LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội 2, các thầy cô Khoa Giáo dục Tiểu học đã tạo điều kiện giúp
đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu tại trường.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo - Th.S Lê Thị
Lan Anh, người đã hướng dẫn, tận tình chỉ bảo và giúp đỡ tôi hoàn thành
khóa luận này.
Bước đầu nghiên cứu khoa học, hơn nữa thời gian nghiên cứu còn hạn
chế tôi khó tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tôi rất mong nhận được sự
đóng góp, chỉ bảo của các thầy cô giáo, của các bạn để khóa luận hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2013
Sinh viên
Phạm Thị Thu Trang
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Những căn cứ, kết quả đã nêu là hoàn toàn trung thực.
Đề tài chưa được công bố trong bất cứ công trình khoa học nào
khác.
Hà Nội, tháng 5 năm 2013
Sinh viên
Phạm Thị Thu Trang
1
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
3
1. Lí do chọn đề tài
3
2. Lịch sử vấn đề
4
3. Mục đích nghiên cứu
6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
6
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
6
6. Phương pháp nghiên cứu
6
7. Cấu trúc đề tài
6
NỘI DUNG
7
Chương 1. Cơ sở lí luận của đề tài
7
1.1. Một số vấn đề chung về từ vựng tiếng Việt
7
1.2. Nghĩa của từ
8
1.3. Cấu tạo từ
9
1.4. Các hiện tượng của từ vựng tiếng Việt
13
1.5. Đơn vị từ vựng tương đương với từ - ngữ
16
1.6. Con đường làm giàu từ vựng tiếng Việt
18
Chương 2. Xây dựng bài tập bồi dưỡng kiến thức từ
23
vựng cho học sinh tiểu học
2.1. Những căn cứ xây dựng bài tập
23
2.2. Nguyên tắc xây dựng bài tập
25
2.3. Các bước xây dựng bài tập
26
2.4. Các loại bài tập bồi dưỡng kiến thức từ vựng cho
27
học sinh tiểu học
47
KẾT LUẬN
1
TÀI LIỆU THAM KHẢO
48
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
“Cái tháp cao nào cũng xây từ mặt đất”. Đó là quan niệm hoàn toàn
đúng đắn. Trong giáo dục cũng vậy, phải hình thành cho trẻ kiến thức ngay từ
đầu. Chính vì lí do đó, ở bất kì giai đoạn cách mạng nào, Đảng và Nhà nước
ta đều dành sự quan tâm đặc biệt chu đáo cho trẻ thơ. Trong đó, giai đoạn tiểu
học, khi các em mới 6 - 7 tuổi chập chững bước vào ngưỡng cửa trường tiểu
1
học - giai đoạn hình thành nhân cách, tư duy, trí tuệ cho trẻ là đặc biệt quan
trọng.
Ở cấp Tiểu học, môn Tiếng Việt là môn có tầm quan trọng bậc nhất
trong các môn học. Chỉ khi đọc thông, viết thạo, hiểu được nội dung văn bản
thì mới nắm được thông tin, giải quyết vấn đề mà văn bản nêu ra. Nghĩa là,
học tốt môn Tiếng Việt thì mới có thể học tốt môn khác. Chính vì vậy, môn
Tiếng Việt vừa là môn học, đồng thời là công cụ để giúp học sinh học tập tốt.
Ở nhiều trường tiểu học, đồng thời với nhiệm vụ phổ cập giáo dục tiểu
học, việc chăm lo phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi góp phần đào tạo nhân
tài của đất nước được xem là nhiệm vụ cần thiết và quan trọng. Bồi dưỡng
học sinh giỏi Tiếng Việt là một hướng dạy học tự chọn ở tiểu học nhằm thực
hiện giáo dục phổ thông theo định hướng phân hóa, phát huy cá tính và sáng
tạo của học sinh. Đồng thời với việc thực hiện nhiệm vụ phát hiện và bồi
dưỡng nhân tài cho đất nước, việc bồi dưỡng học sinh giỏi tiếng Việt còn có
tác dụng thúc đẩy phong trào thi đua học tốt, dạy tốt.
Mục tiêu của môn Tiếng Việt là rèn kĩ năng về tư duy và giao tiếp. Để
giao tiếp đạt hiệu quả cao cần phải biết đặt câu và sử dụng các kiểu câu.
Nhưng không có vốn từ phong phú, không hiểu nghĩa và đặc điểm ngữ pháp
của từ thì không thể đặt câu đúng được. Ngược lại, nếu không nắm vững quy
tắc đặt câu thì dù vốn từ có phong phú, nghĩa của từ có nắm chắc đến đâu
cũng không trình bày được ý kiến của mình một cách mạch lạc, rõ ràng. Từ
chính là nguyên vật liệu để giao tiếp. Đó cũng là lí do trong bộ sách giáo khoa
Tiếng Việt tiểu học lại nhập hai phân môn Từ ngữ và Ngữ pháp làm một và
gọi là phân môn Luyện từ và câu. Hiện nay, hiện tượng diễn đạt của học sinh
tiểu học còn non nớt và từ vựng là mảng kiến thức khó đối với học sinh tiểu
học. Chính vì vậy, việc xây dựng bài tập về từ vựng sẽ giúp cho học sinh tiểu
1
học mở rộng và hệ thống hóa vốn từ, nắm chắc nghĩa của từ, biết dùng từ để
đặt câu và sử dụng các kiểu câu vào giao tiếp để đạt hiệu quả cao.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi quyết định chọn nghiên cứu đề
tài “Xây dựng bài tập bồi dưỡng kiến thức từ vựng cho học sinh tiểu học”.
2. Lịch sử vấn đề
Trong cuốn Từ vựng học tiếng Việt hiện đại - NXB Đại học và Trung
học Chuyên nghiệp, 1976, tác giả Nguyễn Văn Tu đã bàn về vấn đề có tính
thời sự trong từ vựng học như: bản chất của từ về mặt cấu tạo và ý nghĩa, tính
hệ thống của vốn từ. Bên cạnh đó, tác giả còn phân tích sâu sắc tiếng Việt về
mặt cấu trúc từ vựng và quan hệ giữa các từ, về cấu trúc và nội dung của vốn
từ vựng cơ bản. Đây thực sự là cuốn tài liệu bổ ích.
Năm 1985, các tác giả Mai Ngọc Chừ - Vũ Đức Nghiệu - Hoàng Trọng
Phiến đã biên soạn cuốn Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt - NXB Đại học và
Trung học Chuyên nghiệp. Các tác giả đã nghiên cứu các bình diện của ngôn
ngữ và trình bày cuốn sách qua bốn phần.
Tác giả Trần Mạnh Hưởng và Lê Hữu Thỉnh trong cuốn Tuyển tập đề
thi học sinh giỏi bậc Tiểu học - môn Tiếng Việt (NXB Giáo dục, 2004) đã
tuyển chọn ra 40 đề thi là một số Đề thi Quốc gia (từ năm 1994 đến năm
1998) và Đề thi Tỉnh (Thành phố) những năm gần đây. Mỗi đề thi bao gồm
các dạng bài tập phong phú, đa dạng về các bình diện: ngữ âm, từ vựng, ngữ
pháp, phong cách và cảm thụ văn học. Cuốn sách này cũng hỗ trợ đắc lực cho
việc bồi dưỡng học sinh khá, giỏi môn Tiếng Việt và đáp ứng yêu cầu thi
chọn học sinh giỏi bậc Tiểu học hằng năm của các địa phương.
Tác giả Diệp Quang Ban - Hoàng Văn Thung trong cuốn Ngữ pháp
tiếngViệt (NXB Giáo dục, 2006) đã bàn về ngữ pháp tiếng Việt, một số vấn
đề về từ, cấu tạo từ và từ loại tiếng Việt. Trong đó, vấn đề về cấu tạo từ với
việc phân loại từ được các tác giả trình bày rõ ràng, dễ hiểu và lôgic.
1
Năm 2008, các tác giả Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật và
Nguyễn Minh Thuyết đã biên soạn cuốn Dẫn luận ngôn ngữ học - NXB GD.
Các tác giả đã giới thiệu về ngôn ngữ, bản chất và chức năng, nguồn gốc và
sự phát triển của ngôn ngữ.
Qua cuốn Từ vựng học tiếng Việt, (NXB GD, 2010), tác giả Nguyễn
Thiện Giáp đã giới thiệu các vấn đề chung về từ vựng. Đặc biệt, trong phần
Dẫn luận, tác giả giới thiệu về những khái niệm cơ bản và cần thiết nhất được
đề cập đến trong từ vựng học của nhiều nước trên thế giới, những lí thuyết và
phương pháp nghiên cứu từ vựng học. Phần hai đề cập đến Ngữ - đơn vị
tương đương với từ. Phần ba đề cập đến nghĩa của từ, các hiện tượng xảy ra ở
các từ trong tiếng Việt.
Qua cuốn Bồi dưỡng học sinh giỏi tiếng Việt ở Tiểu học, (NXB ĐHSP,
2011), tác giả Lê Phương Nga đã giới thiệu về những biện pháp bồi dưỡng
hứng thú và vốn sống cho học sinh. Bên cạnh đó, tác giả còn đưa ra những
cách thức xây dựng bài tập Tiếng Việt và tổ chức thực hiện các bài tập Tiếng
Việt bổ trợ, nâng cao, các đề thi học sinh giỏi và trò chơi Tiếng Việt. Cuốn
sách giúp cho người học có hiểu biết về nội dung và phương pháp bồi dưỡng
học sinh giỏi Tiếng Việt ở Tiểu học.
Như vậy, đã có rất nhiều tác giả đề cập đến vấn đề về từ vựng Tiếng
Việt tiểu học. Tuy nhiên, chưa có tác giả nào đề cập cụ thể về việc xây dựng
bài tập bồi dưỡng kiến thức từ vựng cho học sinh tiểu học. Chính vì vậy,
chúng tôi quyết định chọn đề tài “Xây dựng bài tập bồi dưỡng kiến thức từ
vựng cho học sinh tiểu học” làm đề tài khóa luận của mình.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là nhằm xây dựng bài tập bồi
dưỡng kiến thức từ vựng cho học sinh tiểu học.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là bài tập bồi dưỡng kiến thức từ
vựng cho học sinh.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài này là bài tập kiến thức từ vựng của
học sinh lớp 3, lớp 4, lớp 5.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Có hai nhiệm vụ chính:
- Tìm hiểu cơ sở lí luận của đề tài.
- Xây dựng bài tập bồi dưỡng kiến thức từ vựng cho học sinh tiểu học.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp đọc tài liệu
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
- Phương pháp thống kê phân loại
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Nội dung khóa luận được chia thành
hai chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận của đề tài.
Chương 2. Xây dựng bài tập bồi dưỡng kiến thức từ vựng cho học sinh
tiểu học.
1
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Một số vấn đề chung về từ vựng tiếng Việt
Theo chiết tự, vựng là một yếu tố gốc Hán, có nghĩa là “sưu tập, tập
hợp”. Do đó, từ vựng là “sưu tập, tập hợp các từ của ngôn ngữ”. Nhưng trong
thực tế, nội dung của khái niệm này rộng hơn. Nó không chỉ bao gồm các từ
mà còn bao gồm cả các ngữ. Tức là các cụm từ sẵn có, tương đương với từ,
chẳng hạn các thành ngữ tiếng Việt như: nước đổ lá khoai, mẹ tròn con
vuông,… Tuy nhiên, trong các đơn vị từ vựng, từ là đơn vị cơ bản, vì nó do
các hình vị cấu tạo nên, muốn có các ngữ, trước hết phải có các từ.
Cái khó nhất trong việc định nghĩa từ là sự khác nhau về cách định
hình, về chức năng và những đặc điểm ý nghĩa của từ trong các ngôn ngữ. Vì
vậy, không có sự thống nhất trong cách định nghĩa và miêu tả các từ. Hiện
nay có tới trên 300 định nghĩa khác nhau về từ.
Theo từ điển bách khoa toàn thư: “Từ vựng tiếng Việt là một trong ba
phần cơ sở của tiếng Việt, bên cạnh ngữ âm và ngữ pháp. Từ vựng tiếng Việt
là đối tượng nghiên cứu cơ bản của ngành từ vựng học tiếng Việt, đồng thời
cũng là đối tượng nghiên cứu giao tiếp của các ngành ngữ pháp học tiếng
Việt, ngữ âm học tiếng Việt, phong cách học tiếng Việt, từ điển học tiếng
Việt… Ngành từ vựng học tiếng Việt nghiên cứu về các khía cạnh của từ vựng
tiếng Việt cũng chỉ phát triển mạnh trong giai đoạn gần đây”.
Chúng tôi đồng ý với định nghĩa về từ của tác giả Nguyễn Thiện Giáp:
Từ là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ, độc lập về ý nghĩa và hình thức. [9, 60- 61]
1
1.2. Nghĩa của từ
1.2.1. Khái niệm nghĩa của từ
“Nghĩa của từ” là một trong những khái niệm quan trọng nhất của ngôn
ngữ học. Có nhiều cách giải thích khác nhau về khái niệm này.
Quan điểm thứ nhất, một số người cho nghĩa của từ là sự vật hay hiện
tượng do từ biểu thị. Chẳng hạn, theo quan điểm này, nghĩa của từ nhà là bản
thân cái nhà có trong thực tế.
Theo quan điểm thứ hai, nghĩa của từ đồng nhất với khái niệm logic
hay biểu tượng tâm lí có liên hệ với từ ấy. Chẳng hạn: “nghĩa của từ trong
ngôn ngữ nào đó là tư tưởng của người nói thứ tiếng ấy của loài người”.
Quan điểm thứ ba về nghĩa của từ là quy nó về mối quan hệ giữa từ và
đối tượng. Quan điểm này xuất phát từ D. Locc trong cuốn “Thí nghiệm về trí
tuệ loài người”. Sau đó nhiều người khác tiếp tục ủng hộ A.A. Reformatskiy
viết: “Nghĩa, đó là quan hệ của từ với sự vật, hiện tượng mà nó biểu thị, đó là
quan hệ của sự kiện ngôn ngữ với sự kiện ngoài ngôn ngữ”.
Quan điểm thứ tư cũng cho nghĩa của từ là quan hệ giữa từ với khái
niệm, biểu tượng. Có thể nói, quan niệm này bắt nguồn từ học thuyết của F.
de Saussure về bản chất hai mặt của tín hiệu ngôn ngữ. Theo F. de Saussure:
“Nghĩa của từ là quan hệ của cái biểu hiện và cái được biểu hiện; trong đó, cái
biểu hiện là hình ảnh tâm lí của nó và cái được biểu hiện là tư tưởng”.
Trong số những định nghĩa về nghĩa của từ, định nghĩa của nhà ngôn
ngữ học Nga A.I. Smirnitckiy là định nghĩa mà chúng tôi tán thành: “Nghĩa
của từ là sự phản ánh hiển nhiên của sự vật, hiện tượng hay quan hệ trong ý
thức (hay sự cấu tạo tâm lí tương tự về tính chất, hình thành trên sự phản ánh
những yếu tố riêng rẽ của thực tế) nằm trong cấu trúc của từ với tư cách là
mặt bên trong của từ và so với nghĩa thì ngữ âm của từ hiện ra như vỏ vật chất
cần thiết không phải để biểu thị và trao đổi nghĩa đó với những người khác
1
mà còn cần thiết cho sự nảy sinh, hình thành, tồn tại và phát triển của nghĩa”.
[theo 10, 123]
1.2.2. Các thành phần ý nghĩa trong từ
1.2.2.1. Ý nghĩa biểu vật
Ý nghĩa biểu vật bắt nguồn từ chức năng biểu vật của từ. Ý nghĩa biểu
vật là ý nghĩa gọi tên các sự vật, hiện tượng, trạng thái, tính chất theo lối tổng
hợp tính.
1.2.2.2. Ý nghĩa biểu niệm
Ý nghĩa biểu niệm bắt nguồn từ chức năng biểu niệm của từ. Ý nghĩa
biểu niệm là ý nghĩa biểu thị khái niệm về sự vật, hiện tượng được nói tới
trong thực tế khách quan.
1.2.2.3. Ý nghĩa biểu thái
Ý nghĩa biểu thái bắt nguồn từ chức năng biểu thái của từ. Ý nghĩa biểu
thái là ý nghĩa biểu thị thái độ, tình cảm, cách đánh giá của người sử dụng
ngôn ngữ đối với thực tế khách quan được gọi tên.
1.3. Cấu tạo từ
1.3.1. Khái niệm cấu tạo từ
Cấu tạo từ là những vận động sản sinh ra từ cho hệ thống từ vựng. Đây
là loại vận động có tính chất đồng loạt sản sinh ra hàng loạt từ với cùng mô
hình và với cùng một kiểu ý nghĩa.
1.3.2. Đơn vị cấu tạo từ
Từ chưa phải là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ. Nếu phân tích từ thành
những bộ phận nhỏ hơn, ta thu được các từ tố. Từ tố là đơn vị nhỏ nhất có
nghĩa của ngôn ngữ.
Căn cứ vào ý nghĩa, người ta chia từ tố thành hai loại: chính tố và phụ
tố. Chính tố là hình vị mang ý nghĩa từ vựng, còn phụ tố là hình vị mang ý
nghĩa bổ sung hoặc ý nghĩa ngữ pháp. Ý nghĩa của chính tố thì cụ thể có liên
1
hệ logic với đối tượng, còn ý nghĩa của phụ tố thì trừu tượng, có liên hệ logic
với ngữ pháp. Ý nghĩa của chính tố hoàn toàn độc lập (tự nghĩa), còn ý nghĩa
phụ tố thì không độc lập (trợ nghĩa).
1.3.3. Phương pháp tạo từ
Phương pháp tạo từ là các cách thức tác động khác nhau vào hình vị để
tạo ra từ mới.
1.3.3.1. Từ hóa
Từ hóa hình vị là phương pháp tác động vào bản thân một hình vị có
nghĩa để biến hình vị thành từ mới mà ngữ âm vần giữ nguyên.
Mô hình từ hóa
A
A
Ăn
Ăn
Xanh
Xanh
Phương thức này tạo ra từ đơn một âm tiết. Hiện nay, hình vị tiếng Việt
đã được từ hóa hết, nên phương pháp này chỉ để từ hóa các yếu tố vay mượn
của nước ngoài.
Ví dụ: Radio
Ra- đi- ô
Phương thức từ hóa còn có tác dụng rút ngắn các từ ghép (độc lập hóa).
Hoặc rút ngắn các từ đa âm.
Ví dụ: Tổng số
Ngữ văn
Tổng
Văn
1.3.3.2. Phương thức láy
Phương thức láy là cách tác động vào một hình vị cơ sở có nghĩa làm
nảy sinh một hình vị láy có vỏ ngữ âm giống, gần giống với hình vị cơ sở. Cả
hình vị cơ sở và hình vị láy mới tạo ra một từ láy.
1
Mô hình phương thức láy
A
AA’
Nhỏ
Nho nhỏ
Lạnh
Lành lạnh
Quá trình láy: thực chất là quá trình hòa phối về mặt ngữ âm và mặt
ngữ nghĩa giữa hình vị gốc và hình vị láy. Về mặt ngữ âm, hòa phối thể hiện ở
việc lặp lại âm đầu, vần và thanh cao, thanh thấp.
Ngữ nghĩa: hình vị láy được tạo ra không có ngữ nghĩa. Ví dụ các từ:
nhỏ, nhen, nhẻ trong các từ láy: nho nhỏ, nhỏ nhen, nhỏ nhẻ là không có
nghĩa. Khi đó, ngữ nghĩa của hình vị gốc được san sẻ bớt. Do vậy, nghĩa của
từ gốc so với nghĩa của từ láy bị biến dạng.
1.3.3.3. Phương thức ghép
Phương thức ghép là phương thức tác động vào hai hay nhiều hơn hình
vị có nghĩa kết hợp chúng lại theo một ngữ nghĩa thành ngữ pháp nhất định để
tạo ra các từ ghép.
Mô hình phương thức ghép
A
+
B
AB
Nhà + cửa
Nhà cửa
Sách +
Sách vở
vở
1.3.4. Phân loại từ về cấu tạo ngữ pháp
Thực trạng của từ tiếng Việt cho ta nhiều cách tiếp cận về cấu tạo
ngữ pháp của chúng. Những cách tiếp cận này không bài xích lẫn nhau, giúp
bao quát được toàn bộ vốn từ tiếng Việt. Chúng tôi đồng ý với quan niệm của
tác giả Diệp Quang Ban về cách phân loại từ tiếng Việt: Đối với học sinh tiểu
học, chỉ xét cấu tạo từ về mặt số lượng. [1, 39 - 64]
a. Từ đơn
Từ đơn là từ chỉ chứa một tiếng. Trong tiếng Việt, dựa vào số lượng
âm tiết có trong những từ đơn, chia thành hai loại:
1
Các từ đơn chỉ có một âm tiết gọi là từ đơn đơn âm tiết. Loại này
mang đặc trưng chủ yếu của từ tiếng Việt dùng để cấu tạo hàng loạt các từ
phức. Ví dụ: học, chơi, ngủ,…
Các từ đơn có hai âm tiết trở lên. Ví dụ: mồ hôi, bồ hóng, cà phê, xà
phòng, châu chấu, cào cào, chuồn chuồn, cà chua, áo dài, ô tô, axit, aptit, mì
chính, lê ki ma,…
Mỗi từ đơn mang một ý nghĩa nhất định, riêng rẽ, không lập thành một
hệ thống. Do vậy, chúng ta phải ghi nhớ nghĩa của từng từ riêng rẽ.
b. Từ phức
Từ phức là từ có từ hai tiếng trở lên. Từ phức chia thành từ ghép và từ láy.
Từ ghép là những từ phức được tạo thành do phương thức ghép. Ví
dụ: xe đạp, ăn mặc, xinh đẹp,… Căn cứ vào mối quan hệ giữa các thành tố
trong từ ghép chia thành: từ ghép đẳng lập và từ ghép chính phụ. Từ ghép
đẳng lập là từ ghép gồm hai thành tố có quan hệ ngang bằng nhau về ý nghĩa
và mang ý nghĩa tổng hợp khái quát. Ví dụ: ăn uống, quần áo,… Từ ghép
chính phụ là từ ghép trong đó mối quan hệ giữa các thành tố là quan hệ chính
phụ. Ví dụ: xe máy, hoa hồng,…
Từ láy là từ phức được tạo ra nhờ phương thức láy. Ví dụ: long lanh,
xanh xanh, khấp khểnh,… Từ láy được chia thành: từ láy toàn bộ và từ láy bộ
phận. Từ láy toàn bộ là từ láy trong đó tiếng gốc được lặp lại toàn bộ ở tiếng
láy. Từ láy bộ phận gồm: từ láy âm và từ láy vần. Từ láy âm là từ có phụ âm
đầu trùng lặp và có phần vần khác biệt ở tiếng gốc và tiếng láy. Ví dụ: đủng
đỉnh, nhúc nhích, xấu xa, trống trải,… Từ láy vần là từ có phần vần trùng lặp
và có phụ âm đầu khác biệt ở tiếng gốc và tiếng láy. Ví dụ: chói lọi, bâng
khuâng, hấp tấp, khéo léo, khúm núm,…
1
1.4. Các hiện tượng của từ vựng tiếng Việt
1.4.1. Hiện tượng đa nghĩa
Từ có thể có một nghĩa, nhưng phần lớn các từ trong ngôn ngữ là
những từ có nhiều nghĩa.
Ví dụ: Từ “chân” có các nghĩa: một là, bộ phận dưới cùng của người
hay động vật, dùng để nâng đỡ và di chuyển thân thể: chân trái, chân bước đi.
Hai là, chân con người biểu trưng cho cương vị, tư thế trong tập thể, tổ chức:
Có chân trong Ban quản trị. Ba là, một phần tư con vật bốn chân khi làm thịt
chia ra: Đụng một chân lợn, chia cho mỗi nhà một chân. Bốn là, phần cuối
cùng của một số vật dùng để đỡ hoặc bám chắc trên mặt nền: chân bàn, chân
ghế, chân kiềng, chân núi…
Một từ mang hai nghĩa, đó là nghĩa gốc và nghĩa chuyển. Nghĩa gốc là
nghĩa làm cơ sở để chuyển nghĩa, hình thành các nghĩa khác (trong từ “chân”,
nghĩa đầu tiên - bộ phận dưới cùng của người hay động vật… là nghĩa gốc).
Nghĩa chuyển là nghĩa được hình thành trên cơ sở nghĩa gốc (trong từ “chân”
trên đây, các nghĩa 2, 3, 4 là các nghĩa chuyển).
Để hiểu đúng nghĩa của từ nhiều nghĩa, phải đặt từ trong ngữ cảnh,
trong mối quan hệ với những từ khác, câu khác trong văn bản.
1.4.2. Hiện tượng đồng nghĩa
Hiện tượng đồng nghĩa là hiện tượng ngữ nghĩa giữa các từ có nghĩa
giống nhau và có thể thay thế được cho nhau trong ngữ cảnh mà ý nghĩa của
ngữ cảnh không thay đổi.
Trong lịch sử ngôn ngữ học, khái niệm từ đồng nghĩa được xác định
một cách khác nhau.
Một số người căn cứ vào nghĩa sở chỉ coi từ đồng nghĩa là những tên
gọi khác nhau của cùng một sự vật, hiện tượng của thực tế khách quan. Khái
niệm về từ đồng nghĩa theo A.A. Reformatskiy: “… hai từ cùng gọi tên một
1
sự vật nhưng tương quan với sự vật đó với những khái niệm khác nhau và
chính vì vậy mà qua cách gọi tên bộc lộ nhiều thuộc tính khác nhau của sự
vật đó”.
Theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp định nghĩa về từ đồng nghĩa: “từ đồng
nghĩa là những từ gần nhau về nghĩa, nhưng khác nhau về âm thanh, biểu thị
các sắc thái của một khái niệm” [10, trang 192]. Vì vậy, chúng tôi tán thành
quan niệm của tác giả Nguyễn Thiện Giáp.
1.4.3. Hiện tượng trái nghĩa
a. Khái niệm
Từ trái nghĩa là hiện tượng không đơn giản, quan niệm cuả các nhà
ngôn ngữ học về từ trái nghĩa không hoàn toàn thống nhất. Tuy nhiên, điểm
chung được đề cập trong các quan niệm về từ trái nghĩa là: sự đối lập về
nghĩa.
Theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp, từ trái nghĩa là một trong những biện
pháp tổ chức từ vựng theo sự đối lập. Có thể định nghĩa “từ trái nghĩa là
những từ khác nhau về ngữ âm, đối lập về ý nghĩa biểu hiện khái niệm, tương
phản về logic, nhưng tương liên lẫn nhau”. [10, 205]
Theo tác giả Mai Ngọc Chừ, “từ trái nghĩa là những từ có nghĩa trái
ngược trong mối quan hệ tương liên. Chúng khác nhau về ngữ âm và phản
ánh những khái niệm tương phản lôgic”. [7, 199]
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đồng ý với quan niệm về từ trái
nghĩa của tác giả Mai Ngọc Chừ.
b. Từ trái nghĩa bộc lộ các mặt đối lập của các khái niệm tương liên và không
tương liên
Thứ nhất, từ trái nghĩa bộc lộ các mặt đối lập của các khái niệm tương
liên, gắn liền với một phạm vi sự vật. Chẳng hạn, bề sâu (sâu - nông), bề rộng
(rộng - hẹp), sức mạnh (mạnh - yếu), trọng lượng (nhẹ - nặng) v.v…
1
Thứ hai, các từ đối lập nhưng biểu hiện các khái niệm không tương liên
thì không phải là các từ trái nghĩa.
Thứ ba, có hai kiểu đối lập trong từ trái nghĩa: một là, sự đối lập về
mức độ của các thuộc tính, phẩm chất của sự vật, hiện tượng. Ví dụ: già - trẻ,
cao - thấp, lớn - bé. Hai là, sự đối lập loại trừ nhau. Ví dụ: mua - bán, vào - ra.
Thứ tư, từ trái nghĩa phải gắn liền với tính cân xứng, nghĩa là dung
lượng ngữ nghĩa của các từ trái nghĩa phải tương đương với nhau trong khi
hướng theo các chiều khác nhau. Ví dụ: to - nhỏ, ngắn- dài,…
Cuối cùng, hiện tượng trái nghĩa tiếng Việt chủ yếu là sự đối lập của
những từ khác nhau. Ví dụ: to - nhỏ, dài - ngắn. Tuy nhiên cũng có thể cấu
tạo các cặp từ trái nghĩa mới trên cơ sở các từ gốc vốn đã trái nghĩa.
Ví dụ:
ăn mặn - ăn nhạt
xấu mặt - đẹp mặt
khéo nói - vụng nói
siêng làm - nhác làm
1.4.4. Hiện tượng đồng âm
a. Khái niệm
Theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp, từ đồng âm là những từ giống nhau
về âm thanh nhưng có những ý nghĩa hoàn toàn khác nhau, chúng trùng với
nhau cả về âm lẫn chữ viết trong tất cả (hoặc hàng loạt) hình thái ngữ pháp
vốn có của chúng.
Cấu trúc âm tiết tiếng Việt gồm năm thành phần: âm đầu, vần, điệu;
vần lại chia ra âm chính, âm cuối và âm đệm. Mỗi thành phần của âm tiết làm
thành một đối hệ, do đó năm thành phần cấu tạo âm tiết luôn luôn có mặt. Vì
vậy hiện tượng đồng âm tiếng Việt rất phổ biến và phổ biến hơn các ngôn ngữ khác.
b. Phân loại từ đồng âm
Nếu các từ này trùng nhau trong tất cả các dạng thức ngữ pháp của
mình thì đó là những từ đồng âm hoàn toàn.
1
Nếu các từ chỉ trùng nhau trong một loạt hình thái của mình thì đó là
những từ đồng âm không hoàn toàn.
1.5. Đơn vị từ vựng tương đương với từ - ngữ
1.5.1. Ngữ định danh
a. Định nghĩa
Ngữ định danh là những cụm từ biểu thị các sự vật, hiện tượng hay khái
niệm nào đó của thực tế. Nó bao gồm những cụm từ thường được gọi là từ
ghép như: xe đạp, cá vàng, cà chua, áo dài,… và những cụm từ thường được
gọi là ngữ cố định như: đường đồng mức, phương nằm ngang, máy hơi
nước,…
b. Phân loại ngữ định danh
Ngữ định danh phân thành: ngữ định danh hợp kết và ngữ định danh
hòa kết.
Ngữ định danh hợp kết là những cụm từ mà ý nghĩa của chúng có thể
phân tích thành những yếu tố nghĩa tương ứng với ý nghĩa của từng bộ phận
tạp thành. Ví dụ: búa đinh có nghĩa là “búa nhỏ để đóng đinh”. Ý nghĩa này
có thể phân tích thành hai yếu tố nghĩa: ý nghĩa “dụng cụ để đập, đóng, nện”
do từ búa biểu thị và ý nghĩa “nhỏ, chuyên dùng để đóng đinh” do từ đinh
biểu thị.
Ngữ định danh hòa kết là những cụm từ mà ý nghĩa của chúng không
thể phân tích thành các yếu tố nghĩa tương ứng với ý nghĩa của các bộ phận
tạo thành. Ví dụ: mắt cá với nghĩa “đầu xương chồi ra ở đầu cổ chân” là một
ngữ định danh hòa kết bởi vì không thể phân tích ý nghĩa của mắt cá thành ý
nghĩa của mắt + ý nghĩa của cá.
1.5.2. Thành ngữ
a. Định nghĩa
Thành ngữ là cụm từ cố định vừa có tính hoàn chỉnh về nghĩa, vừa có
tính gợi cảm. Ví dụ: chó ngáp phải ruồi, hồn xiêu phách lạc, thắt lưng buộc
bụng, lừ đừ như ông từ vào đền, một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ…
1
b. Phân loại thành ngữ
Căn cứ vào tính hình tượng - đặc trưng cơ bản của thành ngữ - được
xây dựng trên cơ sở của phương thức so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, chia thành ba
loại: thành ngữ so sánh, thành ngữ ẩn dụ, thành ngữ hoán dụ. [15, 37 - 38]
Thành ngữ so sánh được hình thành do nhiều nguyên nhân phức tạp.
Trong đó thực tế xã hội, đặc điểm tâm lí, truyền thống văn hóa – lịch sử đóng
vai trò quan trọng. Ví dụ: khỏe như voi, nhanh như sóc, trắng như tuyết, lù đù
như chuột chù phải khói,…
Thành ngữ ẩn dụ khác với thành ngữ so sánh là nó có nghĩa tổng hợp,
tức là không thể phân tích ra thành các yếu tố. Ví dụ: gậy ông đập lưng ông,
cõng rắn cắn gà nhà, con nhà lính tính nhà quan,…
Thành ngữ hoán dụ (giống thành ngữ ẩn dụ) luôn có hai nghĩa: nghĩa
đen và nghĩa bóng. Nghĩa đen do bản thân tổ hợp từ mang lại, còn nghĩa bóng
có tính trừu tượng, khái quát, đồng thời mang màu sắc cảm xúc. Ví dụ: một
nắng hai sương, nhà tranh vách đất, ruộng sâu trâu nái,…
1.5.3. Quán ngữ
Theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp, quán ngữ là những cụm từ được dùng
lặp đi lặp lại trong các loại văn bản để liên kết, đưa đẩy, rào đón hoặc nhấn
mạnh nội dung cần diễn đạt nào đó. Mỗi phong cách thường có những quán
ngữ riêng, chẳng hạn các quán ngữ: của đáng tội, nói khí vô phép, nói bỏ
ngoài tai,…thường được dùng trong phong cách hội thoại. Các quán ngữ: như
trên đã nói, thiết nghĩ, nói cách khác, một mặt thì, mặt khác thì, nghĩa là,
đáng chú ý là,…thường được dùng trong phong cách sách vở.
1.5.4. Ngữ láy âm
Ngữ láy âm là những đơn vị được hình thành do sự lặp lại hoàn toàn
hay lặp lại có kèm theo sự biến đổi ngữ âm nào đó của từ đã có. Chúng vừa có
sự hài hòa ngữ âm, vừa có giá trị gợi tả, gợi cảm.
1
Ngữ láy âm là một hiện tượng ghép đặc biệt: một đơn vị được ghép với
chính nó để tạo ra đơn vị mới. Nếu như ở ngữ định danh và thành ngữ có hiện
tượng láy nghĩa với những mức độ khác nhau thì trong ngữ láy âm, chẳng
những có hiện tượng láy âm mà cũng còn có hiện tượng láy nghĩa. Do sự hòa
phối ngữ âm của từ gốc và sản phẩm láy lại của nó khiến cho ngữ láy âm phát
huy cao độ được giá trị của âm thanh và nhịp điệu. Vì vậy, ngữ láy âm trở
thành một loại đơn vị có sức gợi cảm hình tượng.
1.6. Con đường làm giàu từ vựng tiếng Việt
1.6.1. Phát triển thêm ý nghĩa mới
Theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp, có rất nhiều hiện tượng phát triển ý
nghĩa của các đơn vị từ vựng. Nhưng tựu chung, các hiện tượng đó xoay
quanh hai quá trình: một là mở rộng hoặc thu hẹp ý nghĩa vốn có và hai là
chuyển đổi tên gọi - ẩn dụ hoặc hoán dụ.
Theo con đường này, mặt ngữ âm của các đơn vị từ vựng vốn có vẫn
giữ nguyên, nhưng mặt ngữ nghĩa lại biến đổi, phát triển phong phú hơn. Thứ
nhất, sự phát triển thêm ý nghĩa mới chỉ tạo ra một sắc thái mới về nghĩa chứ
chưa tạo ra ý nghĩa mới. Thứ hai, nó tạo ra một nghĩa mới nhưng chỉ là nghĩa
lâm thời trong ngữ cảnh. Thứ ba, sự biến đổi ý nghĩa đã thực sư tạo ra các ý
nghĩa mới. Thứ tư, sự biến đổi nghĩa không chỉ tạo ra nghĩa mới mà còn tạo ra
một từ mới, đồng âm với từ cũ.
Có hai nguyên nhân phát triển nghĩa của từ: một là sự giống nhau hoặc
gần nhau của những cái được biểu hiện. Hai là do sự gần nhau của những cái
biểu hiện. Ví dụ cách dùng từ bom trong: Thực dân Pháp bom xuống Điện
Biên Phủ, có người giải thích là do sự chuyển loại của từ bom, song đó cũng
có thể là kết quả của hiện tượng tỉnh lược động từ ném.
1
1.6.2. Những sáng tạo mới
Trong tiếng Việt, không có sẵn các từ tượng thanh cố định mà tùy theo
tình huống, người viết, người nói có thể tạo ra những từ tượng thanh mới. Ví
dụ: tắc bọp, pằng pằng, oàng, chíu…
Hay như hoạt động kinh tế của nước ta hiện nay rất sôi động. Vì vậy
cũng có nhiều tên gọi mới ra đời đáp ứng những sự vật mới nảy sinh. Những
tên gọi này được tạo ra bằng cách dịch tổ hợp định danh đầy đủ ra tiếng nước
ngoài rồi cấu tạo lại trên cơ cở tiếng nước ngoài:
Ngân hàng phát triển nhà ở Hà Nội
Hanoi Building
Bank
HABUBANK
Công ti điện tử Hà Nội
Hanoi Electronics Company
HANEL
Không thể coi những tên gọi trên là mượn của tiếng Anh, cũng không
thể coi chúng là sự rút gọn của các tên gọi đầy đủ trong tiếng Việt. Vậy có thể
coi chúng là những sáng tạo mới trong tiếng Việt.
1.6.3. Biến dạng những đơn vị đã có
Có các hiện tượng như: biến âm một từ sẵn có để tạo ra những biến đổi
mới. Ví dụ: anh hùng - yên hùng, ấm ớ - dấm dớ, hòa - huề, thành - thiềng,
xao xác - xào xạc…
Các thành ngữ khi sử dụng cũng có thể tạo ra những biến thể khác
nhau. Ví dụ: chết nết không chừa biến thể thành: chết nết chẳng chừa, chết
nết mà không chừa, chết thì chết nết không chừa. Tai nghe mắt thấy biến thể
thành: nhìn thấy tận mắt, nghe thấy tận tai. Một cổ hai tròng biến thể thành:
hai tròng vào một cổ.
Ngoài ra, theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp [10, 304], có hai kiểu sáng
tạo ra thành ngữ: thứ nhất, cải biến thành ngữ cũ, tạo ra một đơn vị có ý nghĩa
hoàn toàn mới. Thứ hai, thành ngữ mới chỉ phỏng theo mô hình cấu tạo của
1
thành ngữ cũ. Còn hình ảnh cụ thể thì căn cứ vào kết quả quan sát những hiện
tượng diễn ra trong đời sống hàng ngày.
1.6.4. Ghép các yếu tố sẵn có
Các từ vựng tiếng Việt mới hầu hết được cấu tạo theo phương thức này
như: đánh úp, ớt chỉ thiên, đào lộn hột, rau tàu bay, bột ngọt, chuối lùn, chuối
mắn, dưa bở,…
Một số thành ngữ mới được cấu tạo theo phương thức ghép: một tấc
không đi, một li không rời; nghị quyết túi áo thông báo túi quần,…
Các yếu tố sẵn có không phải chỉ là những từ thuần Việt, mà còn bao
gồm cả những từ Hán - Việt đã nhập vào tiếng Việt từ trước. Đó là những từ
gồm một từ Việt ghép với một từ Hán - Việt: binh lính, lí lẽ, núi non, ca hát,
máu huyết, bệnh viện,…
1.6.5. Phương thức phức hợp
Đó là một số từ như: Thanh thiếu nhi, trang thiết bị, công nông binh,
công nông nghiệp, đặc công,… Theo một số nhà nghiên cứu cho rằng đây là
hiện tượng nói tắt. Có tác giả cho rằng đây là hiện tượng nói gộp, hiện tượng
này tương tự như hiện tượng blending trong tiếng Anh như:
smog
smoke
khói lẫn sương)
+
(khói)
fog
(sương)
Chúng tôi đồng ý với quan niệm của tác giả Nguyễn Thiện Giáp, hiện
tượng này được gọi là hiện tượng phức hợp.
1.6.6. Phương thức rút gọn
Phương thức rút gọn là phương thức tạo ra đơn vị từ vựng mới bằng
cách lược bớt một phần của đơn vị đã có.
Ví dụ:
mệnh lệnh
lệnh
1
tri huyện
huyện
kì hạn
hạn
đảm đang
đảm
trọng điểm
điểm
Thái Nguyên
Thái
1.6.7. Phương thức viết tắt
Theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp, viết tắt (acronym) là hiện tượng chỉ
ghi chữ cái đầu của các từ trong một tên ghép.
Ví dụ:
ATK (đọc: a ka zet)
súng không giật
TƯ (đọc: tê ư)
trung ương
ĐHQGHN
Đại học Quốc gia Hà Nội
VPQH
Văn phòng Quốc hội
Trường hợp chữ cái đầu của hai từ giống nhau thì để phân biệt, đối với
từ thứ hai người ta ghi chữ cái đầu và một chữ cái nữa trong từ đó.
Ví dụ:
Thủ tướng
ttg
1.6.8. Tiếp nhận từ các ngôn ngữ khác
Trong quá trình phát triển của đất nước về mọi phương diện thì tiếng
Việt cũng trở nên phát triển bằng việc tiếp nhận thêm nhiều từ ngữ, nhiều ý
nghĩa và cách cấu tạo từ của ngoại ngữ. Việc tiếp nhận từ các ngôn ngữ khác
làm cho từ vựng tiếng Việt giàu và đẹp. Đó là các kiểu như sau:
Từ ngoại lai là những từ mà tiếng Việt tiếp nhận của các ngôn ngữ khác
cả về nội dung và hình thức. Các từ ngoại lai bắt nguồn từ các ngôn ngữ trên
thế giới như tiếng Hán, ví dụ: quẩy, sá xíu, tú lơ khơ, mì chính,… Tiếng Pháp,
ví dụ: cà rốt, xi măng, pianô, sô cô la,… Tiếng Nga, ví dụ: bônxêvích, xô
viết,…
Chữ viết tắt ngoại lai cũng được tiếp nhận vào tiếng Việt.
1
Ví dụ:
UNESCO: United Nations Educational Scientific and Cultural
Ognization (Tổ chức Văn hóa Giáo dục Khoa học thế giới)
WB
: World Bank (Ngân hàng quốc tế)
Ghép lai là quá trình trong đó một phần là bản ngữ, một phần là ngoại
lai, nhưng ý nghĩa thì hoàn toàn ngoại lai.
Ví dụ: đài rađa, áo vét, oxy hóa, xe ôtô, rượu sâm banh, lôgic học, xe
tăng, máy ngắm lade, sóng rađiô,…
Theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp, sao phỏng cấu tạo từ là quá trình
dùng chất liệu của tiếng Việt để cấu tạo một đơn vị từ vựng dựa theo mẫu về
kết cấu của đơn vị tương ứng trong ngoại ngữ nào đó.
Ví dụ:
máy bay
phi cơ
đường lối quần chúng
quần chúng lộ tuyến
vùng biển
hải phận
vùng trời
không phận
xe lửa
hỏa sa
Sao phỏng ý nghĩa là quá trình trong đó ý nghĩa của từ là ngoại lai, còn
hình thức của từ là bản ngữ. Ví dụ: căn cứ vào nghĩa của từ pedan, người Việt
dịch là bàn đạp.
Trên đây là một số vấn đề chung về từ vựng, là những tiền đề để giúp
chúng tôi có thể đi vào nghiên cứu việc xây dựng bài tập bồi dưỡng kiến thức
từ vựng cho học sinh tiểu học.
1
Chương 2
XÂY DỰNG BÀI TẬP BỒI DƯỠNG KIẾN THỨC TỪ VỰNG
CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
Bài tập từ vựng là loại kiến thức khó đối với học sinh tiểu học. Vì vậy,
để giúp các em học tốt kiến thức này, cần phải dựa vào những căn cứ xây
dựng bài tập, các nguyên tắc và các bước xây dựng các dạng bài tập cụ thể,
chi tiết.
2.1. Những căn cứ xây dựng bài tập
2.1.1. Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học
Theo PGS.TS Bùi Văn Huệ, Giáo trình tâm lí học, NXB Giáo dục,
2004, học sinh tiểu học ngày nay có một số đặc điểm:
- Mỗi học sinh tiểu học là một chỉnh thể, thực thể hồn nhiên.
- Mỗi học sinh tiểu học là một nhân cách đang hình thành.
Ở tuổi này, các đặc điểm về tri giác, chú ý, tư duy, tưởng tượng. trí nhớ,
nhân cách của các em chưa được phát triển một cách hoàn thiện. Tư duy trực
quan hình ảnh chiếm ưu thế. Vì vậy, những gì trực quan, sinh động được các
em trực giác tốt hơn.
Đặc điểm sinh lí lứa tuổi này cần phải chú ý: não và hệ thần kinh phát
triển đến dần hoàn thiện nên các em dễ bị kích thích. Do đó, cần tránh nạt nộ,
quát mắng, ngắt lời thô bạo… khi các em học tập. Giáo viên cần tế nhị trong
quá trình dạy học
2.1.2. Chương trình tiểu học
Môn Tiếng Việt trong chương trình tiểu học được chia thành sáu phân
môn. Đó là: Tập đọc, Luyện từ và câu, Tập viết, Tập làm văn, Chính tả và Kể
chuyện. Trong đó, phân môn Luyện từ và câu dạy cho học sinh kiến thức về
từ và câu (hay nói cách khác là từ ngữ và ngữ pháp). Chỉ khi lên lớp 2, các em
1