Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Cảm thức thời gian và không gian nghệ thuật trong thơ nguyễn công trứ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.53 KB, 70 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA: NGỮ VĂN


VŨ THỊ HẬU

CẢM THỨC THỜI GIAN VÀ KHÔNG
GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ
NGUYỄN CÔNG TRỨ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Hà Nội - 2011


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khoá luận này không trùng với kết quả của một công
trình nghiên cứu nào khác đã được công bố. Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn
trách nhiệm.

Hà Nội ngày 10 tháng 05 năm 2011.
Sinh viên

Vũ Thị Hậu

-3-


LỜI CẢM ƠN

Việc nghiên cứu khoa học là một thử thách mới đối với bản thân cá


nhân tôi cũng như toàn thể các bạn sinh viên. Để thực hiện đề tài này thành
công trước hết tôi xin chân thành cảm ơn và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
Thạc sĩ Nguyễn Thị Việt Hằng, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn, cung
cấp những tri thức, kinh nghiệm cho tôi. Đặc biệt là cô luôn động viên, khích
lệ và ủng hộ tôi làm đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Ngữ Văn, Ban Giám
Hiệu nhà trường đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để cho tôi hoàn thành
khoá luận tốt nghiệp này.
Vì đây là lần đầu tiên tôi tiến hành nghiên cứu đề tài khoa học, còn thiếu
kinh nghiệm và gặp nhiều thiếu sót, hơn nữa trong khuôn khổ và khả năng có
hạn nên khoá luận sẽ không tránh khỏi những khuyết điểm và hạn chế. Tôi rất
mong nhận được sự đóng ý kiến, sự chỉ bảo tận tình của thầy cô cùng với bạn
đọc để khoá luận tốt nghiệp của tôi tốt hơn.
Hà Nội ngày 10 tháng 05 năm 2011.
Sinh viên

Vũ Thị Hậu

-4-


MỤC LỤC

Trang
Mở đầu .............................................................................................................7
1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................7
2. Lịch sử vấn đề ...............................................................................................9
3. Mục đích nghiên cứu .....................................................................................11
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................11
5. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................12

6. Đóng góp của khoá luận ...............................................................................12
7. Bố cục khoá luận ...........................................................................................12
Nội dung...........................................................................................................13
Chương 1: Nguyễn Công Trứ, tác giả và tác phẩm.......................................13
1. Hoàn cảnh lịch sử xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. ........13
2. Tác giả Nguyễn Công Trứ .............................................................................15
2.1. Tiểu sử Nguyễn Công Trứ .........................................................................15
2.2. Cuộc đời Nguyễn Công Trứ ......................................................................15
2.3. Sự nghiệp Nguyễn Công Trứ......................................................................18
Chương 2: Thời gian và không gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn
Công Trứ .........................................................................................................21
2.1. Giới thuyết chung về thời gian và không gian nghệ thuật
trong văn học.....................................................................................................21
2.2. Thời gian và không gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Công Trứ ...............21
2.2.1. Thời gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Công Trứ ...................................22
2.2.1.1. Khái niệm thời gian nghệ thuật .............................................................22
2.2.1.2. Thời gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Công Trứ ................................23
2.2.1.2.1. Thời gian vũ trụ .................................................................................23

-5-


2.2.1.2.2. Thời gian đời người. ..........................................................................33
2.2.1.2.3. Thời gian lịch sử................................................................................38
2.2.2. Không gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Công Trứ. ...............................39
2.2.2.1. Khái niệm không gian nghệ thuật. ........................................................39
2.2.2.2. Không gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Công Trứ. ............................41
2.2.2.2.1. Không gian vũ trụ. .............................................................................41
2.2.2.2.2. Không gian thế sự..............................................................................51
2.2.2.2.3. Không gian “hành lạc”.......................................................................60

Kết luận............................................................................................................67
Tài liệu tham khảo

........................................................................ 70

-6-


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đặc địa sinh từ Đông Ấp nhất bách niên kỉ niệm
Kình thiên trụ thạch Hồng Sơn thiên vạn cổ bề cao.
(Trên đất dựng sinh từ, lòng Đông Ấp trăm năm kỉ niệm
Giữa trời trơ cột đá, ngọn Hồng Sơn muôn thủa sánh cao).
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Công Trứ được người đời ca ngợi
như vậy. Ông là người có công lao rất lớn trong việc mở mang ruộng đất, lập
nghiệp “anh hùng đâu đấy tỏ” nơi chiến trận.
Người ta biết đến Nguyễn Công Trứ không chỉ với tài chính trị, quân
sự nổi tiếng mà còn quan tâm tới ông với tư cách là một thi sĩ có năng lực
thực sự. Đương thời thơ của ông không được đánh giá cao, chưa có chỗ đứng
trong văn học trung đại. Bởi quan niệm cho rằng đó là những thứ thơ đi
ngược lại với những giá trị truyền thống, là văn chương khác đời, khác người.
Tuy nhiên trong thời đại ngày nay với tầm nhìn, tư tưởng hiện đại mới thì
người ta nhắc nhiều tới thơ ca của ông nhiều hơn là các tác giả khác.
Từ trước tới nay thơ ca chính là hình ảnh của thế giới được phản ánh.
Do vậy việc tìm hiểu một tác phẩm suy cho cùng là việc khám phá tài năng
cũng như cá tính độc đáo của tác giả.
Một tác phẩm văn học luôn là một chỉnh thể nghệ thuật hoàn chỉnh bao
gồm hai yếu tố nội dung và hình thức. Chúng mối quan hệ tác động qua lại,
biện chứng với nhau. Xét trên một phương diện và ở một khía cạnh nào đó thì

hình thức có tác động và chi phối tới nội dung. Như Bêlinxki từng nhận xét:
“trong tác phẩm nghệ thuật tư tưởng và hình thức phải thống nhất với nhau
một cách hữu cơ như linh hồn và thể xác. Nếu hủy diệt hình thức thì cũng có
ý là hủy diệt tư tưởng và ngược lại cũng vậy”. Chính vì thế khi chúng ta nhắc
đến hình thức của tác phẩm văn học ta không thể không xét đến hai yếu tố đó

-7-


là thời gian và không gian nghệ thuật. Đây là cầu nối giúp cho bạn đọc – tác
giả đồng sáng tạo có thể cảm thụ về thế giới thông qua tác phẩm một cách tốt
nhất.
Xuất hiện với tư cách là một nhà thơ có phong cách “ngông”. Con
người, cuộc đời, sự nghiệp kể cả tư tưởng phức tạp của Nguyễn Công Trứ
đã từng là nguồn gốc của những nhận định, đánh giá khác nhau. Nghiên cứu
về ông có nhiều nhưng tìm hiểu về yếu tố thời gian và không gian nghệ
thuật trong thơ ông từ trước đến nay ít được các nhà phê bình hay nghiên cứu
chú ý tới.
Sở dĩ tôi chọn đề tài này vì thời gian, không gian nghệ thuật trong thơ
Nguyễn Công Trứ là một đề tài hấp dẫn. Hơn nữa đây còn là thành tựu nghiên
cứu của ngành thi pháp học – một ngành khoa học trẻ hứa hẹn với nhiều triển
vọng trong tương lai.
Ngoài ra với tương lai là một giáo viên, nghiên cứu đề tài này còn giúp
tôi giảng dạy về thơ Nguyễn Công Trứ trong chương trình Ngữ văn phổ thông
tốt hơn, từ đó giúp học sinh cảm nhận một cách sâu sắc về con người cũng
như cuộc đời của nhà thơ.
2. Lịch sử vấn đề
Việc tiếp cận tác phẩm văn chương có thể xuất phát từ nhiều góc độ
khác nhau. Có người đi từ nội dung để rút ra hình thức của tác phẩm, có
người lại thông qua hình thức của tác phẩm để suy ra nội dung. Dù nghiên

cứu văn chương theo góc độ nào thì mỗi hướng tiếp cận đều có nét độc đáo và
cái hay riêng của nó. Đối với sự cảm nhận cá nhân tôi thì việc nghiên cứu tác
phẩm đi từ hình thức đến nội dung khá hay, đặc biệt là việc thông qua tìm
hiểu yếu tố thời gianvà không gian mà có thể hiểu được tư tưởng của tác
phẩm và tư tưởng của chính tác giả.

-8-


Đối với Nguyễn Công Trứ - một người có vị trí khá đặc biệt trong lịch
sử văn học Việt Nam, sáng tác của ông không quá lớn về số lượng nhưng lại
chứa đựng nhiều vấn đề quan trọng, lý thú và phức tạp, và đã từng là nguồn
gốc của những ý kiến đánh giá không thống nhất. Bên cạnh là một thi sĩ tài tử
Nguyễn Công Trứ còn là một nhà hoạt động xã hội, một nhà tư tưởng, một
nhân vật văn hoá. Cuộc đời hoạt động sôi nổi, mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực
của ông khiến cho hậu thế là chúng ta phải quan tâm suy nghĩ, luận bàn. Tiếp
tục tìm hiểu con người, cuộc đời và tư tưởng của ông là công việc đã và đang
thu hút trí tuệ của nhiều nhà nghiên cứu khoa học trên nhiều lĩnh vực khác
nhau. Nếu không kể những ý kiến của đương thời nói về Nguyễn Công Trứ
thì lịch sử nghiên cứu về ông đã có gần một thế kỷ, bắt đầu chính thức với
công trình biên khảo của giáo sư Lê Thước 1928. Tuy nhiên việc nghiên cứu
về ông chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu về con nguời, cuộc đời, sự lí giải những
mâu thuẫn trong lí tưởng, sự nghiệp văn thơ... Còn việc tìm hiểu về yếu tố
thời gian, không gian nghệ thuật trong thơ ông rất ít, hầu như chưa trở thành
hệ thống, sâu sắc.
Năm 1998, Trần Đình Sử với bài nghiên cứu văn học Con người cá
nhân công danh, hưởng lạc ngoài khuôn khổ trong thơ văn Nguyễn Công Trứ
(1778 - 1858) và Cao Bá Quát (1809 - 1854) có tìm hiểu về con người cá
nhân trong thơ của Nguyễn Công Trứ. Qua quá trình phân tích cuối cùng tác
giả đi đến khẳng con người cá nhân trong Nguyễn Công Trứ được biết đến

với ba phạm trù: “công danh, cái nhàn, hưởng lạc và cái ta hơn người”.
Năm sau (1999) Trần Đình Vượng trong Nhà nho tài tử và văn học Việt
Nam cũng có một bài nghiên cứu về con người của Nguyễn Công Trứ. Đó là
việc lí giải về “chí nam nhi”, “đầu đội trời chân đạp đất” của nhà thơ.
Năm 2003, Trần Nho Thìn trong cuốn sách Nguyễn Công Trứ về tác
gia tác phẩm có tập hợp tất cả những bài viết nghiên cứu về cuộc đời cũng

-9-


như về sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Công Trứ. Cuốn sách gồm hai phần
chính: Phần một gồm một số tư liệu lịch sử liên quan đến Nguyễn Công Trứ.
Phần hai là những công trình nghiên cứu tiêu biểu qua các thời kỳ của thế hệ
các nhà khoa học. Chúng tôi xin lấy ví dụ điển hình bài viết Tâm lý và tư
tưởng Nguyễn Công Trứ của Nguyễn Bách Khoa. Ông đã có cách lí giải rất
hay và sâu sắc những yếu tố liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ
Nguyễn Công Trứ. Trong đó ông có đặt vấn đề lí giải về chí nam nhi, về cái
nghèo, về chữ nhàn và quan niệm hành lạc qua thơ văn của nhà thơ. Cuối
cùng sau khi đứng trên quan điểm duy vật biện chứng ông đã đưa ra bốn định
luật về Nguyễn Công Trứ và khẳng định “Tâm lý và tư tưởng cũng như văn
thơ của Nguyễn Công Trứ là những sản vật phong kiến”.
Hay trong bài viết Nét riêng của Nguyễn Công Trứ trong việc sử dụng
thi liệu dân gian của Nguyễn Xuân Kính. Tác giả chỉ ra những nét riêng, độc
đáo của nhà thơ trong việc sử dụng các chất liệu dân gian khi đưa vào trong
thơ của mình. Qua đó ông cũng chứng minh được rằng việc Nguyễn Công
Trứ sử dụng những thi liệu, những bài ca dao không chỉ đơn thuần là câu
chuyện hình thức, là vấn đề kĩ thuật, mà còn là sự chứng tỏ, sự thể hiện quan
niệm thẩm mĩ độc lập, gần dân và tấm lòng nhân đạo đẹp đẽ của thi sĩ. Và
nhiều bài viết khác của Vương Trí Nhàn hay của Phạm Vĩnh Cư… Tất cả
những bài viết đó đều tìm hiểu về cuộc đời, thái độ hành xử của Nguyễn Công

Trứ, nghệ thuật trong thơ… Còn việc đả động tới vấn đề thời gian và không
gian trong thơ ông thì rất ít. Có duy nhất trong một bài viết về, không gian
trong cuốn Thi pháp văn học trung đại của Trần Đình Sử có đề cập một chút
tới thời gian trong thơ Nguyễn Công Trứ. Đó là sự ý thức của nhà thơ về thời
gian hiện tại. Tuy nhiên nó chưa phải là một hệ thống hoàn chỉnh nghiên cứu
sâu sắc về mảng đó trong thơ của Nguyễn Công Trứ.

- 10 -


Nhưng mặc dù vậy những bài viết này có ý nghĩa rất lớn trong việc tìm
hiểu về nhà thơ Nguyễn Công Trứ. Nó được coi là mở đường, định hướng cho
các bài nghiên cứu về sau này. Dựa trên cơ sở đó, đề tài của tôi xin được tiếp
tục mở rộng phạm vi nghiên cứu về sự nghiệp thơ văn, mà cụ thể là cảm thức
về thời gian, không gian nghệ thuật trong thơ ông.
3. Mục đích nghiên cứu
- Có cái nhìn khái quát, hệ thống và cũng không kém phần sâu sắc khi
tìm hiểu về thơ văn của Nguyễn Công Trứ.
- Tiếp cận với một phương diện mới khi tìm hiểu tác phẩm văn chương.
Đó là tìm hiểu yếu tố thời gian và không gian trong tác phẩm. Qua đó có thể
hiểu được một phần con người cũng như nét tài hoa trong phong cách nghệ
thuật của tác giả.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Là toàn bộ tác phẩm thơ của Nguyễn Công Trứ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được giới hạn tìm hiểu về thời gian, không gian nghệ thuật trong
thơ Nguyễn Công Trứ.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

- Phương pháp thống kê phân loại.
- Phương pháp đối chiếu, so sánh.
- Phương pháp bình giảng văn học, phân tích, chứng minh.
6. Đóng góp của khoá luận
Việc khám phá hệ thống thời gian, không gian nghệ thuật trong thơ
Nguyễn Công Trứ góp phần làm nổi bật con người, cũng như nét cá tính độc
đáo của nhà thơ.

- 11 -


7. Bố cục của khoá luận

Mở đầu
Nội dung
Chương 1: Nguyễn Công Trứ, tác giả – tác phẩm.
Chương 2: Thời gian và không gian nghệ thật trong thơ Nguyễn
Công Trứ.

Kết luận
Tài liệu tham khảo

- 12 -


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TÁC GIẢ - TÁC PHẨM NGUYỄN CÔNG TRỨ
1. Hoàn cảnh lịch sử xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX
Nguyễn Công Trứ (1778 – 1859) ông ra đời khi nhà Lê sắp bị lật đổ và

trưởng thành khi nhà Nguyễn đang trên đà chiến thắng. Nhà thơ sống trọn vào
khoảng cuối Lê đầu Nguyễn, tức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Đây được
đánh giá là giai đoạn vừa rối ren và cũng bước đầu ổn định của chế độ xã hội
phong kiến Việt Nam. “Một đặc điểm mà chúng ta cần chú ý là Nguyễn Công
Trứ đã lớn lên giữa bản lề của hai thế kỷ, sinh ra và lớn lên ở cuối thế kỷ
XVIII và hoạt động trong suốt nửa đầu thế kỷ XIX dưới triều Nguyễn.
Nguyễn Công Trứ có 25 tuổi đời sống với thế kỷ đã qua trước khi Gia Long
dựng lên triều Nguyễn, một giai đoạn kỳ lạ có thể nói là có một không hai
trong lịch sử chế độ phong kiến nước ta”(Nguyễn Nghiệp). Hoàn cảnh lịch sử
xã hội mà Nguyễn Công Trứ sống có tác động rất lớn đối với tư tưởng cũng
như sự nghiệp của ông về sau này.
Năm 1778, Nguyễn Ánh (Gia Long) khởi binh đánh Tây Sơn.
Năm 1802, Nguyễn Ánh chiếm toàn bộ Bắc Hà, lên ngôi vua là bước
ngoặt của chặng đường ấy. Tuy nhiên nhà Nguyễn không phải tiêu biểu cho
một lực lượng mới cho xã hội. Đây là một chính quyền chuyên chế lỗi thời.
“Có thể nói, chưa một giai đoạn nào trong lịch sử chế độ phong kiến ở nước
ta, vua lại nắm toàn bộ quyền hành như giai đoạn này” [6, tr.529]. Mặt khác
nhà Nguyễn lại dùng những chính sách cai trị tàn bạo. Chẳng hạn đối với nhà
Tây Sơn, Gia Long ra lệnh xử cực hình như chém bêu đầu, phanh thây, xé
xác, quấn vải tẩm dầu đốt làm đuốc…rất dã man.
Năm 1818, Gia Long lại lại ra bộ Hoàng triều nhật lệ cực kỳ phản
động làm cơ sở cho việc áp bức bóc lột… tuy nhiên để củng cố chính quyền

- 13 -


một cách vững chắc hơn, nhà Nguyễn đã nâng vị thế của Nho giáo lên giữ vị
trí độc tôn. Nó được dùng trong cai trị chính quyền, thi cử và nhất là trong
sáng tác văn học.
Về phương diện kinh tế do chính sách của nhà Nguyễn bảo thủ nên

kinh tế hết sức đình đốn, đời sống của nhân dân hết sức khổ cực. Trước thực
trạng đó liên tiếp diễn ra các cuộc khởi nghĩa của nông dân. Tiêu biểu là
những cuộc nổi dậy của Phan Bá Vành, Nùng Văn Vân, Cao Bá Quát… Để
bảo vệ ngai vàng và đàn áp các phong trào khởi nghĩa, nhà Nguyễn đã tạo mọi
điều kiện cho sự cho sự xâm lược của thực dân Pháp vào nước ta sau này.
Trên đây là tình trạng thối nát và tàn bạo của chính quyền nhà Nguyễn,
tuy nhiên sự chuyên chế đó không được bộc lộ ngay từ đầu. “Một chính
quyền dù phản động đến đâu, lúc đầu cũng phải tỏ ra ít nhiều tiến bộ mị dân
để che mắt, đánh lừa quần chúng” [6, tr.650] Và triều Nguyễn cũng vậy.
Năm 1788, sau khi lấy được chính quyền Nguyễn Ánh tuyên bố mong
muốn mọi người đóng góp ý kiến về chính trị, miễn thuế cho những vùng bị
thiên tai hạn hán…
Sau hàng trăm năm chiến tranh loạn lạc, đói nghèo treo “lơ lửng” trên
đầu, con người khao khát thái bình việc thành lập của chính quyền nhà
Nguyễn làm cho xã hội có vẻ ổn định. Chính điều đó đã gây một số ảo tưởng
cho một lớp người sống trong xã hội đặc biệt là những nho sĩ đương thời. Họ
đem hết sức mình phục vụ cho triều đại. Thêm vào đó, việc dùng thi cử để
đào tạo quan liêu dưới thời nhà Nguyễn như mở ra trước mắt họ triển vọng
trong tương lai. Một số không nhỏ quan lại của nhà Nguyễn là những người
thuộc tầng lớp này, và Nguyễn Công Trứ cũng là một. Thực tế chứng minh
Nguyễn Công Trứ đã hăm hở đi học đi thi đỗ đạt ra làm quan, dốc hết sức
phục vụ cho triều đình nhà Nguyễn. Tuy nhiên khi đã bước chân vào chốn
công danh nhà thơ mới thực sự nhận ra xã hội tưởng chừng như ổn định tốt

- 14 -


đẹp đó chỉ là cái vỏ bọc bề ngoài. Chính vì thế mà dẫn đến thái độ sống chua
chát, chán chường sẽ được gửi gắm trong những vần thơ của ông về sau này.
Đây như là một sự trả giá đắt cho sự ảơ tưởng lầm đường của ông.

Trên đây là những lí do cơ bản góp phần hình thành lên phong cách của
một nhà thơ “ngông” Nguyễn Công Trứ.
2. Tác giả Nguyễn Công Trứ
2.1. Tiểu sử Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ (1778-1859) tên tục là Củng, tự là Tồn Chất, hiệu là
Ngô Trai, biệt hiệu Hy Văn.
Quê: làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Gia đình: Nguyễn Công Trứ xuất thân trong một gia đình quan lại, có
truyền thống thơ văn.
Cha: Nguyễn Công Tấn, đỗ đạt cử nhân và từng giữ nhiều chức quan.
Mẹ: con gái của quan quản Nội cảnh nhạc bá, họ Nguyễn người xã
Phụng Dục, huyện Thượng Phúc, tỉnh Sơn Nam.
Gia đình của Nguyễn Công Trứ có sáu anh em, ba trai và ba gái.
Ông có một bà vợ họ Đặng và 12 người vợ lẽ, cả thảy có 12 người con
trai và 14 người con gái.
Nhà thơ từ bé đã sống trong cảnh hàn vi vì gia sản bị chiến tranh tàn
phá. Vì vậy đây cũng là một yếu tố khá ám ảnh trong các sáng tác văn chương
của ông về sau này.
2.2. Cuộc đời Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ là một người thông minh. Ngay từ thuở hàn vi ông
đã nuôi lý tưởng giúp đời, lập công danh sự nghiệp giúp dân, giúp nước:
Làm trai đứng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.

- 15 -


Tương truyền rằng, một lần có việc đi xa vì trời rét Nguyễn Công Trứ
vào quán uống nước bên đường để nghỉ chân, đúng lúc đó gặp đại binh của
tả quân Lê Văn Duyệt đi tập về. Mọi người sợ hãi nép vào một góc, riêng ông

vẫn đắp chiếu nằm trên ổ rơm ngủ thấy vậy quân lính đánh thức ông dậy. Lê
Văn Duyệt thấy ông là học trò nho nhã liền bảo Nguyễn Công Trứ thử vịnh
cảnh “nằm ổ rơm đắp chiếu” nếu hay sẽ tha. Ông ứng khẩu đọc:
Ba vạn anh hùng đè xuống dưới
Chín lần thiên tử dội lên trên.
Ý chỉ “rơm” là anh hùng rơm, “chiếu” với chiếu chỉ của vua. Lê Văn
Duyệt khen hay thưởng tiền và thả cho đi.
Khác với phần đông các danh nhân dưới thời phong kiến, Nguyễn
Công Trứ là người thành danh khá muộn màng. Vốn là một người thông minh
hiếu học song sau nhiều lần thi trượt, phải đến năm 1918, khi đã ngoài bốn
mươi tuổi lứa tuổi “tứ thập nhi bất hoặc”, đã từng trải trường đời và định hình
chí hướng. Ông quả là con người “lắm tài mà cũng nhiều tật” (4 - tr177). Cái
tài của ông bộc lộ qua việc ông được thăng thưởng và thể hiện qua các chặng
đường sau:
2.2.1. Thời hàn vi (bạch diện thư sinh): từ khi ra đời đến 1819
Vốn là một người thông minh, hiếu học song nhiều lần thi trượt, phải
đến năm 1918 ông mới thi đậu giải nguyên và được bổ đi làm quan.
2.2.2. Thời hiển đạt (hoạn hải ba đào): 1820-1847
Nội dung giai đoạn này có thể được thâu tóm trong hai câu thơ sau:
Lại mang lấy lợi danh, vinh nhục
Cuộc đời kia lắm lúc bi hoan.
Đây cũng là thời kì được đánh giá là “lên voi xuống chó” trong cuộc
đời làm quan của Nguyễn Công Trứ:
1820: ông giữ chức Hành tẩu ở Quốc sử quán.

- 16 -


1823: ông liên tiếp giữ các chức Tri huyện Đường Hào, Hải Dương.
1824: giữ chức Tư Nghiệp Quốc Tử Giám

1825: ông giữ chức quan trong phủ Thừa Thiên
1826: Tham tán quan vụ, rồi thăng thị lang bộ hình
1828: Nguyễn Công Trứ thăng Hữu tham tri bộ hình, sung chức Dinh
điền sứ, chuyên coi việc khai khẩn đất hoang.
1832: ông được bổ chức Bố chánh sứ Hải Dương cùng năm thăng
Tham tri Bộ binh, giữ chức Tổng đốc tỉnh Hải An…
Con đường làm quan của Nguyễn Công Trứ dưới triều Nguyễn cũng
trầy trật, nhiều phen khốn khó. Trong hai mươi tám năm làm quan, ông bị
giáng chức và cách chức cả thảy đến năm lần. Cụ thể là:
1831: vì đề cử một người làm huyện thừa huyện Tiền Hải Thái Bình
không đúng thủ tục, Nguyễn Công Trứ bị giáng xuống làm tri huyện.
1834: đi đánh Nùng Văn Vân ở Thái Nguyên, Nguyễn Công Trứ bị
khiển trách là chậm trễ,“đáng lẽ phải cách chức” nhưng sau khi “chiếu cố” chỉ
bị phạt giáng ba cấp.
1835: vì chuyện một người tù vượt ngục, ông bị giáng xuống bốn cấp và
đuổi về kinh.
1840: Nguyễn Công Trứ không tích cực thi hành một chỉ dụ của vua.
Ông bị bộ hình tuyên án “trảm giam hậu”, sau xét thấy không lợi Thiệu Trị
chỉ giáng ông làm Tuần phủ tỉnh An Giang, Nam Bộ.
1843: viên Tổng đốc An Giang Hà Tiên vu cáo Nguyễn Công Trứ cho
thuyền đi buôn lậu, ông bị cắt chức, và bị bắt làm lính thú lên trấn ở biên thùy
ở Quảng Ngãi.
1845: Nguyễn Công Trứ lại được phục chức cho làm chi sự Bộ hình.
1846: làm quyền Án sát Quảng Ngãi được hai tháng, ông lại đổi ra làm
Phủ Thừa Thiên.

- 17 -


1847: ông thăng làm Phủ doãn phủ ấy.

2.2.3. Thời nghỉ hưu (ngoài vòng cương toả) 1848 - 1858
1848 Tự Đức nguyên niên, Nguyễn Công Trứ xin về hưu và lần này
ông được về hẳn.
Từ lúc được về hưu, nhà thơ còn sống thêm hơn mười năm nữa. Ông
mất ngày 14 tháng 11 năm Tự Đức thứ 12 (tức ngày 7 tháng 2 năm 1859) thọ
81 tuổi.
Tóm lại Nguyễn Công Trứ gặp nhiều sóng gió trong hiển hoạn là vì chế
độ chính trị đương thời hủ lậu, đế quyền thì bị đại hoàn cảnh xã hội làm cho
khuynh bại, còn phần số hoàng phái và quý tộc quan liêu thì mất hết nhân
cách, tiến bộ không còn đóng vai trò quản trị đắc lực được nữa. “Cụ Nguyễn
Công Trứ là một anh hùng hào kiệt… một nhà chính trị có tài kiến thiết, có
chí kinh luân. Tiếc thay sinh phải thời đại bế tắc, ở vào cái hoàn cảnh hẹp hòi
vua thì nghi kỵ, dưới các quan thì phần nhiều là bọn dung tục chẳng có tư
tưởng gì cao thượng, kiến thức gì sâu xa, đã không tán thành cho cụ lại đem
lòng ghen ghét kiếm cách mà bắt kẻ gièm pha để trở ngại công việc cụ”
(Lê Thước).
2.3. Sự nghiệp
Nguyễn Công Trứ là một người đầy tài năng, sự nghiệp của ông được
thể hiện ở mọi phương diện:
2.3.1. Quân sự
Do chính sách hà khắc của nhà Nguyễn dưới triều đại Gia Long và
Minh Mạng nên đã xảy ra liên tiếp nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân.
Nguyễn Công Trứ tuy là quan văn nhưng phải cầm quân, làm tướng,
đánh đâu thắng đó:
1827: dẹp khởi nghĩa Phan Bá Vành.
1833: dẹp khởi nghĩa Nông Văn Vân.

- 18 -



1835: dẹp giặc khách.
Đến đời vua Tự Đức thứ 11 (1858) khi thực dân Pháp tấn công Đà Nẵng
thì ông đã 80 tuổi nhưng vẫn dâng sớ lên nhà vua, tha thiết xin được tòng
quân đánh giặc: “Dù tôi như cái màn, cái lọng rách cũng không nỡ tự nản chí.
Còn chút hơi thở nào xin lên đường ngay…”.
2.3.2. Kinh tế
Ông có nhiều sáng kiến chiêu mộ dân nghèo, đắp đê lấn biển, lập ấp,
khai sinh các huyện Kim Sơn (thuộc tỉnh Ninh Bình ngày nay), Tiền Hải
(thuộc tỉnh Thái Bình).
Vào những năm cuối thập niên 1820, đề xuất lập nhà học, xã thương ở
nông thôn nhằm nâng cao dân trí và lưu thông hàng hoá. Những hoạt động
của ông trong lĩnh vực kinh tế được nhân dân các vùng kể trên ghi nhớ. Hiện
nay còn rất nhiều từ đường thờ cúng ông ở hai huyện nói trên và quê hương
của nhà thơ.
2.3.3. Thơ ca
Nguyễn Công Trứ là nhà thơ có vị trí đáng kể trong văn học Việt Nam
giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX.
Tương truyền Nguyễn Công Trứ làm đến trên dưới 1000 bài thơ Nôm.
Nhưng hiện tại chỉ sưu tầm được 150 tác phẩm làm theo các thể luật đường,
hát nói. Ông có một bài thơ chữ Hán duy nhất là bài “Tự Thọ”.
“Thơ văn Nguyễn Công Trứ bao hàm một nội dung khá phức tạp, kết
tinh một trạng thái ý thức của thời đại: vừa ca tụng con nguời hoạt động, lại
vừa ca tụng lối sống hưởng lạc, cầu nhàn, vừa ca tụng Nho giáo lại vừa ca
tụng Đạo giáo, vừa lạc quan tin tưởng lại vừa bi quan thất vọng; vừa tự khẳng
định mình lại vừa phủ định mình. Nguyễn Công Trứ là một khối mâu thuẫn
lớn” [6, tr.528].

- 19 -



Nhìn một cách tổng quát, thơ văn Nguyễn Công Trứ tập trung vào 3
chủ đề chính sau:
- Những bài thơ xoay quanh chí nam nhi.
- Những bài thơ xoay quanh cảnh nghèo và thế thái nhân tình.
- Những bài thơ xoay quanh triết lí cầu nhàn hưởng lạc.
Đời ông đầy giai thoại, nó cho thấy bản lĩnh sống, trí tuệ và mang tính
bình dân sâu sắc. Có thể nói thơ Nguyễn Công Trứ sinh động, giàu triết lý
nhân văn nhưng lại vô cùng hóm hỉnh, đó là chất thơ có được từ đời sống, lấy
đời sống làm cốt lõi: “Nguyễn Công Trứ có điều kiện đi nhiều, trải nghiệm,
đã gắng gỏi hết sức luôn luôn chú trọng nhập cuộc đời sống hiện thực, bằng
tất cả năng lực và chí nguyện mà không quá so đo, tính toán điều lợi hại. Ví
như ông biết khuôn phép, biết giữ lời, biết kìm nén, thậm chí thêm một chút
xuôi chiều, thì con đường hoạn lộ của ông đâu đến nỗi ba chìm bảy nổi. Vậy
mà trước sau ông vẫn giữ nguyên cái tư chất đầy bản lĩnh, đầy tự tin và cũng
đầy năng lượng quyết đoán [4, tr.180].

- 20 -


CHƯƠNG 2
THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG THƠ NGUYỄN CÔNG TRỨ
2.1. Giới thuyết chung về thời gian và không gian nghệ thuật trong văn
học.
Không có gì có thể tồn tại ngoài không gian và thời gian. Do vậy mà
mọi sự cảm nhận về tồn tại của con người đều gắn liền với sự cảm nhận
không gian và thời gian. Thông qua sự vận động của thời gian mà con người
nhận ra sự đổi thay trong chính mình: “Nếu hiểu thơ là sự cảm nhận thế giới
và con người thì thời gian, không gian chính là hình thức để con người cảm
nhận thế giới và con người” (Trần Đình Sử).

Hay theo tác giả Nguyễn Xuân Kính trong Thi pháp ca dao: “thời gian,
không gian là những mặt của hiện thực khách quan được phản ánh trong tác
phẩm tạo thành thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Thời gian nghệ thuật, không
gian nghệ thuật một mặt thuộc phương diện đề tài, mặt khác thể hiện nguyên
tắc cơ bản của việc tổ chức tác phẩm của từng tác giả, từng thể loại, từng hệ
thống nghệ thuật. Mối quan hệ giữa thời gian, không gian trong tác phẩm là
nội dung của vấn đề thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật” [5, tr.287].
Do vậy trong bất kỳ một tác phẩm văn học nào thì hai yếu tố thời gian
và không gian luôn đi liền với nhau. Suy cho cùng việc tìm hiểu thời gian,
không gian của một hiện tượng văn học chính là cách tìm hiểu cuộc sống một
cách có nghệ thuật và thẩm mỹ. Thông qua đó cảm nhận về thế giới và con
người mang tính đa chiều hơn.
2.2. Thời gian và không gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Công Trứ.

- 21 -


2.2.1. Thời gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Công Trứ
2.2.1.1. Khái niệm thời gian nghệ thuật
Mọi sự vật hiện tượng đều gắn với tọa độ không gian và thời gian.
Cũng như không gian nghệ thuật, sự miêu tả, trần thuật trong văn học bao giờ
cũng xuất phát từ một điểm nhìn nhất định trong thời gian. Và cái được trần
thuật bao giờ cũng diễn ra trong thời gian, được biết qua thời gian trần thuật.
Sự phối hợp hai yếu tố này tạo thành thời gian nghệ thuật, một hiện tượng ước
lệ chỉ có trong “thế giới nghệ thuật”. Vậy thời gian nghệ thuật là gì?
Nói tới khái niệm này nhiều nhà nghiên cứu có các cách định nghĩa
khác nhau. Như Trần Đình Sử trong Thi pháp học có nhận xét: “Thời gian
nghệ thuật là thời gian mà ta có thể chiêm nghiệm được trong tác phẩm nghệ
thuật với tính liên tục và độ dài của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm, với các
chiều thời gian hiện tại, quá khứ hay tương lai” [5, tr.77].

Hay trong Từ điển thuật ngữ văn học của nhóm tác giả Lê Bá Hán Trần
Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi thì: “Thời gian nghệ thuật gắn liền với tổ chức
bên trong của hình tượng nghệ thuật”. “Là hình thức nội tại của hình tượng
nghệ thuật, thể hiện tính chỉnh thể của nó” [3, tr.273].
Khác với thời gian khách quan được đo bằng đồng hồ và lịch, thời gian
nghệ thuật có thể bị đảo ngược, quay về quá khứ, có thể bay tới tương lai xa
xôi “Mai sau dù có bao giờ. Đốt lò hương ấy so tơ phím này. Trông xa ngọn
cỏ lá cây. Thấy hiu hiu gió thì hay chị về (Truyện Kiều), có thể dồn nén một
khoảng thời gian chốc lát “Ba thu dọn lại một ngày dài ghê” (Truyện Kiều),
lại có thể kéo dài chốc lát thành vô tận “Khắc dài đằng đẵng như niên” (Chinh
phụ ngâm). Thời gian nghệ thuật được đo bằng nhiều thước đo khác nhau.
Bằng sự lặp lại đều đặn của các hiện tượng đời sống được ý thức: sự sống, cái
chết, gặp gỡ, chia tay, mùa này, mùa khác… tạo nên nhịp điệu trong tác

- 22 -


phẩm. Như vậy thời gian nghệ thuật gắn liền với tổ chức bên trong của hình
tượng nghệ thuật.
Thời gian có vai trò vô cùng quan trọng trong tác phẩm. Nó dùng được
làm phương tiện nghệ thuật để phản ánh đời sống, thể hiện cảm xúc và tư
tưởng của tác phẩm văn học.
2.2.1.2. Thời gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Công Trứ
2.2.1.2.1. Thời gian vũ trụ
Nói tới thời gian vũ trụ tức là nói tới thời gian trong mối quan hệ biện
chứng với không gian. Với tư cách là thời gian vũ trụ, thời gian nghệ thuật ít
bị đóng khung trong hiện tại mà có xu hướng lan tỏa tới quá khứ và vươn xa
tới tương lai.
Thực tế qua quá trình khảo sát, chúng tôi thấy những bài thơ thuộc kiểu
thời gian vũ trụ chiếm khoảng 23% trong thơ của Nguyễn Công Trứ. Đó là

kiểu thời gian:
- Thời gian tự nhiên khách quan.
- Thời gian theo mùa.
2.2.1.2.1.1. Thời gian tự nhiên khách quan
Đó là dòng thời gian khách quan, vận động theo quy luật sáng, trưa,
chiều, tối (đêm). Khoảng thời gian này luôn trôi chảy theo đúng quy luật vốn
có của mình. Mỗi khoảnh khắc thường mang những ấn tượng và xúc cảm
khác nhau. Nguyễn Công Trứ nhắc tới thời gian tự nhiên khách quan không
đơn thuần là đơn vị biểu thị thời gian mà nó còn mang một ý nghĩa, biểu đạt
tâm trạng của nhân vật trữ tình. Đọc những bài thơ Cảnh xa nhà, Vịnh hậu
Xích Bích, Gánh gạo đưa chồng ta sẽ thấy rõ điều đó. Thời khắc ban đêm tĩnh
lặng gắn liền với hình ảnh tâm trạng của nhân vật trữ tình là điểm chung nhất
giữa ba bài thơ đó. Tuy nhiên mỗi bài thời gian lại được diễn tả với những
cung bậc cảm xúc khác nhau.

- 23 -


Bài thơ Cảnh xa nhà là tâm trạng của một người nhớ quê hương khôn
xiết khi nghe thấy:
Đâu ngành mấy tiếng chim kêu gió
Trước điếm năm canh chó sủa giăng
Phảng phất lòng quê khôn nén được
Mơ màng cuộc thế cũng cầm bằng
Đêm gà eo óc, trời chưa rạng.
Thời gian ban đêm ở đây được cụ thể hóa bằng thời khắc “năm canh”,
bằng âm thanh của “tiếng chim kêu gió; của “chó sủa giăng” và đặc biệt là
“tiếng gà eo óc”. Đây là những âm thanh vỗn dĩ hết sức quen thuộc đối với
bất cứ làng quê nào. Có lẽ vì nỗi nhớ quê đã vốn thường trực trong lòng của
nhân vật trữ tình rồi nên khi màn đêm buông xuống nỗi nhớ đó càng trở nên

da diết hơn. Thời gian trong bài thơ vận động tương đối chậm. Nếu như mở
đầu bài thơ, hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình là âm thanh của “tiếng
chim kêu gió” thì kết thúc bài thơ lại là âm thanh “eo óc” của tiếng gà báo trời
chưa rạng. Sự vận động chậm chạp của thời gian cũng chính là sự vận động
nặng nề trong tâm trạng của con người. Với thủ pháp lấy động tả tĩnh, hình
ảnh của nhân vật trữ tình trong tâm trạng khắc khoải nhớ quê càng được bộc
lộ rõ hơn. Khi không ngủ chỉ biết “mần răng” nỗi buồn chỉ có thể thốt lên một
câu: “Tình tự này ai biết cho chăng?”. Một câu hỏi tu từ được đặt ra nhằm tìm
sự đồng cảm chia sẻ với tâm trạng nhớ quê của nhân vật. Phải chăng đó là lúc
nỗi nhớ dâng cao độ là lúc con người thấy cô đơn và trống trải nhất.
Khoảng thời khắc ban đêm không chỉ được diễn tả cụ thể bằng những
âm thanh mà còn được nhắc tới thông qua những hình ảnh:
Sông Xích Bích vừng trăng vặc
Thầy Tô tìm thú cũ qua chơi
Bóng quang âm là đã mấy mươi

- 24 -


Mà no nước dễ xui lòng cảm kích
Thi thành nhất bức thiên sơn tịch
Cô hạc hành giang lược tiểu chu
Suốt năm canh bên gối mơ hồ
Chiếc thuyền luống đi về trong bóng nguyệt.
Đã từ lâu hình ảnh vầng trăng được dùng như là một phương tiện để
chuyển tải tâm tư, tình cảm của con người. Nói đến ánh trăng là nói tới thời
gian, thông qua ánh trăng mà nói hộ lòng người. Trong bài thơ xuất hiện hình
ảnh “vầng trăng vằng vặc”, “bóng quang âm”, “chiếc thuyền bóng nguyệt”,
“năm canh”. Đây là những tín hiệu báo hiệu thời gian đã thời đã vào buổi
đêm khuya. Đó cũng là lúc con người sống thật với lòng mình nhất. Cũng

giống như tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ Cảnh xa nhà, nhân vật
trong bài thơ này cùng trong tình trạng “Suốt năm canh bên gối mơ hồ”.
Không có âm thanh là tiếng gà gáy “eo óc”, nhưng lại là hình ảnh của
hạc mà lại là trong thế cô đơn, có hình ảnh thuyền nhưng mà lại là “luống đi
về trong bóng nguyệt”. Tất cả đều ở trong cảnh cô đơn lẻ loi. Qua đó nhằm
diễn tả tâm trạng của nhân vật trữ tình cũng đang ở trạng thái buồn.
Thời gian trong bài thơ này vận động khá nặng nề. Mở đầu hình ảnh
“vầng trăng vằng vặc” có nghĩa là lúc trăng tỏ, trăng đẹp và sáng nhất. Nó
cũng đồng nghĩa với việc là thời gian đang ở đầu buổi đêm thì cuối bài thơ lại
là hình ảnh “bóng nguyệt”, thời gian đã muộn hơn. Thời gian có trôi, nhưng
rất chậm. Điều này chứng tỏ được tâm trạng của nhân vật trữ tình đang rất
“nặng”. Nỗi buồn của nhân vật càng được tăng lên khi nó được gắn với các
hình ảnh “cô hạc” và “bóng nguyệt”. Thường thì đứng trước không gian
người ta thường bị choáng ngợp, còn nhà thơ đứng trước thời gian mà không
kìm nén được lòng mình.

- 25 -


Dùng thời gian làm phương tiện biểu đạt nghệ thuật. Nó không chỉ
được dùng để diễn tả nỗi buồn mà nó còn là phương tiện để biểu đạt niềm
thương của người vợ:
Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
Lộ diệc vũ trùng trung chi nhất
Thương cái cò lặn lộ bờ sông
Tiếng nỉ non gánh gạo đưa chồ
Ngoài nghìn dặm bâng khuâng từng bước
Nghe tiếng quyên khắc khoải năm canh.
(Gánh gạo đưa chồng)

Nguyễn Công Trứ đã dùng mô típ quen thuộc là hình ảnh con cò để nói
lên thân phận cũng như cuộc đời của người phụ nữ thời phong kiến. Đó là
người phụ nữ tần tảo “một nắng hai sương” cả cuộc đời hi sinh cho chồng cho
con. Người phụ nữ trong bài thơ này cũng vậy. Công việc của nàng là gánh
gạo đưa chồng, nhưng không phải là ban ngày ngày mà là ban đêm. Thời gian
buổi đêm ở đây cũng giống như các bài thơ trên đều là thời khắc của năm
canh - một khoảng thời gian quen thuộc, lúc tâm hồn con người ta lắng đọng
nhất. Người phụ nữ này đang trong tâm trạng buồn mà “bâng khuâng từng
bước”, chính vì thế khi nghe tiếng quyên, âm thanh quen thuộc nơi làng quê
mà trở nên “khắc khoải”. “Khắc khoải” một từ láy tượng hình gợi cho nguời
đọc thấy được tâm trạng rất nặng nề, thậm chí có thể là u uất của người thiếu
phụ. Tại sao nàng lại có tâm trạng như vậy? Có lẽ nàng đang tức tối một điều
gì đó? Một nguyên nhân dễ nhận thấy nhất là do xã hội phong kiến gây nên.
Thời phong kiến loạn lạc là thời mà mọi trai tráng, mọi người đàn ông trong
nhà đều phải dứt áo, từ biệt gia đình mà ra đi. Chính những cuộc chiến tranh
phi nghĩa đã làm “chảy máu” và nước mắt của bao nhiêu người, cướp đi hạnh

- 26 -


×