Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Truyện ngụ ngôn dân gian với việc giáo dục trẻ mẫu giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.58 KB, 42 trang )

Khoá luận tốt nghiệp

Tr-ờng ĐHSP Hà Nội 2

Tr-ờng đại học s- phạm hà nội 2
Khoa giáo dục tiểu học
.............*****.............

NGUYễN THị TRà MY

TRUYệN Ngụ NGÔN DÂN GIAN VớI
VIệC GIáO DụC TRẻ MẫU GIáO

khóa luận tốt nghiệp đại học

Chuyên ngành: Văn học thiếu nhi

Hà NộI 2010

SV: Nguyễn Thị Trà My K32 GDMN

1


Khoá luận tốt nghiệp

Tr-ờng ĐHSP Hà Nội 2

Mục lục
Trang
Mở đầu .................................................................................................. 3


1. Lý do chọn đề tài ................................................................................... 3
2. Lịch sử nghiên cứu ................................................................................ 4
3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................. 4
4. Ph-ơng pháp nghiên cứu ....................................................................... 4
NộI DUNG CHíNH ................................................................................. 5
Ch-ơng 1: CƠ Sở Lý LUậN ................................................................... 5
1.1. Tổng quan về truyện ngụ ngôn dân gian ............................................ 5
1.1.1. Định nghĩa truyện ngụ ngôn dân gian ............................................. 5
1.1.2. Đặc điểm truyện ngụ ngôn dân gian ............................................... 8
1.1.3. Truyện ngụ ngôn dân gian với trẻ em ........................................... 14
Ch-ơng 2: Truyện ngụ ngôn dân gian với Việc giáo dục
trẻ mẫu giáo16
2.1. Truyện ngụ ngôn dân gian với tâm lý trẻ mẫu giáo ......................... 16
2.2. Truyện ngụ ngôn dân gian với việc giáo dục nhận thức cho trẻ mẫu
giáo .......................................................................................................... 16
2.2.1. Nhận thức về thế giới khách quan ................................................. 17
2.2.2. Nhận thức về những nguyên tắc của đạo lý làm ng-ời ................. 19
2.3. Truyện ngụ ngôn dân gian với việc giáo dục tình cảm đạo đức cho trẻ
mẫu giáo ................................................................................................. 20
2.4. Truyện ngụ ngôn dân gian với việc giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu
giáo .......................................................................................................... 25
2.4.1. Giáo dục về cái đẹp, cái thiện ....................................................... 25
2.4.2. Giáo dục trẻ mẫu giáo nhận thức và biết tránh điều xấu, điều ác 26
2.5. Giảng dạy truyện ngụ ngôn dân gian trong tr-ờng mầm non .......... 28

SV: Nguyễn Thị Trà My K32 GDMN

2



Khoá luận tốt nghiệp

Tr-ờng ĐHSP Hà Nội 2

2.5.1. Vai trò, ý nghĩa của việc dạy truyện ngụ ngôn dân gian trong
tr-ờng mầm non ..................................................................................... 28
2.5.2. Giảng dạy truyện ngụ ngôn dân gian trong tr-ờng mầm non ....... 29
Kết luận ............................................................................................ 36
Tài liệu tham khảo ....................................................................... 38

SV: Nguyễn Thị Trà My K32 GDMN

3


Khoá luận tốt nghiệp

Tr-ờng ĐHSP Hà Nội 2

Mở đầu

1. lý do chọn đề tài:
nhà văn Nga Macxim Gorki đã nói: văn học là nhân học. Trong đời
sống con ng-ời, từ lâu văn học đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu. Với
t- cách là một hình thái ý thức xã hội, một loại hình nghệ thuật, văn học làm
phong phú hơn những hiểu biết của con ng-ời, góp phần hình thành nhân
cách, đem lại cảm xúc lành mạnh cho mỗi tâm hồn.
Văn học có vai trò quan trọng nh- vậy nên ngay từ bậc học Mầm non,
từ lâu đã có một bộ phận đông đảo các nhà văn rất tâm huyết sáng tác cho các
em nh- Tô Hoài, Võ Quảng, Phạm Hổbên cạnh đó cũng cũng xuất hiện

những cây bút vẫn còn ở tuổi thiếu nhi, nh-ng cũng để lại những tác phẩm rất
có giá trị về cả nội dung và nghệ thuật nh- Trần Đăng Khoa, Nguyễn Hồng
Kiên, Văn học thiếu nhi hiện đại đã để lại nhiều thành tựu to lớn nh-ng
chúng ta cũng không thể phủ nhận đ-ợc những ảnh h-ởng sâu sắc của dòng
văn học dân gian với trẻ em nh-: Truyện cổ tích, truyền thuyết, ca daovà
đặc biệt là Truyện ngụ ngôn.
Truyện ngụ ngôn có thể nói là một trong những thể loại truyện góp
phần làm nên sự đa dạng và phong phú của nền văn học nói chung và nền văn
học dân gian nói riêng. Cùng với việc đấu tranh trực diện nhằm phê phán
những thói h-, tật xấu trong dân gian, loại truyện này dùng cách m-ợn lời ngụ
ý, m-ợn lời các con vật, đồ vật, chim muông, hoa lá để nói về con người,
gửi vào đó một ý t-ởng, một nhận xét về nhân tâm, thế sự, một bài học về kinh
nghiệm sống hay một điều răn dạy về đạo lý làm ng-ời.
Ngụ ngôn có cốt truyện ngắn nh-ng rất cô đọng, hàm xúc và giàu sức
biểu hiện, nó là một thể loại rất gần gũi với mọi ng-ời, mọi tầng lớp nhân dân

SV: Nguyễn Thị Trà My K32 GDMN

4


Khoá luận tốt nghiệp

Tr-ờng ĐHSP Hà Nội 2

và đặc biệt là với trẻ em. Giáo dục trẻ em bằng ngụ ngôn là việc làm hay và bổ
ích phù hợp với đặc điểm tâm lý và đặc điểm t- duy nhận thức của các em
Việc nghiên cứu đề tài Truyện ngụ ngôn dân gian với việc giáo dục
trẻ mẫu giáo có ý nghĩa quan trọng, nó giúp tôi có thêm hiểu biết sâu sắc hơn
về một khía cạnh của truyện ngụ ngôn dân gian, giúp tôi cảm thụ đ-ợc cái

hay, cái đẹp và các giá trị t- t-ởng trong mỗi câu chuyện để từ đó có kiến thức
vững chắc, có ph-ơng pháp giảng dạy khoa học, hiệu quả. Đặc biệt thông qua
các tác phẩm đó, bồi d-ỡng giáo dục đạo đức, t- t-ởng, tình cảm và thẩm mĩ
cho trẻ Mầm Non.
2 - Lịch sử nghiên cứu.
Đã có rất nhiều tác giả quan tâm, tìm hiểu và nghiên cứu về Truyện ngụ
ngôn dân gian vì đó là một thể loại hấp dẫn mang những giá trị sâu sắc. Tuy
nhiên việc nghiên cứu cụ thể về đề tài Truyện ngụ ngôn dân gian với việc
giáo dục trẻ Mẫu giáo thì cho đến nay ch-a có một công trình nghiên cứu cụ
thể nào đ-ợc công bố. Tôi lựa chọn đề tài này và hiểu rằng những thành quả
nghiên cứu của các tác giả tr-ớc đó có giá trị vô cùng quý báu, chúng mở ra
h-ớng giúp tôi tiếp cận và nghiên cứu thành công đề tài này.
3 - Mục đích nghiên cứu.
Tác giả khoá luận đề tài Truyện ngụ ngôn dân gian với việc giáo dục
trẻ Mẫu giáo để thấy đ-ợc nét độc đáo của Truyện ngụ ngôn dân gian, khám
phá giá trị, ý nghĩa giáo dục của nó đối với trẻ Mẫu giáo về t- t-ởng, tình
cảm, đạo đức và thẩm mĩ. Giúp bạn đọc gần xa có sự hiểu biết sâu sắc hơn về
giá trị giáo dục mà truyện ngụ ngôn mang lại.
4 - Ph-ơng pháp nghiên cứu
Ph-ơng pháp tổng hợp lý luận.
Ph-ơng pháp phân tích, tổng hợp.
Ph-ơng pháp đọc sách và tài liệu.

SV: Nguyễn Thị Trà My K32 GDMN

5


Khoá luận tốt nghiệp


Tr-ờng ĐHSP Hà Nội 2

Nội Dung Chính
Ch-ơng I. Cơ sở lý luận
1.1. Tổng quan về truyện ngụ ngôn dân gian:
1.1.1. Định nghĩa truyện ngụ ngôn dân gian:
Thành tựu của phôncơlo học Việt Nam từ mấy thập kỉ nay đã khẳng
định văn học dân gian là một tài sản vô cùng quý giá của dân tộc ta ở mọi thời
đại. Việc s-u tầm, gìn giữ nó đã khó nh-ng việc hiểu nó, đ-a nó vào đời sống
của mọi ng-ời ở mọi tầng lớp lại càng khó hơn. Bởi vì cái đẹp, cái duyên dáng
của nó chẳng khác nào nhị hoa đ-ợc bọc trong những lớp cánh hoa rực rỡ.
Nếu ta không biết cách và không khéo lật từng cánh hoa thì chẳng bao giờ
chúng ta đ-ợc th-ởng thức mùi h-ơng quyến rũ đó. Và nh- thế chẳng khác
nào những viên ngọc trai vẫn chìm sâu d-ới đáy biển. Chính vì muốn đ-a vật
báu đó trở lại với đời, làm đẹp cho đời, nên từ x-a đến nay ng-ời ta không
ngừng khám phá, tìm hiểu nó. Và công việc đó đã trở thành khát vọng văn học
ở mọi thời đại. Điều này đã đ-ợc khẳng định bởi vì văn học dân gian là kết
quả nhận thức thẩm mĩ trong lịch sử của cả cộng đồng. Khi chúng ta có nó
trong tay thì từ nội dung đến hình thức của nó đã trở thành ý tưởng thẩm mĩ
của cả cộng đồng, trở thành khái niệm riêng của cả dân tộc [lịch sử văn học
Việt Nam- tập 1-trg 05]
Với sự phong phú và đa dạng về thể loại, văn học dân gian đã mang đến
cho ng-ời đời những giá trị tinh thần hết sức to lớn. Nó giúp cho mọi ng-ời
hiểu mình, hiểu ng-ời và hiểu cuộc đời hơn. Bên cạnh những câu chuyện thần
thoại li kì, hấp dẫn, bên cạnh những lời tâm tình, chia sẻ và sự cảm thông của
truyện cổ tích, sự ngọt ngào của dòng sữa mẹ trong những câu ca dao, thì
truyện ngụ ngôn đến với mọi ng-ời không ồn ã nh-ng dung dị, thấm thía biết

SV: Nguyễn Thị Trà My K32 GDMN


6


Khoá luận tốt nghiệp

Tr-ờng ĐHSP Hà Nội 2

bao bởi vì khi đọc nó, ng-ời ta không chỉ cảm giác mà nghĩ đó chính là việc
đời đang xảy ra với chính mình.
truyện ngụ ngôn dân gian là những sáng tác của nhân dân, đ-ợc l-u
truyền từ đời này qua đời khác. Theo từ nguyên, ngụ ngôn là những lời nói có
ngụ ý, truyện ngụ ngôn là những truyện ngắn hoặc dài, văn xuôi hoặc văn vần,
có ngụ ý, có hàm chứa một bài học đạo lí, một nhận xét về thực tế xã hội, một
quan niệm triết lí, nhân sinh.
Trên thế giới khi nhắc đến truyện ngụ ngôn ng-ời ta th-ờng nghĩ đến
các sáng tác ngụ ngôn nổi tiếng của Êdốp (Hi lạp cổ đại), Laphôngten (Pháp),
Crulop (Nga), Trang Tử, Liệt Tử (Trung Quốc) các nhà t- t-ởng x-a đã dùng
thể văn ngụ ngôn để diễn tả ý t-ởng của mình.
Ôn Nh- Nguyễn Văn Ngọc đã viết về truyện ngụ ngôn trong Tựa sách
Đông Tây Ngụ Ngôn: cách trực tiếp dùng đã không xong, ng-ời làm cha,
làm anh, làm thầy mới dùng đến cách gián tiếp. Nghĩa là đem cái ý nghĩa này
mà gửi vào nhời, mà đ-a ra các t- t-ởng của mình, mà m-ợn ng-ời khác,
mượn loài vật, mượn cây cối, mượn thần, mượn phật, dẫn ra cho đắc lực
bởi vậy mà ngụ ngôn mới hữu dụng, bởi vậy mà ngụ ngôn thành có thế.
M-ời câu ngụ ngôn mà họ thích đến chín câu ngụ ngôn thập cửu Trang Tử
đời x-a nói câu nh- thế là hiểu cái nhẽ đó. Trang tử làm sách, hơn m-ời vạn
nhời, mà dùng toàn nhời ngụ ngôn là thi hành cái nhẽ đó. Laphôngten sau này
cũng hiểu và thi hành nhẽ đó, nên cũng mới làm sách ngụ ngôn và cũng có
câu này cứ nói thuần tuý thì dễ sinh lòng chán nản có m-ợn truyện kể ra thì
luận lí mới trôi chảy

ở Việt Nam, ngụ ngôn là một pho triết lí dân gian độc đáo, ngụ ngôn
không những đựơc kể xuôi, kể vần mà còn có cả truyện thơ ngụ ngôn nhTruyện Trê cóc, Lục súc tranh công, Hai ông phật cãi nhau, ngoài ra còn
có cả ca dao ngụ ngôn (Con Mèo mà trèo cây cau, Con Gà cục tác lá
chanh, Con Cò mà đi ăn đêm, Con Kiến mà kiện củ khoai ),

SV: Nguyễn Thị Trà My K32 GDMN

7


Khoá luận tốt nghiệp

Tr-ờng ĐHSP Hà Nội 2

Tựa sách Đông Tây ngụ ngôn, Ôn Nh- Nguyễn Văn Ngọc viết: Chữ
ngụ có nghĩa là gá gửi, chữ ngôn có nghĩa là nhời nói. Ta dùng hai chữ
ngụ ngôn để chỉ các lối văn hoặc văn xuôi, hoặc văn vần, th-ờng đặt thành
câu chuyện đem kể rôì nhân câu chuyện dẫn lời quy châm về luôn th-ờng đạo
lí, để cảm hoá lòng người và nói ngay hay trái tai. Trò đời x-a nay vẫn thế:
cứ đem một sự thật chần chần ra mà dạy ng-ời có phần nh- hơi ép cung không
đ-ợc dễ dàng Cách ngôn, huấn ngôn dạy nhời nào ai chẳng quý hoá, chẳng
khâm phục, tuy nó vẫn nh- còn treo cao, còn để xa, không đ-ợc thiết tha gần
nhân tâm cho lắm nên nghiêm trang đính chính mà dạy đạo đức là một cách,
thì vui c-ời hỉ hả mà dạy đạo đức là một cách khác, và cách sau đem so với
cách tr-ớc, có phần dễ đ-ợc việc, chóng lên công hơn. Viên thuốc để chữa
bệnh mà phải bọc ngoài cho đẹp nh- kẹo mới dễ khiến ng-ời nuốt thì chân lí
muốn dễ thấm thía vào tâm linh ng-ời ta, cũng phải lựa một con đ-ờng nào đó
cho dễ đi, cho chóng lọt vào đến nơi đ-ợc.
Một tác giả khác, Đinh Gia Khánh cũng đã xác định: truyện ngụ ngôn
là một loại truyện chứa đựng một sự tích hoàn toàn t-ởng t-ợng, một quan

niệm triết lý hay đạo đức, một kinh nghiệm sống đã đ-ợc tổng kết và nh- vậy
là truyện ngụ ngôn có hai phần: phần cụ thể là truyện kể, phần trìu t-ợng là ý
niện rút ra từ trong đó có thể gọi là lời quy châm.
Giáo sư Bùi Văn Nguyên lại quan niệm: truyện ngụ ngôn là một loại
truyện th-ờng hay dùng cách ẩn dụ, thể hiện bằng cách nói gián tiếp, m-ợn
truyện loài vật hoặc bất cứ cái gì có trong vũ trụ mà ngụ ngôn loài ng-ời để
thuyết minh cho một chủ đề luân lí, triết lý, một quan niệm nhân sinh hay một
thực tế xã hội.
Dù nói thế nào, mỗi quan niệm của mỗi tác giả có điểm giống và khác
nhau ra sao ta cũng có thể hiểu về truyện ngụ ngôn với những điểm đáng chú
ý sau:

SV: Nguyễn Thị Trà My K32 GDMN

8


Khoá luận tốt nghiệp

Tr-ờng ĐHSP Hà Nội 2

Truyện ngụ ngôn là lời nói có ngụ ý, truyện ngụ ngôn là một loại truyện
kể, ở đó ng-ời ta m-ợn một câu chuyện nhỏ mà nhân vật th-ờng là loài vật để
gửi vào một ý t-ởng, một nhận xét về nhân tâm, thế sự, một bài học về kinh
nghiệm sống, một điều răn dạy về đạo lý, về triết lý.
1.1.2. Đặc điểm truyện ngụ ngôn dân gian:
1.1.2.1. Truyện ngụ ngôn dân gian với những nhân vật biết nói và nghĩ nhcon ng-ời:
Một số sáng tác về truyện ngụ ngôn và khái niệm truyện ngụ ngôn cho
ta thấy nhân vật của truyện ngụ ngôn chủ yếu là loài vật và đa phần là loài vật.
Ta có thể bắt gặp các nhân vật là loài vật nh-: Thỏ, Rùa, Voi, Chuột,Ngoài

các con vật, truyện ngụ ngôn còn m-ợn cả các loại cây cối, hoa quả nh-: Cây
lúa, Mướp đắng, Quả bứa, Các nhân vật vô tri vô giác: Nồi đất, nồi gang,
ngòi bút, Có khi đưa vào truyện cả bộ phận của con ng-ời nh-: Dạ dày, tứ
chi, mắt, miệng, Những con người gắn với nghề nghiệp cụ thể nhưng không
có tên riêng như: Bác nông dân, người thợ săn, tên trộm,Rồi cả những tình
tiết của con ng-ời nh- anh nói khoác, chị lọc lừa, kẻ bới móc,Những điều
vô hình, vô dạng nh-: Sự khôn khéo, sự ngu dại, cái thiện, cái ác, điều hoạ
phúc,
Nói chung, tất cả vạn vật tồn tại trong trời đất, những cái có thể xuất
hiện hoặc có thể tồn tại, ngụ ngôn đều m-ợn cả. Nh-ng dù thế nào tác giả
Đông tây ngụ ngôn cũng chuyển riêng về những loài vật, cầm thú, côn trùng,
lấy các loài ấy làm hạt nhân để đóng mọi vai, diễn mọi trò, có nh- vậy ngụ
ngôn mới có đặc tính, không lẫn lộn với truyện cổ tích, truyện tiếu lâm khôi
hài cùng những lời bóng gió xa xôi.
Nhân vật trong truyện ngụ ngôn rất cụ thể, có khi đ-ợc khắc hoạ nhnhững con ng-ời hàng ngày với những khuôn mặt muôn hình vạn trạng, một
con ng-ời đa tính cách. Nh- sự nhát sợ của bầy chuột trong Đeo nhạc cho
Mèo, sự khôn ngoan, lanh lợi trong truyện Con Run khôn ngoan, thói đoán

SV: Nguyễn Thị Trà My K32 GDMN

9


Khoá luận tốt nghiệp

Tr-ờng ĐHSP Hà Nội 2

mò trong Phù du và Đom đóm, sự mù quáng trong Dê đi kiếm ăn với
Cọp,
Nhân vật đ-ợc xem xét trên nhiều bình diện có mặt tốt, xấu, có sự gian

trá, sự thật thà, có điều ngu dại, nh-ng cũng có điều rất khôn khéo, thông
minh.
Nh- vậy, thế giới nhân vật trong truyên ngụ ngôn rất phong phú và đa
dạng, dù là con vật, cây cối, đồ vật, hay các hiện t-ợng tự nhiên đều đ-ợc
dùng với mục đích chủ yếu là nói chuyện về con người biến nó thành con
ng-ời, mang tính cách nh- con ng-ời, có nét tâm t-, tình cảm nh- những con
ng-ời. Sự khám phá những đặc điểm sâu sắc đó ở con vật khiến ng-ời ta phải
suy nghĩ xem tác giả muốn nói điều gì trong sự tinh khôn, ranh mãnh, hay thật
thà, ngờ nghệch của con vật, đồ vật,Từ đó truyền lại những kinh nghiệm
sống, những bài học luân lí cũng nh- cách ứng xử ở đời.
1.1.2.2. Truyện ngụ ngôn dân gian với các nhân vật đại diện cho các tầng
lớp trong xã hội:
Khác với truyện cổ tích về loài vật, lấy loài vật làm đối t-ợng thẩm mĩ
trực tiếp, truyện ngụ ngôn, phần lớn nhân vật là loài vật nh-ng mục đích của
ngụ ngôn không phải lấy con vật làm đối t-ợng của sự phản ánh. Bởi nhân vật
của truyện ngụ ngôn chủ yếu là mang tính biểu tr-ng, mỗi loài thực vật, động
vật hay một vật vô tri vô giác nào mỗi khi đ-ợc làm nhân vật sẽ tạo nên sự liên
t-ởng t-ơng đồng về những thuộc tính của bản thân chúng với những nét đặc
tr-ng của một loại, một tầng lớp ng-ời trong xã hội Những con vật đại diện
cho giai cấp thống trị như: Sư Tử, Hổ, Cáo, Sói,Một số loài khác đại diện
cho tầng lớp nhân dân, thợ thủ công, tiểu th-ơng, tri thức nghèo. Điển hình
cho họ là những loài vật nhỏ bé, hiền lành luôn luôn là mồi của các loài ăn thịt
như: Bò, Lừa, Ngựa, Dê, Thỏ, Họ cũng giống nh- những loài vật nhỏ bé,
hiền lành luôn cam chịu d-ới tầng lớp áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị, bị

SV: Nguyễn Thị Trà My K32 GDMN

10



Khoá luận tốt nghiệp

Tr-ờng ĐHSP Hà Nội 2

đè nén, áp bức, vô hình chung, họ bị biến thành con Cừu non ngơ ngác để cho
Sói ăn thịt nh- một lẽ tự nhiên ở đời.
Cũng có khi những ng-ời nông dân tuy hiền lành nh-ng lại rất mực
thông minh, quả cảm, không chịu khuất phục đã biết đoàn kết chống lại nhtrong truyện Chèo bẻo và ác là tác giả đã dựa vào đặc điểm của loài chim để
nói về đời sống của con ng-ời trong xã hội x-a, ác là vốn là h-ơng hào, ở bậc
trên, oai quyền hách dịch, Chèo bẻo là hạng cùng đinh, ở bậc d-ới, ác là lấy
oai quyền cai quản dân làng, bắt chèo bẻo đi phu rồi ở nhà ăn trứng của chèo
bẻo. Chèo bẻo đi phu về biết chuyện, ra khỏi làng, làm tổ trên ngọn cây cao
tít, ít khi xa rời tổ. Mỗi khi thấy ác là bay gần tổ, Chèo bẻo gọi cả họ ra đánh
cho chết. Sự thật con ác là vốn là loài chim chuyên ăn chim non và trứng
chim, tác giả liên t-ởng đến bọn c-ờng hào quen sống bằng nghề c-ớp bóc,
con Chèo bẻo là giống chim nhỏ nh-ng dũng cảm, biết hợp quần, tiêu biểu
cho ng-ời dân lao động chất phác có tinh thần đấu tranh c-ơng quyết, không
khuất phục.
Truyện Cò và Cáo là sự phản kháng mãnh liệt của nhân dân ta chống
lại giai cấp thống trị. Con Cáo với sự gian ngoa, xảo quyệt t-ởng rằng sẽ lừa
đ-ợc Cò nh-ng nó không thể ngờ chính nó mới là nạn nhân. Cò đã tìm đ-ợc
cách trả đũa đích đáng và giúp Cáo hiểu thế nào là gậy ông đập lưng ông.
Bên cạnh việc xây dựng các con vật tiêu biểu, gián tiếp vạch trần bộ mặt
và bản chất xấu xa, xảo quyệt của giai cấp thống trị. Thông qua truyện ngụ
ngôn, nhân dân lao động còn sử dụng nhiều nhân vật là loài vật để chế giễu,
châm biếm và phê phán những thói h-, tật xấu của ng-ời đời hay những hiện
t-ợng ngang trái của xã hội.
Truyện Thằn lằn mồng năm chế giễu thói l-ời biếng. Có anh chỉ thích
chơi bời không chịu làm, khi cha mẹ mất, vì ăn chơi thái quá nên tài sản
khánh kiệt, anh ta vay m-ợn nhiều đến nỗi không có khả năng trả đ-ợc, hẹn


SV: Nguyễn Thị Trà My K32 GDMN

11


Khoá luận tốt nghiệp

Tr-ờng ĐHSP Hà Nội 2

đến mồng năm tháng năm sẽ trả. Đến ngày hẹn vì không có tiền nên anh ta
phải chui vào bụi cây trốn, sợ hãi quá anh ta chết và hồn hoá thành con thằn
lằn.
Truyện Thả mồi bắt bóng lại phê phán thói tham lam. Truyện kể về
một con chó ngoạm một miếng thịt đi trên bờ sông, thấy cái bóng của mình
ngỡ một con chó khác ngoạm miếng thịt to hơn nên đã thả miếng thịt thật để
lao xuống c-ớp. Kết quả nó bị dòng n-ớc cuốn đi mà chẳng đ-ợc ăn một
miếng thịt nào. Câu chuyện là bài học lớn đối với những kẻ tham lam.
Truyện Thầy bói xem voi phê phán cách đánh giá, nhìn nhận sự vật
một cách chủ quan, bảo thủ, phiến diện, dẫn tới áp đặt, không hiểu đ-ợc bản
chất của sự vật, làm cho sự vật méo mó, không chính xác.
Ngoài việc phê phán, châm biếm những thói h- tật xấu truyện ngụ ngôn
dân gian còn ca ngợi những đức tính tốt đẹp. Những ng-ời yếu biết cố gắng
v-ơn lên thắng kẻ mạnh nh-ng kiêu căng, tự mãn (Thỏ và Sên), ca ngợi sự
đoàn kết (Cóc kiện trời, châu chấu đá Voi), ngợi khen trí thông minh (Thỏ
và gã cá Sấu tham ăn, Cọp và trí khôn của ng-ời),
1.1.2.3. Truyện ngụ ngôn dân gian ngắn:
Truyện ngụ ngôn có kết cấu ngắn gọn, xúc tích. Truyện ngụ ngôn phần
lớn là những câu chuyện có dung l-ợng rất nhỏ có những câu chuyện chỉ có
mấy câu, hoặc vài dòng với mấy chục từ nh- truyện: ếch ngồi đáy giếng,

Kéo cây lúa lên,Các hình ảnh, chi tiết ngắn gọn, cô đúc, hàm xúc, nh-ng
giàu tính biểu hiện, bộc lộ phẩm chất của đối t-ợng bởi vì, tuy ngắn gọn
nh-ng truyện vẫn thể hiện đầy đủ các thành phần chính: Thắt nút, phát triển,
cao trào, mở nút. Ví dụ nh- truyện Kéo cây lúa lên :
Ngày x-a có một ng-ời nông dân ra đồng thăm lúa, thấy lúa ở ruộng
ng-ời thì tốt, còn lúa nhà mình thì xấu (thắt nút) liền lấy tay kéo cây lúa nhà
mình cao hơn lúa nhà ng-ời (phát triển). Về nhà anh ta đắc ý khoe vợ: Lúa của

SV: Nguyễn Thị Trà My K32 GDMN

12


Khoá luận tốt nghiệp

Tr-ờng ĐHSP Hà Nội 2

nhà ta hôm nay nhờ tay tôi mà cao tốt hơn lúa ruộng bên cạnh rồi. Ng-ời vợ
không tin, anh liền bảo: Cứ ra ruộng nhìn tận mắt sẽ thấy (cao trào). Vợ anh ta
ra đồng thì thấy lúa nhà mình đã héo rũ cả rồi (mở nút).
Cốt truyện ngắn gọn, các chi tiết, hình ảnh trong câu chuyện nối tiếp
nhau chặt chẽ, lôgic, các thành phần của cốt truyện có ý nghĩa lí giải sâu sắc
nội dung của câu chuyện.
Một yếu tố nữa cũng khiến truyện ngụ ngôn ngắn và đặc biệt ngắn đó là
không gian và thời gian rất ít đ-ợc nêu trong câu chuyện. Có những câu
chuyện diễn biến cùng thời gian và không gian theo một trình tự khá hợp lý.
Tuy nhiên thời gian của mỗi câu chuyện không rõ ràng: Ngày x-a, rất lâu về
trước, Sự thực đó là một khoảng thời gian nhất định nh-ng không xác định
đ-ợc chi tiết hơn nữa. Nó khác hẳn với khoảng thời gian kéo dài hầu hết cuộc
đời nhân vật với những sự kiện, tình tiết khắc hoạ rõ nét bản chất hiền lành

hay độc ác cho các nhân vật trong truyện cổ tích.
Truyện ngụ ngôn rất ít nhân vật, thậm chí có truyện chỉ có một nhân vật
với một hoàn cảnh nhất định, một sự kiện cố định (Cuốc kêu trăng). Hoặc ở
những truyện có nhiều nhân vật thì các nhân vật đã đ-ợc sắp xếp gặp nhau ở
cùng một thời điểm trong một khung cảnh tiếp xúc với nhau, nảy ra xung đột,
hình thành cốt truyện và nội dung t- t-ởng của cốt truyện (Con Công và làng
chim, Vàng anh,) Chính những lý do trên đã xác định truyện ngụ ngôn là
những truyện hàm xúc và đặc biệt ngắn.
1.1.2.4. Truyện ngụ ngôn dân gian có tính kịch:
Truyện ngụ ngôn không phải là những câu chuyện kể về số phận và
cuộc đời của nhân vật nh- truyện cổ tích, cũng không phải là hình thức các
con vật đ-ợc thể hiện đặc điểm nhân vật rõ ràng. truyện ngụ ngôn chỉ nêu ra
một tình huống, một hoàn cảnh trong đó diễn ra một hành động của một nhân
vật hoặc một vài nhân vật nhằm minh hoạ cho một điều răn dạy nào đó.

SV: Nguyễn Thị Trà My K32 GDMN

13


Khoá luận tốt nghiệp

Tr-ờng ĐHSP Hà Nội 2

Truyện ngụ ngôn rất gần với kịch và có kết cấu nh- một màn kịch nhỏ.
Những điểm giống kịch như là cốt truyện và hành động phải thống nhất, tập
chung, không thừa, không thiếu, đòi hỏi chi tiết, tình tiết, sự kiện không
những cô đúc, gãy gọn, mà còn phải liên đới với nhau một cách chặt chẽ,
lôgic, tất yếu, tự nhiên. Cốt truyện nhằm triển khai xung đột- những xung đột
đòi hỏi nghệ thuật góp phần giải quyết, có nghĩa là không dễ dàng giải quyết

trong thực tế hay cốt truyện được dẫn dắt theo quy luật nhân quả, các mối
liên hệ phải thật chặt chẽ hoặc số lượng nhân vật không nhiều nhân vật
không đ-ợc khắc hoạ với nhiều khía cạnh.
đặc điểm của truyện ngụ ngôn là rất ngắn, cực ngắn có những chuyện
chỉ có dăm câu, ba dòng. Có những truyện chỉ có một nhân vật hoặc có hơn thì
cũng đã đ-ợc xếp gặp nhau tại một thời điểm nhất định với một lần tiếp xúc.
Cho nên, truyện ngụ ngôn xung đột chỉ diễn ra trong một hành động. Vì vậy,
truyện ngụ ngôn có kết cấu nh- một màn kịch.
1.1.2.5. Truyện về các con vật nh-ng ẩn chứa bài học ứng xử cho con
ng-ời:
Truyện ngụ ngôn gồm có hai phần: Phần cụ thể phần xác là truyện kể
và phần trìu t-ợng-phần hồn là ý niệm rút ra từ câu chuyện gọi là lời quy
châm. Khi đọc truyện ngụ ngôn điều chúng ta quan tâm không hẳn là những
đặc điểm vốn có của loài vật, hiện t-ợng đ-ợc chọn làm nhân vật mà phải là
sự cần thiết và có lợi cho những vận động của xã hội loài ng-ời. Đó là những
bài học luân lí, ứng xử sâu sắc của truyện ngụ ngôn.
Truyện ngụ ngôn vốn đ-ợc coi là những câu chuyện mang màu sắc triết
lý. Con đ-ờng để đi tới bài học triết lý của truyện ngụ ngôn th-ờng thông qua
sự phê phán, phủ định rồi mới rút ra kết luận về sự đúng đắn.
Truyện Phù du và Đom đóm cũng chính là một hình thức phê phán
thái độ đánh giá thực tại khách quan qua nhận xét chủ quan của mình. Con

SV: Nguyễn Thị Trà My K32 GDMN

14


Khoá luận tốt nghiệp

Tr-ờng ĐHSP Hà Nội 2


Phù du sống cuộc đời ngắn ngủi (sớm sinh chiều chết) hiểu biết thực tiễn hạn
hẹp và ít ỏi cho nên nó không thể tin đ-ợc chân lí đơn giản là có ngày và đêm.
Truyện ngụ ngôn đ-ợc sử dụng nh- một thứ vũ khí sắc bén để nhân dân
lao dộng tấn công lại kẻ thù, những câu nói bóng gió kín đáo, những chuyện
lý thú giữa vật và vật, giữa vật và ng-ời nh- một bức màn che đậy sự phản
kháng mạnh mẽ của nhân dân lao động với giai cấp thống trị, đối với kẻ gian
thần ví dụ nh-: Chèo bẻo và ác là, Con Mèo mà chèo cây cau,
Truyện ngụ ngôn phản ánh bài học trí tuệ của nhân dân, phản ánh bài
học đạo đức, dạy con ng-ời làm việc gì cũng phải có chủ kiến của bản thân,
phải có lập tr-ờng vững vàng, tiếp thu ý kiến có chọn lọc thì sự việc sẽ thành
công (Đẽo cày giữa đ-ờng). Phê phán những loại ng-ời không muốn sống ở
mức tài hèn, đức mọn thực của mình mà lợi dụng cái oai của ng-ời khác để
loè bịp thiên hạ nh-ng cuối cùng thì đều dấu đầu hở đuôi tự chuốc lấy tai hoạ
(Qụa đội lốt Công). Truyện ngụ ngôn đ-a ra một xã hội có ng-ời mạnh kẻ
yếu, mỗi ng-ời đều có một vai trò và vị trí riêng của mình (Voi, Ngựa đua
nhau). Truyện ngụ ngôn còn là bài học về sức mạnh đoàn kết trong gia đình
và xã hội (Chuyện bó đũa, châu chấu đá Voi),
Nh- vậy, nếu truyện cổ tích thiên về phản ánh cuộc sống theo mong
-ớc, truyện c-ời nặng về vạch trần cái tự nhiên (sai trái, lố bịch, lạc hậu) của
xã hội thì ngụ ngôn lại khuyên ng-ời ta nên làm gì hợp lý, hợp lẽ phải trong
cuộc sống. Chính vì vậy mà truyện ngụ mới có ý nghĩa nhận thức và giáo dục
sâu sắc.
1.1.3. Truyện ngụ ngôn dân gian với trẻ em:
Kể chuyện ngụ ngôn, về thực chất, là cách thể hiện ý t-ởng khéo léo,
kín đáo, để tránh nói thẳng, nói trần trụi một vấn đề. Đồng thời là cách trình
bày ý t-ởng dễ hiểu, dễ thuyết phục mà lại thú vị.
Ngụ ngôn có hình thức ngắn gọn, bởi nội dung truyện đơn giản, kết cấu
mạch lạc rõ ràng. Truyện ít tình tiết, ít cảnh, vì th-ờng chỉ xoay quanh một s-


SV: Nguyễn Thị Trà My K32 GDMN

15


Khoá luận tốt nghiệp

Tr-ờng ĐHSP Hà Nội 2

kiện. Số l-ợng nhân vật ít, mỗi nhân vật chỉ đ-ợc khai thác ở một nét tính cách
hoặc một thói quen. Vì vậy, mỗi truyện ngụ ngôn chỉ là một câu chuyện nhỏ
vừa sức tiếp thu với trẻ mẫu giáo.
Tuy vậy, chỉ phần bề nổi của truyện là gần gũi với trẻ còn phần chìm
ý nghĩa sâu xa của truyện thì trẻ chỉ hiểu đ-ợc phần nào trong độ tuổi của
mình. Trẻ nhỏ với t- duy cụ thể, hiểu sự vật hiện t-ợng bằng trực giác nên yêu
thích ngụ ngôn ở bề ngoài đơn giản, phần triết lý trìu t-ợng ẩn dấu phía sau
nội dung đó thì cần có sự trợ giúp của ng-ời lớn trẻ mới hiểu nổi. Hoặc đến
khi lớn lên cũng truyện ngụ ngôn đó, nh-ng trẻ dần dần khám phá ra lớp
nghĩa răn dạy, kinh nghiệm sống của cha ông gửi gắm trong truyện.
Truyện ngụ ngôn là một ph-ơng tiện có giá trị của nền giáo dục dân
gian. Từ khi còn ch-a biết nói, trẻ đã tiếp xúc với những bài ca dao mang tính
ngụ ngôn:
Con Cò mày đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Con Mèo mà chèo cây cau
Hỏi thăm chú Chuột đi đâu vắng nhà
Đến 2, 3 tuổi, trẻ đã biết nghe những truyện ngụ ngôn đơn giản nh-:
Thỏ với Rùa chạy thi, Hai con Dê húc nhau, Con Voi và con Kiến, Khi
4, 5 tuổi trẻ có thể tiếp nhận những truyện phức tạp hơn nh- Thầy bói xem
voi, Đẽo cày giữa đ-ờng, Giáo dục trẻ em bằng ngụ ngôn là việc làm hay

và bổ ích. Tuy nhiên việc làm đó chỉ thành công nếu ng-ời kể hiểu đ-ợc đặc
điểm tâm lý và đặc điểm t- duy nhận thức của trẻ em trong các lứa tuổi khác
nhau, đồng thời hiểu rõ những lớp nghĩa nông sâu của truyện ngụ ngôn dân
gian.

SV: Nguyễn Thị Trà My K32 GDMN

16


Khoá luận tốt nghiệp

Tr-ờng ĐHSP Hà Nội 2

Ch-ơng 2
Truyện ngụ ngôn dân gian với việc
giáo dục trẻ mẫu giáo
2.1. Truyện ngụ ngôn dân gian với tâm lý trẻ mẫu giáo:
Truyện ngụ ngôn dân gian là những câu chuyện nhỏ vừa sức tiếp thu
của trẻ. Nó phù hợp với đặc điểm tâm lý và đặc điểm t- duy nhận thức của trẻ
Mẫu giáo. ở lứa tuổi này, các em nhìn đời bằng đôi mắt trong veo và tin cậy,
suy nghĩ bằng hình ảnh, sống với thế giới của cái đẹp, của viễn t-ởng và sáng
tạo. Trẻ cũng rất -a thích sự phiêu l-u để khám phá và ngạc nhiên tr-ớc những
bí mật của cuộc sống Tất cả những cái đó đã đ-a các em đến với truyện ngụ
ngôn.
Có thể nói Truyện ngụ ngôn là một thế giới bao la, rộng lớn, muôn
hình, muôn vẻ để trẻ có thể khám phá tìm hiểu và tự mình phát hiện, tìm ra
những chân lý cho cuộc sống. Từ đó hình thành ý niệm rất chân thực về cuộc
sống, trẻ nhận ra cái đẹp, cái thiện, cái xấu, cái ác, biết đứng về lẽ phải, biết
bảo vệ công lý, phê phán lên án cái xấu xa, nghịch lý

Quả thực rất khó tìm thấy một thế giới rất chân thực nh-ng lại tràn đầy
những điều mới lạ hấp dẫn nh- thế giới trong truyện ngụ ngôn. Đến với truyện
ngụ ngôn chính là cơ hội để trẻ nuôi d-ỡng, phát triển nhận thức, phát triển
tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ và phát huy những năng lực của bản thân.
2.2. truyện ngụ ngôn dân gian với việc giáo dục nhận thức cho trẻ Mẫu
giáo:
Không thể phủ nhận rằng tình hình thực tế là ngày nay văn học dân gian
đã bị đẩy lùi một b-ớc trong nhận thức của con ng-ời. Trẻ em ngày nay sớm
đ-ợc tiếp xúc với nền sản xuất công nghiệp và điện tử, sớm đ-ợc sống trong
nhịp điệu của đời sống hiện đại kinh tế xã hội phát triển khiến cho lối sống và

SV: Nguyễn Thị Trà My K32 GDMN

17


Khoá luận tốt nghiệp

Tr-ờng ĐHSP Hà Nội 2

cách suy nghĩ của các em đang phát triển theo một h-ớng mới. Những câu
chuyện trình thám, khoa học viễn t-ởng, những trò chơi điện tử có phần hấp
dẫn hơn những câu chuyện ngụ ngôn ẩn ý. Nhiều ng-ời băn khoăn rằng có thể
tiếp tục dùng văn học dân gian, đặc biệt là truyện ngụ ngôn để giáo dục trẻ em
và văn học dân gian trẻ em còn có ý nghĩa gì?
Thực tế cho thấy một điều nguyên lý cơ bản để tạo dựng xã hội mới và
con ng-ời mới một cách vững chắc là phải dựa vào cả truyền thống và hiện
đại. Thiếu truyền thống, con ng-ời sẽ không thể đi đến t-ơng lai. Giáo dục
truyền thống và hiện đại là hai mặt không thể tách rời trong nền giáo dục của
chúng ta hiện nay. Văn học dân gian trẻ em là truyền thống, là dân tộc và

nhân loại.
2.2.1. Nhận thức về thế giới khách quan:
Những câu chuyện ngụ ngôn đã mang lại cho trẻ Mẫu giáo một cái nhìn
toàn diện về thế giới xung quanh trẻ. Thông qua các nhân vật là cỏ cây,
muông thú, con ng-ời các tác giả dân gian đã đ-a ra các bài học về đạo lý
hoặc triết lý nhân sinh đối với loài ng-ời. Chính vì vậy truyện ngụ ngôn
th-ờng có hai lớp nghĩa: Lớp nghĩa đen theo nội dung truyện kể và lớp nghĩa
bóng theo triết lý trừu t-ợng, bên cạnh lớp nghĩa bóng ẩn chứa bên trong thì
lớp nghĩa đen, bên ngoài có tác dụng to lớn giúp các em biết rõ, lí giải đ-ợc
nguồn gốc, sự hình thành cũng nh- đặc điểm của các sự vật hiện t-ợng xung
quanh mình.
Trong các câu chuyện ngụ ngôn có rất nhiều truyện lí giải nguồn gốc
của các sự vật hiện t-ợng, giúp trẻ lí giải đ-ợc những câu hỏi tại sao như tại
sao con công có màu sắc đẹp rực rỡ mà con quạ chỉ có một màu đen thui
(con Công và con Quạ), tại sao chú cò có một màu lông toàn là màu trắng
(con Cò trắng), tại sao dơi lại hay ăn muỗi (Tại sao Dơi ăn muỗi), Chính
những hiểu biết này, sự lí giải những câu hỏi tại sao này đã giúp trẻ có biểu
t-ợng khá chính xác về thế giới vật chất xung quanh trẻ.

SV: Nguyễn Thị Trà My K32 GDMN

18


Khoá luận tốt nghiệp

Tr-ờng ĐHSP Hà Nội 2

Cùng với sự nhận thức về các sự vật hiện t-ợng thông qua các nhân
vậtTruyện ngụ ngôn góp phần giúp trẻ phát triển t- duy khi cố nghĩ, cố tìm

ra một sự giải thích, tìm ra những lời quy châm đầy tính triết lí, khẳng định
một chân lí, một lẽ sống ở đời. Tại sao ng-ời cha lại đ-a cho các con một bó
đũa và yêu cầu các con của ông hãy bẻ cả bó đũa đó, tại sao chú Rùa chậm
chạp lại có thể chiến thắng chú Thỏ nhanh nhẹn trong cuộc chạy đua? Tại sao
một đàn Châu chấu nhỏ bé lại có thể chiến thắng một chú Voi to lớnVô số
những câu hỏi đ-ợc đặt ra sau mỗi lần nghe hoặc đọc xong một câu chuyện.
Những câu hỏi ấy luôn ngự trị trong đầu trẻ, có thể đôi khi trẻ đ-ợc giải đáp
những thắc mắc đó bởi ng-ời lớn, có lúc do sự nhận thức cao hơn, học sinh tự
trả lời cho mình dù đó chỉ là sự biểu hiện bên ngoài của sự việc.
Nh- vậy quá trình t- duy của trẻ mẫu giáo sẽ đ-ợc nâng cao dần, đến
một lúc nào đó trẻ sẽ có đủ kiến thức để hiểu rằng: Truyện ngụ ngôn tuy nói
về loài vật nh-ng lại ẩn chứa vào trong đó ẩn ý sâu xa, một triết lí nhân sinh
về thế giới loài ng-ời. sự đoàn kết bao giờ cũng chiến thắng những cái riêng
lẻ, cái thiện bao giờ cũng chiến thắng cái chủ quan, kiêu ngạo, sự kết luận này
của trẻ thể hiện tính thay đổi qua quá trình nhận thức. Trẻ có sự thay đổi về
quá trình tìm hiểu, lí giải và kết luận về thế giới xung quanh. Tất nhiên sự
nhận thức ban đầu về thế giới ấy có thể sai lệch nh-ng là tiền đề cho sự phát
triển của những hiểu biết sau này khi đã tr-ởng thành của mỗi cá thể.
Nhận thức về thế giới và con ng-ời từ những trang sách hay qua các câu
chuyện đ-ợc nghe, đ-ợc đọc, nhà văn Macxim Gorki từng nói chắc chắn tôi
không thể nào truyền đạt lại cho thật đầy đủ và rõ ràng nỗi kinh ngạc lớn lao
nh- thế nào khi tôi cảm thấy rằng hầu nh- mỗi quyển sách mở ra tr-ớc mắt tôi
cánh cửa vào một thế giới kì lạ ch-a từng biết, kể cho tôi nghe những con
ng-ời những tình cảm, những suy nghĩ và những quan hệ mà x-a nay tôi ch-a
từng thấy, từng hay.

SV: Nguyễn Thị Trà My K32 GDMN

19



Khoá luận tốt nghiệp

Tr-ờng ĐHSP Hà Nội 2

2.2.2. Giáo dục nhận thức về những nguyên tắc của đạo lý làm ng-ời
Ng-ời ta th-ờng nói Trẻ em là tương lai của đất nước, Trẻ em hôm
nay thế giới ngày mai. Đối với những người cầm bút từ xưa đến nay, có lẽ
không có gì thiêng liêng hơn là đ-ợc h-ớng ngòi bút của mình để phục vụ đối
t-ợng là bạn đọc nhỏ tuổi. Cũng tựa nh- có vị lãnh tụ nói rằng ông rất lấy làm
xúc động, xúc động hơn bất kì cuộc trao tặng huân ch-ơng nào khi ông cúi
xuống để một em bé thay mặt các học sinh trong tr-ờng quàng chiếc khăn đỏ
danh dự lên vai ông, hay nh- vua Henri IV của n-ớc Pháp đã bò trên sàn nhà
cho con c-ỡi. Những con ng-ời ấy cảm thấy sung s-ớng phấn khởi bởi họ biết
quý và biết sống vì trẻ thơ.
Vì trẻ thơ mà Nguyễn Bá Ngọc đã băng qua bom đạn để cứu các em
nhỏ. Vì trẻ thơ, anh phi công dũng cảm không chịu nhảy dù mà chấp nhận
chết cùng chiếc máy bay đã bị địch bắn cháy để điều khiển máy bay khỏi rơi
vào nơi đông dân, nơi có tr-ờng học cử các em nhỏ. Nhà văn Nga chuyên viết
cho thiếu nhi Gaiđa trong thời kì nội chiến đã phải hạ súng để cho một tên
chúa đất gian ác chạy thoát chỉ vì hắn gùi sau l-ng đứa con nhỏ. Hành động
nhân đạo ấy thể hiện ở nhà văn một tấm lòng nhân ái vì trẻ thơ.
Tất cả nh-ng tấm lòng nhân ái và hành động đầy tình ng-ời ấy có một
cội nguồn sâu xa. Từ lâu nhân loại đã mang trong mình những bản chất tốt
đẹp ấy. Nó có ở mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Chúng ta biết đ-ợc điều đó qua
một loại truyện kể đó là truyện ngụ ngôn. Truyện ngụ ngôn dan gian đã góp
phần cùng với các thể loại truyện cổ khác thực hiện một chức năng, một mục
đích chung cao quý: Vì trẻ em.
Truyện ngụ ngôn không chỉ giúp trẻ em nhận thức về xã hội mà còn
giúp trẻ nhận thức về những nguyên tắc của đạo lí làm ng-ời. Thông qua đó

trẻ tiếp nhận đ-ợc những bài học thực tiễn về quy luật xã hội, những phẩm
chất đạo đức cần có, những kinh nghiệm ứng xử, những thói xấu cần gạt bỏ để
sống giữa cộng đồng.

SV: Nguyễn Thị Trà My K32 GDMN

20


Khoá luận tốt nghiệp

Tr-ờng ĐHSP Hà Nội 2

Truyện nhắc nhở cần có một cái nhìn thực tiễn, đừng ham muốn những
gì không có thực ( thả mồi bắt bóng, Mèo lại hoàn Mèo ).
truyện khuyên kẻ yếu không nên gây sự với nhau để kẻ mạnh lợi dụng
( con Thỏ và con Chó, chim sẻ và Chuột ).
Truyện khẳng định phần trách nhiệm của mỗi thành viên trong tập thể
và cho thấy nếu không làm đúng chức trách của mình thì tự huỷ diệt, đồng
thời làm hại cả tập thể ( Lão miệng ).
Ngụ ngôn còn là cách nói khéo của nhân dân để phê phán những kẻ -a
hình thức (Quạ m-ợn lốt Công), những kẻ giả dối, ham muốn quyền uy (
cáo m-ợn oai hùm ), những kẻ sống hai mặt ( con Dơi, loài chim và loài
thú),
chống áp bức c-ờng quyền cũng là một nội dung quan trọng trong
truyện ngụ ngôn. Truyện trâu và Ngựa, chèo bẻo và ác là, cò và
Cáo,vạch trần chân t-ớng bọn quan nha hống hách, xảo quyệt, chuyên đục
khoét hãm hại dân lành.
Đặc biệt nhiều truyện ngụ ngôn là bài học kinh nghiệm trong đấu tranh,
giúp cho kẻ yếu giành đ-ợc phần thắng nhờ m-u trí, đoàn kết, cảnh giác

(kiến giết Voi; thỏ và Rùa; ng-ời nông dân, con Trâu và con Hổ,).
Những câu chuyện ngụ ngôn với những mâu thuẫn, những cách xử trí,
ứng đáp của mỗi nhân vật trong mỗi hoàn cảnh khác nhau đã gieo vào khối óc
non nớt của trẻ một sự nhận thức, ấy là b-ớc đầu hiểu biết những nguyên tắc
của đạo lí làm ng-ời. Về sau những hiểu biết ấy sẽ giúp học sinh nhận thức và
đối chiếu với chính bản thân mình mà tỏ thái độ yêu gét và thực hiện các hành
vi t-ơng ứng.
2.3. Truyện ngụ ngôn dân gian với việc giáo dục tình cảm đạo đức cho trẻ
mẫu giáo:

SV: Nguyễn Thị Trà My K32 GDMN

21


Khoá luận tốt nghiệp

Tr-ờng ĐHSP Hà Nội 2

Truyện ngụ ngôn có ảnh h-ởng to lớn đến mặt tình cảm đạo đức của trẻ
mẫu giáo trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ. Những
chuẩn mực hành vi văn hoá, đạo đức truyền thống, tâm lý dân tộc trong truyện
ngụ ngôn rất gần gũi với cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của các em nh- tình
cảm gia đình, tình anh em, chồng vợ, tình bạn thuỷ chung, chân thực, khoan
dung,Và cũng chính qua truyện ngụ ngôn trẻ được thấy và nhận thức rõ hơn
về quy luật chính nghĩa, lẽ phải bao giờ cũng chiến thắng cái phi nghĩa, gian
tà, cái thiện bao giờ cũng chiến thắng cái ác, cái xấu. Đồng thời các em cũng
học thuộc lòng những truyện ngụ ngôn tiêu biểu để ghi nhớ những điều đã
đ-ợc cô đọng, xúc tích và khắc sâu trong tâm hồn mình, rồi sự kết tinh đó sẽ
biến thành những hành vi đạo đức trong cuộc sống hàng ngày.

Với sự tiếp nhận văn học theo cách riêng của mình, những gì nặng về lý
trí, suy t- không phải là đối t-ợng thích hợp đối với các em. Bởi vậy, những
bài học đạo đức, luân lý trong truyện ngụ ngôn đi vào tâm hồn trẻ rất tự nhiên,
đơn giản, gần gũi nhất là các tr-ờng hợp th-ờng gặp trong cuộc sống hàng
ngày.
Bài Rùa và Thỏ là một ví dụ, nội dung, nội dung của bài là cuộc thi
chạy giữa hai con vật: Một con thuộc loài nổi tiếng là chạy nhanh và con kia
là loài động vật điển hình cho sự chậm chạp. T-ởng rằng với sự hiển nhiên
Thỏ với những b-ớc nhảy ngoan mục của mình chắc chắn sẽ dễ dàng chiến
thắng đối thủ. Nh-ng thật là bất ngờ kết quả cuộc thi lại hoàn toàn ng-ợc lại.
Cái kết quả t-ởng là vô lý nh-ng lại rất hợp lý với tình huống mà tác giả đ-a
ra. Thỏ thua đâu phải vì nó chậm chạp mà nó thua bởi vì thói kiêu căng coi
th-ờng đối thủ, chủ quan, nó đã không chú ý đến cuộc thi lại còn mải mê la
cà, chạy nhảy. Rùa đã chiến thắng vì nó có lòng quyết tâm đạt đến mục tiêu
đã định sẵn, lại kiên trì, chú tâm đạt đến mục đích đã đặt ra của mình . Bài học
rút ra lời khuyên con ng-ời ta đừng lên khinh th-ờng cái nhỏ, việc gì dù dễ
dàng đến mấy mà ta không chú ý, không tận tâm hoàn thành nó thì ch-a chắc

SV: Nguyễn Thị Trà My K32 GDMN

22


Khoá luận tốt nghiệp

Tr-ờng ĐHSP Hà Nội 2

kết quả đã đạt đ-ợc nh- mong muốn, thậm chí còn làm hỏng việc nh- chú
Thỏ kia. Đối với trẻ em vấn đề được hiểu theo cách đơn giản là bài học đi
đến nơi về đến trốn không ham chơi, không la cà dọc đ-ờng để đề phòng

những tình huống xấu xảy ra.
Con đ-ờng đi tới triết lý của truyện ngụ ngôn th-ờng thông qua sự phê
phán, phủ định rồi rút ra kết luận về sự đúng đắn. Những truyện ngụ ngôn dân
gian Việt Nam cũng không nằm ngoài đặc tr-ng đó. Răn dạy mặt trái của
cuộc sống bằng sự phê phán sai lầm của ng-ời đời để chỉ cho trẻ thấy những
sai lầm trong nhận thức và hành động sẽ dẫn đến những thất bại chua cay
giống nh- truyện Chó và H-ơu: Có một con chó đi lang thang ngoài đồng,
thấy đàn h-ơu chạy thi với nhau. Thích chí chó cũng nhập cuộc. Nh-ng chó
sao chạy nhanh bằng h-ơu. Muốn học tài chạy của h-ơu, Chó xin h-ơu dạy
cho. H-ơu bày cách chặt đuôi cho ngắn nh- đuôi h-ơu thì sẽ chạy nhanh nhnó. Nh-ng khi cụt đuôi rồi chó vẫn không chạy kịp h-ơu, lại mang tiếng là
chó cụt đuôi. Đây là bài học lớn cho những ai lầm lẫn giữa nhận thức và
hành động.
Câu chuyện Hai đứa bé và quả bứa chỉ vì tranh nhau, không biết
nh-ờng nhịn, xẻ chia cho nhau quả bứa nhặt đ-ợc. Ai cũng kiêu ngạo, tham
lam cho rằng mình có công hơn cuối cùng quả bứa lại thuộc về một kẻ không
hề có công còn hai đứa bé chỉ đ-ợc hai nửa vỏ. Qua nội dung câu chuyện trẻ
rút ra bài học hãy biết đoàn kết, xẻ chia, kính trên, nh-ờng d-ới, biết phê phán
thói tham lam ngay từ thuở còn thơ, không ủng hộ hành động tranh dành dù
chỉ là một món đồ chơi, vài cái kẹo hay vài quyển truyện tranh với anh chị,
bạn bè nhất là với các em bé còn nhỏ tuổi.
Truyện ngụ ngôn phản ánh bài học trí tuệ của nhân dân, phản ánh bài
học đạo đức dạy con ng-ời làm việc gì cũng phải có chủ kiến của bản thân, có
lập tr-ờng vững vàng, tiếp thu ý kiến có chọn lọc thì sự việc mới thành công

SV: Nguyễn Thị Trà My K32 GDMN

23


Khoá luận tốt nghiệp


Tr-ờng ĐHSP Hà Nội 2

(Đẽo cày giữa đ-ờng). Giáo dục con ng-ời không nên tham lam tin vào
những điều h- ảo (Con Chó và mặt trăng).
ở truyện Thầy bói xem Voi, qua nội dung câu chuyện kể trẻ rút ra
đ-ợc bài học không nên đánh giá sự vật một cách chủ quan, bảo thủ, phiến
diện. Cách đánh giá nh- vậy sẽ dẫn đến áp đặt, không hiểu đ-ợc bản chất của
sự vật làm cho sự vật méo mó, không chính xác.
ở truyện Mèo lại hoàn Mèo trẻ nhận ra đ-ợc một bài học là không nên
hão huyền những điều không thể xảy ra, phải sống với chính mình. Sự ngu
dốt, thiếu bản lĩnh, sĩ diện chỉ tổ làm trò c-ời cho thiên hạ.
truyên ngụ ngôn chính là một bức tranh hiện thực đa màu sắc. Qua các
câu chuyện trẻ không những chỉ hứng thú với thế giới các nhân vật là loài vật
nh-ng có hành động và suy nghĩ nh- con ng-ời mà trẻ còn biết nhận thức cái
chân lý, triết lý ẩn sau cái hiện thực đó. Điều này giúp trẻ xác lập một thái độ
hành vi con ng-ời và giúp cho việc giáo dục đạo đức cách mạng của một con
ng-ời mới.
Việc đ-ợc tham gia vào các tình tiết của truyện kể, sống bằng cuộc
sống thực của các nhân vật giúp trẻ biết ủng hộ cái thiện, lên án cái ác, cái phi
nghĩa. Bằng việc tố cáo sự áp bức bóc lột của bọn c-ờng hào, địa chủ, vạch
trần chân t-ớng bọn quan nha hống hách, xảo quyệt chuyên đục khoét hãm
hại dân lành qua các câu chuyện : Lý tr-ởng diều hâu, Cò và Cáo, truyện
ngụ ngôn đã giúp trẻ rút ra kết luận, có thái độ đúng đắn, trẻ biết nhận ra điều
xấu điều ác, biết đồng tình ủng hộ, yêu mến những ng-ời l-ơng thiện, những
việc làm tốt, những nhận thức đúng đắn của con ng-ời, biết căm gét những bất
công, lên án, đấu tranh với những hành động bạo ng-ợc, đè nén, áp bức quần
chúng, từ bỏ cái xấu, cái ác, hình thành bản tính thiện trong mỗi trẻ.

SV: Nguyễn Thị Trà My K32 GDMN


24


Khoá luận tốt nghiệp

Tr-ờng ĐHSP Hà Nội 2

Ngoài ra vấn đề giáo dục tình cảm cũng rất đ-ợc coi trọng, những câu
chuyện ngụ ngôn dân gian đề cập rất nhiều đến tình cảm gia đình, tình anh
em, tình vợ chồng bè bạn, tình cảm giữa ng-ời với ng-ời trong xã hội.
ở truyện Cuốc kêu trăng, ng-ời vợ đã ngày đêm trông ngóng chồng đi
lính trở về nh-ng ng-ời chồng đã vĩnh viễn không về nữa. Th-ơng xót chồng,
đêm nào ng-ời vợ cũng ra sân trông mặt trăng mà khóc suất năm canh, khóc
mãi rạc ng-ời đi mà chết. Lúc chết hoá thành con cuốc cuốc. Qua câu chuyện
trẻ thấy đ-ợc tình nghĩa thuỷ chung, son sắt của ng-ời vợ đợi chờ chồng, trẻ
không khỏi cảm động, th-ơng cảm cho thân phận khổ đau của những ng-ời vợ
đợi chờ chồng trong thời chiến.
truyện Tu hú gọi cô là một câu chuyện cảm động về tình cảm gia đình.
Vì đói kém quá nên hai cô cháu phải thay nhau ngậm hạt đỗ, ngậm mãi hạt đỗ
cũng mòn. Vì nh-ờng cho cháu ngậm nên ng-ời cô đói lả ra chết, ng-ời cháu
th-ơng khóc cô cũng khô héo đi mà chết. Bên cạnh việc tố cáo tội ác của giai
cấp thống trị đã gây ra cảnh đói nghèo đến nỗi phải thay phiên nhau ngậm hạt
đỗ để sống thì câu chuyện còn cho trẻ thấy đ-ợc tình cảm thơm thảo của
ng-ời cháu, sự yêu th-ơng nh-ờng nhịn của ng-ời cô.
ở truyện Tu hú và Chiền chiện trẻ cảm nhận đ-ợc tình yêu th-ơng bao
la, vô bờ bến và nghĩa vụ cao cả thiêng liêng của cha mẹ. Chim Tu Hú là
giống chim không làm tổ mà chuyên đi đẻ nhờ ở tổ các loại chim khác còn
Chiền Chiện lại làm tổ và nuôi con rất cẩn thận Từ câu chuyện về loài chim
tác giả dân gian gửi gắm vào đó bài học đạo lý rất có giá tri. qua câu chuyện

trẻ cảm nhận đ-ợc công lao to lớn của cha mẹ đồng thời xác định đ-ợc bổn
phận và trách nhiệm của mình, trẻ sẽ cố gắng chăm ngoan học giỏi để làm vui
lòng cha mẹ.
Có thể nói truyện ngụ ngôn có giá trị rất lớn trong việc giáo dục tình
cảm đạo đức cho trẻ em. Tuy nhiên, việc giáo dục này không chỉ đ-ợc thực

SV: Nguyễn Thị Trà My K32 GDMN

25


×