Miên, được vua Chey Chetta
lấy làm vợ và tự nhận là con cháu dòng họ Nguyễn. Hiện nay phần đông các nhà
nghiên cứu khẳng định vị hoàng hậu Cao Miên người Việt chính là công nữ Ngọc Vạn
và “cuộc hôn nhân này có ảnh hưởng lớn lao đến vận mệnh Chân Lạp sau này. Bà
hoàng hậu đem nhiều người Việt đến, có người được giữ chức hệ trọng trong triều, bà
lại lập lập một xưởng thợ và mở nhiều nhà buôn bán gần kinh đô”39. Có lẽ nhờ vào
cuộc hôn nhân này mà nhiều cư dân người Việt đã có cơ hội tiến vào đất Nam Bộ
đông đảo hơn và tiến hành khai hoang ruộng đất, lập làng xã cư trú một cách tự phát.

Sau cuộc hôn nhân “trọng đại” giữa công nữ Ngọc Vạn và vua Chey Chetta II,
chúa Nguyễn với tư cách là “bố vợ” của vua Cao Miên đã đường đường chính chính
phái một sứ bộ đến kinh đô Oudong, yêu cầu được lập một sở thu thuế ở Prey Nokor
37

Trần Thuận (2014), “Cuộc nhân duyên giữa công nữ Ngọc Vạn và quốc vương Chân Lạp . Đôi điều suy
nghĩ”, Tạp chí xưa và nay (447), Tr. 24.
38
Nguyễn Đình Đầu, Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở Nam Kỳ lục tỉnh, Nxb. Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh, Tr. 32.
39
Trần Thuận, sđd, Tr. 24.

24


tức Sài Gòn ngày nay để tiến hành thu thuế hàng hóa. Vua Chey Chetta không thể nào
từ chối yêu cầu này và chấp nhận cho chúa Nguyễn được lập đồn thu thuế trên. Nhưng
theo tác giả Phù Lang Trương Bá Phát cho rằng: “Năm Quý Hợi 1623, một phái bộ
của chúa Sãi đi sứ qua Chân Lạp xin với vua Chey Chetta II nhường lại sở quan thuế
Saigon, Chey Chetta II không thể từ chối đặng nên phải nhận chịu”40. Với quan điểm
này, tác giả trên lại mở ra một hướng suy nghĩ mới, trạm thu thuế ở Sài Gòn đã được
thiết lập từ trước để thu thuế trên hàng hóa của những cư dân sinh sống tại đây, mà
chúa Nguyễn chỉ xin nhượng lại mà thôi. Cho dù là quan điểm nào đi chăng nữa thì
việc chính quyền chúa Nguyễn nắm trong tay một trạm thu thuế ở vùng đất mới như
thế cũng gián tiếp chứng tỏ sự đông đúc của người Việt tại vùng này trong những năm
đầu và giữa thế kỉ XVII. Với thuận lợi được vua Chey Chetta “nể nang” như thế,
“triều đình Thuận Hóa khuyến khích người Việt di cư đến đây làm ăn, rồi lấy cớ giúp
chánh quyền Chân Lạp giữ gìn trật tự, còn phái một tướng lãnh đến đóng ở Prey
Nokor nữa. Khi vua Chey Chetta mất, vùng đất từ Prey Nokor trở ra Bắc đến biên

giới Chiêm Thành, từ là Sài Gòn, Bà Rịa, Biên Hòa ngày nay đã có nhiều người Việt
đến ở và khai thác đất đai”41. Chính quyền chúa Nguyễn đã bước đầu hình thành
những hình thức tổ chức sơ khai để quản lí những cư dân người Việt sinh sống, làm ăn
tại vùng Sài Gòn, đồng thời làm “tai mắt” để theo dõi những sự kiện quan trọng xảy ra
tại triều đình Chân Lạp mà dần dần mở rộng hơn đất đai về phía Nam.
Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp lục có chép: “Vĩnh Thọ năm thứ nhất (1658),
Mậu Tuất, tháng 9, Phúc Tần lấy cớ vua Cao Miên là Nặc Chân lấn bờ cõi sai phó
tướng dinh Trấn Biên là Yên Võ Hầu, Cai đội là Xuân Thắng Hầu (…) đem 3000 quân
đi đánh miền Nam. Ngày mồng 9 cất quân, ngày 29 đến thành Cao Miên, đánh vài
trận lớn, bắt sống được Nặc Chân cùng bộ lại, và bắt giữ được voi ngựa khí giới, giải
về dịnh Quảng Bình, Phúc Tần tha chết cho Nặc Chân về nước”42 đồng thời khuyến
dụ vua Cao Miên không được xâm nhiễu dân sự ở ngoài biên cương. Và theo tác giả
Nguyễn Đình Đầu “phải chăng lời khuyến dụ này khẳng định sự có mặt của cộng
đồng lưu dân Việt Nam đang sống tự trị tự quản rải rác khắp vùng Mô Xoài, Đồng
40

Phù Lang Trương Bá Phát (1960), “Lịch sử cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam”, Tập san sử địa (19-20),
Tr. 103.
41
Trần Thuận, sđd, Tr. 25.
42
Lê Quý Đôn, Sđd, Tr. 72.

25


×